Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

Phân tích 5 đặc điểm kinh tế cơ bản của của Chủ nghĩa tư bản độc quyền và Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (127.49 KB, 26 trang )

Câu 1: Phân tích 5 đặc điểm kinh tế cơ bản của của Chủ nghĩa tư bản độc quyền.
1. Khái niệm và nguyên nhân ra đời của chủ nghĩa tư bản độc quyền
a. Khái niệm

Phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa phát triển qua hai giai đoạn: giai đoạn chủ
nghĩa tư bản tự do cạnh tranh và giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền.
Chủ nghĩa tư bản độc quyền là giai đoạn phát triển kế tiếp giai đoạn tự do cạnh
tranh của chủ nghĩa tư bản. Về thực chất, đây là nấc thang mới trong quá trình phát triển
và điều chỉnh của chủ nghĩa tư bản cả về lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất để thích
ứng với những biến động mới trng tình hình kinh tế - chính trị thế giới. Chủ nghĩa tư bản
độc quyền xuất hiện vào cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX.
Chủ nghĩa tư bản độc quyền là chủ nghĩa tư bản trong đó ở hầu hết các ngành, các
lĩnh vực của nền kinh tế tồn tại các tổ chức tư bản độc quyền và chúng chi phối sự phát
triển của sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế. Sự ra đời của chủ nghĩa tư bản độc quyền
vẫn không làm thay đổi được bản chất của chủ nghĩa tư bản.
b. Nguyên nhân ra đời của chủ nghĩa tư bản độc quyền
-

Thứ nhất, sự phát triển của lực lượng sản xuất dưới tác động của tiến bộ khoa học-

kỹ thuật đẩy nhanh quá trình tích tụ và tập trung sản xuất, đòi hỏi hình thành các xí
nghiệp có quy mô lớn với các hình thức tổ chức kinh tế mới. Khi các tiến bộ khoa học
được áp dụng trong sản xuất dù trên diện lớn hay nhỏ đồng nghĩa với việc các tư liệu sản
xuất trở nên hiện đại hơn và người lao động cũng có một trình độ nhất định để sử dụng
hiệu quả các máy móc hiện đại.
-

Thứ hai, vào những năm 70 của thế kỷ XIX, những thành tựu khoa học – kỹ thuật

mới xuất hiện như lò luyện kim mới Bét-sơ-me, Mác-tanh, Tô-mát đã tạo ra sản lượng
lớn gang thép với chất lượng cao; phát hiện ra hóa chất mới như axit sunphuaric, thuốc


nhuộm; các máy móc như động cơ điêzen, máy phát điện, máy tiện, máy phay. Những sự
ra đời đó tạo điều kiện để các phương tiện vận tải mới bắt đầu xuất hiện và phát triển như
xe hơi, tàu thủy, xe điện, máy bay, đường sắt. Từ khi ra đời, những phát minh mới này
được xem là hiện đại nhất trong thời điểm bấy giờ nhanh chóng thay thế những cái cũ kỹ


trong thời kì trước. Khi đã chiếm một ưu thế nhất định trong tiêu dùng, các nhà tư bản sẽ
tận dụng để tiếp tục phát triển sản xuất với số lượng lớn, tìm kiếm lợi nhuận cao. Điều
này đòi hỏi nhà tư bản cần có những xí nghiệp quy mô lớn mới đủ sức chứa sản xuất, dẫn
đến tăng năng suất lao động, tăng khả năng tích lũy tư bản, thúc đẩy phát triển sản xuất
lớn.
-

Thứ ba, trong điều kiện phát triển của khoa học – kỹ thuật, sự tác động của các

quy luật kinh tế của chủ nghĩa tư bản như quy luật giá trị thặng dư, quy luật tích lũy ngày
càng mạnh mẽ, lượng giá trị mới dôi ra ngoài giá trị sức lao động do người công nhân
làm thuê tạo ra và được nhà tư bản chiếm không được tích lũy dần dần trở thành một con
số lớn, làm biến đổi cơ cấu kinh tế của xã hội tư bản theo hướng tập trung sản xuất quy
mô lớn.
-

Thứ tư, đứng trước sự phát triển của cuộc chạy đua khoa học – kỹ thuật đòi hỏi

các nhà tư bản muốn tồn tại và thu lợi nhuận cao thì phải đầu tư phát triển cơ sở của
mình, tích cực cải tiến kỹ thuật, tăng quy mô tích lũy. Và bất kỳ một nhà tư bản nào cũng
muốn thắng thế nên đã tạo ra cuộc cạnh tranh khốc liệt buộc giữa các nhà tư bản. Đồng
thời cũng xuất phát từ cuộc cạnh tranh gay gắt này đã làm cho các nhà tư bản vừa và nhỏ
không đủ tiềm lực để duy trì cuộc chạy đua dẫn đến phá sản. Còn các nhà tư bản lớn lại
có điều kiện để đầu tư phát triển sản xuất trở nên phát tài, làm giàu với số tư bản tập

trung và quy mô xí nghiệp ngày càng to lớn.
-

Thứ năm, cuộc khủng hoảng kinh tế năm 1873 trong toàn bộ thế giới tư bản chủ

nghĩa gây ra khó khăn cho sự tồn tại của các nhà tư bản. Các xí nghiệp vừa và nhỏ không
đủ sức chống chọi và duy trì buộc phải chấp nhận sự phá sản của mình, thúc đẩy nhanh
chóng quá trình tích tụ và tập trung tư bản.
-

Thứ sáu, sự phát triển của hệ thống tín dụng tư bản chủ nghĩa trở thành đòn bẩy

mạnh mẽ thúc đẩy tập trung sản xuất, nhất là việc hình thành các công ty cổ phần, tạo
tiền đề cho sự ra đời của các tổ chức độc quyền.
2. Những đặc điểm kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản độc quyền


a. Sự tập trung sản xuất và các tổ chức độc quyền
Tích tụ và tập trung sản xuất cao dẫn đến hình thành các tổ chức độc quyền là đặc
điểm kinh tế cơ bản của chủ nghĩa đế quốc. Trong những năm 1900, ở Mỹ, Đức, Anh,
Pháp đều có tình hình là các xí nghiệp lớn chỉ chiếm khoảng 1% tổng số xí nghiệp nhưng
đã chiếm hơn ¾ tổng số máy hơi nước và điện lực, gần một nửa tổng số công nhân và sản
xuất ra gần một nửa tổng số sản phẩm. Những con số này chứng tỏ, dù rất ít xí nghiệp lớn
nhưng chỉ với lượng ít xí nghiệp này đã tạo ra một lượng sản phẩm lớn, thể hiện sức ảnh
hưởng và sự tác động lớn của mình đến thị trường. Sự tích tụ và tập trung sản xuất dẫn
đến mức cao như vậy đã trực tiếp dẫn đến hình thành các tổ chức độc quyền.
Việc nảy sinh tổ chức độc quyền xuất hiện trên hai trường hợp. Thứ nhất, do có
một số ít các xí nghiệp lớn nên có thể tránh được nhiều tranh chấp hay xung đột vậy nên
số ít ấy dễ dàng thỏa thuận với nhau. Thứ hai, có thể chính các xí nghiệp lớn này, kỹ thuật
cao nên cạnh tranh sẽ rất gay gắt, khó đánh bại nhau, do đó dẫn đến khuynh hướng thỏa

hiệp với nhau để nắm độc quyền.
Tổ chức độc quyền là tổ chức liên minh giữa các nhà tư bản lớn để tập trung vào
trong tay phần lớn việc sản xuất và tiêu thụ một số loại hàng hóa nào đó nhằm mục đích
thu được lợi nhuận độc quyền cao.
Khi mới bắt đầu quá trình độc quyền hóa, các liên minh độc quyền hình thành theo
liên kết ngang, nghĩa là mới chỉ liên kết những doanh nghiệp trong cùng một ngành,
nhưng về sau theo mối liên hệ dây chuyền, các tổ chức độc quyền đã phát triển theo mối
liên kết dọc, mở rộng ra nhiều ngành khác nhau. Các hình thức độc quyền cơ bản là
cácten, xanhđica, tơrớt, côngxoócxiom.
-

