Tải bản đầy đủ (.pdf) (108 trang)

Tư tưởng thẩm mỹ của Nguyễn Du trong tác phẩm Truyện Kiều

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (843.35 KB, 108 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
*******


LÊ THỊ THÙY

TƢ TƢỞNG THẨM MỸ CỦA NGUYỄN DU
TRONG TÁC PHẨM TRUYỆN KIỀU



LUẬN VĂN THẠC SĨ
chuyên ngành: Triết học





HÀ NỘI - 2014
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
*******

LÊ THỊ THÙY


TƢ TƢỞNG THẨM MỸ CỦA NGUYỄN DU
TRONG TÁC PHẨM TRUYỆN KIỀU

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Triết học


Mã số: 60 22 03 01


Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thu Nghĩa




HÀ NỘI - 2014
LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận văn thạc sĩ này là kết quả nghiên cứu của tôi,
dưới sự hướng dẫn của TS. Nguyễn Thu Nghĩa. Luận văn có sự kế thừa các
công trình nghiên cứu của những người đi trước và có sự bổ sung những tư
liệu được cập nhật mới nhất.
Tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm về nội dung của đề tài.

Ngƣời cam đoan



Lê Thị Thùy
LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành luận văn này, em xin chân thành cảm ơn các thầy
giáo, cô giáo khoa Triết học, trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn
đã dạy dỗ tận tình, hết lòng giúp đỡ em thực hiện đề tài.
Đặc biệt, em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến TS. Nguyễn Thu
Nghĩa người đã trực tiếp hướng dẫn em trong suốt thời gian thực hiện luận
văn thạc sĩ. Sự chỉ bảo tận tình của cô đã tạo động lực và giúp đỡ em hoàn

thành tốt luận văn của mình.
Mặc dù đã cố gắng hết sức, nhưng do thời gian có hạn nên luận văn
không tránh khỏi những thiếu sót, em rất mong nhận được sự góp ý của các
thầy giáo, cô giáo để em có thể tiếp tục phát triển hướng nghiên cứu này.

Hà Nội, ngày 27 tháng 10 năm 2014
MỤC LỤC

MỞ ĐẦU 1
1. Lý do chọn đề tài 1
2. Tình hình nghiên cứu 4
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 8
4. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu 9
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 9
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn 9
7. Kết cấu 9
Chƣơng 1. NHỮNG ĐIỀU KIỆN, TIỀN ĐỀ HÌNH THÀNH TƢ
TƢỞNG THẨM MỸ CỦA NGUYỄN DU TRONG TÁC PHẨM
TRUYỆN KIỀU 10
1.1. Một số vấn đề lý luận về tƣ tƣởng thẩm mỹ 10
1.2. Những yếu tố ảnh hƣởng đến tƣ tƣởng thẩm mỹ của
Nguyễn Du 17
1.2.1. Ảnh hưởng của Nho – Phật – Lão và tư tưởng thẩm mỹ Việt Nam
trước thế kỷ XIX đến Nguyễn Du 17
1.2.2. Hoàn cảnh lịch sử nước ta cuối thế kỷ XVIII - đầu thế kỷ XIX 28
1.3. Nguyễn Du và tác phẩm Truyện Kiều 34
1.3.1. Tác giả Nguyễn Du 34
1.3.2. Đôi nét về tác phẩm “Truyện Kiều” 38
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 41
Chƣơng 2. MỘT SỐ NỘI DUNG CƠ BẢN TRONG TƢ TƢỞNG

THẨM MỸ CỦA NGUYỄN DU ĐƢỢC THỂ HIỆN QUA TÁC PHẨM
“TRUYỆN KIỀU” 43
2.1. Quan niệm của Nguyễn Du về cái đẹp và cái xấu 44
2.1.1. Quan niệm của Nguyễn Du về cái đẹp 44
2.1.2. Quan niệm của Nguyễn Du về cái xấu 59
2.2. Quan niệm của Nguyễn Du về cái bi, cái hài, cái anh hùng 64
2.2.1. Quan niệm của Nguyễn Du về cái bi 64
2.2.2. Quan niệm của Nguyễn Du về cái hài 71
2.2.3. Quan niệm về cái anh hùng của Nguyễn Du 79
2.3. Những giá trị và hạn chế trong tƣ tƣởng thẩm mỹ của Nguyễn Du 82
2.3.1. Những giá trị và nguyên nhân 82
2.3.2. Những hạn chế và nguyên nhân 86
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 92
KẾT LUẬN 94
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 98



1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trăm năm trong cõi người ta,
Chữ Tài, chữ Mệnh khéo là ghét nhau
Trải qua một cuộc bể dâu,
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng (1-4)
(*)

Khi con người đã trải qua những biến cố, những thăng trầm của cuộc
sống, đọc lại những vần thơ ấy của Nguyễn Du, chắc ai cũng sẽ có những
suy tư sâu sắc hơn về cuộc đời, sẽ thấy mình trưởng thành hơn và rút ra

được nhiều bài học cho bản thân. Nguyễn Du không phải là một nhà triết
học nhưng những gì mà ông đã viết thì lại hết sức triết lý, điều đó nhắc cho
chúng ta nhớ tới câu nói “bẩm sinh mỗi người là một nhà triết học”.
Nguyễn Du đã để lại cho hậu thế nhiều tác phẩm vô cùng giá trị, trong
đó có Truyện Kiều. Đây là kiệt tác văn học của Việt Nam, là tác phẩm hội
tụ đầy đủ tinh hoa của ngôn ngữ Việt. Từ nền văn chương dân tộc, Truyện
Kiều đã gia nhập vào thế giới văn chương siêu việt nhất của nhân loại. Đại
thi hào Nguyễn Du đã cùng với Khuất Nguyên (340 – 278 TCN), Đỗ Phủ
(712 – 770), Lý Bạch (701 – 762) của Trung Hoa; William Shakespeare
(1564 – 1616), Charles Dickens của Anh; Aleksandr Sergeyevich Pushkin
(1799 – 1837), Lev Nikolayevich Tolstoy (1828 – 1910), Fyodor
Mikhailovich Dostoevsky (1821 – 1881) của Nga; Dante Alighieri (1265-
1321) của Ý; Miguel de Cervantes y Saavedra (1547 – 1616) của Tây Ban
Nha; Victor Hugo (1802 – 1885), Honoré de Balzac (1799 - 1850) của
Pháp và Johann Wolfgang von Goethe (1749 – 1832) của Đức,… đi vào cõi
bất tử.
Truyện Kiều đã sánh vai cùng các kiệt tác của thế giới từ cổ đại Ai Cập,
cổ đại Trung Hoa đến Âu Mỹ hiện đại trong bộ Từ điển Các tác phẩm của
mọi thời đại và của mọi xứ sở xuất bản ở Paris năm 1953. Truyện Kiều


(*)
Những câu thơ trong tác phẩm “Truyện Kiều” của Nguyễn Du được tác giả luận văn lấy từ cuốn
Truyện Kiều do Hồng Đức biên soạn, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội, 2007. Trong dấu () là số thứ tự của
câu.

