Tải bản đầy đủ (.pdf) (96 trang)

Thanh hóa trong cuộc chống nguyên mông và chống chiêm thành (thế kỷ XIII –XIV)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.7 MB, 96 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

CAO THỊ DUNG

THANH HÓA TRONG CUỘC CHỐNG
NGUYÊN - MÔNG VÀ CHỐNG CHIÊM THÀNH
(THẾ KỶ XIII – XIV)

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ LỊCH SỬ VIỆT NAM

HÀ NỘI, 2018


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

CAO THỊ DUNG

THANH HÓA TRONG CUỘC CHỐNG
NGUYÊN - MÔNG VÀ CHỐNG CHIÊM THÀNH
(THẾ KỶ XIII – XIV)
Ngành: Lịch sử Việt Nam
Mã số: 8.22.90.13

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. NGUYỄN ĐỨC NHUỆ

HÀ NỘI, 2018



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự
hướng dẫn của PGS.TS Nguyễn Đức Nhuệ.
Các trích dẫn, minh họa trong luận văn là chính xác, có tính khoa học
và có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng.

Hà nội, ngày 20 tháng 8 năm 2018
Tác giả luận văn

Cao Thị Dung


LỜI CẢM ƠN
Hoàn thành luận văn này tác giả xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc
tới PGS.TS Nguyễn Đức Nhuệ - Người đã tận tình giúp đỡ tác giả trong suốt
quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Tác giả rất trân trọng và biết ơn sự giúp đỡ quý báu của các thầy, Cô
giáo khoa Lịch sử - Học viện khoa học xã hội đã giành cho tác giả trong quá
trình học tập và nghiên cứu.
Tác giả cũng xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới Ban lãnh đạo và
các đồng nghiệp của Trường THPT Thụy Hương - Hải Phòng đã tạo điều
kiện cho tác giả trong quá trình học tập.
Tác giả cũng xin chân thành cảm ơn Ban quản lý thư viện Viện sử,
thư viện tỉnh Thanh Hóa, Hội sử học Thanh Hóa, Ban quản lý các di tích lịch
sử Thanh Hóa đã nhiệt tình giúp đỡ tác giả trong quá trình sưu tầm tài liệu,
nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Cuối cùng, cho tác giả gửi lời cảm ơn tới gia đình, bạn bè, người thân
đã luôn ủng hộ, động viên tác giả trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu
luận văn.
Hà nội, ngày 20 tháng 8 năm 2018

Tác giả luận văn

Cao Thị Dung


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1. KHÁI QUÁT VỀ THANH HÓA THẾ KỶ XIII - XIV ............ 9
1.1. Khái quát vị trí địa lý và địa hình Thanh Hóa ........................................ 9
1.2. Diên cách hành chính Thanh Hóa thời Trần (Lộ, Trấn) ....................... 11
1.3. Đặc điểm dân cư Thanh Hóa ................................................................ 14
1.4. Truyền thống yêu nước và đấu tranh của nhân dân .............................. 15
Chương 2. THANH HÓA TRONG CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG
NGUYÊN - MÔNG THẾ KỶ XIII - XIV ................................................... 22
2.1. Tình hình Đại Việt cuối thế kỷ XII đến thế kỷ XIII ............................. 22
2.2. Sự lớn mạnh và âm mưu xâm lược Đại Việt của đế quốc Mông Cổ ......... 24
2.3. Khái quát cuộc kháng chiến chống Nguyên - Mông xâm lược của nhà
Trần thế kỷ XIII ........................................................................................... 26
2.4. Nhân dân Thanh Hóa kháng chiến chống Nguyên - Mông xâm lược ....... 37
Chương 3. THANH HÓA TRONG CUỘC CHIẾN CHỐNG CHIÊM
THÀNH THẾ KỶ XIII - XIV ...................................................................... 54
3.1. Sự suy thoái của nhà Trần và sự lớn mạnh của Chiêm Thành ở cuối thế
kỷ XIV ......................................................................................................... 54
3.2. Mối quan hệ giữa Đại Việt với Chiêm Thành thế kỷ XIII - XIV ......... 55
3.3. Các cuộc xung đột giữa Đại Việt với Chiêm Thành cuối thế kỷ XIV . 57
3.4. Cuộc kháng chiến chống Chiêm Thành của nhà Trần trên địa bàn
Thanh Hóa.................................................................................................... 60
KẾT LUẬN .................................................................................................... 70
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 73



DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

NCLS :

Nghiên cứu lịch sử

Nxb:

Nhà xuất bản

UBKHXH:

Ủy ban khoa học xã hội

UBND:

Ủy ban nhân dân

VHTT:

Văn hóa thông tin


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong suốt chặng đường dài phát triển của lịch sử dân tộc, đất nước ta
đã tiến hành hàng loạt các cuộc đấu tranh đầy gian nan vất vả để trường tồn
và phát triển. Thắng lợi của những cuộc đấu tranh đó đã khẳng định sức mạnh
đoàn kết của cả dân tộc và truyền thống yêu nước của nhân dân ta được lưu

truyền từ ngàn xưa – mỗi khi tổ quốc lâm nguy cả dân tộc lại chung sức đấu
tranh giành độc lập
Do điều kiện địa lý đặc thù, ngay từ thuở các vua Hùng dựng nước và
qua nhiều thế kỷ tiếp theo, nước ta luôn bị các vương triều phong kiến nước
ngoài, các thế lực thực dân - đế quốc nhòm ngó, đe dọa và xâm lược. Từ cuộc
kháng chiến chống quân xâm lược Tần thế kỷ thứ III (trước công nguyên) đến
nay, Việt Nam trải qua hơn 10 thế kỷ đấu tranh chống Bắc thuộc, tiếp đó là 2
cuộc kháng chiến chống Tống (thế kỷ X, XI), ba cuộc kháng chiến chống
Nguyên - Mông (thế kỷ XIII); 20 năm kháng chiến chống quân Minh (thế kỷ
XV), kháng chiến chống quân Mãn Thanh (cuối thế kỷ XVIII) và hơn 80 năm
chống thực dân Pháp, hơn 20 năm chống đế quốc Mĩ xâm lược (thế kỷ XIXXX). Trong các cuộc đấu tranh ấy bằng sức mạnh của cả dân tộc, tài năng trí
tuệ của người dân đất Việt chúng ta đã làm nên những thắng lợi vẻ vang buộc
kẻ thù xâm lược phải rút quân về nước.
Thế kỷ XIII - XIV, quốc gia Đại Việt tồn tại và phát triển dưới sự trị vì
của vương triều Trần. Trải qua các đời vua Trần, đất nước ta đã có bước phát
triển mạnh về mọi mặt kinh tế, chính trị, xã hội. Bên cạnh đó, nhà Trần cũng
phải đương đầu với họa xâm lăng của đế chế Mông Cổ với 3 lần đưa quân tấn
công xâm lược Đại Việt. Hơn thế nữa, cũng trong thời gian này nhà Trần
cũng phải đối mặt với cuộc tấn công của quân Chiêm Thành từ phía Nam đất
nước. Vua quan nhà Trần đã đã gồng mình cùng nhân dân cả nước chống các