Cácten là hình thức tổ chức độc quyền giữa các nhà tư bản ký hiệp nghị thỏa

thuận với nhau về giá cả, quy mô sản lượng, thị trường tiêu thụ, kỳ hạn thanh toán,…Các
nhà tư bản tham gia hình thức này vẫn độc lập về sản xuất và thương nghiệp. Họ chỉ cam
kết làm đúng hiệp nghị, nếu làm sai sẽ bị phạt tiền theo quy định của hiệp nghị. Vì vậy


Cácten là liên minh độc quyền không vững chắc, trong một số trường hợp các thành viên
ở vị trí bất lợi đã rút khỏi Cácten, làm Cácten tan vỡ trước kì hạn.
-

Xanhđica là hình thức tổ chức độc quyền cao hơn và ổn định hơn Cácten. Các xí

nghiệp tham gia vẫn giữ độc quyền về sản xuất, chỉ mất độc lập về lưu thông vì mọi việc
mua bán do một ban quản trị chung của Xanhđica đảm nhận. Mục đích của hình thức này
là thống nhất đầu mối mua và bán để mua nguyên liệu với giá rẻ, bán hàng hóa với giá
đắt nhằm thu lợi nhuận độc quyền cao.
-


Tơrớt là một hình thức độc quyền cao hơn Cácten và Xanhđica nhằm thống nhất

cả về việc sản xuất, tiêu thụ, tài vụ đều do một ban quản trị quản lý. Các nhà tư bản tham
gia Tơrớt trở thành những cổ đông thu lợi nhuận theo số lương cổ phần. Cổ đông là cá
nhân hay tổ chức nắm giữ quyền sở hữu hợp pháp một phần hay toàn bộ phần vốn góp
(cổ phần) của một công ty cổ phần. Cổ phần là phần vốn nhỏ nhất của công ty cổ
phần. Vốn điều lệ của công ty cổ phần được chia thành nhiều phần bằng nhau được gọi là
cổ phần. Người sở hữu cổ phần gọi là cổ đông.
-

Côngxoócxiom là hình thức tổ chức độc quyền có trình độ và quy mô lớn hơn các

hình thức độc quyền trên. Tham gia hình thức này không chỉ có các nhà tư bản lớn mà
còn có cả các Xanhđica, Tơrớt thuộc các ngành khác nhau nhưng liên quan với nhau về
kinh tế, kỹ thuật, chẳng hạn như giữa các nhà tư bản sản xuất tàu lửa, sản xuất sắt gang
thép, sản xuất than, khai thác khoáng sản, kim loại… cũng có sự liên quan nhất định với
nhau. Với kiểu liên kết dọc như vậy một Côngxoócxiom có thể có hàng trăm xí nghiệp
liên kết trên cơ sở hoàn toàn phục vụ về tài chính vào một nhóm tư bản kếch xù.
b. Tư bản tài chính và bọn đầu sỏ tài chính
Cùng với quá trình tích tụ và tập trung sản xuất tư bản trong công nghiệp cũng
diễn ra quá trình tích tụ, tập trung tư bản trong ngân hàng, dẫn đến hình thành các tổ chức
độc quyền trong ngân hàng. Ngân hàng trong chủ nghĩa tư bản là xí nghiệp kinh doanh tư
bản tiền tệ, làm môi giới giữa người đi vay và người cho vay. Ngân hàng nhận tiền gửi và
trả lợi tức cho người gửi đồng thời cho các xí nghiệp vay và thu lợi tức từ người vay.


Chênh lệch giữa lợi tức cho vay và lợi tức gửi, sau khi trừ đi những chi phí về nghiệp vụ
kinh doanh ngân hàng cộng với các thu nhạp khác về kinh doanh tư bản tiền tệ hình thành
nên tư bản ngân hàng. Nhờ có ngân hàng mà các nhà tư bản có điều kiện mở rộng sản
xuất nhanh chóng hơn, có điều kiện tự do di chuyển tư bản từ ngành này sang ngành khác

dễ dàng hơn, giảm chi phí lưu thông, giảm lượng tiền mặt trong lưu thông, đẩy nhanh tốc
độ quay vòng của đồng tiền.
Quy luật tích tụ, tập trung tư bản trong ngân hàng cũng giống như trong công
nghiệp. Do quá trình cạnh tranh ccs ngân hàng vừa và nhỏ bị thôn tính dẫn đến hình
thành những ngân hàng lớn. Dưới tác động của của sản xuất công nghiệp tích tụ ở mức
độ cao, cần lượng tư bản lớn, điều này các ngân hàng nhỏ không đủ tiềm lực và uy tín để
phục vụ cho xí nghiệp lớn. Đứng trước tình huống này các ngân hàng nhỏ có nguy cơ phá
sản vì không kinh doanh được với các xí nghiệp lớn nên không thể thu lợi tức cao để bảo
đảm sự tồn tại của mình trên thị trường cạnh tranh gay gắt. Trong trường hợp đó hoặc các
ngân hàng nhỏ phải tự sáp nhập vào các ngân hàng mạnh hơn hoặc phải chấm dứt sự tồn
tại của mình trên thị trường. Quá trình này thúc đẩy các tổ chức độc quyền ngân hàng ra
đời.
-

Sự xuất hiện và phát triển của các tổ chức độc quyền ngân hàng đã làm thay đổi

quan hệ giữa tư bản ngân hàng và tư bản công nghiệp, làm cho ngân hàng bắt đầu có vai
trò mới. Ngân hàng từ chỗ chỉ là trung gian cho việc thanh toán và tín dụng, nay đã nắm
được hầu hết tư bản tiền tệ của xã hội nên có quyền lực vạn năng, khống chế mọi hoat
động của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa. Độc quyền ngân hàng cử đại diện của mình vào
các cơ quan quản lý của độc quyền công nghiệp để theo dõi việc sử dụng tiền vay hoặc
trực tiếp đầu tư vào công nghiệp.
Đây không phải là mối quan hệ một chiều đơn thuần và các tư bản công nghiệp
cũng không thể chịu sự khống chế hoàn toàn này của các tư bản ngân hàng. Trước sự
khống chế và chi phối ngày càng xiết chặt của ngân hàng, một quá trình xâm nhập tương
ứng, tác động trở lại của các độc quyền công nghiệp vào ngân hàng cũng diễn ra. Các tổ


chức độc quyền công nghiệp cũng tham gia vào công việc của ngân hàng bằng cách mua
cổ phần của ngân hàng lớn để chi phối hoạt động của ngân hàng, hoặc lập ngân hàng

riêng tự phục vụ cho mình. Quá trình độc quyền hóa trong công nghiệp và trong ngân
hàng xoắn xuýt với nhau và thúc đẩy lẫn nhau làm nảy sinh một thứ tư bản mới, gọi là tư
bản tài chính.
Tư bản tài chính là kết quả của sự hợp nhất giữa tư bản ngân hàng của một số ít tư
bản độc quyền ngân hàng lớn nhất, với tư bản của những liên minh độc quyền các nhà
công nghiệp. Sự phát triển của tư bản tài chính dẫn đến sự hình thành một nhóm nhỏ độc
quyền, chi phối toàn bộ đời sống kinh tế và chính trị của toàn bộ xã hội tư bản gọi là các
đầu sỏ tài chính.
-

Các đầu sỏ tài chính thiết lập sự thống trị của mình thông qua chế độ tham dự.