2
cũng bước vào vũ đài chính trị như là tiêu biểu cho nền văn hóa Việt Nam
và có ảnh hưởng sâu sắc đến mọi mặt của đời sống văn hóa xã hội nước ta.
Đó là di sản văn hóa quý giá của dân tộc. Kiệt tác này đã được nghiên cứu

trên nhiều bình diện như văn học, ngôn ngữ học, văn hóa học,… Suốt hơn
hai thế kỷ với hàng nghìn chuyên khảo nhưng đến nay, kiệt tác này vẫn ẩn
giấu nhiều bí ẩn và giá trị mà các thế hệ hôm nay và cả mai sau đều mong
muốn khám phá, tìm hiểu.
Trên bình diện mỹ học, cho đến nay chưa có một công trình nào đi sâu
vào các tư tưởng thẩm mỹ của Nguyễn Du một cách chuyên biệt. Tố Như
chưa khi nào đề cập trực tiếp đến các phạm trù của mỹ học như cái đẹp, cái
xấu, cái bi, cái hài… nhưng những gì mà ông đã viết, đã cống hiến cho đời
thì lại chất chứa nhiều tư tưởng thẩm mỹ. Các phạm trù mỹ học đều ẩn
chứa trong thơ Nguyễn Du, mà cụ thể hơn là trong Truyện Kiều. Ở Nguyễn
Du, đâu đó đều tồn tại cái đẹp, cái bi, cái anh hùng,… Rất bình dị nhưng
cũng rất cao quý! Quả thực dưới góc độ thẩm mỹ, Truyện Kiều chưa được
soi rọi sắc nét. Chính vì vậy, đây là hướng tiếp cận mới và cũng có nhiều
chiều cạnh khi đặt ra vấn đề.
Việt Nam là quốc gia thuộc hệ hình văn hóa phương Đông. Muốn tìm
hiểu Truyện Kiều dưới góc độ thẩm mỹ ta không thể hoàn toàn vận dụng
những nguyên lý thẩm mỹ của phương Tây (phương pháp mỹ học mácxít)
để nghiên cứu mà chúng ta phải đặt Truyện Kiều trong hệ quy chiếu của
văn hóa thẩm mỹ phương Đông để làm rõ vấn đề. Mặt khác, quan niệm
thẩm mỹ của người phương Đông cũng còn có nhiều đánh giá khác nhau.
Điều này đặt ra những khó khăn nhất định khi tìm hiểu tư tưởng thẩm mỹ
trong Truyện Kiều. Nhất là khi lối tư duy của người phương Đông không
trực tiếp đi thẳng vào vấn đề mà thông qua các hình tượng nghệ thuật, lý
tưởng đã được hiện thực hóa… để bộc lộ tư tưởng. Lối tư duy ấy thâm
trầm, kín đáo, sâu sắc nhưng cũng rất bản lĩnh và mãnh liệt.
Một khía cạnh khác cũng cần lưu ý là mỗi một dân tộc đều có những
giá trị thẩm mỹ của riêng dân tộc đó. Dù ở trong hệ quy chiếu nào thì tư

3
tưởng thẩm mỹ từng dân tộc cũng có những đặc trưng riêng. Điều ấy, càng

nhấn mạnh rằng, dân tộc Việt Nam cũng có hệ thống tư tưởng thẩm mỹ của
riêng mình, nó được kết tinh trong lịch sử dân tộc ở những danh nhân văn
hóa như Nguyễn Du. Vì vậy, tìm hiểu tư tưởng thẩm mỹ của những con
người ấy, những nền văn hóa ấy là điều hết sức cần thiết.
Trong tình hình thực tiễn hiện nay, Đảng ta đã có những chủ trương
đúng đắn, phù hợp với tình hình cụ thể của dân tộc, đặc biệt là những chủ
trương về xây dựng và phát triển văn hóa, con người. Văn kiện Hội nghị lần
thứ chín Ban Chấp hành Trung ương khóa XI khẳng định: “Văn hóa là nền
tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực phát triển bền vững đất nước.
Văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội” [5,48],
“Tăng cường giáo dục nghệ thuật, nâng cao năng lực cảm thụ thẩm mỹ cho
nhân dân, đặc biệt là thanh niên, thiếu niên. Phát huy vai trò của văn học –
nghệ thuật trong việc bồi dưỡng tâm hồn, tình cảm của con người. Bảo đảm
quyền hưởng thụ và sáng tạo văn hóa của mỗi người dân và của cộng đồng”
[5, 50]. “Phát triển sự nghiệp văn học, nghệ thuật tạo mọi điều kiện cho sự
tìm tòi, sáng tạo của đội ngũ văn nghệ sĩ để có nhiều tác phẩm có giá trị tư
tưởng và nghệ thuật, thấm nhuần tinh thần nhân văn, dân tộc, dân chủ, tiến
bộ, phản ảnh chân thật, sinh động, sâu sắc đời sống, lịch sử dân tộc và công
cuộc đổi mới đất nước. Đẩy mạnh sáng tác, quảng bá tác phẩm, công trình
về đề tài cách mạng, kháng chiến, lịch sử dân tộc, công cuộc đổi mới đất
nước. Từng bước xây dựng hệ thống lý luận văn học, nghệ thuật Việt Nam”
[5, 55]. Văn kiện cũng khẳng định, cần phải định hướng được tư tưởng và
thẩm mỹ cho nhân dân, nhất là cho thanh niên, thiếu niên. Do vậy, việc tìm
hiểu tư tưởng thẩm mỹ của Nguyễn Du trong tác phẩm Truyện Kiều là điều
hết sức cần thiết, phù hợp với chủ trương của Đảng trong việc phát triển văn
hóa và con người Việt Nam toàn diện, có nhân cách, lối sống tốt đẹp. Nhất là
trong hoàn cảnh hiện nay, trước mưu đồ độc chiếm Biển Đông của Trung
Quốc, chúng ta phải quyết tâm bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ bằng
con đường hòa bình, phù hợp với luật pháp quốc tế thì mặt trận văn hóa là


4
mặt trận đi đầu và là nền tảng vững chắc nhất trong công tác đấu tranh ngoại
giao của chúng ta mà không có gì thuyết phục hơn là sự chứng minh của lịch
sử, của quá khứ dân tộc.
Như vậy, với những lý do trên tôi đã quyết định chọn Tư tưởng thẩm mỹ
của Nguyễn Du trong tác phẩm “Truyện Kiều” làm đề tài luận văn của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Ở Việt Nam đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về lịch sử mỹ học
trong đó có phần lịch sử mỹ học Việt Nam. Có thể kể đến một số tác giả
tiêu biểu như Đỗ Văn Khang, Đỗ Huy, Vũ Khiêu, Vũ Minh Tâm, Lê Ngọc
Trà, Như Thiết…
Là một nhà nghiên cứu văn học, triết học, nghệ thuật học, mỹ học, tác
giả Đỗ Văn Khang đã cho xuất bản một số công trình mỹ học quan trọng.
Trong cuốn Lịch sử mỹ học, Nxb Văn hóa, Hà Nội, 1983, ông đã trình bày
và phân tích quá trình hình thành và phát triển của mỹ học thế giới nói
chung cũng như của mỹ học Việt Nam nói riêng.
Ngoài ra, có thể kể đến các tác phẩm khác của tác giả Đỗ Văn Khang
như: Mỹ học Mác – Lênin (viết cùng Đỗ Huy), Nxb Đại học và Trung học
chuyên nghiệp, 1985; Mỹ học đại cương, Nxb Giáo dục, 1996, Nxb Đại
học Quốc gia Hà Nội tái bản có bổ sung năm 2002 và 2008; Mỹ học Mác –
Lênin cao cấp, Nxb Đại học Sư phạm, 2004 và gần đây nhất là Giáo trình
Mỹ học Mác – Lênin, và chủ biên cuốn Giáo trình Lịch sử mỹ học, Nxb
Giáo dục Việt Nam ấn hành năm 2010.
Là nhà nghiên cứu mỹ học có thâm niên và uy tín của nước ta, ngoài
việc chủ biên và đồng chủ biên một số công trình, tác giả Đỗ Huy đã có
nhiều cống hiến cho ngành khoa học này bằng rất nhiều ấn phẩm có giá trị.
Đó là: Mỹ học với tư cách là một khoa học, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà
Nội, 1996; Mỹ học khoa học về các quan hệ thẩm mỹ, Nxb Khoa học xã
hội, Hà Nội, 2001; Đạo đức học, mỹ học và đời sống văn học nghệ thuật,
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2002,