1


thế lực xâm lược. Trong cuộc chiến chống xâm lược đó của nhà Trần đã có
đóng góp không nhỏ của quân dân Thanh Hóa.
Thanh Hóa là vùng đất có bề dày về lịch sử đấu tranh các mạng từ bao
đời. Lịch sử dân tộc đã chỉ ra rằng trong cuộc kháng chiến chống quân
Nguyên lần thứ 2 ( 1284 - 1285) Thanh Hóa vừa là hậu phương vừa là mặt
trận chính của cuộc kháng chiến. Mảnh đất anh hùng này không chỉ là chiến

trường ác liệt mà còn là trung tâm đầu não bảo vệ, che chở cho các vua Trần
thực hiện chiến lược “thanh dã” (vường không, nhà trống), rời Thăng Long
cùng quân dân các địa phương tổ chức kháng chiến chống quân xâm lược.
Nhận rõ vị trí địa lí quan trọng cũng như truyền thống đấu tranh anh
dũng của nhân dân Thanh Hóa, các vua Trần đã coi Thanh Hóa là điểm tựa
vững chắc trong phong trào đấu tranh giành độc lập. Trong kế sách chống
giặc bình Nguyên ở thế kỷ XIII, Thanh Hóa là kho lương, kho lính, nguồn dự
trữ hùng hậu khi tổ quốc lâm nguy. Trong thời khắc nguy nan nhất, vua Trần
Nhân Tông đã rất tự tin mà viết nên vần thơ hào sảng: Cối Kê cựu sự quân tu
ký; Hoan Ái do tồn thập vạn binh (Cối Kê chuyện cũ ngươi nên nhớ; Hoan Ái
còn đây chục vạn quân). Cũng từ Thanh Hóa kế sách giải phóng Thăng Long
đã được thực hiện trọn vẹn với những chiến thắng vang dội Hàm Tử, Chương
Dương, Tây Kết…
Trong thế kỷ XIII-XIV, có những thời điểm, quốc gia Đại Việt ở trong
một tình thế rất phức tạp, đặc biệt là vùng biên viễn phía Nam. Lợi dụng sự
suy yếu của triều Trần, nước Chiêm Thành hưng khởi và thường xuyên đem
quân cướp phá vùng Hoá Châu, tấn công ra Thanh Nghệ, vượt biển tấn công
ra Thăng Long. Từ giữa thập niên 50 (thế kỷ XIV) về sau, xung đột giữa Đại
Việt với Chiêm Thành lên đến đỉnh cao mang tính chất đối đầu trực tiếp. Một
lần nữa, Thanh Hoá lại trở thành điểm nóng của cuộc xung đột kéo dài gần ½
thế kỷ. Địa bàn Thanh Hóa là một trong những điểm thường xuyên bị quân

2


Chiêm Thành đánh phá. Nhiều cuộc đụng độ lớn giữa Chiêm Thành và Đại
Việt đã diễn ra và cuối cùng thì công cuộc bình Chiêm thắng lợi. Trong chiến
thắng chung ấy nhân dân Thanh Hóa đã đóng góp một phần công sức đáng kể.
Dõi theo tiến trình lịch sử dân tộc, có thể khẳng định Thanh Hóa có
nhiều đóng góp trong các cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm (từ buổi

đầu dựng nước đến thời cận hiện đại). Trong khuôn khổ của một luận văn Cao
học, tôi hy vọng việc tìm hiểu, nghiên cứu Thanh Hóa trong cuộc kháng chiến
chống Nguyên - Mông và chống Chiêm Thành (thế kỷ XIII – XIV) sẽ giúp tôi
có thêm những tri thức mới về lịch sử Thanh Hoá, từ đó, với tư cách là một
giáo viên dạy môn lịch sử sẽ trao truyền những kiến thức có được cũng như
niềm tự hào về lịch sử quê hương cho các thế hệ trẻ - chủ nhân của tương lai.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Cho đến nay, cuộc kháng chiến chống xâm lược Nguyên - Mông nói
chung và Thanh Hóa trong cuộc kháng chiến chống Nguyên - Mông và chống
Chiêm Thành ở thế kỷ XIII - XIV nói riêng đã được nghiên cứu trên các bình
diện khác nhau
Về cuộc kháng chiến chống xâm lược Nguyên- Mông có thể kể đến công
trình nghiên cứu Lịch sử Việt Nam và Tài liệu về cuộc kháng chiến của nhà
Trần đã ngăn chặn sự bành trướng của Mông Cổ xuống Đông Nam Á của
Đào Duy Anh; tác phẩm “Cuộc kháng chiến chống xâm lược Nguyên Mông”
của Hà Văn Tấn và Phạm Thị Tâm; “Việt Nam ba lần đánh quân Nguyên toàn
thắng” của Nguyễn Lương Bích. Các tác phẩm đã viết rất rõ về bối cảnh, diễn
biến và nguyên nhân thắng lợi của ba cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông của Đại Việt thế kỷ XIII, đồng thời các tác phẩm này cũng dành một số
trang viết về cuộc kháng chiến của nhân dân Champa. Cuộc kháng chiến
chống xâm lược Nguyên - Mông thế kỷ XIII còn được phản ánh qua nhiều bộ
thông sử, đó là các bộ giáo trình giảng dạy của khoa Lịch sử trường Đại học