Thực chất chế độ tham dự là một nhà tài chính lớn hoặc một tập đoàn tài chính nhờ có số
cổ phiếu khống chế mà nắm được công ty lớn nhất với tư cách là công ty gốc hay là công
ty mẹ, công ty này lại mua được cỏ phiếu khống chế, thống trị được công ty khác gọi là
công ty con; công ty con lại chi phối các công ty nhỏ hơn là công ty cháu. Nhờ có chế độ
tham dự và phương pháp tổ chức tập đoàn theo kiểu móc xích như vậy, bằng một lượng
tư bản đầu tư nhỏ, các nhà tư bản độc quyền tài chính có thể khống chế và điều tiết được
một lượng tư bản lớn gấp nhiều lần.
Ngoài chế độ tham dự, các đầu sỏ tài chính còn sử dụng những thủ đoạn như lập
công ty mới, phát hành trái khoán, kinh doanh công trái, đầu cơ chứng khoán ở sở giao
dịch, đầu cơ ruộng đất,…để thu lợi nhuận độc quyền cao.
-

Thống trị về kinh tế là cơ sở để các đầu sỏ tài chính thống trị về chính trị và các

mặt khác. Về mặt chính trị, các đầu sỏ tài chính chi phối mọi hoạt động của các cơ quan
nhà nước, biến nhà nước tư sản thành công cụ phục vụ lợi ích của chúng. Sự thống trị của
bọn tài phiệt đã làm nảy sinh chủ nghĩa phát xít, chủ nghĩa quân phiệt và nhiều thứ chủ
nghĩa phản động khác, cùng chạy đua vũ trang gây chiến tranh xâm lược để áp bức, bóc

lột các nước đang phát triển và chậm phát triển.


c. Xuất khẩu tư bản
Xuất khẩu hàng hóa là đặc điểm của giai đoạn chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh
còn xuất khẩu tư bản là đặc điểm của chủ nghĩa tư bản độc quyền.
-

Xuất khẩu hàng hóa khác với xuất khẩu tư bản ở chỗ, xuất khẩu hàng hóa là mang

hàng hóa ra nước ngoài để thực hiện giá trị và giá trị thặng dư. Còn xuất khẩu tư bản là
mang tư bản đầu tư ở nước ngoài để sản xuất giá trị thặng dư tại nước sở tại.
-

Xuất khẩu tư bản trở thành tất yếu, vì các ngành có lợi nhuận cao ở trong nước đã

bị độc quyền hóa trong khi ở những nước tư bản phát triển đã tích lũy được một khối
lượng tư bản lớn và nảy sinh tình trạng một số “tư bản thừa” tương đối. Đối với các nhà
tư bản thì họ không bao giờ để tư bản của mình rỗi vì như vậy họ sẽ không có lời, họ cần
tìm nơi đầu tư có lợi nhuận cao so với đầu tư ở trong nước. Tiến bộ kỹ thuật ở các nước
này đã dẫn đến tăng cấu tạo hữu cơ của tư bản và hạ thấp tỷ suất lợi nhuận; trong khi đó ở
nhiều nước lạc hậu về kinh tế, giá ruộng đất tương đối hạ, tiền lương thấp, nguyên liệu rẻ,
nhưng lại rất thiếu tư bản nên tỷ suất lợi nhuận cao, rất hấp dẫn đầu tư tư bản.
-

Xuất khẩu tư bản có các ưu thế so với xuất khẩu hàng hóa vì tránh được hàng rào

thuế quan, khi xuất khẩu một lượng lớn hàng hóa sang nước ngoài thì phải chịu khoảng
thuế lớn và cả chi phí vận chuyển cao, điều này làm giảm lợi nhuận, nhưng cũng cùng số
tiền tương ứng để sản xuất ra khối hàng đó nếu đem sang nước ngoài và đầu tư thẳng thì

lại hạn chế chi phí phát sinh, thu được giá trị thặng dư cao. Xuất khẩu tư bản tận dụng
được nguồn nguyên liệu phong phú, nhân lực rẻ ở nước khác và các chính sách về môi
trường và an toàn bảo hộ lao động còn khá lỏng lẻo. Xuất khẩu tư bản có thể chi phối
được tình hình kinh tế, chính trị quốc gia đó nên có thể thu lợi nhuận cao.
-

Xuất khẩu tư bản xét về hình thức đầu tư có thể phân chia thành:

+ Xuất khẩu tư bản hoạt động (đầu tư trực tiếp) là đưa tư bản ra nước ngoài để trực
tiếp kinh doanh, xây dựng xí nghiệp mới hoặc mua lại xí nghiệp hoặc thầu khoán xây
dựng kênh đào đường xá cho các nước nhập tư bản để thu lợi nhuận cao.


+ Xuất khẩu tư bản cho vay (đầu tư gián tiếp) là đưa tư bản ra nước ngoài để cho
vay nhằm thu lợi tức.
Xuất khẩu tư bản nếu xét về chủ thể sở hữu, xuất khẩu tư bản thì chia thành hai
loại xuất khẩu tư bản tư nhân và xuất khẩu tư bản nhà nước.
Việc xuất khẩu tư bản là mở rộng quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa ra nước
ngoài. Việc xuất khẩu tư bản về khách quan cũng có những tác động tích cực đến nền
kinh tế các nước nhập khẩu, như giúp các nước kém phát triển giảm được áp lực về vốn,
học hỏi kinh nghiệm quản lí từ đó rút ngắn chênh lệch giữa các nước, tạo mạng lưới kinh
tế mở, thúc đẩy quá trình chuyển biến từ cơ cấu kinh tế thuần nông thành cơ cấu kinh tế
nông – công nghiệp mặc dù cơ cấu này còn què quặt lệ thuộc vào kinh tế của chính quốc.
Xuất khẩu hàng hóa còn gây ra một số hậu quả đối với nước nhậu khẩu tư bản như
sức lao động bị bóc lột nặng nề, nền kinh tế bị lệ thuộc, mâu thuẫn giữa tư bản với người
lao động ngày càng sâu sắc, sự phân hóa giàu nghèo và bất công tăng lên. Việc xuất khẩu
tư bản cũng là công cụ chủ yếu để bành trướng sự thống trị, bóc lột, nô dịch của tư bản tài
chính trên phạm vi toàn thế giới.
d. Sự phân chia thế giới về kinh tế giữa độc quyền các tổ chức
Trong giai đoạn tư bản tự do cạnh tranh lượng hàng hóa sản xuất ra còn khá ít

nhưng đến giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền thì dưới sức tác động của tiến bộ khoa
học kỹ thuật, trình độ lao động cũng như vật tư máy móc hoạt động hiệu quả hơn rất
nhiều, năng suất tăng cao hơn rất nhiều so với trước gây ra sức ép về thị trường và nguồn
vật liệu. Với một lượng hàng hóa tăng lên một cách chóng mặt thì thị trường trong nước
không đủ lớn để tiêu thụ hết khối hàng ấy, nếu không tiêu thụ được đồng nghĩa với việc
tư bản có thể thu lợi nhuận thấp, không thể tái sản xuất hoặc nặng hơn là thua lỗ. Và
nguồn nguyên liệu, nhân lực trong nước cũng không phải là vô tận để các nhà tư bản độc
quyền sử dụng, đặc biệt trong lúc mà các tư bản sẽ cạnh tranh nhau để có thể khai thác
được. Tất cả những điều này tạo ra nhu cầu cấp thiết về thị trường và nguyên liệu ở nước
ngoài. Quá trình tích tụ và tập trung tư bản phát triển, việc xuất khẩu tư bản tăng lên cả


về quy mô và phạm vi tất yếu dẫn tới sự phân chia thế giới về mặt kinh tế giữa các tập
đoàn tư bản độc quyền và hình thành các tổ chức độc quyền quốc tế.
Lịch sử phát triển của chủ nghĩa tư bản đã chứng tỏ thị trường trong nước luôn
luôn gắn liền với thị trường ngoài nước. Đặc biệt trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc
quyền, thị trường ngoài nước còn có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với các nước đế
quốc. Một mặt, do lực lượng sản xuất phát triển cao đòi hỏi ngày càng phải có nhiều
nguồn nguyên liệu và nơi tiêu thụ; mặt khác, do thèm khát lợi nhuận siêu ngạch thúc đẩy
tư bản độc quyền tăng cường bành trướng ra nước ngoài, cần có thị trường ổn định
thường xuyên. Bất kì nhà tư bản độc quyền nào cũng cần thị trường nước ngoài để sinh
lợi nhuận và duy trì sự tồn tại của mình nên đã gây ra một cuộc cạnh tranh, tranh giành
thị trường nước ngoài. Lênin nhận xét: “Bọn tư bản chia nhau thế giới, không phải do
tính độc ác đặc biệt của chúng, mà do sự tập trung đã tới mức độ buộc chúng phải đi vào
con đường ấy để kiếm lời.” Việc phân chia thị trường thế giới về kinh tế là điều tất yếu
xảy ra, không thể khác.
Sự đụng độ trên thị trường quốc tế giữa các tổ chức độc quyền quốc gia có sức
mạnh kinh tế hùng hậu được sự ủng hộ của nhà nước của mình và các cuộc cạnh tranh
khốc liệt giữa chúng tất yếu dẫn đến xu hướng thỏa hiệp, ký kết các hiệp định, để củng cố
địa vị độc quyền của mình trong những lĩnh vực và thị trường nhất định. Từ đó hình

thành các liên minh độc quyền quốc tế dưới dạng cácten, xanhđica, tơrớt quốc tế.
đ. Sự phân chia thế giới về lãnh thổ giữa các cường quốc đế quốc
Sự phân chia thế giới về kinh tế được củng cố và tăng cường bằng việc phân chia
thế giới về lãnh thổ. Hay nói cách khác sự phân chia thế giới về lãnh thổ là hệ quả tất yếu
của việc phân chia thế giới về mặt kinh tế. “Chủ nghĩa tư bản phát triển càng cao, nguyên
liệu càng thiếu thốn, sự cạnh tranh càng gay gắt và việc tìm kiếm các nguồn nguyên liệu
trên toàn thế giới càng ráo riết, thì cuộc đấu tranh để chiếm thuộc địa càng quyết liệt
hơn.”