5
Trong thời gian gần đây những công trình mỹ học thực sự mới ra đời
không nhiều, chủ yếu là tái bản, bổ sung những ấn phẩm đã xuất bản trước
đó. Giáo trình đại cương về những khuynh hướng cơ bản trong lịch sử mỹ
học của tác giả Đỗ Huy và Vũ Trọng Dung chủ biên, Nxb Chính trị Quốc gia
ấn hành năm 2011 đã được giới nghiên cứu mỹ học nói riêng, bạn đọc nói
chung quan tâm. Đây là một trong những công trình nghiên cứu thể hiện tâm
huyết của đội ngũ các nhà khoa học. Công trình này đã đi vào nghiên cứu
những nội dung cơ bản trong suốt tiến trình của lịch sử mỹ học phương Tây
từ thời cổ đại thuộc các khuynh hướng, trường phái khác nhau, đồng thời đề
cập đến mỹ học mácxít ở Việt Nam đương đại với nhiều vấn đề cấp bách mà
thực tiễn đang đặt ra cần giải quyết.
Ngoài ra, còn có rất nhiều công trình nghiên cứu khác về mỹ học. Tất
cả các công trình đó đều đã trình bày khá rõ những vấn đề cơ bản của mỹ
học. Nhưng chưa có một công trình nào nói về Tư tưởng thẩm mỹ của
Nguyễn Du trong tác phẩm “Truyện Kiều”.
Về kiệt tác Truyện Kiều, có rất nhiều những bài, sách,… nghiên cứu về
tác phẩm này nhưng Truyện Kiều chỉ mới được nghiên cứu riêng lẻ trên văn
bản học và trong văn học. Các mặt tâm lý, triết học, âm nhạc, hội họa, khoa
học tự nhiên và khoa học xã hội khác còn ít được quan tâm. Những nhà
nghiên cứu Truyện Kiều lại thường đơn độc, riêng lẻ, ít có những tập thể,
càng không nói đến có những trung tâm, những viện, những hội chuyên
ngành về Kiều học để thường xuyên tổ chức giao lưu, trao đổi, tranh luận, đề
xuất vấn đề và hướng nghiên cứu.
Việc tìm hiểu Truyện Kiều cũng đã vượt ra ngoài đất nước Việt Nam với
một đội ngũ các nhà Kiều học, nói hơn 20 thứ ngôn ngữ khác nhau của hơn
20 nước trên thế giới. Với vị thế quan trọng trong xã hội, Truyện Kiều cần
phải được nâng tầm nghiên cứu để phát lộ hết những giá trị của nó, đồng
thời phát huy tác dụng với đời sống văn hóa xã hội của dân tộc. Mục đích

cuối cùng là nhằm tôn vinh và bảo vệ di sản văn hóa quý giá vào bậc nhất
của dân tộc Việt Nam.

6
Dưới đây là một số những nghiên cứu tiêu biểu về Truyện Kiều:
Cuốn Từ điển Truyện Kiều của GS. Đào Duy Anh là những lý
giải cắt nghĩa thuật ngữ trong Truyện Kiều. Tác phẩm được xuất bản năm
1974 và tái bản năm 1986 (Phan Ngọc sửa chữa và bổ sung) đã giúp rất
nhiều cho bạn đọc trong việc tìm hiểu và nghiên cứu tác phẩm. Nay Nhà
xuất bản Giáo dục lại tiếp tục cho tái bản cuốn sách này để nó đến được với
nhiều độc giả hơn nữa. Nguyễn Du đã sử dụng một cách tài tình những yếu
tố dân gian của ngôn ngữ. Ông đã dân tộc hóa những đặc trưng văn học chữ
Hán, cái mà trước kia chỉ được sử dụng một cách dè dặt, vụng về trong văn
học chữ Nôm. Tố Như đã phát triển, hoàn chỉnh và thống nhất hai thành
phần quan trọng của ngôn ngữ văn học Việt Nam, yếu tố văn học dân gian
và yếu tố văn học chữ Hán để tạo nên một ngôn ngữ văn học mới, dồi dào,
uyển chuyển. Quyển từ điển này cố gắng phản ánh sự kiện quan trọng ấy
của lịch sử ngôn ngữ và lịch sử văn học Việt Nam. Tác giả đã thu thập tất
cả những từ đơn, từ kép, những thành ngữ và tổ từ, những hình tượng và
điển tích văn học, thỉnh thoảng có thêm những nhận xét về ngôn ngữ học,
về tu từ học và về văn học được Nguyễn Du dùng trong Truyện Kiều. Nó sẽ
giúp chúng ta hiểu được phần nào tình hình tiếng Việt thời điểm cuối thế
kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX và cấu tạo của tiếng Việt hiện đại, đồng thời giúp
chúng ta hiểu được những yếu tố nào do Nguyễn Du sáng tạo để làm giàu
cho ngôn ngữ dân tộc. Đây không phải là cuốn từ điển thông thường mà
chủ yếu là từ điển về một tác phẩm nhằm phục vụ sự nghiên cứu ngôn ngữ
và văn chương của Nguyễn Du, cho nên nó không giải thích như các từ
điển khác. Nó chỉ chú trọng nêu lên những nghĩa do Nguyễn Du dùng trong
tác phẩm, còn những nghĩa khác thì không nói đến.
Trong cuốn Truyện Kiều – Những lời bình do tác giả Hoài Phương biên

soạn và tuyển chọn, tập trung rất nhiều bài viết, nhiều ý kiến đóng góp, phê
bình của rất nhiều học giả trong nước và nước ngoài về Nguyễn Du và
Truyện Kiều. Chẳng hạn như bài Cảm hứng chủ đạo và nội dung xã hội của
Truyện Kiều do Nguyễn Ngọc viết; bài Quyền sống của con người trong