3


Tổng hợp; Đại học Sư phạm; là cuốn thông sử Lịch sử Việt Nam do
UBKHXH xuất bản năm 1971; Lịch sử Việt Nam tập 2 do nhóm các nhà
nghiên cứu Viện Sử học biên soạn (xuất bản năm 2007, tái bản năm 2013 và
2016); các công trình nghiên cứu của Viện Lịch sử Quân sự, Bộ Quốc phòng
v.v… Ngoài ra, liên quan đến nội dung luận văn còn có nhiều bài viết đăng

trên các tạp chí chuyên ngành: Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, tạp chí Lịch sử
quân sự…
Về lịch sử Thanh Hóa trong cuộc kháng chiến chống ngoại xâm thế kỷ
XIII- XIV đã được nghiên cứu trong các công trình như: Lịch sử Thanh Hóa
của Ban nghiên cứu và biên soạn lịch sử Thanh Hóa; Địa chí Thanh Hóa tập 1
- Địa Lý và Lịch sử; Địa chí Hậu Lộc của Nxb KHXH: Các công trình đã
giành nhiều chương viết về cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm của nhân
dân Thanh Hóa qua các triều đại phong kiến Việt Nam. Đặc biệt cuộc kháng
chiến chống quân Nguyên - Mông của triều Trần trên địa bàn Thanh Hóa và
nhân dân Thanh Hóa chống quân Nguyên Mông được viết rất cụ thể. Bài viết:
“Một tấm bia đời Trần mới được phát hiện” của Phùng Văn Cường và Phạm
Văn Kính, đăng trên Tạp chí Nghiên cứu lịch sử số 156 (Tháng 5 và 6 năm
1974) đã mô tả lại cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông của nhân dân
Thanh Hóa thông qua việc tìm hiểu một tấm bia từ đời Trần ở làng Trường
Tân, xã Quảng Hùng, huyện Quảng Xương, tỉnh Thanh Hóa. Công trình
nghiên cứu: “Vài nét về thái ấp Văn Trinh của Trần Nhật Duật” của Nguyễn
Thị Phương Chi, đăng trên Tạp chí Nghiên cứu lịch sử số 9 (340) năm 2004
đã làm nổi bật được vai trò hậu phương của Thanh Hóa trong cuộc kháng
chiến chống Nguyên - Mông xâm lược. Thanh Hóa là căn cứ địa vững chắc,
là nơi tập hợp lực lượng, nơi lui quân của triều Trần trong cuộc kháng chiến.
Về cuộc kháng chiến chống quân Chiêm Thành xâm lấn thế kỷ XIII XIV cũng có nhiều bài viết đề cập đến như:“Quan hệ giữa Đại Việt với Chăm

4


Pa thời Trần (thế kỷ XIII - XIV)” của Nguyễn Thị Phương Chi, đăng trên tạp
chí nghiên cứu Đông Nam Á. Bài viết đã tóm tắt gắn gọn về các cuộc xung
đột giữa Đại Việt và Chiêm Thành qua các năm từ nửa cuối thế kỷ XIII đến
thế kỷ XIV. Bài viết: “Hồ Quý Ly với vấn đề Chiêm Thành” của Nguyễn Đức
Nhuệ cũng đã lột tả được những quan hệ căng thẳng giữa Đại Việt với Chiêm

Thành ở thế kỷ XIII - XIV (Tạp chí NCLS, 1992).
Về cuộc kháng chiến chống Chiêm Thành trên địa bàn Thanh Hóa có bài
viết:“Tìm hiểu những trận đánh quân Chiêm Thành và quân Minh của Hồ Quý
Ly ở Thanh Hóa” của Hà Mạnh Khoa (Tạp chí NCLS, 1992), bài biết đã mô tả
lại trận đánh của triều Trần chống quân Chiêm ở Thanh Hóa. Ngoài ra còn có
nhiều bài viết khác đăng trên các Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử (NCLS)…
Như vậy, Cuộc kháng chiến chống xâm lược của nhân ta thế kỷ XIII XIV nói chung và của Thanh Hóa trong cuộc kháng chiến này nói riêng đã
được nhiều thế hệ các học giả quan tâm nghiên cứu và có nhiều công trình có
giá trị. Do mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu khác nhau nên những công trình
trên mới chỉ đề cập đến một số khía cạnh của vấn đề. Với những vấn đề
nghiên cứu nêu ở trên và cũng để hoàn thành đề tài của mình, chúng tôi kế
thừa những thành tựu mà thế hệ người nghiên cứu đi trước đã đạt được và áp
dụng những phương pháp nghiên cứu, hướng tiếp cận đa chiều với hy vọng có
được kết quả tốt nhất và đạt được mục tiêu nghiên cứu đã nêu ra.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Đề tài là làm sáng rõ vai trò của Thanh Hóa trong cuộc kháng chiến chống
Nguyên - Mông và chống Chiêm Thành dưới thời Trần. Qua đó thấy được sức
mạnh đoàn kết của dân tộc trong công cuộc bảo vệ nền độc lập dân tộc.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

