Tải bản đầy đủ (.pdf) (125 trang)

Chế định trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong luật tố tụng hình sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.13 MB, 125 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN THỊ HẢI CHÂU

CHẾ ĐỊNH TRẢ HỒ SƠ ĐỂ ĐIỀU TRA BỔ SUNG
TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2010


Ket-noi.com
Ket-noi.com kho
kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN THỊ HẢI CHÂU

CHẾ ĐỊNH TRẢ HỒ SƠ ĐỂ ĐIỀU TRA BỔ SUNG
TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
Chuyên ngành : Luật hình sự
Mã số


: 60 38 40

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Trần Văn Độ

HÀ NỘI - 2010


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU

Chương 1:

1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHẾ ĐỊNH TRẢ HỒ

7

SƠ ĐỂ ĐIỀU TRA BỔ SUNG VÀ CÁC CƠ QUAN TIẾN
HÀNH TỐ TỤNG

1.1.

Khái quát về trả hồ sơ để điều tra bổ sung và các cơ quan

tiến hành tố tụng

7

1.2

Những vấn đề lý luận cơ bản về trả hồ sơ để điều tra bổ sung

13

1.2.1.

Khái niệm trả hồ sơ để điều tra bổ sung

13

1.2.2.

Các căn cứ để trả hồ sơ điều tra bổ sung

19

1.2.2.1. Khi cần xem xét thêm những chứng cứ quan trọng đối với
vụ án mà Viện kiểm sát và Tòa án không thể bổ sung được

19

1.2.2.2. Khi có căn cứ để cho rằng bị can, bị cáo phạm một tội khác
hoặc có đồng phạm khác


27

1.2.2.3. Khi phát hiện có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng

33

Quan hệ giữa các cơ quan tiến hành tố tụng khi trả hồ sơ để
điều tra bổ sung

38

Chương 2: THỰC TRẠNG TRẢ HỒ SƠ ĐỂ ĐIỀU TRA BỔ SUNG

46

2.1.

Thực trạng quy định của pháp luật tố tụng hình sự về trả hồ
sơ để điều tra bổ sung

46

2.2.

Thực trạng trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Viện kiểm sát

53

1.3.



Ket-noi.com
Ket-noi.com kho
kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi

2.2.1.

Căn cứ trả hồ sơ để điều tra bổ sung

55

2.2.2.

Những bất cập, hạn chế trong việc trả hồ sơ để điều tra bổ
sung tại Viện kiểm sát nhân dân

57

2.3.

Trả hồ sơ để điều tra bổ sung tại tòa án nhân dân

61

2.3.1.


Thực trạng trả hồ sơ tại Tòa án nhân dân

61

2.3.2.

Trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn chuẩn bị xét xử

62

2.3.3.

Yêu cầu điều tra bổ sung

64

2.4.

Đánh giá chung về thực trạng trả hồ sơ để điều tra bổ sung

70

2.4.1.

Những kết quả đạt được

70

2.4.2.


Những bất cập, hạn chế

71

2.5.

Nguyên nhân của những bất cập, hạn chế trong trẩ hồ sơ để
điều tra bổ sung

72

2.5.1.

Các nguyên nhân khách quan

72

2.5.2.

Các nguyên nhân chủ quan

73

Chương 3:

75

MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CHẾ
ĐỊNH TRẢ HỒ SƠ ĐỂ ĐIỀU TRA BỔ SUNG TRONG
CẢI CÁCH TƯ PHÁP


3.1.

Các yêu cầu nâng cao hiệu quả chế định trả hồ sơ để điều tra
bổ sung

75

3.2.

Hoàn thiện các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về trả
hồ sơ điều tra bổ sung

77

3.2.1.

Cần sửa đổi, bổ sung Điều 168 và Điều 179 Bộ luật Tố
tụng hình sự theo hướng quy định cụ thể về căn cứ, thẩm
quyền, thời hạn và trách nhiệm trong việc trả hồ sơ để điều
tra bổ sung

77

3.2.2.

Kiến nghị về việc tăng thời gian điều tra đối với các tội rất
nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng được quy định tại
Điều 119 Bộ luật Tố tụng hình sự


82


3.2.3.

Sửa đổi, bổ sung Điều 121 Bộ luật Tố tụng hình sự

83

3.2.4.