Các cường quốc đế quốc ra sức xâm chiếm thuộc địa, bởi vì thuộc địa là nơi đảm
bảo nguồn nguyên liệu và thị trường thường xuyên; là nơi tương đối an toàn cho cạnh
tranh, bảo đảm thực hiện đồng thời những mục đích kinh tế, quân sự và chính trị. Từ sau
năm 1880 những cuộc xâm chiếm thuộc địa bắt đầu phát triển mạnh. Các nước tư bản già
thường có nhiều cơ hội trong việc lựa chọn thị trường thuộc địa nhưng những nước tư
bản trẻ đến muộn hơn nên không thể có những thuộc địa béo bở nên nảy sinh ra cuộc
tranh chấp thuộc địa hết sức gay gắt. Đến cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, các nước đế
quốc đã hoàn thành việc phân chia lãnh thổ thế giới. Đế quốc Anh chiếm được nhiều
thuộc địa nhất, sau đó đến Nga Hoàng và Pháp. Số dân thuộc địa của Pháp lại nhiều hơn
số dâ thuộc địa của ba nước Đức, Mỹ, Nhật cộng lại.
Sự phân chia lãnh thổ và phát triển không đồng đều của chủ nghĩa tư bản tất yếu
dẫn đến cuộc đấu tranh đòi chia lại thế giới. Đó là nguyên nhân chính dẫn đến cuộc Chiến
tranh thế giới thứ nhất 1914-1918 và cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai 1939-1945.
Thế giới lúc này phân chia thành hai thành phần, một là các nước đi xâm chiếm
thuộc địa và các nước thuộc địa. Ngoài ra còn một số nước trên hình thức thì được độclập
về chính trị nhưng trên thực tế thì lại mắc vào lưới phụ thuộc tài chính và ngoại giao.
Năm đặc điểm kinh tế cơ bản của chủ nghĩa đế quốc có liên quan chặt chẽ với
nhau nói lên bản chất của chủ nghĩa đế quốc về mặt kinh tế là sự thống trị của chủ nghĩa
tư bản độc quyền, về mặt chính trị là hiếu chiến, xâm lược.
Câu 2: Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân

I.
Giai cấp công nhân và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
1. Khái niệm giai cấp công nhân

Cũng như mọi hiện tượng xã hội khác,, giai cấp công nhân là con đẻ của một hoàn
cảnh cụ thể và cùng với sự phát triển của lịch sử, cũng luôn luôn phát triển với những
biểu hiện và đặc trưng mới trong từng giai đoạn nhất định.


Giai cấp công nhân theo Karl Marx, trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, là giai
cấp của những người công nhân và người lao động phải bán sức lao động để đổi lấy tiền
lương và họ không phải là chủ sở hữu của phương tiện sản xuất. Cũng theo Marx, giai
cấp công nhân là giai cấp tạo ra các giá trị thặng dư và sự giàu có cho xã hội. Ngày nay,
đây là giai cấp lao động sản xuất ra của cải vật chất trong lĩnh vực công nghiệp với trình
độ kỹ thuật và công nghệ ngày càng hiện đại. Sản phẩm thặng dư do họ làm ra là nguồn
gốc chủ yếu cho sự giàu có và phát triển xã hội.
Khi sử dụng khái niệm giai cấp công nhân, C.Mác và Ph.Ăngghen đã dùng một số
thuật ngữ khác nhau để biểu đạt khái niệm đó, như: giai cấp vô sản, giai cấp vô sản hiện
đại, giai cấp công nhân hiện đại, giai cấp công nhân đại công nghiệp,... Mặc dù vậy, về cơ
bản những thuật ngữ này trước hết đều biểu thị một khái niệm thống nhất, đó là chỉ giai
cấp công nhân hiện đại, con đẻ của nền sản xuất đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa, giai
cấp đại biểu cho lực lượng sản xuất tiên tiến, cho phương thức sản xuất hiện đại.
Trong phạm vi phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, giai cấp công nhân là giai
cấp có hai đặc trưng cơ bản sau đây:
Thứ nhất, về phương thức lao động của giai cấp công nhân.
Giai cấp công nhân là nhân tố, là lực lượng không thể thiếu trong nền sản xuất tư
bản chủ nghĩa. Họ là những tập đoàn người lao động trực tiếp hay gián tiếp vận hành
những công cụ sản xuất có tính chất công nghiệp ngày càng hiện đại, ngày càng có trình
độ xã hội hóa cao. Đây là một đặc trưng cơ bản phân biệt người công nhân hiện đại với
người thợ thủ công thời trung cổ, với những người thợ trong công trường thủ công.Giai

cấp công nhân có một quá trình phát triển từ những người thợ thủ công thời kỳ trung cổ
đến những người thợ trong công trường thủ công và cuối cùng đến những nguời công
nhân trong công nghiệp hiện đại.điểm khác biệt ở đây là trong công trường thủ công và
trong nghề nghiệp thủ công người công nhân sử dụng công cụ của mình nhưng trong
công công xưởng thì họ phải phục vụ máy móc.


Trong xã hội tư bản, nền sản xuất đại công nghiệp ngày càng pháp triển, máy móc
ngày càng nhiều, sản xuất ngày càng có năng suất cao, làm cho những thợ thủ công bị
phá sản, họ không có tư liệu sản xuất, tail sản duy nhất của họ là sức lao động. Để duy trì
sự sống họ phải bán sức lao động của mình cho nhà tư bản và những người nông dân mất
việc làm buộc phải gia nhập vào hàng ngũ công nhân. Theo sự phân tích của C.Mác và
Ph.Ăngghen: "Tất cả các giai cấp khác đều suy tàn và tiêu vong cùng với sự phát triển
của đại công nghiệp, còn giai cấp vô sản lại là sản phẩm của bản thân nền đại công
nghiệp"
Thứ hai, về địa vị của giai cấp công nhân trong hệ thống quan hệ sản xuất tư bản
chủ nghĩa, chúng ta phải xem xét trong hai trường hợp sau:
-

Trong hệ thống quan hệ sản xuất của xã hội tư bản chủ nghĩa, người công nhân là những
người vô sản hiện đại, họ không có tư liệu sản xuất nên họ buộc phải bán sức lao động
cho nhà tư bản để kiếm sống và luôn bị các nhà tư bản bóc lột. Tức là, giai cấp công nhân
chính là nhân tố tạo ra giá trị thặng dư và bị nhà tư bản hoàn toàn chiếm đoạt. Chính vì
vậy mà dưới chủ nghĩa tư bản, người công nhân được gọi là giai cấp vô sản và trở thành
lực lượng đối kháng với giai cấp tư sản.
Trong tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng cộng sản, C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ rõ:
"Giai cấp tư sản, tức là tư bản, mà lớn lên thì giai cấp vô sản, giai cấp công nhân hiện đạitức là giai cấp chỉ có thể sống với điều kiện là kiếm được việc làm, và chỉ kiếm được việc
làm, nếu lao động của họ làm tăng thêm tư bản - cũng phát triển theo. Những công nhân
ấy, buộc phải tự bán mình để kiểm ăn từng bữa một, là một hàng hóa, tức là một món
hàng đem bán như bất cứ món hàng nào khác; vì thế, học phải chịu hết mọi sự may rủi

của cạnh tranh, mọi sự lên xuống của thị trường với mức độ như nhau".
Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ nửa
sau thế kỷ XX, giai cấp công nhân hiện đại đã có một số sự thay đổi nhất định so với
trước đây.