5


- Đề tài khái quát lại cuộc kháng chiến chống Nguyên – Mông và chống
Chiêm Thành của triều Trần và quân dân Thanh Hóa ở thế kỷ XIII – XIV.
- Làm sáng tỏ hai vai trò: Hậu phương và tiền tuyến của Thanh Hóa
trong cuộc kháng chiến chống xâm lược Nguyên - Mông và cuộc kháng chiến
chống quân Chiêm Thành dưới thời Trần.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu trực tiếp của đề tài này là nghiên cứu, tìm hiểu
về những đóng góp của quân và dân Thanh Hóa trong các cuộc kháng chiến
chống Nguyên Mông và chống Chiêm Thành, bảo vệ nền độc lập của quốc
gia Đại Việt trong thời Trần (thế kỷ XIII-XIV).
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Giới hạn về không gian: Địa bàn Thanh Hóa thời Trần (lộ, trấn)
- Giới hạn về thời gian: Giai đoạn vương triều Trần trị vì quốc gia Đại
Việt (1226-1400)
- Nội dung nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu các vấn đề chính sau:
Giới thiệu những nét khái quát về mặt địa lý, hành chính và dân cư
Thanh Hóa ở thế kỷ XIII – XIV.
Những nét chính về cuộc kháng chiến chống Nguyên – Mông và chống
Chiêm Thành của quân dân triều Trần.
Vai trò của Thanh Hóa trong sự nghiệp chống Nguyên bình Chiêm ở thế
kỷ XIII - XIV
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
- Để giải quyết những vấn đề do đề tài đặt ra, chúng tôi dựa vào chủ
nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử và học thuyết kinh tế chính trị. Ở đây chúng tôi sử dụng quan điểm sử học Mác xít nhằm đánh giá

6


một cách khách quan về vai trò của Thanh Hóa trong cuộc kháng chiến chống
các thế lực xâm lược ở thế kỷ XIII – XIV.
- Quan điểm sử học Mác xít cũng là kim chỉ nam để chúng tôi xử lý
nguồn tài liệu trên tinh thần khoa học và đảm bảo tính lịch sử.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Hai phương pháp được vận dụng chủ yếu và xuyên suốt trong đề tài là

phương pháp lịch sử và logic. Ngoài ra, trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi
còn sử dụng các phương pháp liên quan nhằm đạt được kết quả tốt nhất trong
nghiên cứu của mình như phương pháp điền dã, khảo cứu thực địa (ví như tìm
hiểu dấu vết thái ấp của Trần Nhật Duật ở Thanh Hoá, dấu vết các trận đánh
quân Nguyên ở Quang Lộc, Liên Lộc huyện Hậu Lộc; khảo sát một số dấu vết
về cuộc chiến đấu của quân dân nhà Trần trên sông Bố Vệ...).
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
- Ý nghĩa lý luận của luận văn: Luận văn lược sử lại quá trình đấu tranh
chống ngoại xâm của nhân dân Đại Việt dưới thời Trần, đồng thời làm rõ vai
trò của Thanh Hóa trong cuộc kháng chiến chống Nguyên - Mông và chống
Chiêm Thành dưới thời Trần (thế kỷ XIII – XIV).
- Ý nghĩa thực tiễn của luận văn: Luận văn là tài liệu tham khảo để nghiên
cứu về lịch sử đấu tranh của nhân dân Thanh Hóa. Từ những căn cứ khoa học,
luận văn nhằm thể hiện rõ vai trò hậu phương và tiền tuyến của Thanh Hóa
trong giai đoạn lịch sử thế kỷ XIII - XIV. Từ đó, luận văn có thể được sử
dụng làm tài liệu tham khảo trong việc tìm hiểu, nghiên cứu và giảng dạy về
lịch sử địa phương Thanh Hóa.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, danh mục tài liệu tham khảo thì
luận văn chia làm 3 chương:

7


Chương 1: Khái quát Thanh Hóa thế kỷ XIII - XIV
Chương 2: Thanh Hóa trong cuộc kháng chiến chống Nguyên - Mông
thế kỷ XIII - XIV
Chương 3: Thanh Hóa trong cuộc kháng chiến chống Chiêm Thành thế
kỷ XIII - XIV.


8


Chương 1
KHÁI QUÁT VỀ THANH HÓA THẾ KỶ XIII - XIV
1.1. Khái quát vị trí địa lý và địa hình Thanh Hóa
Thanh Hóa là một tỉnh nằm ở cực bắc của Trung Bộ, có cảnh quan rất
đa dạng và phong phú, là hình ảnh thu nhỏ của cảnh quan Việt Nam trải rộng
dài 200km trên lưu vực sông Mã có miền núi, trung du, đồng bằng và biển
đảo. Địa hình Thanh Hóa là đồi núi trập trùng hiểm trở ở phía tây vây quanh
những thung lũng hẹp và dài, những dòng sông lớn như sông Mã, sông Chu,
sông Yên với hàng chục chi lưu nhỏ lấy nước từ hàng trăm, hàng ngàn khe
suối trên vùng cao đổ về làm nên sự hung dữ của dòng chảy trong mùa mưa ,
nhưng hiền hòa về mùa khô. Vùng trung du trải dài với nhiều dải đồi núi chạy
theo hướng đông tây đã tạo nên sự chia cắt địa hình dữ dội. Đồng bằng cao
thấp bậc thang, ở nơi đồng chiêm trũng, lại có thêm nhiều đồi núi sót. Ngoài
khơi là các đảo đá như: đảo Mê, đảo Nẹ… nhấp nhô xen kẽ các trũng biển
sâu. Ven biển là vùng đồng bằng cát mặn bãi triều, nơi sinh sôi của các loài sú
vẹt và phù du. Trạng thái lồi lõm, đứt nối của địa hình Thanh Hóa là một hình
ảnh cổ xưa còn sót lại của lãnh thổ miền Bắc Việt Nam hình thành cách ngày
nay hàng triệu năm.
Xác định vị trí địa chính trị quan trọng có tính chiến lược của tỉnh Thanh
Hóa, Nguyễn Trãi ở thế kỷ XV đã coi miền đất Thanh Hóa là “phên dậu thứ
hai phía nam” đất nước. Sách Đại Nam nhất thống chí biên soạn dưới triều
Nguyễn đã viết: “Thanh Hóa đông liền biển lớn, tây cắp rừng dài, Khe Lãnh
Thủy chặn ở phía nam, núi Tam Điệp ngăn về phía bắc, sông lớn thì có
Lương Mã và Ngọc Giáp, núi sông quanh bọc, cao thấp lẫn xen. Hội Trào và
Y Bích là khóa then mặt biển, Lôi Dương và Vĩnh Lộc là xung yếu đường
trên”. Các triều đại phong kiến trước đây còn xác định Thanh Hóa là “một