Cần sửa đổi, bổ sung Điều 196 Bộ luật Tố tụng hình sự

83

3.3.

Các giải pháp khác

84

3.3.1.

Nâng cao trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng, người
tiến hành tố tụng

84

3.3.2.


Hoàn thiện cơ chế phối hợp và chế ước giữa các cơ quan
tiến hành tố tụng

87

3.3.3.

Phân định rõ trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng và
người tiến hành tố tụng trong việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung

88

3.3.4.

Đảm bảo quyền con người trong tố tụng hình sự bằng việc
tạo điều kiện cho luật sư tham gia bào chữa cho bị can, bị cáo

90

KẾT LUẬN

92

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

95

PHỤ LỤC

99

Formatted: Indent: First line: 0", Space
Before: 6 pt, Line spacing: Exactly 20 pt


Ket-noi.com
Ket-noi.com kho
kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi

Danh mục các bảng

Số hiệu

Tên bảng

Trang

Các Viện kiểm sát nhân dân có tỷ lệ trả hồ sơ để điều tra

54

bảng

2.1

bổ sung thấp
2.2


Các Viện kiểm sát nhân dân hạ thấp dần tỷ lệ trả hồ sơ để
điều tra bổ sung

54


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền và cải cách tư pháp ở
Việt Nam hiện nay, để giải quyết nhanh chóng vụ án hình sự và xử lý công
minh, đúng đắ n kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không
làm oan người vô tội, các cơ quan tiến hành tố tụng phải triệt để tuân thủ các
quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự để góp phần bảo vệ chế độ xã hội chủ
nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức,
công dân, đồng thời giáo dục mọi người đề cao ý thức tuân theo pháp luật,
đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm.
Điều tra là một giai đoạn tố tụng quan trọng đầu tiên trong quá trình
giải quyết vụ án hình sự, giai đọan này c ơ quan điều tra tiến hành các hoạt
động tố tụng để thu thập chứng cứ phục vụ cho việc chứng minh, làm sáng rõ
vụ án hình sự. Vì vậy, mọi hành vi và quyết định củ a cơ quan điều tra và Điều
tra viên trong giai đoạn này rất quan trọng. Việc điều tra thu thập chứng cứ
không đầy đủ hoặc vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong quá trình điều
tra sẽ ảnh hưởng đến các giai đoạn tố tụng tiếp theo.
Viện kiểm sát thực hiện việc kiểm sát hoạt động tố tụng của cơ quan
điều tra và ra các quyết định phù hợp với kết quả kiểm sát việc khởi tố, kết
luận điều tra của cơ quan điều tra; truy tố người pha ̣m tội ra trước Tòa và thực
hiện quyền công tố tại phiên tòa.
Xét xử là giai đoạn quan trọng nhất trong quá trình giải quyết vụ án

hình sự. Vì Tòa án sẽ quyết định người bị truy tố phạm tội và phải chịu hiǹ h phaṭ
theo quy định của pháp luật hoặc tuyên bố người bị truy tố không phạm tội.
Trong thực tế, không phải vụ án nào Cơ quan điều tra khởi tố, điều tra
thì Viện kiểm sát đều ra quyết định truy tố và Tòa án đều đưa ra xét xử được,

1


Ket-noi.com
Ket-noi.com kho
kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi

mà có nhiều vụ án cần phải điều tra bổ sung theo các căn cứ Bộ luật Tố tụng
hình sự quy định như:
Còn thiếu những chứng cứ quan trọng đối với vụ án mà Viện kiểm sát,
Tòa án không thể tự mình bổ sung được; có căn cứ để khởi tố bị can về một
tội phạm khác hoặc có người đồng phạm khác; có vi phạm nghiêm trọng thủ
tục tố tụng.
Như vậy là dù theo trình tự tố tụng thông thường hay theo trình tự của
một vụ án trả hồ sơ để điều tra bổ sung, thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và
Tòa án cũng có mối quan hệ liên quan, gắn bó với nhau, hỗ trợ nhau và chế
ước lẫn nhau trong quá trình giải quyết vụ án hình sự.
Tuy nhiên, khi nghiên cứu toàn diện vấn đề trả hồ sơ để điều tra bổ
sung, chúng tôi thấy còn có những bất cập trong pháp luật tố tụng hình sự cần
được sửa đổi, bổ sung cho hợp lý hơn để thể hiện rõ hơn chức năng tố tụng
của từng cơ quan, phát huy hiệu quả công việc của từng cơ quan tiến hành tố