Xét về phương thức lao động, nếu lao động của người công nhân trọng thế kỷ XIX
chủ yếu là lao động cơ khí, lao động chân tay, thì nay đã xuất hiện một bộ phận công
nhân của những ngành ứng dụng công nghệ ở trình độ phát triển cao, do vậy công nhân
có trình độ tri thức ngày càng cao. Về phương diện đời sống, công nhân ở các nước tư
bản phát triển đã có những thay đổi quan trọng: một bộ phận công nhân đã có một số tư
liệu sản xuất nhỏ để cùng với gia đình làm thêm trong các công đoạn phụ cho các xí
nghiệp chính; một bộ phận nhỏ công nhân đã có cổ phần trong các xí nghiệp tư bản chủ
nghĩa. Tuy nhiên, trong thực tế số cổ phần và tư liệu sản xuất của giai cấp công nhân chỉ
chiếm một tỷ lệ rất nhỏ, còn tuyệt đại bộ phận tư liệu sản xuất trong các nước tư bản chủ
nghĩa vần nằm trong tay các nhà tư bản lớn. Giai cấp công nhân về cơ bản vẫn không có
tư liệu sản xuất, vẫn phải bán sức lao động cho các nhà tư bản,
-

Sau khi cách mạng vô sản thành công, giai cấp công nhân trở thành giai cấp cầm quyền.
Nó không còn ở địa vị bị áp bức, bị bóc lột nữa, mà trở thành giai cấp lãnh đạo cuộc đấu
tranh cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới – xã hội chủ nghĩa. Giai cấp công nhân cùng
với toàn thể nhân dân lao động làm chủ tư liệu sản xuất chủ yếu đã công hữu hóa. Như
vậy, họ không còn là những người vô sản như trước và sản phẩm thặng dư do họ tạo ra là
nguồn gốc cho sự giàu có và phát triển của xã hội XHCN.
Xuất phát từ quan niệm của các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin về giai cấp
công nhân, nghiên cứu những biến đổi của giai cấp công nhân trong giai đoạn hiện nay,
có thể nhận định: "Giai cấp công nhân là một tập đoàn xã hội ổn định, hình thành và phát
triển cùng với quá trình phát triển của nền công nghiệp hiện đại, với nhịp độ phát triển
của lực lượng sản xuất có tính chất xã hội hóa ngày càng cao; là lực lượng sản xuất cơ

bản tiên tiến, trực tiếp hoặc tham gia vào quá trình sản xuất, tái sản xuất ra của cải vật
chất và cải tạo các quan hệ xã hội; là lực lượng chủ yếu của tiến trình lịch sử quá độ từ
chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Ở các nước tư bản chủ nghĩa, giai cấp công nhân
là những người không có hoặc về cơ bản không có tư liệu sản xuất phải làm thuê cho giai
cấp tư sản và bị giai cấp tư sản bóc lột giá trị thặng dư; ở các nước xã hội chủ nghĩa, họ là
người đã cùng nhân dân lao động làm chủ những tư liệu sản xuất chủ yếu và cùng nhau


hợp tác lao động vì lợi ích chung của toàn xã hội trong đó có lợi ích chính đáng của bản
thân họ".
2. Nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân

Khi phân tích xã hội TBCN, chủ nghĩa Mác với hai phát kiến vĩ đại, đó là quan
niệm duy vật về lịch sử và học thuyết giá trị thặng dư, đã chứng minh một cách khoa học
rằng sự ra đời, phát triển và tiêu vong của chủ nghĩa tư bản là tất yếu và cũng khẳng định
giai cấp công nhân là giai cấp tiên tiến nhất và cách mạng nhất, là lực lượng xã hội duy
nhất có sứ mệnh lịch sử. Giai cấp công nhân là con đẻ của nền công nghiệp hiện đại, đại
diện cho phương thức sản xuất tiên tiến. Bởi lẽ giai cấp công nhân là thành phần quan
trọng trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, là lực lượng không thể thiếu tạo ra giá trị và
giá trị thặng dư cho nhà tư bản. Trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, người công nhân
chính là những người không có tư liệu sản xuất, họ chỉ có sức lao động là tài sản duy nhất
và để duy trì sự sống họ buộc phải bán sức lao động cho nhà tư bản. Và một khi nhà tư
bản mua sức lao động của công nhân, người công nhân chính là yếu tố chính tạo ra giá trị
và giá trị thặng dư – giá trị mà nhà tư bản quan tâm nhất bằng cách bóc lột sức lao động
của công nhân làm thuê. Đây cũng chính là đặc trưng khiến giai cấp công nhân trở thành
giai cấp vố sản, trở thành một giai cấp lao động làm thuê cho giai cấp tư sản. Cho nên
giai cấp công nhân là giai cấp có lợi ích trực tiếp đối kháng với lợi ích của giai cấp tư
bản, nhưng lại thống nhất với lợi ích lâu dài của các tầng lớp nhân dân lao động khác. Do
vậy, giai cấp công nhân – giai cấp vô sản nảy sinh mâu thuẫn với giai cấp tư sản. Mặt
khác, đây còn là giai cấp có hệ tư tưởng là chủ nghĩa Mác – Lênin, có đội tiên phong của

mình là Đảng Cộng sản, có tinh thần cách mạng triệt để, có ý thức tổ chức kỷ luật cao và
là giai cấp có bản chất quốc tế. Về mặt khách quan, giai cấp công nhân là giai cấp có sứ
mệnh lịch sử lãnh đạo nhân dân lao động đấu tranh xóa bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa, xóa
bỏ chế độ áp bức bóc lột và xây dựng xã hội mới – xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ
nghĩa.


Trong tác phẩm “Chống Đuyrinh”, khi nói về vai trò lịch sử của giai cấp công
nhân, Ph. Ăngghen đã chỉ rõ: “... phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa tạo ra một lực
lượng bị buộc phải hoàn thành cách mạng ấy, nếu không thì sẽ bị diệt vong”.
Là giai cấp cơ bản bị áp bức dưới CNTB, giai cấp công nhân chỉ có thể thoát khỏi
ách áp bức bằng con đường đấu tranh giai cấp chống lại giai cấp tư sản, bằng con đường
thủ tiêu chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất và thiết lập chế độ công hữu về tư liệu sản xuất.
Đó chính là sứ mệnh của giai cấp công nhân. Tuy nhiên, việc thực hiện sứ mệnh của giai
cấp công nhân không phải đơn giản và nhanh chóng, theo quan điểm của C.Mác và
Ph.Ăngghen nó phải trải qua hai bước.
Bước thứ nhất, giai cấp công nhân trở thành giai cấp thống trị, tức là giai cấp công
nhân giành chính quyền về tay mình, tự thủ tiêu cái tên giai cấp vô sản của mình, xóa bỏ
mọi sự phân biệt giai cấp, đối kháng giai cấp và xóa bỏ chế độ cũ xây dựng chế độ mới.
Bước thứ hai, giai cấp công nhân dùng sự thống trị của mình để từng bước đoạt
lấy toàn bộ tư bản trong tay giai cấp tư sản để tập trung tất cả những công cụ sản xuất
vào trong tay nhà nước.
Hai bước này có mối quan hệ mật thiết với nhau, không tách rời nhau, nhưng trong
nền sản xuất tư bản chủ nghĩa bước thứ hai là quan trọng nhất để giai cấp công nhân hoàn
thành sứ mệnh lịch sử của mình.
Để hoàn thành được sứ mệnh lịch sử của mình, giai cấp công nhân nhất định phải
tập hợp được tất cả các tầng lớp nhân dân lao động xung quanh, tiến hành cuộc đấu tranh
cách mạng xóa bỏ xã hội cũ và xây dựng xã hội mới về mọi mặt chính trị, kinh tế, văn
hóa, tư tưởng. Cần chú ý, sứ mệnh này không phải là sự thay thế chế độ tư hữu này bằng
một chế độ tư hữu khác, thay thế hình thức bóc lột này bằng một hình thức bóc lột khác,

mà là chế độ tư hữu áp bức, bóc lột, xóa bỏ sự phân chia xã hội thành giai cấp và xây
dựng nên một xã hội tiến bộ hơn.