9


trấn quan trọng, nơi xung yếu”. Hơn nữa đây còn là vùng đất thiêng nơi sinh
ra nhiều bậc vương tướng, văn nho.
Với vị trí địa lý cộng thêm tài lực về con người đó trong lịch sử, Thanh
Hóa đã từng là chỗ dựa vững chắc cho ông cha ta đánh giặc phương Bắc và là
một điểm hậu cứ để mở cõi về phương Nam. Trong suốt chiều dài đấu tranh
giữ nước của dân tộc, vùng đất Thanh Hóa luôn được coi là vùng đất “phên
dậu”, là cứ điểm quan trọng của cả nước. Có thể chứng minh cụ thể đó là:
Năm 980, khi Lê Hoàn lên ngôi hoàng đế, ông đã chọn vùng đất Thanh Hóa
để thực thi những chính sách phát triển kinh tế, kết hợp với quốc phòng, như
là đào các hệ thống sông ngòi chằng chịt nhằm mở mang giao thông đường
thủy, phục vụ ý đồ chiến lược quân sự trong việc bảo vệ biên giới phía nam,
trong đó có cả tác dụng phục vụ sản xuất kinh tế nông nghiệp, chuẩn bị một
hậu phương lớn về nhân tài vật lực cho công cuộc chống Tống, bình Chiêm
giữ vững nền độc lập dân tộc vào những thập kỷ cuối thế kỷ X. Từ năm 1009
- 1225, thời kỳ tồn tại của vương triều Lý; sau khi Lý Công Uẩn lên ngôi
hoàng đế, dời đô từ Hoa Lư (Ninh Bình) ra Đại La (Thăng Long), Châu Ái,
Hoan Châu trở thành miền đất xa trung tâm chính trị của đất nước và là đất
“Trại” sau đó là một phủ của quốc gia Đại Việt. Các vua nhà Lý đặc biệt quan
tâm đến vùng đất Thanh Hóa, coi đây là vùng đất “phên dậu” và đẩy mặt công
cuộc xây dựng trên quy mô lớn về mọi mặt. Nhà Lý đã cử các đại thần như
Lý Thường Kiệt, Chu Công, Phạm Tín, Đỗ Nguyên Thiện, Lương Cải, Dương
Chưởng “coi giữ” miền đất quan trọng này. Đặc biệt dưới đời vua Lý Thái
Tổ, Lý Thái Tông, Thanh Hóa trở thành hậu phương an toàn cho những lần
dừng chân trước khi hành binh về phương Nam.Thời kỳ trị vì của vương triều
Trần (1226 - 1400) tính chất “Trại” và “phên dậu” của Thanh Hóa lại một lần
nữa lại khẳng định. Nhờ vào vị trí địa lý thuận lợi và những con người tài
giỏi, yêu nước của vùng đất Thanh Hóa đã giúp triều Trần làm nên những

10


chiến công hiển hách trong lịch sử dân tộc - Ba lần đại phá quân Nguyên
Mông xâm lược.
Từ những cứ liệu cụ thể được minh họa trên đây cho thấy rõ vị trí chiến
lược của vùng đất Thanh Hóa cũng như vùng phên dậu phía Nam Đại Việt có
tầm quan trọng hết sức đặc biệt cho sự hưng vong của đất nước.
1.2. Diên cách hành chính Thanh Hóa thời Trần (Lộ, Trấn)
Năm 1226, Vương triều Trần thay Vương triều Lý, mở đầu bằng Trần
Cảnh tức Trần Thái Tông.
Năm 1242, vua Trần Thái Tông đổi 24 lộ thời Lý thành 12 lộ và đặt các
chức quan cai quản từ lộ đến xã.
Cuối thời Lý đầu thời Trần Thanh Hóa là Phủ, năm nguyên Phong thứ 6
đời Trần Thái Tông (1256) đổi thành Trại, năm Bảo Phù thứ 3 (1275) đời
Trần Thánh Tông lại gọi là Phủ. Cuối Trần (không rõ năm) đổi là lộ rồi trấn.
Năm 1397, trấn Thanh Hóa đổi thành trấn Thanh Đô.
Vùng đất Thanh Hóa từ cuối thế kỷ XII đến cuối thế kỷ XIV gồm có 7
huyện, 3 châu (mỗi châu có 4 huyện).
Trong đó, 7 huyện là:
Huyện Cổ Đằng, với trung tâm là đất Kẻ Đừng - Phú Khê. Niên hiệu
Hưng Long (1293 - 1314) nhà Trần đặt làm huyện Cổ Đằng, nay thuộc huyện
Hoằng Hóa.
Huyện Cổ Hoằng, ngày nay là một phần đất huyện Hoằng Hóa.
Huyện Đông Sơn: Trước kia gọi là Đông Dương hoặc Đông Cương. Đến
thời Trần gọi là huyện Đông Sơn. Nay thuộc huyện Đông Sơn.

11



Huyện Cổ Lôi, ngày nay là huyện Thọ Xuân và một phần đất huyện
Thường Xuân.
Huyện Vĩnh Ninh, thuộc vào địa phận huyện Vĩnh Lộc ngày nay nằm ở
phía tả ngạn sông Mã.
Huyện Yên Định nay là huyện Thiệu Yên, nằm ở hữu ngạn sông Mã.
Huyện Lương Giang, nằm cả hai bên bờ sông chu. Trước năm 1980 là
huyện Thiệu Hóa, sau đó một số xã ở tả ngạn sông Chu nhập vào Yên Định
thành huyện Thiệu Yên; một số xã ở hữu ngạn sông Chu nhập vào huyện
Đông Sơn ngày nay.
Ba châu gồm:
Châu Ái gồm 4 huyện: Hà Trung, Thống Bình, Tống Giang, Chi Nga.
- Huyện Hà Trung: Ngày nay là thị xã Bỉm Sơn và huyện Hà Trung.
- Huyện Thống Bình, thuộc huyện Hậu Lộc ngày nay.
- Huyện Tống Giang, là địa phận thuộc một số xã phía tây Nga Sơn, thị
xã Bỉm Sơn và một số xã phía đông Bắc Hà Trung.
- Huyện Chi Nga: Phần đất hiện nay thuộc huyện Nga Sơn.
Châu Cửu Chân gồm 4 huyện: Cổ Chiến, Kết Thuế, Duyên Giác, Nông
Cống.
- Huyện Cổ Chiến: Nằm ở phía đông Nam tỉnh Thanh Hóa, nay là phần
đất huyện Tĩnh Gia.
- Huyện Kết Thuế: Bao gồm phần đất phía Bắc Tĩnh Gia, phía Nam
Quảng Xương ngày nay.
- Huyện Duyên Giác: thuộc một số xã phía Bắc Quảng Xương đến khu
vực Bố Vệ ngày nay.
12


- Huyện Nông Cống: Là phần đất phía Tây Nam Thanh Hóa gồm cả Như
Xuân ngày nay.
Châu Thanh Hóa gồm 4 huyện: Nga Lạc, Tế Giang, Yên Lạc, Lỗi Giang.