tụng cũng như đặt ba cơ quan này trong một mối quan hệ về công việc hợp lý
trong quá trình thực hiện nhiệm vụ của mình . Mối quan hệ giữa ba cơ quan :
Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nhân dân và Tòa án nhân dân có ý nghĩa đă ̣c
biệt quan trọng trong quá trin
̀ h giả i quyết vụ án hiǹ h sự . Việc xác định rõ chế
định trả hồ sơ để điều tra bổ sung cần được quan tâm, nghiên cứu một cách
sâu sắc, đầy đủ, có hệ thống và toàn diện.
Theo tinh thần của Nghị quyết số 08NQ/TW ngày 02/01/2002 và
Nghị quyết số 49-NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải
cách tư pháp đến năm 2020 thì Tòa án là trung tâm, công tác xét xử là trọng
tâm và phán quyết của Tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại
phiên tòa. Do đó, để ra đươ ̣c bản án, quyết định đúng pháp luật, có sức thuyết
phục, trong quá trình chuẩn bị xét xử cần có sự phối kết hợp chặt chẽ giữa các
cơ quan tiến hành tố tụng. Trước khi xét xử và tại phiên tòa, Tòa án có quyền
trả hồ sơ để điều tra bổ sung.

2


Chế định trả hồ sơ để điều tra bổ sung được quy định tại Điều 168 và
Điều 179 Bộ luật Tố tụng hình sự, nhưng trong thực tiễn xét xử vẫn còn
vướng mắc, bất cập cần được giải thích hướng dẫn thi hành hoặc sửa đổi bổ
sung quy định này.
Việc nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn về Chế định trả hồ sơ để
điều tra bổ sung nhằm mục đích đưa ra những kiế́ n nghi để
̣ nâng cao hiệu quả
hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng trong giai đoạn hiện nay không
những có ý nghĩa lý luận - thực tiễn và pháp lý quan trọng, mà còn là vấn đề
mang tính cấp thiết.
Chính vì vậy, chúng tôi quyết định chọn đề tài "Chế định trả hồ sơ để

điều tra bổ sung trong luật tố tụng hình sự Việt Nam " cho luận văn thạc sĩ
của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
- Trả hồ sơ để điều tra bổ sung là chế định thể hiện rõ nét nhất mối
quan hệ giữa Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án được quy định trong
Bộ luật Tố tụng hình sự Việt Nam. Ba cơ quan tiến hành tố tụng có mối quan
hệ chặt chẽ và mật thiết với nhau trong quá trình giải quyết một vụ án hình sự.
Ở Việt Nam, cho đến nay đã có một số công trình nghiên cứu về vấn
đề này. Trong đó, đáng chú ý là các công trình sau đây: GS.TSKH. Lê Cảm TS. Nguyễn Ngọc Chí (Đồng chủ biên), Cải cách tư pháp ở Việt Nam trong
giai đoạn xây dựng nhà nước pháp quyền, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội,
2004; Đề tài khoa học cấp Đại học quốc gia: Bảo vệ quyền con người bằng
pháp luật hình sự và tố tụng hình sự trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp
quyền Việt Nam, do GS.TSKH Lê Cảm, TS. Nguyễn Ngọc Chí và ThS. Trịnh
Quốc Toản đồng chủ trì, 2005; PGS.TS Võ Khánh Vinh (chủ biên), Bình luận
khoa học Bộ luật Tố tụng hình sự, Nxb Công an nhân dân, 2004; PGS.TS Trần
Văn Độ, Hoàn thiện quy định của pháp luật về giới hạn xét xử, Tạp chí Toà
án nhân dân, số 3/2000; PGS.TS Trần Văn Độ, Một số vấn đề về hoàn thiện
3


Ket-noi.com
Ket-noi.com kho
kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi

thẩm quyền xét xử của tòa án các cấp, Tạp chí Toà án nhân dân, số 6/2001;
PGS.TS Trần Văn Độ, Một số vấn đề về hoạt động tư pháp và kiểm sát hoạt