Tóm lại, trong sự chuyển biến từ hình thái kinh tế xã hội tư bản chủ nghĩa lên hình
thái kinh tế xã hội cộng sản chủ nghĩa, giai cấp công nhân là giai cấp trung tâm, có nhiệm
vụ xóa bỏ chế độ cũ và xây dựng hình thái kinh tế xã hội mới tiến bộ hơn.
Có thể thấy, giai cấp công nhân có vai trò vô cùng quan trọngtrong lịch sử toàn
nhân loại. Họ chính là giai cấp lãnh đạo các sự nghiệp: sự nghiệp giải phóng giai cấp, sự
nghiệp giải phóng xã hội và dân tộc, sự nghiệp giải phóng người lao động và sự nghiệp
giải phóng con người. Do đó, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân phải được thực hiện
trên toàn thế giới bởi lẽ phong trào cách mạng của giai cấp công nhân là mang lại lợi ích
cho đa số. Chính vì vậy, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân vừa mang tính dân tộc
vừa mang tính quốc tế.
II. Những điều kiện khách quan quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân

Đánh giá về vị trí vai trò của giai cấp công nhân, chủ nghĩa Mac Leenin xác định
giai cấp công nhân chính là giai cấp có sứ mệnh lịch sử hết sức to lớn là xóa bỏ chế độ
bóc lột TBCN, thực hiện sự chuyển biến cách mạng từ xã hội TBCN lên xã hội XHCN và
Cộng sản chủ nghĩa. Theo Mac và Ăngghen, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
không phải do ý muốn chủ quan của giai cấp công nhân hoặc do sự áp đặt của các nhà tư
tưởng mà do những điều kiện khách quan quy định.
1. Địa vị kinh tế - xã hội của giai cấp công nhân quy định nên sứ mệnh lịch sử của giai

cấp công nhân
CNTB ra đời đánh dấu một bước tiến vĩ đại và phát triển của lực lượng sản xuất.
Sự ra đời nền công nghiệp, một mặt tạo ra cơ sở vật chất¸ nhờ đó có thể xóa bỏ được chế
độ bóc lột, xây dựng một xã hội công bằng, mặt khác sản sinh ra giai cấp công nhân, lực
lượng xã hội đại diện cho lực lượng sản xuất mới. Giai cấp công nhân xét về nguồn gốc
ra đời là con của nền đại công nghiệp, họ chỉ trở thành một giai cấp ổn định khi sản xuất

đại công nghiệp đã thay thế về cơ bản nền sản suất thủ công. Tuy nhiên, với sự phát triển
không ngừng của giai cấp công nhân, lực lượng sản suất mang tính chất xã hội hóa ngày
càng cao, trong khi đó quan hệ sản xuất TBCN lại dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân về


tư liệu sản xuất. chính điều đó đã tạo ra mâu thuẫn cơ bản trong lòng xã hội tư bản và
được biểu hiện ra ngoài bằng mâu thuẫn gay gắt giữa giai cấp công nhân – đại diện cho
lực lượng sản suất mới với giai cấp tư sản – đại diện cho quan hệ sãn xuất lỗi thời.
Theo quy luật khách quan, quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất. Một khi quan hệ sản xuất cũ đã lỗi thời trong xã hội thì
lúc đó giai cấp tiên tiến trong xã hội – đại diện cho lực lượng sản xuất mới – sẽ lãnh đạo
cuộc đấu tranh lật đổ giai cấp thống trị, thiết lập quan hệ sản xuất mới phù hợp với nhu
cầu phát triển của lực lượng sản xuất, tạo nên phương thức sản xuất mới, tiến bộ hơn
phương thức sản xuất cũ bị thay thế. Khi ấy hình thái khinh tế xã hội cũ sẽ thay đổi bằng
hình thái kinh tế - xã hội mới cao, tiến bộ hơn : đó là quy luật phát triển cơ bản của xã hội
loài người đã được lịch sử chứng minh, không một học thuyết nào bác bỏ được.
Như vậy, với mâu thuẫn trong xã hội tư bản sớm hay muộn người đại diện cho lực
lượng sản xuất mới sẽ lãnh đạo nhân dân lao động đấu tranh lật đổ giai cấp tư sản – đại
diện cho quan hệ sản xuất lỗi thời, thiết lập quan hệ sản xuất mới, mở đường cho lực
lượng sản xuất tiếp tục phát triển. Từ đó có thể thấy giai cấp công nhân là lực lượng sản
xuất tiên tiến, cơ bản nhất của phương thức sản xuất TBCN, cho nên nó sẽ là người quyết
định phá vỡ quan hệ sản xuất TBCN, hình thành phương thức sản xuất mới : Phương thức
sản xuất Cộng sản chủ nghĩa, nền tảng cho xã hội CSCN ra đời
Mặt khác, trong xã hội tư bản, giai cấp công nhân luôn luôn phát triển ngày càng
đông về số lượng lẫn chất lượng cùng với sự phát triển không ngừng của công nghiệp và
quá trình CNH-HĐH nền kinh tế. Tuy nhiên, sự phát triển của giai cấp công nhân cũng
đồng thời dẫn đến sự gia tăng mâu thuẫn ngày càng gay gắt giữa giai cấp công nhân và
giai cấp tư sản tất yếu dẫn đến cách mạng xã hội nhằm xóa bỏ CNTB, hình thành xã hội
mới - xã hội XHCN và CSCN. Trước tình hình đó, giai cấp tư sản đã và đang tìm mọi
cách để điều chỉnh các quan hệ TBCN nhằm cứu vãn chế độ thống trị của giai cấp mình

và trên thực tế giai cấp tư sản đã đạt được một số thành tựu và kết quả nào đấy nhưng vẫn
không khắc phục được mâu thuẫn cơ bản của xã hội tư bản, vẫn phải thường xuyên đối


đầu với các cuộc khủng hoảng nặng nề với nhiều cơn suy thoái và nạn thất nghiệp thường
xuyên không tránh khỏi của hàng chục triệu người. Phong trào đấu tranh của giai cấp
công nhân tuy đang đứng trước những thử thách hết sức nặng nề nhưng bức tranh toàn
cảnh của sự phát triển lực lượng sản xuất thế giới vẫn đang chuẩn bị những tiền đề khách
quan cho giai cấp công nhân thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình, dù có trải qua những
bước thăng trầm, quanh co nhưng nó vẫn tiếp tục diễn ra theo quy luật khách quan của
lịch sử.
Tóm lại, chính địa vị kinh tế xã hội và những đặc điểm của giai cấp công nhân nêu
trên là những điều kiện khách quan quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, quy
định khả năng lãnh đạo cách mạng của nó trong cuộc đấu tranh lâu dài nhằm xóa bỏ chủ
nghĩa tư bản, xây dựng xã hội mới, xã hội XHCN và CNCS. Sứ mệnh lịch sử đó không
phải là thực hiện sự chuyển biến từ một chế độ tư hữu này sang chế độ tư hữu khác, nhằm
thay thế một hình thức bóc lột này bằng một hình thức bóc lột khác mà là nhằm mục tiêu
xóa bỏ giai cấp, giải phóng triệt để con người mà trước hết là xóa bỏ chế độ tư hữu , cơ
sở mà mọi hình thức bóc lột người. Ngoài giai cấp công nhân không một lực lượng nào
khác có đủ điều kiện tất yếu khách quan có khả năng hoàn thành sứ mệnh lịch sử đó.
2. Những đặc điểm chính trị xã hội của giai cấp công nhân