7
Truyện Kiều do Hoài Thanh viết. Bên cạnh đó còn có rất nhiều bài viết liên
quan đến các khía cạnh nội dung trong Truyện Kiều nhưng tư tưởng thẩm
mỹ trong tác phẩm này thì chưa được rõ ràng, đầy đủ.
Cũng là những bài bình luận, đánh giá về Truyện Kiều chúng ta không
thể không nhắc tới cuốn sách mới xuất bản năm 2008: Nghiên cứu Truyện
Kiều những năm đầu thế kỷ XXI. Trong cuốn sách này tập hợp rất nhiều
những bài viết bình luận về tác phẩm Truyện Kiều và những giá trị đặc sắc
của nó nhưng về giá trị thẩm mỹ trong Truyện Kiều thì chưa được phản ánh
một cách sâu sắc.
Bên cạnh những tác phẩm ấy, tác giả Lê Đình Kỵ đã dành cả một cuốn
sách 483 trang để phân tích, bình luận, đánh giá Truyện Kiều và khẳng định
những tư tưởng tiến bộ của Nguyễn Du trong Truyện Kiều và chủ nghĩa
hiện thực của Nguyễn Du, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1970. Nhìn
Truyện Kiều như một cấu trúc thẩm mỹ nằm trong toàn bộ thế giới nghệ
thuật của Nguyễn Du và là sản phẩm của một hoàn cảnh xã hội – lịch sử
nhất định, Lê Đình Kỵ đã trình bày và biện giải một cách thuyết phục cơ sở
tư tưởng – thẩm mỹ cũng như quan niệm về con người và nghệ thuật của
nhà thơ. Tác giả cuốn sách đã chỉ ra đâu là huyền thoại và đâu là thực chất
trong triết lý về Tài, Mệnh, Tâm của Truyện Kiều. Những trang hay nhất
của cuốn sách được dành để viết về thế giới nhân vật đa dạng và sống động
của Nguyễn Du, từ Thúy Kiều, Kim Trọng, Từ Hải cho đến Tú Bà, Hoạn
Thư, Mã Giám Sinh,… Với giọng văn uyển chuyển, nhuần nhị, những
trang sách này có thể xem là một dẫn chứng điển hình về sự tiếp nhận
Truyện Kiều từ chỗ đứng của một con người hiện đại có tầm văn hóa cao.

Và từ niềm xác tín trên con đường nghiên cứu của mình, Lê Đình Kỵ đã
bày tỏ một thái độ nồng nhiệt đối với cảm hứng nhân đạo chủ nghĩa của
Nguyễn Du trong việc nhìn nhận thế giới và con người. Ông viết: “Sức
mạnh của câu thơ Kiều không hẳn là ở chỗ khám phá ra những hình tượng
chưa ai hình dung được, những ý nghĩ chưa ai ngờ tới mà là ở cái tình
người, tình đời thăm thẳm mà Nguyễn Du đưa vào cái nhìn, cái nghe, cái

8
nghĩ của mình, vào một vầng trăng, một dòng suối, một ngàn dâu, một
tiếng chim, một ngọn lá. Đến đá dưới ngòi bút Nguyễn Du cũng mềm đi
trước những đau khổ của con người” [24,170]. Lê Đình Kỵ cũng đã khẳng
định: “Tôi cố gắng tìm hiểu những tư liệu lịch sử về thời đại và cuộc đời
Nguyễn Du; căn cứ vào chính văn bản và các hình tượng trong Truyện Kiều
để thuyết phục người đọc rằng Truyện Kiều vĩ đại không chỉ vì phương
pháp sáng tác mà còn phụ thuộc vào các yếu tố khác. Bởi vì thực ra những
gì mà Nguyễn Du thể hiện qua Truyện Kiều khiến chúng ta chỉ có thể hình
dung đến một chủ nghĩa hiện thực phôi thai, một chủ nghĩa hiện thực trong
giai đoạn sơ kỳ của nó mà thôi” [25, 11].
Ngoài ra, còn rất nhiều các bài nghiên cứu cũng như sách khác viết về
Truyện Kiều nhưng do điều kiện thời gian có hạn, tác giả chưa thể khai thác
được đầy đủ những tài liệu liên quan nên về lịch sử vấn đề còn nhiều hạn
chế. Nhìn chung, khi xem xét quá trình nghiên cứu về Truyện Kiều, tôi
nhận thấy từ xưa đến nay các nhà nghiên cứu đã chú ý đến việc lý giải tính
cách, phẩm chất, hành động, cách ứng xử của các nhân vật Truyện Kiều,
đến giá trị hiện thực, nhân đạo của tác phẩm này,… nhưng hầu như chưa có
ai xem xét Truyện Kiều dưới góc độ thẩm mỹ, mỹ học. Đây là một khó
khăn và cũng là sự thách thức lớn đối với tôi khi lựa chọn đề tài này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích của luận văn là tìm hiểu các tư tưởng của Nguyễn Du về cái đẹp,
cái xấu, cái bi, cái hài, cái anh hùng và những tình cảm thẩm mỹ trong thời đại

của ông, qua đó đóng góp vào việc tôn vinh nhà văn hóa lớn của dân tộc ta.
Để thực hiện mục đích trên, luận văn có những nhiệm vụ sau:
- Trình bày lịch sử Việt Nam giai đoạn Nguyễn Du sống – cuối thế kỷ
XVIII đầu thế kỷ XIX cũng như thân thế, sự nghiệp của ông.
- Nghiên cứu về Truyện Kiều và những tài liệu viết về tác phẩm này để
từ đó khái quát được tư tưởng thẩm mỹ của Nguyễn Du về cái đẹp, cái xấu,
cái bi, cái hài, cái anh hùng… được thể hiện như thế nào trong kiệt tác này
của ông.

9
4. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu
- Phạm vi: Tác phẩm Truyện Kiều.
- Đối tượng: Tư tưởng thẩm mỹ thể hiện trong tác phẩm Truyện Kiều
của Nguyễn Du.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận: Luận văn dựa trên quan điểm của chủ nghĩa duy vật
biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử, những nguyên lý mỹ học Marx –
Lenin, quan điểm của Đảng và Nhà nước về văn hóa nghệ thuật. Đồng thời
cũng nhìn nhận tư tưởng thẩm mỹ tác phẩm từ đặc trưng của tư tưởng
phương Đông để làm rõ, làm sâu sắc hơn vấn đề.
- Phương pháp nghiên cứu: Luận văn chủ yếu sử dụng phương pháp
logic – lịch sử và phân tích – tổng hợp, khái quát hóa. Ngoài ra còn dựa vào
các phương pháp khác như phương pháp so sánh, phương pháp đồng đại và
lịch đại, phương pháp quy nạp – diễn dịch,…
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
- Ý nghĩa lý luận: Luận văn góp phần khẳng định sự phong phú và
mãnh liệt của tâm hồn Việt Nam từ quá khứ tới hiện tại thông qua tư tưởng
thẩm mỹ của Nguyễn Du để từ đó nhận thức sâu sắc hơn về giá trị bền
vững của kiệt tác Truyện Kiều, cũng như ý thức hơn về bổn phận và trách
nhiệm của mình đối với những giá trị lâu bền của dân tộc.

- Ý nghĩa thực tiễn: Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo và giảng
dạy về tư tưởng thẩm mỹ trong tác phẩm Truyện Kiều của Nguyễn Du.
7. Kết cấu
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm có 02 chương và 06 tiết.