- Huyện Nga Lạc: Địa phận huyện Ngọc Lặc ngày nay, là một phần đất
Thọ Xuân ở tả ngạn sông Chu.
- Huyện Tế Giang: Vùng đất phía tây Thạch Thành ngày nay.
- Huyện Yên Lạc: Phần đất của huyện Cẩm Thủy, Bá Thước ngày nay.
- Huyện Lỗi Giang: Tương đương với huyện Cẩm Thủy, Bá Thước ngày
nay .[ 3, tr.117 – 119].
Ở Thanh Hóa nhà Trần đặt các chức An phủ, Trấn phủ, hai viên chánh
phó để cai trị. Năm 1243, Vua Trần cử Trần Thủ Độ đi kiểm tra sổ đinh và
ông được cử làm tri Thanh hóa phủ sự: “Phong Trần Thủ Độ làm Thống quốc
Thái sư tri Thanh Hóa phủ sự” [25, tr.12]. và 1238 “duyệt sổ đinh Thanh
Hóa” [25, tr.15].
Nhà Trần rất quan tâm đến việc tổ chức xây dựng chính quyền cấp cơ sở.
Theo chế độ quản lý chung của nhà nước, các xã, sách ở Thanh Hóa đều có
chức tiểu tư xã, đại tư xã thuộc ngạch quan chức của triều đình quản giữ cùng
với xã sử, xã chính, xã giám, gọi là xã quan [25, tr.16]. Hiệu lực của các tổ
chức quản lý đó chặt chẽ và có tác dụng ở Thanh Hóa. Bia 興 福 寺 (Bia
chùa Hưng Phúc) ở hương Yên Duyên (nay thuộc xã Quảng Hùng huyện
Quảng Xương) dựng và khắc năm Khai Thái thứ 13 (1324) nói rõ việc Đại
toát Lê Mạnh người đứng đầu hương Yên Duyên vào đời Trần đã tổ chức và
xây dựng làng xã góp công trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên
Mông lần thứ 2 (1285).

13


Thời Trần, cương vực các huyện, xã của Thanh Hóa đã rõ ràng, bộ máy
chính quyền từ phủ hoặc trấn đến giáp hương, xã được kiện toàn và tổ chức
chặt chẽ.
1.3. Đặc điểm dân cư Thanh Hóa
Thanh Hóa là một tỉnh có dân số lớn thứ ba của Việt Nam, đồng thời

cũng là tỉnh có nhiều đơn vị hành chính nhất trong cả nước (với 27 đơn vị
hành chính cấp huyện và tương đương).
Lịch sử hình thành và phát triển của Thanh Hóa gắn liền với quá trình
cộng cư của người Việt với người Mường và các dân tộc khác, chủ yếu có 7
dân tộc là: Kinh, Mường, Thái, Thổ, Dao, Mông, Khơ Mú. Trong đó, người
Kinh chiếm phần lớn dân số của tỉnh và có địa bàn phân bố rộng khắp. Các
dân tộc khác có dân số và địa bàn sống thu hẹp hơn.
Trong lịch sử, quá trình di dân giữa các vùng miền là một quy luật
khách quan và diễn ra thường xuyên. Có sự nhập cư thì cũng có sự chuyển cư.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến sự chuyển cư, có thể là các thầy đồ đi dạy học,
có người đi buôn bán, làm ăn xa không trở về quê cũ và cũng có thể vì lí do
chính trị mà phải bỏ quê quán ra đi. Trong tình hình tư liệu hiện nay việc xác
định quá trình người Thanh Hóa chuyển cư đến các địa phương khác thời Lý Trần là rất khó khăn. Theo gia phả họ Bùi ở Thịnh Liệt (dòng Bùi Xương
Trạch, Bùi Huy Bích...) cho biết dòng họ này gốc từ Cát Xuyên (Hoằng Hoá),
chuyển ra ở Thịnh Liệt vào thời cuối Trần; sau khi định cư ở xã Định Công
một đời mới dời về Thịnh Liệt. Dòng họ này từ thời Lê đã nổi danh nhiều
người đỗ đạt (Tiến sĩ Bùi Xương Trạch -1478; Bảng nhãn Bùi Vĩnh -1532;
Tiến sĩ Bùi Bỉnh Quân - 1619; Hoàng giáp Bùi Huy Bích -1769) v.v.
Dựa vào các tài liệu lịch sử và các di tích khảo cổ học cho thấy địa bàn
Thanh Hóa là nơi có cư dân sinh sống từ rất sớm. Cùng với thời gian, địa bàn
tụ cư ngày càng được mở rộng.
14


Ở khu vực đồng bằng, đặc biệt là quanh khu vực đồng bằng sông Mã, từ
xa xưa, dân cư Thanh Hóa đã có hướng phát triển ra nhiều phía. Từ rất sớm, ở
vùng đồng bằng Thanh Hóa mà trung tâm là ngã ba sông Mã, sông Chu đã
xuất hiện những tụ điểm dân cư thực sự đông đúc. Đó là các địa điểm: Thiệu
Dương, Đông Sơn, Hoằng Lý, Hoằng Quỳ…Các di chỉ khảo cổ học từ thời
Tiền sử, Sơ sử đã khẳng định quá trình tu cư sớm trên những địa bàn này.