động tư pháp ở nước ta hiện nay, Tạp chí Luật học, số 02/2004; PGS.TS Trần
Văn Độ, Một số vấn đề về quyền công tố, Tạp chí Luật học, số 3/2001;
ThS. Nguyễn Phúc Lưu, Bàn về việc trả hồ sơ vụ án hình sự để điều tra bổ
sung, Tạp chí Kiểm sát, số 11/2006; Mai Văn Lư, Bàn về quy định: "Tòa án
trả hồ sơ để điều tra bổ sung" trong điều kiện cải cách tư pháp, Tạp chí Kiểm
sát, số 11/2010...
Trong các công trình trên, ở mức độ này hay mức độ khác vấn đề trả
hồ sơ để điều tra bổ sung đã được đề cập đến, nhất là các căn cứ trả hồ sơ để
điều tra bổ sung, thủ tục trả hồ sơ để điều tra bổ sung, thậm chí có người đặt
vấn đề xem xét tính hợp lý, cần thiết của chế định này trong điều kiện xây
dựng Nhà nước pháp quyền.
Tuy nhiên, cho đến nay chưa có một công trình nào nghiên cứu một
cách đầy đủ, toàn diện và hệ thống về chế định trả hồ sơ để điều tra bổ sung;
nhiều nội dung liên quan chưa có được cách nhìn và giải quyết thống nhất;
các công trình chưa giải đáp triệt để được những vướng mắc trong thực tế...
3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận văn là trên cơ sở phân tích các quy định của Bộ
luật Tố tụng hình sự về trả hồ sơ để điều tra bổ sung, đánh giá thực tiễn áp
dụng các quy định đó, tìm ra những bất cập, hạn chế để đề xuất những kiến
nghị cũng như đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của chế định này
trong hoạt động tố tụng hình sự.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Từ mục đích nghiên cứu nêu trên, chúng tôi đặt cho mình các nhiệm
vụ nghiên cứu chủ yếu sau:

4


- Nghiên cứu các vấn đề lý luận về chế định trả hồ sơ để điều tra bổ

sung và mối quan hệ giữa ba cơ quan tiến hành tố tụng;
- Phân tích các quy định của pháp luật về chế định trả hồ sơ điều tra
bổ sung;
- Nghiên cứu thực tiễn áp dụng chế định trả hồ sơ điều tra bổ sung,
mối quan hệ giữa các cơ quan tiến hành tố tụng trong áp dụng chế định này;
- Đưa ra các kiến nghị hoàn thiện các quy định của Bộ luật Tố tụng
hình sự và giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng trong thực tiễn.
3.3. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận và thực
tiễn về chế định trả hồ sơ điều tra bổ sung và thông qua chế định này sẽ
nghiên cứu về mối quan hệ giữa Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nhân dân và
Tòa án nhân dân theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam.
3.4. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu về chế định trả hồ sơ điều tra bổ sung trong pháp
luật tố tụng hình sự Việt Nam và một số quy phạm pháp luật hình sự, một số
văn bản hướng dẫn thi hành pháp luật nhằm hỗ trợ cho việc nghiên cứu đề tài
được tốt hơn.
Luận văn nghiên cứu về chế định trả hồ sơ điều tra bổ sung và mối
quan hệ giữa cơ quan điều tra , Viện kiểm sát nhân dân và Tòa án nhân dân từ
trước khi Bộ luật Tố tụng hình sự ra đời và các quy định của pháp luật về chế
định trả hồ sơ điều tra bổ sung trong tố tụng hình sự Việt Nam hiện hành.
4. Cơ sở phƣơng pháp luận và các phƣơng pháp nghiên cứu
Cơ sở phương pháp luận của luận văn là quan điểm của chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về
Nhà nước và pháp luật, về xây dựng Nhà nước pháp quyền, về cải cách tư
pháp, về đấu tranh phòng và chống tội phạm.