10
Chƣơng 1
NHỮNG ĐIỀU KIỆN, TIỀN ĐỀ HÌNH THÀNH TƢ TƢỞNG
THẨM MỸ CỦA NGUYỄN DU TRONG TÁC PHẨM TRUYỆN KIỀU

1.1. Một số vấn đề lý luận về tƣ tƣởng thẩm mỹ
Về khái niệm tư tưởng, theo Đại Từ điển Tiếng Việt, tư tưởng dt được
định nghĩa là 1. Sự suy nghĩ: tập trung tư tưởng làm việc. 2. Quan điểm và
ý nghĩ chung của con người đối với thế giới tự nhiên và xã hội: có tư tưởng
tiến bộ, đấu tranh tư tưởng [40, 1757].
Theo Giáo trình Lý luận văn học, Phạm Đăng Dư – Lê Lưu Oanh
khẳng định: “Người ta thường hiểu tư tưởng là một phán đoán khái quát về
hiện thực. Trong phán đoán đó bao giờ cũng chứa đựng một quan hệ có
tính quy luật giữa các hiện tượng, sự vật của đời sống. Chẳng hạn, nếu nói
“con người” thì tuy khái niệm đó cũng khái quát, nhưng chưa bao hàm tư
tưởng. Nhưng nếu nói “người với người là bạn”, “Người ta là hoa của đất”,
“Con người, hai tiếng tự hào”,… thì trước mắt ta đó là những tư tưởng. Tư
tưởng chẳng những bao giờ cũng nói lên một quan hệ có tính quy luật giữa
các sự vật, mà còn biểu thị một thái độ, một nhiệt tình khẳng định, phủ định
một ý muốn. Lênin nói: “Tư tưởng – đó là nhận thức và khát vọng (mong
muốn) của con người”. Tư tưởng đó dĩ nhiên gắn liền với một thế giới
quan, một lập trường giai cấp nhất định” [4,97]. Còn theo nhà nghiên cứu
Nguyễn Hùng Hậu thì: “Bản thân cuộc sống, bản thân hành động cũng

mang tính triết học, cũng nói lên tư tưởng” [9, 7].
Vậy, tư tưởng chính là sự suy nghĩ, quan điểm của con người đối với
hiện thực khách quan và xã hội nói chung. Những quan điểm, quan niệm,
luận điểm ấy được xây dựng trên một nền tảng triết học (thế giới quan và
phương pháp luận nhất quán, đại biểu cho ý chí, nguyện vọng của một giai
cấp, một dân tộc), được hình thành trên cơ sở thực tiễn, cải tạo hiện thực.
Tư tưởng chứa đựng các mục đích, suy tư giúp điều chỉnh mục tiêu, dự tính
và hành động của con người. Một tư tưởng có thể hiểu như một tầm nhìn
bao quát, như cách thức để xem xét sự vật, thường gặp trong một vài

11
trường phái triết học xã hội. Theo đó, hệ tư tưởng là toàn bộ những quan
niệm, quan điểm đã được hệ thống hóa thành lý luận, học thuyết về đạo
đức, chính trị, pháp quyền,… Nói cách khác, đó là hệ thống những quan
điểm, tư tưởng (chính trị, triết học, đạo đức, nghệ thuật, tôn giáo,…) được
hệ thống hóa, khái quát hóa thành lý luận, thành các học thuyết chính trị -
xã hội phản ánh và bảo vệ lợi ích của một giai cấp nhất định. Giai cấp nào
thống trị xã hội thì hệ tư tưởng của nó là hệ tư tưởng thống trị. Hệ tư tưởng
không hình thành một cách tự phát mà hình thành một cách tự giác do các
nhà tư tưởng của những giai cấp nhất định xây dựng nên.
Tư tưởng thuộc phạm trù ý thức, là sản phẩm chủ quan của con người.
Ý thức như thế nào phụ thuộc vào đối tượng phản ánh, môi trường xung
quanh và trình độ nhận thức, tâm sinh lý của mỗi người. Vốn dĩ nhận thức
của con người lại có lúc hợp lý, có lúc chưa hợp lý, vì vậy, tư tưởng cũng
sẽ có những tư tưởng phù hợp với thực tế, cũng có những tư tưởng phản
ánh sai lệch thực tế. Kéo theo đó, hệ tư tưởng cũng có hệ tư tưởng khoa
học, tức là khi hệ tư tưởng ấy là hệ tư tưởng của giai cấp cách mạng, có sứ
mệnh lật đổ xã hội cũ lỗi thời, xây dựng xã hội mới, tiến bộ hơn; đồng thời
cũng có hệ tư tưởng không khoa học, khi hệ tư tưởng đó gắn liền với các
giai cấp đã lỗi thời, phản động đang cố duy trì quyền lợi ích kỷ của mình.

Với tác phẩm nghệ thuật, tư tưởng đóng vai trò là khuynh hướng chủ
đạo, là yếu tố quan trọng nhất. Song nó không mang tính chất giáo điều, giáo
huấn khô khan qua những lời thuyết giáo về đạo đức của các nhân vật, nó
càng không phải là những công thức, khái niệm trừu tượng. “Nghệ thuật
không dung nạp những tư tưởng triết lý trừu tượng và nhất là những tư tưởng
duy lý. Nó chỉ dung nạp những tư tưởng thơ ca, không phải là một quy tắc,
mà là nhiệt tình sinh động, là cảm hứng chủ đạo,… Trong cảm hứng chủ
đạo, nhà thơ trở nên yêu tư tưởng như yêu cái đẹp,… Nhà thơ quan sát tư
tưởng không phải bằng lý trí, không phải bằng lý tính, không phải bằng cảm
giác và không phải chỉ bằng một năng lực nào đó của tâm hồn mà bằng tất cả
tồn tại tinh thần đầy đủ và hoàn chỉnh của mình” [3, 312].

12
Tư tưởng trong nghệ thuật bao giờ cũng được nghệ sĩ bộc lộ trong khi
tái hiện cuộc sống cụ thể. Nó không sống độc lập bên cạnh hình tượng,
không phải chỉ thể hiện dưới dạng những lời bình luận của tác giả, mà nó
nằm ngay trong cơ cấu hình tượng của tác phẩm và được toát ra từ chính cơ
cấu này. Đây chính là tư tưởng của cả K. Marx và F. Engels khi đánh giá
Aristophan và Honoré de Balzac. Tư tưởng tác phẩm bao giờ cũng phải tìm
cho được hình tượng của mình – có thể là nhân vật, cũng có thể là các hình
tượng khác. Do đó, trong nghệ thuật không có giới hạn nào ngăn cách tư
tưởng và hình thức. Chúng đều là một thể toàn vẹn và thống nhất.
Văn học là một loại hình nghệ thuật, một hình thái ý thức xã hội, một
hành động biểu hiện thế giới tinh thần của con người nên nó mang tính tư
tưởng một cách tất yếu. Tư tưởng tác phẩm văn học chính là sự đánh giá và
bộc lộ ý nghĩa của những gì đã được thể hiện, là cách giải quyết vấn đề đã
đặt ra trong tác phẩm theo một khuynh hướng nhất định, vốn có ở lập
trường, quan điểm của tác giả. Nói cách khác, tư tưởng tác phẩm chính là
sự bộc lộ, miêu tả tư tưởng tác giả bằng tác phẩm văn học. “Tư tưởng là
linh hồn của tác phẩm văn học” (Nhà văn V. G. Korolenco).