Ta thấy được, chính địa vị kinh tế xã hội của giai cấp công nhân là những điều
kiện khách quan hết sức quan trọng và thiết yếu quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp
công nhân. Tuy nhiên, để hoàn thành sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, để biến khả
năng khách quan thành hiện thực thì phải thông qua những nhân tố chủ quan. Nhân tố
chủ quan để giai cấp công nhân hoàn thành sứ mệnh lịch sử có thể khái quát lại dựa trên
những điều kiện cơ bản sau
Thứ nhất, giai cấp công nhân là giai cấp tiên phong cách mạng.
Giai cấp công nhân là giai cấp tiên phong cách mạng vì họ đại biểu cho phương

thức sản xuất tiên tiến, gắn liền với những thành tựu khoa học và công nghệ hiện đại. Đó
là giai cấp đuợc trang bị bởi một lý luận khoa học , cách mạng và luôn luôn đi đầu trong


mọi phong trào cách mạng theo mục tiêu xóa bỏ xã hội cũ lạc hậu, xây dựng xã hội mới
tiến bộ, nhờ đó có thể tập hợp được đông đảo các giai cấp, tầng lớp khác vào phong trào
cách mạng.
Thứ hai, giai cấp công nhân là giai cấp có tinh thần cách mạng triệt để nhất thời
đại ngày nay.
Trong cuộc cách mạng tư sản, giai cấp tư sản chỉ có tinh thần cách mạng trong
thời kỳ đấu tranh chống chế độ phong kiến, còn khi giai cấp này đã giành được chính
quyền thì họ quay trở lại bóc lột giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, những giai cấp đã
từng kề vai sát cánh với giai cấp này trong cuộc cách mạng dân chủ tư sản. Khác với giai
cấp tư sản, giai cấp công nhân bị giai cấp tư sản bóc lột, có lợi ích cơ bản đối lập trực tiếp
với lợi ích của giai cấp tư sản. Điều kiện sống, điều kiện lao động trong chế độ tư bản chủ
nghĩa đã chỉ cho họ thấy: họ chỉ có thể được giải phóng bằng giải phóng toàn xã hội khỏi
chế độ tư bản chủ nghĩa. Trong Tuyên ngôn của Đảng cộng sản, C.Mác và Ph.Ăngghen
đã chỉ rõ: "Trong tất cả các giai cấp hiện đang đối lập với giai cấp tư sản thì chỉ có giai
cấp vô sản là giai cấp thật sự cách mạng...”
Trong khi đó, các tầng lớp trung đẳng là những tiểu công nghiệp, tiểu thương, thợ
thủ công và nông dân, tất cả đều đấu tranh chống giai cấp tư sản để cứu lấy sự sống còn
của họ với tính cách là những tầng lớp trung đẳng. Cho nên họ không cách mạng mà bảo
thủ".
Như vậy chỉ có giai cấp công nhân mới có tinh thần cách mạng triệt để nhất,
hướng tới xây dựng xã hội công bằng và tiến bộ.
Thứ ba, giai cấp công nhân là giai cấp có ý thức tổ chức kỷ luật cao.
Giai cấp công nhân lao động chính là những người lao động trong nền sản xuất đại
công nghiệp với hệ thống sản xuất mang tính chất dây chuyền và nhịp độ làm việc khẩn
trương buộc giai cấp này phải tuân thủ nghiêm ngặt kỷ luật lao động; cùng với cuộc sống
đô thị tập trung đã tạo nên tính tổ chức, kỷ luật chặt chẽ cho giai cấp công nhân.



Tính tổ chức và kỷ luật cao của giai cấp này được tăng cường khi nó phát triển
thành một lực lượng chính trị lớn mạnh, có tổ chức: được sự giác ngộ bởi một lý luận
khoa học – CN Mác_Lenin, và tổ chức ra được chính đảng có nó - đảng cộng sản. Giai
cấp công nhân không có ý thức tổ chức kỷ luật cao thì không thể giành được thắng lợi
trong cuộc đấu tranh chống lại giai cấp tư sản và xây dựng chế độ xã hội mới.
Thứ tư, giai cấp công nhân có bản chất quốc tế.
Chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng, giai cấp tư sản là một lực lượng quốc tế.Giai cấp
tư sản không chỉ bóc lột giai cấp công nhân ở chính nước họ mà còn bóc lột giai cấp công
nhân ở các nước thuộc địa.Ngày nay, với sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất,
sản xuất mang tính toàn cầu hóa. Tư bản của nước này có thể đầu tư sang nước khác là
một xu hướng khách quan. Nhiều sản phẩm không phải do một nước sản xuất ra mà là kết
quả lao động của nhiều quốc gia. Vì thế, phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân
không chỉ diễn ra đơn lẻ ở từng doanh nghiệp, ở mỗi quốc gia mà ngày càng phải có sự
gắn bó giữa phong trào công nhân các nước, có như vậy, phong trào công nhân mới có
thể giành được thắng lợi. V.I.Lẽnin chỉ rõ: "... không có sự ủng hộ của cách mạng quốc tế
thì thắng lợi của cách mạng vô sản là không thể có được", "Tư bản là một lực lượng quốc
tế. Muốn thắng nó, cần phải có sự liên minh quốc tế".
Như vậy có thể thấy rằng, giai cấp công nhân là lực lượng có sự liên kết rộng lớn
trên nhiều quốc gia, lãnh thổ nên giai cấp này có bản chất quốc tế.
III.

Vai trò của đảng cộng sản trong quá trình thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp
công nhân
Bên cạnh những nhân tố khách quan thì các nhân tố khách quan cũng là các nhân
tố không thể thiếu trong thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.Trong những
nhân tố chủ quan đó thì việc thành lập đảng cộng sản là một trong những nhân tố vô cùng
quan trọng. việc thành lập đảng cộng sản, một đảng trung thành với lợi ích của giai cấp
công nhân, của dân tộc, vững mạnh về tư tưởng, chính trị, tổ chức – đây chính là nhân tố

quyết định nhất đảm bảo cho giai cấp công nhân hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình.


1. Đầu tiên đó là tính tất yếu, quy luật hình thành và phát triển Đảng của giai cấp công

nhân:
Giai cấp công nhân do bị các chủ tư bản áp bức, bóc lột nên đã vùng lên, tự đấu
tranh đòi hỏi áp ứng những lợi ích kinh tế của giai cấp mình, bắt đầu từ các cuộc đấu
tranh tự phát, xuất phát từ các cuộc đình công đòi tăng lương, giảm giờ làm…và vì vậy
sức mạnh và hiệu quả đạt được từ các phong trào này thường hạn chế, các cuộc đấu tranh
của giai cấp công nhân giai đoạn này đa số diễn ra ở qui mô nhỏ, mang tính đơn độc và
cũng chưa thể trở thành giai cấp lãnh đạo quần chúng lao động bị áp bức bóc lột, lật đổ
giai cấp tư sản cải tạo xã hội.
Dần dần từ các cuộc đấu tranh nhỏ lẻ ấy đã hình thành nên yêu cầu phải có sự liên
kết, tổ chức chặt chẽ hơn của các phong trào nhằm tạo nên sức mạnh đấu tranh chống lại
giai cấp tư sản.Trước phong trào ngày càng lớn mạnh của giai cấp công nhân, như cầu
cần có lý luận riêng để làm cơ sở cho cuộc đấu tranh được đặt ra một cách cấp thiết. Bằng
việc tiếp thu lý luận khoa học và từ khi học thuyết của Mác – Anghen ra đời, các nhà lãnh
đạo của giai cấp công nhân đã đưa ra những lý luận đó vào thực tiễn, biến nó thành một
vũ khí lý luận sắc bén, làm cho phong trào đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân
đã chuyển từ tự phát sang tự giác và thật sự trở thành phong trào chính trị rộng lớn của
giai cấp công nhân trên toàn thế giới.
Sau khi học thuyết cách mạng của Mác – Anghen được Lênin đưa vào ứng dụng
thực tế và làm nên cuộc Cách mạng tháng Mười Nga thành công thì học thuyết cách
mạng của Mác đã trở thành Chủ nghĩa Mác. Kết hợp với những cơ sở lý luận mới được
Lê nin bổ sung thì Chủ nghĩa Mác lúc này đã trở thành một học thuyết cách mạng tiên
tiến với tên gọi là Chủ nghĩa Mác – Lênin.
Thông qua học thuyết Mác – Lênin giai cấp công nhân nhận thức được vị trí, vai
trò của mình trong xã hội, biết nguồn gốc tạo nên sức mạng và biết tạo nên sức mạnh đó
bằng sự đoàn kết, nhận rõ mục tiêu, con đường và những biện pháp giải phóng giai cấp

chính mình, giải phóng cả xã hội và giải phóng nhân loại.