5



Ket-noi.com
Ket-noi.com kho
kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi

Luận văn sử dụng một số phương pháp tiếp cận để làm sáng tỏ về mặt
khoa học từng vấn đề tương ứng, đó là các phương pháp nghiên cứu như: so
sánh, phân tích, tổng hợp, thống kê. Đồng thời, tác giả sử dụng những số liệu
thống kê, tổng kết hàng năm của ngành Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân
dân; nghiên cứu các bản án hình sự, các quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ
sung cũng như những thông tin trên mạng internet để phân tích, tổng hợp các
tri thức khoa học pháp luật tố tụng hình sự và các vấn đề tương ứng được
nghiên cứu trong luận văn.
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Về mặt lý luận: Đây là công trình nghiên cứu đồng bộ đề cập một cách
có hệ thống và toàn diện những vấn đề lý luận và tổng kết thực tiễn về chế
định trả hồ sơ để điều tra bổ sung.
Về mặt thực tiễn: Luận văn góp phần vào việc xác định đúng đắn những
điều kiện cụ thể của từng trường hợp trả hồ sơ điều tra bổ sung trong thực tiễn truy
tố, xét xử của các cơ quan tiến hành tố tụng, cũng như đưa ra các kiến nghị hoàn
thiện chế định trả hồ sơ điều tra bổ sung và việc áp dụng chúng trong thực tiễn.
Luận văn cũng kiến nghị sửa đổi, bổ sung một số trường hợp có thể áp
dụng chế định trả hồ sơ điều tra bổ sung và đề xuất sửa đổi Điều 119; Điều 121;
Điều 179; Điều 196; Điều 199 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
nội dung của luận văn gồm 3 chương:

Chương 1: Những vấn đề lý luận về trả hồ sơ để điều tra bổ sung và
các cơ quan tiến hành tố tụng.
Chương 2: Thực trạng trả hồ sơ để điều tra bổ sung.
Chương 3: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả của chế định trả hồ sơ
để điều tra bổ sung trong cải cách tư pháp ở nước ta.

6


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHẾ ĐỊNH TRẢ HỒ SƠ
ĐỂ ĐIỀU TRA BỔ SUNG VÀ CÁC CƠ QUAN TIẾN HÀNH TỐ TỤNG

1.1. KHÁI QUÁT VỀ TRẢ HỒ SƠ ĐỂ ĐIỀU TRA BỔ SUNG VÀ CÁC CƠ
QUAN TIẾN HÀNH TỐ TỤNG

Tố tụng hình sự Việt nam được xây dựng dựa trên những đặc điểm về
chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, đạo đức, phong tục tập quán cũng như hệ
thống pháp luật hiện hành. Những nguyên tắc được xác định trong tố tụng
hình sự là tiền đề và cơ sở để xây dựng nhiệm vụ cũng như mối quan hệ giữa
các cơ quan tiến hành tố tụng. Điều 1 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003
quy định "Bộ luật Tố tụng hình sự quy định trình tự, thủ tục khởi tố, điều tra,
truy tố, xét xử và thi hành án hình sự; chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và mối
quan hệ giữa các cơ quan tiến hành tố tụng". Do đó, mỗi cơ quan tiến hành tố
tụng đều có chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn nhất định nhưng có quan hệ phối
hợp với nhau, chế ước lẫn nhau trong quá trình giải quyết vụ án hình sự.
Chủ thể được Nhà nước giao thẩm quyền điều tra vụ án là Cơ quan
điều tra. Trong hệ thống các cơ quan tư pháp, cơ quan điều tra giữ một vị trí
quan trọng, là cơ quan thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ chứng minh tội
phạm và người thực hiện hành vi phạm tội, phục vụ cho việc truy tố của Viện

kiểm sát và xét xử của Tòa án. Điều tra là giai đoạn tố tụng gần như là đầu
tiên trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, Vì vậy, hoạt động của Điều tra
viên và quyết định củ a cơ quan điều tra trong giai đoạn này rất quan trọng.
Quan trọng vì đây là khâu đầu tiên để chứng minh có hành vi phạm tội hay
không và chỉ có cơ quan điều tra mới có quyền lập hồ sơ vụ án hình sự.
Khoản 1 Điều 2 Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự quy định:
Cơ quan điều tra có nhiệm vụ tiến hành điều tra tất cả các
tội phạm, áp dụng mọi biện pháp do Bộ luật Tố tụng hình sự quy

7


Ket-noi.com
Ket-noi.com kho
kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi

