Tải bản đầy đủ (.docx) (8 trang)

SƠ LƯỢC TIỂU SỬ NGUYỄN DU VÀ TÁC PHẨM TRUYỆN KIỀU

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (818.36 KB, 8 trang )

SƠ LƯỢC TIỂU SỬ NGUYỄN DU VÀ TÁC PHẨM
TRUYỆN KIỀU
Trình bày: Tổ 4

1.Châu Văn Hoài Lâm
2.Trần Thị Diệp
3.Phạm Thị Kim Phụng
4.Lê Thị Ánh Ngọc
5.Nguyễn Thị Kim Thanh
6.Hồ Thị Tài Thông
7. Lê Nhân Từ Thôn
8. Lê Văn Thắng
9.Cái Pháp


Truyện Kiều - Nguyễn Du (1766-1820)
I. TÁC GIẢ
Nguyễn Du (阮阮) (13-1-1766 – 16-9-1820), tự Tố Như (阮阮), hiệu Thanh Hiên(阮
阮), biệt hiệu Hồng Sơn lạp hộ (阮阮阮阮), là một nhà thơ nổi tiếng thời Lê mạt, Nguyễn sơ
ở Việt Nam. Ông là một nhà thơ lớn của Việt Nam, được người Việt kính trọng gọi ông là
"Đại thi hào dân tộc". Năm 1965, Nguyễn Du được Hội đồng hòa bình thế giới công nhận
là danh nhân văn hóa thế giới và ra quyết định kỷ niệm trọng thể nhân dịp 200 năm năm
sinh của ông. Nhà lưu niệm Nguyễn Du được xây dựng ở làng quê ông xã Tiên Điền.
Trường viết văn để đào tạo những cây bút mới mang tên ông.
Nguyễn Du quê gốc làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh, nhưng sinh
và trải qua thời niên thiếu ở Thăng Long. Cha là Nguyễn Nghiễm đã làm tới chức tể
tướng triều Lê. Mẹ là bà Trần Thị Tần, vợ thứ ba của Nguyễn Nghiễm, người xứ Kinh
Bắc (Nguyễn Nghiễm có tám vợ, hai mươi mốt người con). Mười tuổi, Nguyễn Du mồ
côi cha, mười ba tuổi mồ côi mẹ. Vì thế tiếng là con quan đại thần nhưng ngay từ thời thơ
ấu Nguyễn Du đã phải sống vất vả thiếu thốn. Do tình hình đất nước biến động, chính
quyền Lê Trình sụp đổ, Tây Sơn quét sạch giặc Thanh, họ Nguyễn Tiên Điền cũng sa sút


tiêu điều: "Hồng Linh vô gia, huynh đệ tán". Nguyễn Du trải qua 10 năm gió bụi. Năm
1802, ra làm quan với triều Nguyễn được thăng thưởng rất nhanh, từ tri huyện lên đến
tham tri (1815), có được cử làm chánh sứ sang Tàu (1813). Ông mất vì bệnh thời khí
(dịch tả), không trối trăng gì, đúng vào lúc sắp sửa làm chánh sứ sang nhà Thanh lần thứ
hai.
Tổ tiên của Nguyễn Du có nguồn gốc từ làng Canh Hoạch, huyện Thanh Oai, trấn
Sơn Nam (nay thuộc Hà Nội), sau di cư vào Hà Tĩnh, có truyền thống khoa hoạn nổi danh
ở làng Tiên Điền về thời Lê mạt. Trước ông, sáu bảy thế hệ viễn tổ đã từng đỗ đạt làm
quan.
Qua các tác phẩm của Nguyễn Du, nét nổi bật chính là sự đề cao xúc cảm. Nguyễn
Du là nhà thơ có học vấn uyên bác, nắm vững nhiều thể thơ của Trung Quốc, như: ngũ
ngôn cổ thi, ngũ ngôn luật , thất ngôn luật, ca, hành...nên ở thể thơ nào, ông cũng có bài
xuất sắc. Đặc biệt hơn cả là tài làm thơ bằng chữ Nôm của ông, mà bằng chứng là ở


Truyện Kiều, đã cho thấy thể thơ lục bát “có khả năng chuyển tải nội dung tự sự và trữ
tình to lớn của thể loại truyện thơ.
Chính trên cơ sở này mà trong thơ Nguyễn Du luôn luôn vang lên âm thanh, bừng
lên màu sắc của sự sống, hằn lên những đường nét sắc cạnh của một bức tranh hiện thực
đa dạng. Và giữa những âm thanh, màu sắc, đường nét vô cùng phong phú đó, Nguyễn
Du hiện ra: vừa dạt dào yêu thương, vừa bừng bừng căm giận. Đây là chỗ đặc sắc và
cũng là chỗ tích cực nhất trong nghệ thuật của Nguyễn Du. Từ thơ chữ Hán đến truyện
Kiều, nó tạo nên cái sức sống kỳ lạ ở hầu hết tác phẩm của ông
Sáng tác của Nguyễn Du được lưu hành ngay từ lúc ông còn sống. Tương truyền
Truyện Kiều được Phạm Quý Thích nhuận sắc và cho in ở phố Hàng Gai - Hà Nội bây
giờ. Nguyễn Du mất chỉ vài chục năm vua Tự Đức từng có sớ cho quan tỉnh Nghệ An thu
thập tất cả di cảo của Nguyễn Du để đưa về kinh. Từ đó đến nay, việc sưu tập, nghiên cứu
phổ biến di sản văn học của Nguyễn Du vẫn còn tiếp tục, và cũng chưa biết khi nào mới
kết thúc. Còn có những ý kiến hồ nghi tác giả một số bài thơ chữ Hán vẫn được coi là của
Nguyễn Du. Việc xác định thời điểm ra đời của các tác phẩm chưa được giải quyết, kể cả