Giai cấp công nhân đã ý thức được rằng để đấu tranh giành chính quyền và xây
dựng xã hội mới, họ không có vũ khí nào quan trọng hơn là tự mình tổ chức một chính
Đảng độc lập của mình để lãnh đạo giai cấp chống lại quyền lực liên hiệp của giai cấp tư
sản và chỉ khi có chính đảng của mình, giai cấp công nhân mới có thể hành động với tư
cách là một giai cấp được. Hình thức tổ chức cao nhất cao nhất của giai cấp công nhân
chính là Đảng Cộng sản.Lênin đã chỉ ra rằng Đảng cộng sản hình thành trên cơ sở kết
hợp giữa lý luận chủ nghĩa Mác – Lênin và phong trào công nhân. Ở các nước thuộc địa
và phụ thuộc, sự hình thành Đảng Cộng sản còn là sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác –
Lênin, phong trào công nhân và phong trào yêu nước, phong trào giải phóng dân tộc.
Thực tiễn cách mạng của giai cấp công nhân các nước, cho thấy rằng từ sau khi có
Đảng Cộng sản lãnh đạo, giai cấp công nhân và phong trào công nhân đã chuyển từ hình
thức đấu tranh tự phát sang tự giác trong mỗi hành động với tư cách một giai cấp tiên tiến
và thực sự cách mạng. Chỉ dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản, được trang bị lý luận
khoa học của chủ nghĩa Mác – Lênin gần với phong trào đấu tranh giai cấp công nhân thì
cuộc cách mạng của giai cấp công nhân mới có thể đi đến thành công cuối cùng là giành
lại chính quyền từ giai cấp tư sản.
2. Mối quan hệ giữa Đảng cộng sản và công nhân

Đảng cộng sản không những là tổ chức chính trị cao nhất, đại biểu tập trung cho
trí tuệ và lợi ích của toàn thể giai cấp công nhân mà còn đại biểu cho toàn thể nhân dân
lao động và dân tộc. Chỉ khi nào có một đảng chính trị vững vàng, kiên định và sáng suốt,
có đường lối chiến lược và sách lược đúng đắn, thể hiện lợi ích của toàn bộ giai cấp và
toàn bộ phong trào thì giai cấp công nhân mới có thể hoàn thành sứ mệnh lịch sử của
mình. Như vậy, Đảng là nhân tố có vai trò quyết định trong thực hiện và hoàn thành sứ
mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Vai trò đó thể hiện ở các mặt như: Đảng giác ngộ
giai cấp công nhân và nhân dân lao động bằng lý luận tiên phong của chủ nghĩa Mác –
Lênin và vận dụng lý luận ấy vào hoàn cảnh cụ thể của mỗi nước. Đảng đề ra cương lĩnh

chính trị, vạch ra cho giai cấp công nhân và nhân dân lao động con đường đấu tranh cách


mạng đúng đắn, tổ chức quần chúng đấu tranh từ thấp đến cao và giành chính quyền khi
giành được chính quyền. Đảng lãnh đạo chính quyền và toàn xã hội thực hiện đường lối
của Đảng đề ra để xây dựng xã hội mới.
Giữa Đảng và giai cấp công nhân có mối quan hệ hữu cơ không thể tách rời. Giai
cấp công nhân là cơ sở xã hội – giai cấp của Đảng là nguồn bổ sung nhân lực của Đảng.
Ngược lại, Đảng là chính đảng của giai cấp công nhân, hình thành trên quan điểm lập
trường của giai cấp công nhân, là đội tiên phong chiến đấu, là bộ tham mưu của giai cấp.
Những đảng viên của Đảng Cộng sản có thể không phải là công nhân nhưng phải là
người giác ngộ về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân và đứng trên lập trường của
giai cấp này.
Từ những lý luận trên có thể thấy vai trò quan trọng của Đảng trong việc lãnh đạo
tổ chức cho giai cấp công nhân thực hiện và hoàn thành sứ mệnh lịch sử, Đảng Cộng sản
phải luôn giữ vững lập trường giai cấp đồng thời phải thường xuyên tự đổi mới để vững
mạnh về tư tưởng, chính trị và tổ chức, không ngừng tu dưỡng, rèn luyện nâng cao ý chí
cách mạng, lập trường giai cấp, nâng cao toàn diện trình độ kiến thức, trình độ lý luận,
kịp thời tổng kết kinh nghiệm đề ra thực tiễn sâu sức nhằm đề ra đường lối chiến lược
sách lược đúng đắn, đồng thời phải xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong sạch, vững mạnh,
nâng cao hiệu quả và sức chiến đấu của Đảng.
IV.

Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam
Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời trong cuộc khai thác thuộc địa lần thứ I của
thực dân Pháp (1897 – 1914). Lớn mạnh về số lượng và chất lượng dân theo thời gian
cho đến khi có một sự kiện quyết định sự thay đổi về chất của giai cấp công nhân Việt
Nam, đó là sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam vào đầu năm 1930.
Giai cấp công nhân Việt Nam là sản phẩm trực tiếp của chính sách khai thác thuộc
địa của thực dân Pháp. Sinh ra và lớn lên ở một nước thuộc địa nửa phong kiến có truyền

thống yêu nước, giai cấp công nhân sớm trở thành giai cấp duy nhất được dân tộc giao
phó sứ mệnh lãnh đạo cách mạng Việt Nam từ sau các cuộc cách mạng theo khuynh


hướng tư sản thất bại. Hơn thế, sau khi giác ngộ CN Mác-Lenin, giai cấp công nhân có hệ
tư tưởng tiến bộ và thấy được sứ mệnh to lớn của mình, đây là giai cấp lãnh đạo cách
mạng giành độc lập dân tộc của Việt Nam đi đến thắng lợi và xây dựng đất nước vững
mạnh, tiến bộ trong thời kì mới.
Giai cấp công nhân Việt Nam thực sự mang một sứ mệnh lịch sử vô cùng to lớn.
Là lực lượng nòng cốt lãnh đạo cách mạng Việt Nam, bảo vệ quyền lợi của dân tộc, đặt
quyền lợi của dân tộc lên trên quyền lợi của giai cấp, luôn giữ vững bản chất cách mạng
và bản lĩnh chính trị của mình.
Hiện nay, nước ta đang trong thời kì quá độ đi lên CNXH, thời kì xây dựng chế độ
mới, điều đó không có nghĩa là giai cấp công nhân đã hết sứ mệnh lịch sử, trái lại sứ
mệnh lịch sử ấy lại càng quan trọng hơn. Ngày nay, trước những biến động phức tạp của
tình hình trong nước và thế giới, các thế lực thù địch luôn có âm mưu phá hoại CNXH ở
nước ta, trước tình hình đó, đòi hỏi giai cấp công nhân mà đội tiên phong là đảng cộng
sản phải thật sự sáng suốt, có những đường lối, chủ trương đúng đắn để đưa đất nước
vượt qua thử thách và xây dựng thành công XHCN. Cùng với sự phát triển của nền kinh
tế tri thức, giai cấp công nhân Việt Nam có sứ mệnh tiếp cận, tiếp thu và phát triển nền
kinh tế nước nhà, thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
theo định hướng XHCN.
Như vậy, giai cấp công nhân Việt Nam chính là cơ sở chính trị - xã hội vững chắc
của Đảng và Nhà nước.Sự lớn mạnh của giai cấp công nhân là một điều kiện tiên quyết
bảo đảm thành công của công cuộc xây dựng và đổi mới đất nước.
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập – Tự do –Hạnh phúc
Hà Nội, ngày 17 tháng 5 năm 2018



BIÊN BẢN HỌP NHÓM
Môn: Những nguyên lý cơ bản của Chủ nghĩa Mác-Lênin
NHÓM 5-K5C

Thời gian, địa điểm, thành phần tham gia :
Thời gian, địa điểm :
14h ngày 12 tháng 5 năm 2018 tại thư viện trường Đại học Kiểm sát Hà Nội.
Thành phần tham gia: có mặt 6/6 thành viên của nhóm.
Nội dung:
- Triển khai chủ đề thảo luận, thảo luận sơ bộ về chủ đề.
- Thống nhất dàn bài và ý tưởng trong nhóm.
- Phân công, giao nhiệm vụ cho từng thành viên.
- Thảo luận giải quyết những tồn đọng, tổng hợp và hoàn chỉnh bài tiểu luận.
3 Kết quả: hoàn thành chủ đề được giao.
4 Bảng phân công công việc:
1
a
b
2


×