Trong Truyện Kiều, tư tưởng chủ đạo là sự đau xót cho số phận bạc
mệnh của con người và khẳng định chính xã hội phong kiến tàn bạo mới là
thủ phạm vùi dập cuộc đời con người. Nhưng xoay quanh tư tưởng chủ đạo
ấy có nhiều mạch tư tưởng, tương ứng với vấn đề ca ngợi vẻ đẹp của con
người, nhất là người phụ nữ. Đó là vấn đề số phận con người, khóc thương
cho bi kịch khát vọng tình yêu và công lý; tương ứng với tư tưởng chủ quan
của Nguyễn Du cho cuộc đời con người đau khổ là do số mệnh (“Chữ Tài,
chữ Mệnh khéo là ghét nhau!” (2), “Ngẫm thay muôn sự tại trời” (3241)) là
tư tưởng hiện thực của tác phẩm khẳng định rõ căn nguyên gây nên đau
khổ cho con người chính là xã hội phong kiến đầy rẫy những bất công.
Theo cách nói của nhà bác học Xôviết Bakhtin, có thể nói rằng, các nhân
vật chính của Nguyễn Du, của Balzac, Lỗ Tấn,… đều là “những nhà tư
tưởng”. Tố Như đã khắc họa tư tưởng của nhân vật là sự ý thức về địa vị, hoàn

13
cảnh và số phận của họ trong xã hội. Mỗi lời nói, ý nghĩ của nhân vật đều là
những ý kiến đồng tình hay phản đối trước hiện trạng của cuộc đời con người.
Con người trong văn học không giản đơn là người biết suy nghĩ, cảm xúc, mà
là người có ý kiến trước vận mệnh và thời cuộc. Mỗi nhân vật đều có một lập
trường, một quan điểm đánh giá, một khẩu hiệu sống giàu ý nghĩa.
Xét ở từng góc độ khác nhau, thì tư tưởng có những hình thức khác
nhau. Ở phạm vi luận văn này, chúng ta đề cập tới tư tưởng của một tác giả
thông qua một tác phẩm văn học, đó là tư tưởng của Nguyễn Du trong tác
phẩm Truyện Kiều mà cụ thể là tư tưởng thẩm mỹ. Song, tư tưởng thẩm mỹ
là gì? Nó được biểu hiện như thế nào thì tiếp theo chúng ta cần tìm hiểu về
khái niệm thẩm mỹ để rút ra định nghĩa về tư tưởng thẩm mỹ.
Cũng theo Đại Từ điển Tiếng Việt, thẩm mỹ dt. Khả năng cảm thụ và
hiểu biết về cái đẹp: khiếu thẩm mỹ và giáo dục thẩm mỹ cho học sinh [40,
1540]. Thẩm mỹ chính là quan niệm, sự đánh giá, cảm thụ của con người về
cái đẹp, về những biểu hiện của các quan hệ thẩm mỹ trong cuộc sống: cái

thẩm mỹ trong tự nhiên, trong đời sống xã hội, trong sáng tạo nghệ thuật.
Thẩm mỹ thuộc lĩnh vực tri giác cảm tính của con người đối với thế
giới xung quanh. Nhưng điều đó không có nghĩa là nó khuyết đi khía cạnh
tư duy, lý tính. Con người tổng thể không chỉ gắn liền với chuyện cảm tính.
Bản thân mỗi chúng ta không hoàn toàn là quà tặng từ bà mẫu thiên nhiên
mà là sản phẩm lịch sử - văn hóa có năng lực tư duy logic, lập luận về thế
giới. Sự kém phát triển thẩm mỹ gắn liền hữu cơ với sự thiếu vắng sức sáng
tạo, sức tưởng tượng hiệu quả. Cá nhân kém phát triển về thẩm mỹ sẽ
không có khả năng tự thực hiện bước chuyển từ các tri thức chung được nó
lĩnh hội một cách hình thức sang tính cụ thể sống động, sang tính đặc sắc
của dữ kiện, sự kiện, tình huống.
Từ những kiến giải trên đây, ta có thể hiểu tư tưởng thẩm mỹ là những
suy nghĩ, quan niệm, quan điểm về những biểu hiện của cái đẹp, cái thẩm
mỹ trong tự nhiên, xã hội và nghệ thuật của cá nhân, nhóm, trào lưu nghệ
thuật, tổng thể giai cấp, xã hội,… được bộc lộ qua các hoạt động thực tiễn

14
cụ thể. Tư tưởng thẩm mỹ là sự kết hợp giữa lý trí và tình cảm, tức là biểu
hiện cả dưới dạng lý trí và xúc cảm. Nó thuộc về tư duy hình tượng. Tư
tưởng thẩm mỹ mang tầm lý luận, khái quát, ở cấp độ lý tính sáng suốt. Từ
nhận thức thẩm mỹ tới ý thức thẩm mỹ rồi khái quát thành tư tưởng thẩm
mỹ. Và từ tư tưởng được đúc kết dưới hình thái phát ngôn tư tưởng, từ trí
tuệ được đúc kết về lẽ sống, về nhân sinh, về tồn tại người dưới dạng câu
nói ngắn gọn, súc tích, ta có được những triết lý.
Nhờ lao động và hoạt động thực tiễn, con người được hình thành và phát
triển, trong đó có khả năng cảm thụ thẩm mỹ. Trong quá trình tiếp xúc với
nhau và với tự nhiên, con người phản ánh và nhận thức hiện thực, biến hiện
thực thành khách thể thẩm mỹ, đối tượng thẩm mỹ. Khi tư duy của chúng ta
đã đạt tới trình độ lý luận, có định hướng nhất định thì khi đó nhận thức thẩm
mỹ sẽ được khái quát thành những tư tưởng thẩm mỹ. Vậy, nguồn gốc và cơ

sở khách quan của tư tưởng thẩm mỹ chính là quá trình lao động.
Nếu như nhận thức thẩm mỹ chỉ là sự phản ánh thế giới thẩm mỹ khách
quan, tư duy thẩm mỹ của con người; ý thức thẩm mỹ - hình thức đặc thù
của ý thức xã hội - cũng là sự phản ánh thực tại khách quan trong đầu óc
của con người nhưng được nâng lên thành kết quả của sự khái quát những
đặc điểm bản chất của sự vật tạo thành các tri thức, các chủ kiến của con
người về các mối liên hệ tất yếu, có tính quy luật về cái đẹp, cái thẩm mỹ
thì tư tưởng thẩm mỹ là cái cốt lõi, tinh túy, khái quát, chắt lọc nhất của
những sự phản ánh ấy.
Trình độ tư tưởng thẩm mỹ và trình độ tâm lý - xã hội đều được bao
hàm trong mọi hình thức của ý thức xã hội, trong đó có ý thức thẩm mỹ.
Nếu như tâm lý xã hội mang lại tình cảm, tâm trạng, thể cảm cho con người
thì hệ tư tưởng mang lại một sự hệ thống hoá, sự hình thành về mặt lý
thuyết của tư tưởng, quan điểm và các quan niệm. Ý thức thẩm mỹ của
trình độ tư tưởng thể hiện trong các dạng thức của các quan điểm thẩm mỹ,
trong các học thuyết, các quan niệm và trong các dạng lý tưởng thẩm mỹ.