định để xác định tội phạm và người đã thực hiện hành vi phạm tội,
lập hồ sơ, đề nghị truy tố, tìm ra nguyên nhân và điều kiện phạm tội
để làm cơ sở cho việc xử lý tội phạm [35].
Trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình, Cơ quan
điều tra được pháp luật cho phép tiến các hoạt động điều tra như Khởi tố bị
can, hỏi cung, khám xét, tạm giữ đồ vật, đối chất, nhận dạng, thực nghiệm
điều tra… Qua hoạt động điều tra của mình, Cơ quan điều tra lập hồ sơ vụ án
hình sự đề nghị Viện kiểm sát truy tố người có tội ra trước Tòa. Hồ sơ vụ án
hình sự là một loại hồ sơ quan trọng trong hệ thống hồ sơ của Nhà nước là
nguồn thông tin trực tiếp phản ánh toàn bộ diễn biến vụ án, quá trình và kết

quả điều tra. Tại giai đọan này, cơ quan điều tra tiến hành các hoạt động tố
tụng để thu thập chứng cứ, thực hiện đúng, đủ trình tự, thủ tục, các biện pháp
do Bộ luật Tố tụng hình sự quy định để xác định tội phạm và người thực hiện
hành vi phạm tội phục vụ cho việc chứng minh làm sáng rõ vụ án hình sự,
làm cơ sở cho việc truy tố của Viện kiểm sát và xét xử của Tòa án.
Chứng cứ trong hồ sơ một vụ án hình sự luôn là yếu tố quyết định để
kết luận hành vi phạm tội của một người nào đó. Để giải quyết đúng đắn một
vụ án thì điều tra viên phải chứng minh được sự kiện phạm tội, người thực
hiện tội phạm và việc chứng minh này không có con đường nào khác ngoài
việc dựa vào chứng cứ thu thập được với những biện pháp như hỏi cung, lấy
lời khai, khám nghiệm hiện trường… Vì quá trình thực hiện hành vi phạm tội
là quá trình diễn ra trong quá khứ, do đó để hình dung ra diễn biến của nó,
điều tra viên cần phải lựa chọn vào việc đánh giá những sự kiện hay tài liệu
đã thu được một cách khách quan và lôgic. Nếu việc điều tra thu thập chứng
cứ không đầy đủ hoặc vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong quá trình
điều tra sẽ ảnh hưởng đến các giai đoạn tố tụng tiếp theo. Các biện pháp điều
tra chỉ được phép tiến hành sau khi khởi tố vụ án hình sự, tức là sau khi đã
xác định rõ ràng rằng có một vụ án hình sự đã xảy ra. Trong việc điều tra cơ
quan điều tra phải thu thập cả chứng cứ xác định có tội và chứng cứ xác định

8


vô tội, làm rõ những tình tiết tăng nặng và những tình tiết giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự của bị can, tìm ra nguyên nhân, điều kiện phạm tội. Mục đích
chủ đạo và xuyên suốt của hoạt động điều tra là chứng minh tội phạm và
người phạm tội.
Đối với nhiệm vụ "điều tra bổ sung" theo yêu cầu của Viện kiểm sát
hoặc của Tòa án lại đặt điều tra viên trước một yêu cầu khắt khe và cụ thể
hơn, đó là ngoài những tài liệu, chứng cứ đã thu thập được trong quá trình

điều tra, Cơ quan điều tra còn phải thực hiện theo đúng yêu cầu đã nêu trong
Quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Viện kiểm sát và Tòa án. Thông
thường đó là còn thiếu những chứng cứ vô cùng quan trọng đối với vụ án; có
tội phạm khác, có đồng phạm khác hoặc là có vi phạm nghiêm trọng thủ tục
tố tụng. Khi nhận được yêu cầu điều tra bổ sung, Cơ quan điều tra có trách
nhiệm thực hiện đầy đủ các nội dung nêu trong quyết định trả hồ sơ để điều
tra bổ sung của Viện kiểm sát hoặc của Tòa án.
Sau khi kết thúc điều tra bổ sung, Cơ quan điều tra phải có bản kết
luận điều tra bổ sung, trong đó kết luận rõ đối với từng vấn đề điều tra bổ
sung và quan điểm giải quyết vụ án. Nếu kết quả điều tra bổ sung dẫn đến
đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát ra quyết
định đình chỉ theo thẩm quyền quy định tại các Điều 164, 169 của Bộ luật Tố
tụng hình sự.
Nếu kết quả điều tra bổ sung không làm thay đổi quyết định truy tố thì
Viện kiểm sát có văn bản nêu rõ lý do giữ nguyên quyết định truy tố và
chuyển lại hồ sơ cho Tòa án; nếu kết quả điều tra bổ sung làm thay đổi quyết
định truy tố thì Viện kiểm sát ban hành cáo trạng mới thay thế cáo trạng cũ và
chuyển hồ sơ đến Tòa án để xét xử. Viện kiểm sát nhân dân khi thực hiện
quyền của mình là hoàn toàn độc lập, không bị ảnh hưởng của cơ quan hành
chính, đoàn thể xã hội và của công dân. Viện kiểm sát nhân dân được tổ chức
phù hợp với tổ chức của tòa án.