thời điểm Nguyễn Du viết Truyện Kiều. Mặc dù đã mất nhiều công sức, nhưng các ý kiến
trong giới nghiên cứu vẫn còn rất khác nhau.
Những tác phẩm bằng chữ Hán của Nguyễn Du rất nhiều, nhưng mãi đến năm
1959 mới được ba nhà nho là: Bùi Kỷ, Phan Võ và Nguyễn Khắc Hanh sưu tầm, phiên
dịch, chú thích và giới thiệu tập: Thơ chữ Hán Nguyễn Du (NXB Văn hóa, 1959) chỉ gồm
có 102 bài. Đến năm 1965 NXB Văn học đã ra Thơ chữ Hán Nguyễn Du tập mới do Lê
Thước và Trương Chính sưu tầm, chú thích, phiên dịch, sắp xếp, gồm 249 bài như sau:
-Thanh Hiên thi tập (Tập thơ của Thanh Hiên) gồm 78 bài, viết chủ yếu trong
những năm tháng trước khi làm quan nhà Nguyễn.
-Nam trung tạp ngâm (Ngâm nga lặt vặt lúc ở miền Nam) gồm 40 bài, viết khi
làm quan ở Huế, Quảng Bình và những địa phương ở phía nam Hà Tĩnh.
-Bắc hành tạp lục (Ghi chép linh tinh trong chuyến đi sang phương Bắc) gồm 131
bài thơ, viết trong chuyến đi sứ sang Trung Quốc.
Cả ba tập này, nay mới góp được 249 bài nhờ công sức sưu tầm của nhiều người.
Lời thơ điêu luyện, nhiều bài phản ánh hiện thực bất công trong xã hội, biểu lộ tình


thương xót đối với các nạn nhân, phê phán các nhân vật chính diện và phản diện trong
lịch sử Trung Quốc, một cách sắc sảo. Một số bài như Phản chiêu hồn, Thái Bình mại ca
giả, Long thành cầm giả ca đã thể hiện rõ rệt lòng ưu ái trước vận mệnh con người.
Những bài viết về Thăng Long, về quê hương và cảnh vật ở những nơi Nguyễn Du đã đi
qua đều toát lên nỗi ngậm ngùi dâu bể. Nguyễn Du cũng có gắn bó với cuộc sống nông
thôn, khi với phường săn thì tự xưng là Hồng Sơn liệp hộ, khi với phường chài thì tự
xưng là Nam Hải điếu đồ. Ông có những bài ca dân ca như Thác lời con trai phường nón,
bài văn tế như Văn tế sống hai cô gái Trường Lưu, chứng tỏ ông đã tham gia sinh hoạt
văn nghệ dân gian với các phường vải, phường thủ công ở Nghệ Tĩnh.
Những tác phẩm bằng chữ Nôm của Nguyễn Du gồm có:
- Đoạn trường tân thanh (Tiếng kêu mới về nỗi đau đứt ruột. Tên phổ biến là
Truyện Kiều), được viết bằng chữ Nôm, gồm 3.254 câu thơ theo thể lục bát. Nội dung
của truyện dựa theo tác phẩm Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân, Trung