15
Tư tưởng, quan điểm và lý thuyết thẩm mỹ như là bộ phận hợp thành
thế giới quan của các nhóm xã hội này hay nhóm xã hội khác, giai cấp này
hay giai cấp kia. Đó thường thường là những thành tố của những hệ thống
triết học khác nhau. Sự thể hiện một cách có hệ thống các tư tưởng thẩm
mỹ có thể tìm thấy trong các lý thuyết thẩm mỹ, trong mỹ học với tư cách
là một khoa học. Tư tưởng thẩm mỹ phản ánh trong dạng thức lôgic - lý
thuyết thẩm mỹ của các nhu cầu xã hội, được khái quát trong thực tiễn hoạt
động thẩm mỹ và từ đó hình thành ra các khái niệm về bản chất của cái
đẹp, về quan hệ thẩm mỹ của con người đối với hiện thực và bản chất của
tình cảm thẩm mỹ, về các dạng thức cơ bản và các hình thức nhận thức
thẩm mỹ cũng như cải tạo thế giới hiện thực.
Trong lịch sử phát triển của mỹ học, cũng như của hàng loạt các hình

thức khác của ý thức xã hội, tư tưởng thẩm mỹ luôn luôn mang tính chất
thế giới quan và tinh thần của cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ
nghĩa duy tâm, tư tưởng thẩm mỹ cũng phản ánh cuộc đấu tranh giữa
những lực lượng thù địch của xã hội, cuộc đấu tranh giai cấp. Hệ thống tư
tưởng thẩm mỹ phát triển không chỉ qua các tác phẩm triết học, mà cả trong
các tác phẩm chính trị, trong các luận văn về đạo đức học và tôn giáo, đặc
biệt trong các công trình nghiên cứu lý luận và kho tàng nghệ thuật của các
nhà nghệ sĩ, các nhà văn, các nhạc sĩ, các nhà hoạt động kịch, phim ảnh…
Trong thời Xuân Thu – Chiến Quốc ở Trung Quốc, các khuynh hướng
tư tưởng lớn như Khổng giáo, Lão giáo, Mặc gia và Pháp gia… nảy sinh và
luôn tranh giành ảnh hưởng với nhau. Các quan niệm về đạo đức, chính trị,
thẩm mỹ… đua nhau phát triển và đã xuất hiện không ít tư tưởng thẩm mỹ
độc đáo, rất đáng lưu tâm tìm hiểu. Cái hay là chúng thường được trình bày
dưới hình thức những câu chuyện có tính ngụ ngôn, khá sinh động và thấm
thía. Chẳng hạn câu chuyện về công việc sáng tạo của họa sĩ trong Hàn Phi
Tử. Người đại diện lớn nhất của phái Pháp gia này kể rằng, có một nghệ sỹ
người nước Tề, nhân Tề Công hỏi vẽ vật gì khó nhất, ông đáp: “Vẽ chó,
ngựa và những con thú khác”; còn đối với câu hỏi vẽ gì dễ hơn cả thì ông

16
đáp: “Vẽ ma, quỷ và những tà lực khác”. Liền sau đó, người họa sỹ giải
thích như sau: “Hàng ngày, mọi người đều thấy ngựa và biết rõ ngựa như
thế nào. Chỉ cần lầm lẫn chút ít trong bức họa là họ lập tức bàn tán. Còn
ma quỷ thì chẳng có một nhận thức rõ rệt nào về chúng cả, do vậy vẽ chúng
là chuyện dễ”. Hàn Phi Tử quan niệm giá trị của các tác phẩm nghệ thuật
chỉ được xác định trong tương quan với người tiếp nhận chúng, mà người
cảm thụ thì bao giờ cũng dùng sự từng trải của chính mình để đánh giá tác
phẩm. Bởi vậy, nghệ thuật muốn có ý nghĩa phải gắn với hiện thực đời
sống. Mọi tưởng tượng tách rời thực tại đều quái đản và huyễn hoặc. Sáng
tạo nghệ thuật được coi là một hình thức lao động công phu là vì thế. Ý

nghĩa mỹ học của câu chuyện này đâu có nhỏ và đâu có giới hạn chỉ ở thời
trước. Tư tưởng thẩm mỹ thuộc về cách nhìn của chủ thể nhưng nó lại xuất
phát từ chính hiện thực.
Hy Lạp thời cổ đại cũng từng sản sinh ra nhiều nhà triết học, nhiều nhà
mỹ học lỗi lạc. Một trong những tên tuổi lừng danh là Heraclite (540 - 480
TCN). Với ông, chân lý luôn là cụ thể. Ông cho rằng: “Lừa thích rơm hơn
vàng”. Ông còn nói: “Nước biển sạch nhất đồng thời bẩn nhất. Đối với cá
nó dùng để uống và nó vô hại. Còn đối với con người, nó không dùng để
uống được và nó có hại”. Từ đó Heraclite chủ trương tính tương đối của
cái đẹp. Ông nói: “Con khỉ đẹp nhất cũng là xấu so với loài người; và con
người hoàn thiện nhất khi so với thần thánh cũng chỉ như một con
khỉ”. Những quan điểm mỹ học, những tư tưởng thẩm mỹ duy vật biện
chứng mang tính chất tự phát tương tự có thể dễ dàng tìm trong các công
trình lý luận của các nhà tư tưởng duy vật ở Hy Lạp thời cổ đại.
Rõ ràng, các tư tưởng thẩm mỹ đã nảy sinh từ rất sớm trong lịch sử tư
tưởng của nhân loại. Tuy nhiên, mỹ học với tư cách là một ngành khoa học
độc lập lại phải chờ tới thời cận đại. Một trong những yếu tố quan trọng
giúp mỹ học tách dần ra khỏi triết học là việc xác lập được đối tượng đặc
thù của ngành khoa học này.

17
Mặt khác, tư tưởng thẩm mỹ thuộc về nội dung của nghệ thuật bởi lẽ nội
dung nghệ thuật chính là hiện thực đã được nghệ sĩ nghiền ngẫm về mặt tư
tưởng thẩm mỹ trong quá trình sáng tác và được nghệ sĩ phản ánh vào trong
tác phẩm nghệ thuật dưới ánh sáng của những lý tưởng xã hội thẩm mỹ của
một thế giới quan nhất định. Bởi vậy, khi xem xét tư tưởng thẩm mỹ của một
tác giả thông qua một tác phẩm cụ thể, chúng ta cần xem xét chủ yếu ở bình
diện nội dung của tác phẩm. Tất nhiên không thể bỏ qua những khía cạnh
nghệ thuật – phương thức để thể hiện nội dung, thể hiện quan điểm tác giả.
Như thế, muốn hiểu tư tưởng thẩm mỹ của Nguyễn Du trong Truyện Kiều thì