Vùng trung du miền núi Thanh Hóa là nơi sinh sống chủ yếu của đồng
bào Mường, họ sống tập trung thành các làng bản, nằm dưới chân những dãy
núi cao.
Khu vực ven biển Thanh Hóa, diện cư trú của cư dân ngày càng được
mở rộng với những “làng cổ”. Có thể nói, cư dân Thanh Hóa từ rất sớm đã có
mặt trên khắp các miền của tỉnh.
Dân cư vùng này chủ yếu sống bằng nghề nông trồng lúa nước, sống
quần cư theo hình thức xóm, làng. Luôn đoàn kết trong trị thủy, thủy lợi,
trong đấu tranh chống giặc giữ nước.
Người dân Thanh Hóa luôn cần cù, sáng tạo trong lao động sản xuất và
có tinh thần tương thân, tương ái, giúp đỡ nhau trong đời sống, nhất là khi
thiên tai, dịch bệnh. Trải qua những giai đoạn khốc liệt của các cuộc chiến
tranh, người dân nơi đây vẫn bất khuất, kiên trung vượt qua mọi khó khăn để
vươn lên. Chính trên mảnh đất này người dân Thanh Hóa đoàn kết làm nên
nhiều chiến công hiển hách, góp phần vào những trang sử hào hùng của dân
tộc.
1.4. Truyền thống yêu nước và đấu tranh của nhân dân
Những tư liệu lịch sử còn lại ngày nay cho ta thấy, ngay từ buổi đầu
hình thành cũng như trong quá trình xây dựng và phát triển vùng đất Thanh
Hóa, biết bao thế hệ người dân nơi đây đã đoàn kết đấu tranh không ngừng để
củng cố nền độc lập dân tộc cũng như chống lại chế độ cai trị hà khắc. Trong

15


các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ tổ quốc những người dân nơi
đây đã không quản ngại gian khổ, hi sinh, góp phần xứng đáng vào những
chiến công hiển hách của dân tộc.
Thanh Hóa vốn là một vùng đất có vị trí và vai trò đặc biệt trong lịch
sử Việt Nam. Về địa lý, đây là vùng đất trung gian nối miền Bắc với miền

Nam của đất nước. Về văn hóa, Thanh Hóa là nơi chứng kiến sự giao lưu
tiếp xúc văn hóa vùng miền Bắc - Nam, là vùng đất tiếp nối những ảnh
hưởng chính trị từ kinh đô Thăng Long lan truyền vào những vùng đất phía
Nam của tổ quốc, và ngược lại. Ngoài ra, đây còn là đất “thang mộc” của
cả hai triều đại: Lê sơ - Lê Trung Hưng và triều Nguyễn trong lịch sử
Trung đại Việt Nam. Thanh Hóa luôn là vùng đất “căn bản”, vùng đất "dấy
nghiệp" của các vương triều ấy.
Thanh Hóa là quê hương của nhiều anh hùng dân tộc, là đất anh hùng và
đế vương với nhiều danh nhân tiêu biểu như: Bà Triệu, Lê Hoàn, Lê Lợi, Hồ
Quý Ly, các chúa Trịnh, chúa Nguyễn, vua Nguyễn…. Hơn thế nữa, trong
suốt lịch sử nghìn năm bắc thuộc, Thanh Hóa luôn là căn cứ tử thủ của nghĩa
quân trong phong trào chống xâm lược. Năm 938, Ngô Quyền từ đất Ái Châu
diệt quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng. Thời chống giặc phương Bắc, cư
dân vùng đất này đã góp phần không nhỏ vào sự nghiệp chống ngoại xâm,
không để cho giặc phương bắc xâm lược, đồng hóa, mà ngược lại đã Việt hóa
những kẻ di dân hàng loạt xuống phương Nam.
Từ thời Lý-Trần, sự nghiệp của một số nhân vật người Thanh Hóa được
sử sách ghi chép lại như Đào Cam Mộc - một công thần có công lớn trong
việc phò trợ Lý Công Uẩn lên ngôi năm 1009; Lê Phụng Hiểu với công lao
dẹp “loạn Tam vương”, phò Lý Phật Mã lên ngôi (tức Lý Thái Tông) năm
1028; một số người thi đỗ làm quan triều Trần v.v...

16


Từ thời Trần, nhiều văn thân người gốc Thanh Hóa đã có đóng góp cho
sự phát triển thịnh trị của vương triều. Về khoa bảng có Lê Văn Hưu, Lưu
Diễm, Lưu Miễn; về chính trị có Lê Quát, trung thần tiết nghĩa có Lê Giốc, võ
tướng nổi tiếng trung liệt có Trần Khát Chân...
Lê Văn Hưu: người Phủ Lý, Đông Sơn (nay là xã Thiệu Trung, huyện

Thiệu Hoá), đỗ Bảng nhãn khoa thi năm 1247 khi mới 18 tuổi, được cử làm
Giám tu Quốc sử viện, được vua Trần giao biên soạn bộ Đại Việt sử ký từ
thời Triệu Đà đến hết thời Lý và hoàn thành năm 1272. Ông được tôn vinh là
nhà Sử học đầu tiên của nước ta.
Lưu Miễn: Quê xã Hoằng Quang (Thành phố Thanh Hoá), đỗ Đệ nhất
giáp đệ nhất danh (Trạng nguyên) khoa thi Thái học sinh năm Kỷ Hợi (1239),
đời vua Trần Thái Tông
Lưu Miễn làm quan tại triều, tước Minh Tự, năm 1250, ông được thuyên
bổ làm An phủ sứ lộ Thanh Hoa; năm 1255, vua Trần Thái Tông sai ông bồi
đắp đê sông các xứ ở Thanh Hoa (Thanh Hoá).
Do có nhiều công lao và kinh nghiệm trị thuỷ, tài năng tổ chức, đốc thúc
công việc khai khẩn điền địa và phòng hộ đê điều (các đê sông Mã, sông
Lường đều do ông chỉ huy), Lưu Miễn tiếp tục được giao chức Hà đê chánh
sứ phủ Thiên Trường (Nam Định) và chỉ huy đắp đê quai vạc ở Thông Lựa
(huyện Vũ Thư tỉnh Thái Bình), đê Phú Vật (huyện Hưng Nhân). Ông chính
là người phụ trách việc đào sông Thái Sư tiêu úng cho hai huyện Hưng Nhân
và Duyên Hà theo lệnh của Thái sư Trần Thủ Độ.
Lê Quát: Ông tên tự là Bá Đạt, hiệu là Mai Phong, người làng Phủ Lý,
huyện Đông Sơn (Thanh Hóa), học trò Chu An. Lúc bé ông du học ở Kinh sư,
thi đỗ, được Minh Tông biết đến. Trải làm đến Bộc xạ, sau trải thăng Thượng
thư hữu bật, Nhập nội hành khiển.