Quốc. Nội dung chính của truyện xoay quanh quãng đời lưu lạc sau khi bán mình chuộc
cha của Thuý Kiều, nhân vật chính trong truyện, một cô gái có tài sắc. Về thời điểm sáng
tác, Từ điển văn học (bộ mới) ghi: "Có thuyết cho rằng Nguyễn Du viết ra sau khi ông đi
sứ Trung Quốc (1814-1820), có thuyết cho nói ông viết trước khi đi sứ, có thể vào
khoảng thời gian làm Cai bạ ở Quảng Bình (1804-1809). Thuyết sau được nhiều người
chấp nhận hơn" [9].
-Văn chiêu hồn (tức Văn tế thập loại chúng sinh, dịch nghĩa: Văn tế mười loại
chúng sinh), hiện chưa rõ thời điểm sáng tác. Trong văn bản do Đàm Quang Thiện hiệu
chú có dẫn lại ý của ông Trần Thanh Mại trên “Đông Dương tuần báo” năm 1939, thì
Nguyễn Du viết bài văn tế này sau một mùa dịch khủng khiếp làm hằng triệu người chết,
khắp non sông đất nước âm khí nặng nề, và ở khắp các chùa, người ta đều lập đàn giải
thoát để cầu siêu cho hàng triệu linh hồn. Ông Hoàng Xuân Hãn cho rằng có lẽ Nguyễn
Du viết Văn chiêu hồn trước cả Truyện Kiều, khi ông còn làm cai bạ ở Quảng Bình
(1802-1812). Tác phẩm được làm theo thể song thất lục bát, gồm 184 câu thơ chữ Nôm.
-Thác lời trai phường nón, 48 câu, được viết bằng thể lục bát. Nội dung là thay
lời anh con trai phường nón làm thơ tỏ tình với cô gái phường vải.
-Văn tế sống Trường Lưu nhị nữ, 98 câu, viết theo lối văn tế, để bày tỏ nỗi uất
hận vì mối tình với hai cô gái phường vải khác.


Tác phẩm tiêu biểu cho thiên tài Nguyễn Du là Đoạn trường tân thanh và Văn tế
thập loại chúng sinh, đều viết bằng quốc âm. Đoạn trường tân thanh được gọi phổ biến
là Truyện Kiều, là một truyện thơ lục bát. Cả hai tác phẩm đều xuất sắc, tràn trề tinh thần
nhân đạo chủ nghĩa, phản ánh sinh động xã hội bất công, cuộc đời dâu bể. Tác phẩm cũng
cho thấy một trình độ nghệ thuật bậc thầy.
II. TÁC PHẨM
Truyện Kiều (chữ Nôm: 阮阮), tên gốc là Đoạn trường tân thanh (chữ Hán: 阮阮阮阮),
là truyện thơ chữ Nôm theo thể lục bát của Nguyễn Du, dựa theo tiểu thuyết "Kim Vân
Kiều truyện" (阮阮阮阮) của Thanh Tâm Tài Nhân (阮阮阮阮), Trung Quốc.
Có thuyết nói Nguyễn Du viết Truyện Kiều sau khi đi sứ Trung Quốc (18141820). Lại có thuyết nói ông viết trước đi đi sứ, có thể vào khoảng thời gian làm Cai bạ ở

Quảng Bình (1804-1809). Thuyết sau được nhiều người chấp nhận hơn [2]. Ngay sau khi
ra đời, Truyện Kiều được nhiều nơi khắc in và lưu hành rộng rãi. Hai bản in cũ nhất hiện
còn là bản Liễu Văn Đường (1871) và bản Duy Minh Thị (1872), tức đều ở thời vua Tự
Đức.
Truyện Kiều đóng một vai trò quan trọng trong sinh hoạt văn hoá Việt Nam. Nhiều
nhân vật trong Truyện Kiều trở thành điển hình cho những mẫu người trong xã hội cũ,
mang những tính cách tiêu biểu Sở Khanh, Hoạn Thư, Từ Hải, và đều đi vào thành ngữ
Việt Nam. Khả năng khái quát của nhiều cảnh tình, ngôn ngữ, trong tác phẩm khiến cho
quần chúng tìm đến Truyện Kiều, như tìm một điều dự báo. Bói Kiều rất phổ biến trong
quần chúng ngày xưa. Ca nhạc dân gian có dạng Lẩy Kiều. Sân khấu dân gian có trò
Kiều. Hội họa có nhiều tranh Kiều. Thơ vịnh Kiều nhiều không kể xiết. Giai thoại xung
quanhi cũng rất phong phú. Tuồng Kiều, cải lương Kiều, phim Kiều cũng ra đời. Nhiều
câu, nhiều ngữ trong Truyện Kiều đã lẫn vào kho tàng ca dao, tục ngữ. Từ xưa đến nay,
Truyện Kiều đã là đầu đề cho nhiều công trình nghiên cứu, bình luận và những cuộc bút
chiến. Ngay khi Truyện Kiều được công bố (đầu thế kỷ XIX) ở nhiều trường học của các
nho sĩ, nhiều văn đàn, thi xã đã có trao đổi về nội dung và nghệ thuật của tác phẩm. Đầu
thế kỷ XX, cuộc tranh luận về Truyện Kiều càng sôi nổi, quan trọng nhất là cuộc phê
phán của các nhà chí sĩ Ngô Đức Kế, Huỳnh Thúc Kháng phản đối phong trào cổ xuý
Truyện Kiều do Phạm Quỳnh đề xướng (1924).
III. HÌNH ẢNH



THÚY KIỀU – THÚY VÂN

MÃ GIÁM SINH MUA KIỀU

KIỀU GẶP KIM TRỌNG

KIỀU Ở LẦU NGƯNG BÍCH



KIỀU GẶP THÚC SINH

KIỀU BÁO ÂN BÁO OÁN

KIỀU – HOẠN THƯ

KIỀU – TỪ HẢI



×