điều căn bản nhất là thấu đạt nội dung tác phẩm để hướng tới cách nhìn, tầm
suy ngẫm, tư tưởng về các khía cạnh thẩm mỹ của ông.
1.2. Những yếu tố ảnh hƣởng đến tƣ tƣởng thẩm mỹ của
Nguyễn Du
1.2.1. Ảnh hưởng của Nho – Phật – Lão và tư tưởng thẩm mỹ Việt
Nam trước thế kỷ XIX đến Nguyễn Du
* Ảnh hưởng của Nho – Phật – Lão đến tư tưởng thẩm mỹ của
Nguyễn Du
Nho giáo, Phật giáo, Lão giáo đã có một khoảng thời gian tồn tại hơn
2500 năm. Trong quãng thời gian hơn hai thiên niên kỷ rưỡi tồn tại, các
học thuyết này đã có rất nhiều biến đổi. Trong phạm vi luận văn này, người
viết chỉ xin nhấn mạnh những điểm quan trọng của các học thuyết này liên
quan tới vấn đề luận văn đang đề cập.
Trước hết, có thể thấy rằng, tư tưởng thẩm mỹ của Việt Nam nói chung
và của Nguyễn Du nói riêng chịu ảnh hưởng sâu sắc của tư tưởng mỹ học
cổ đại Trung Hoa. Chính bản thân Truyện Kiều cũng được Nguyễn Du dựa
theo tiểu thuyết Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân, Trung
Quốc. Mỹ học Trung Hoa là sự đan cài và đầy mâu thuẫn giữa các luận
thuyết mỹ học khác nhau. Khuynh hướng tích cực nhất là xem cái “mỹ” có
nguồn gốc ở cái “chân” của tự nhiên. Vì vậy, cái “mỹ” của nghệ thuật cần
lĩnh hội có chọn lọc cái “chân” đó thông qua sự thể hiện cái “tâm”, cái

18
“tình” thuần khiết của người sáng tạo. Khuynh hướng mỹ học quý tộc
thường đề cao “đạo”, “lý tưởng” phụ thuộc vào hệ tư tưởng thống trị và
xem cái thẩm mỹ là phẩm chất “người quân tử” (kẻ đại diện cho quyền lực
tinh thần của giai cấp thống trị). Từ góc nhìn “phương Đông” và “bản địa”,
mỹ học cổ đại Trung Hoa đã xây dựng một hệ thống lý luận và các phạm
trù cơ bản. Nó đề cao sự hòa đồng giữa chủ thể và khách thể, giữa con
người với tự nhiên, xã hội. Thấm đượm triết lý nhân sinh, đạo đức và chính

trị, mỹ học cổ đại Trung Hoa đòi hỏi sự thống nhất giữa mỹ và thiện; tình,
ý và đạo lý; sáng tạo thẩm mỹ và trách nhiệm xã hội. Lịch trình phát triển
của nền mỹ học này bao trùm cả hệ thống quy ước của quần chúng và sự
đòi hỏi của cá tính con người. Mỹ học Trung Hoa cổ đại đã phát triển trên
cơ sở của sự xung đột đa dạng, quyết liệt giữa “bách gia, chư tử”. Nho gia
với Khổng Tử, Mạnh Tử; Mặc gia với Mặc Tử; Đạo gia với Lão Tử, Trang
Tử; Pháp gia với Hàn Phi; Âm Dương – Ngũ Hành, Dịch truyện, Dịch
kinh,… Khổng Tử, Lão Tử, Tuân Tử, Khuất Nguyên, Tư Mã Thiên, Lưu
Hiệp, Viên Mai, Nguyễn Tịch, Hàn Dũ, Bạch Cư Dị, Nguyên Chẩn, Đỗ
Phủ,… là những chủ soái của mỹ học cổ đại Trung Hoa. Nền mỹ học ấy đã
có một lịch sử lâu dài và có những thành tựu to lớn. Song, do nảy sinh và
phát triển trên cơ sở của phương thức sản xuất châu Á và chế độ nông nô,
phong kiến, mỹ học Trung Quốc cổ đại đã không thể vượt lên được và về
sau thường rơi vào duy tâm, siêu hình.
Trong các trường phái mỹ học Trung Hoa cổ đại, Nguyễn Du chịu ảnh
hưởng khá rõ nét từ Nho giáo và Đạo giáo. Nguồn gốc tư tưởng thẩm mỹ
của ông trước hết là tư tưởng thẩm mỹ Nho giáo. Bởi lẽ, từ thế kỷ XV, cho
đến giữa thế kỷ XIX, thậm chí đến đầu thế kỷ XX, trong đời sống tinh thần
của nước ta, Nho giáo vẫn giữ vai trò chủ đạo, chi phối. Nguyễn Du sống ở
cuối thế kỷ XVIII – đầu thế kỷ XIX nên đã chịu ảnh hưởng rất lớn từ
những tư tưởng của Nho giáo, trong đó có tư tưởng thẩm mỹ, nhất là khi
ông xuất thân trong một gia đình, một dòng họ nổi tiếng về tước vị và văn

19
chương, đặc biệt ông nội của Nguyễn Du là Nguyễn Quỳnh lại chuyên chú
về Kinh Dịch.
Nho giáo đã được du nhập vào Việt Nam từ khi nước ta bị xâm lược và
sáp nhập vào Trung Quốc – đời Hán (206 TCN đến 220 SCN). Sĩ Nhiếp
(thế kỷ thứ II SCN) được coi là An Nam học tổ, người mở đầu cho Nho
học nước ta. Trong thời kỳ tự chủ, từ thế kỷ X đến thế kỷ XIV, Nho giáo

cùng với Phật giáo và Đạo giáo có vai trò quan trọng trong đời sống tinh
thần của nhân dân ta. Cuối thế kỷ XIV, sau khi Lê Lợi chiến thắng quân
Minh (1427) nhà nước Lê sơ dành cho Nho giáo địa vị độc tôn – học thuyết
chính thống của nhà nước – cuối thế kỷ đó, vào thời Lê Thánh Tông (làm
vua từ 1460 đến 1497), nó đạt đến mức toàn thịnh.
Khổng Tử được coi là người sáng lập ra học thuyết này. Nhưng trước
ông, nó đã tồn tại ở Trung Quốc dưới dạng các chất liệu tư tưởng. Và chỉ đến
Khổng Tử, Nho giáo mới trở thành một học thuyết thực sự. Học thuyết Nho
giáo hướng vào mục đích lớn nhất là “chống loạn cứu thế”, muốn xây dựng
một xã hội có trật tự, hài hòa, trong đó con người sống theo đúng phận vị –
một xã hội “vua ra vua, tôi ra tôi, cha ra cha, con ra con” (quân quân, thần
thần, phụ phụ, tử tử). Nho giáo từ trong mục đích của mình đã hướng về xã
hội, mang tinh thần nhập thế tích cực. Học thuyết này hướng về một bộ phận
những người được xem là tinh hoa của các thời đại: quý tộc các loại và các
nhà nho bằng con đường trước nhất là tu thân rồi mới thực hiện các lý tưởng
“tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”. Con đường xây dựng chính trị mà Nho gia
hướng theo chính là con đường đức trị.
Trong hệ thống tư tưởng của mình, Nho giáo cũng đề cập tới những tư
tưởng thẩm mỹ sâu sắc. Đối với học thuyết này, thì mỹ chính là thiện, tận
thiện, tận mỹ tồn tại trong một sự vật hiện tượng, là tiêu chuẩn và yêu cầu cao
nhất của cái đẹp. Khổng Tử quan niệm: mỹ tức là thiện. Thiện chủ yếu là sự
bình giá có tính công lợi của sự vật. Còn đối với mỹ, ngoài tính công lợi ra nó
còn phải đáp ứng sự hài hòa giữa nội dung và hình thức. Khi nói thiện tức là
mỹ, Khổng Tử đặc biệt nhấn mạnh sự thống nhất thiện – nội dung, mỹ - hình

×