17


Lê Giốc: được sử gia Phan Huy Chú xếp vào hàng “bề tôi tiết nghĩa”.
Ông là con Lê Quát, người làng Phủ Lý, huyện Đông Sơn (Thanh Hóa), thời
Trần Nghệ Tông làm Tuyên phủ sứ Nghệ An. Bấy giờ Nghệ Tông đi đánh
Chiêm Thành không về, Ngự Câu vương là Trần Húc hàng giặc. Năm 1377,
người Chiêm Thành cho quân đưa Húc đến Nghệ An tiếm xưng vua. Nhiều

người theo mệnh lệnh của giặc, chỉ trừ có ông. Ông bị giặc bắt, giặc bảo lạy,
ông cả giận nói : "Tao là trọng thần nước lớn, há lại lạy mày là quân tiểu man
à ?". Chửi không ngớt miệng, bị giặc giết. Việc đó đến triều đình, truy tặng là
Mạ Tặc trung vũ hầu.
Trần Khát Chân: quê ở Hà Lương (Vĩnh Lộc). Cuối thời Trần, quốc gia
Đại Việt thường xuyên bị Chiêm Thành tấn công. Năm 1389, chúa Chiêm là
Chế Bồng Nga đem quân đổ bộ vào địa bàn trấn Thanh Hoá để từ đó tiến ra
Thăng Long. Quân nhà Trần không chống đỡ nổi, vua Trần phải cử Đô tướng
Trần Khát Chân chỉ huy quân Long Tiệp đến đóng ở sông Hải Triều cự nhau
với giặc. Trong trận này, quân Trần đã bắn chết chúa Chiêm là Chế Bồng
Nga, đánh tan quân Chiêm và quan trọng là dập tắt ý chí xâm lược Đại Việt
của Chiêm Thành. Trần Khát Chân được phong Nội vệ Thượng tướng quân,
tước Vũ Tiết Quan nội hầu và được ban Thái ấp ở Hoàng Mai (nay thuộc
quận Hoàng Mai, Hà Nội).
Đặc biệt trong thời kì chống giặc giữ nước của triều Trần, nhân dân
Thanh Hóa cũng góp một phần sức lực cho thắng lợi chung của cuộc kháng
chiến chống Nguyên Mông. Một hình ảnh tiêu biểu cho tinh thần yêu nước
của nhân dân Thanh Hóa đó là: Sau hội nghị Diên Hồng (1284) thầy giáo Chu
Văn Lương, dạy học ở làng Nam Ngạn hăng hái đứng ra chiêu mộ dân binh,
góp sức cùng quân dân Đại Việt đánh thắng giặc Nguyên - Mông, Kênh Bố
Vệ còn ghi dấu cuộc chiến đấu quyết liệt do Trần Nhật Duật chỉ huy chống

18


quân Nguyên Mông xâm lược ở Thế Kỷ XIII, ca khúc khải hoàn, trăm họ
được bình an, đất nước “ngàn thuở vững âu vàng”
Thời Trần là một thời đại anh hùng, thời đại của những chiến công vang
dội: Ba lần đánh thắng quân xâm lược Nguyên - Mông (1258, 1285 và 1288).
Góp phần làm chói sáng thêm hào khí Đông A là chiến công của những người

con đất Thanh Hoá, đó là Đỗ Hành bắt sống Ô Mã Nhi và Tích Lệ Cơ vương
tại Bạch Đằng, góp phần quan trọng nâng cao thêm tầm vóc oanh liệt, lẫy
lừng chiến công của nhân dân Đại Việt đánh bại quân xâm lược MôngNguyên. Đó còn là tướng quân Hoàng Phụng Thế, chỉ huy quân Thánh Dực
chiến đấu với quân Chiêm Thành nhiều trận trên sông Ngu (năm 1382). Ông
cũng chính là người tham gia dẹp tan cuộc nổi dậy của Phạm Sư Ôn (ở vùng
Quốc Oai) năm 1389...
Trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn (1418 - 1428) chống quân Minh xâm
lược, trên địa bàn Thanh Hóa có những gia đình theo Lê Lợi từ những ngày
đầu. Năm 1789, Quang Trung - Nguyễn Huệ đem đại quân ra bắc đại phá 29
vạn quân Mãn Thanh xâm lược. Trên địa bàn Thanh Hóa có rất nhiều người
tham gia nghĩa quân, đứng dưới lá cờ Quang Trung - Nguyễn Huệ…
Vùng đất Thanh Hóa từ buổi ban đầu do cư dân bản địa khai phá, giữ
gìn, bảo vệ, phát triển, cư dân bốn phương về hội nhập, họ là những người có
tính cương trực, cởi mở, giàu lòng nhân ái, yêu nước, hi sinh vì nghĩa lớn.
Đồng thời là chỗ dựa và là cái nôi sinh thành, nuôi dưỡng những lớp người
cách mạng. Truyền thống yêu nước, đấu tranh của dân tộc Việt Nam được
hun đúc, thấm sâu vào các tầng lớp nhân dân địa phương để khi thời cơ đến
thổi bùng ngọn lửa đấu tranh giành lại độc lập cho tổ quốc, giành lại quyền
sống của con người, quyền mưu cầu hạnh phúc cho nhân dân.
Ách áp bức bóc lột của bọn phong kiến, thực dân càng nặng nề bao nhiêu
thì càng khơi dậy lòng căm thù sâu sắc và ý chí quật cường của nhân dân

19


×