9


Ket-noi.com
Ket-noi.com kho
kho tai
tai lieu
lieu mien

mien phi
phi

Theo Hiến pháp năm 2002 (sửa đổi) và Luật Tổ chức Viện kiểm sát
nhân dân năm 2002, trong lĩnh vực tư pháp hình sự, Viện kiểm sát nhân dân
có hai chức năng chính là: Thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư
pháp. Đây là hai chức năng độc lập, nhưng trong thực tiễn công tác, nó có
mối quan hệ mật thiết với nhau.
Chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát được quy định cụ thể tại Điều 23
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003:
1.Viện kiểm sát thực hành quyền công tố trong tố tụng hình
sự, quyết định việc truy tố người phạm tội ra trước Tòa án.
2. Viện kiểm sát, kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố
tụng hình sự có trách nhiệm phát hiện kịp thời vi phạm pháp luật
của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và
người tham gia tố tụng, áp dụng những biện pháp do Bộ luật này
quy định để loại trừ việc vi phạm pháp luật của những cơ quan
hoặc cá nhân này.
3. Viện kiểm sát thực hành quyền công tố và kiểm sát việc
tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự nhằm bảo đảm mọi hành
vi phạm tội đều phải được xử lý kịp thời; việc khởi tố, điều tra, truy tố,
xét xử, thi hành án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để
lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội [21].
Viện kiểm sát kiểm sát đảm bảo việc điều tra được khách quan, toàn
diện và đầy đủ. Viện kiểm sát phải kịp thời phát hiện những vi phạm pháp
luật trong quá trình điều tra và đề ra biện pháp khắc phục, bảo đảm mọi hoạt
động điều tra phải được tiến hành theo đúng quy định của luật tố tụng hình sự.
Khi tội phạm được phát hiện, vụ án được khởi tố điều tra là thời điểm
quyền của Viện kiểm sát cũng được phát động. Đó là việc Viện kiểm sát tiến
hành kiểm sát hoạt động của cơ quan điều tra như khởi tố… Khi Viện kiểm

sát ra Quyết định truy tố bị cáo ra trước Tòa và Tòa án trong quá trình nghiên
10


cứu ra quyết định đưa vụ án ra xét xử thì đó là lúc Kiểm sát viên đại diện cho
Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa. Theo quy định của tố tụng hình
sự, Viện kiểm sát được trả hồ sơ để điều tra bổ sung khi có những căn cứ quy
định tại Điều 168 Bộ luật Tố tụng hình sự.
Xét xử là một giai đoạn cuối cùng của quá trình giải quyết một vụ án
hình sự, và cũng là giai đoạn quan trọng nhất trong quá trình tố tụng giai đoạn
này là sự tổng kết của cả một quá trình tố tụng. Vì nó quyết định "sinh mệnh
chính trị" của một con người. Chỉ có Tòa án mới có quyền xét xử, khác với
hai cơ quan tiến hành tố tụng trên, Tòa án với chức năng "cầm cân, nảy mực"
của mình, Tòa án cần sử dụng hết mức sự công tâm, sự nghiêm minh, khách
quan để nghiên cứu, xem xét khi nghiên cứu hồ sơ vụ án; lắng nghe, phân xử,
phán xét công minh tại phiên tòa khi ngồi giữa với một bên "buộc tội" là đại
diện Viện kiểm sát và một bên "gỡ tội" là luật sư.
Giai đoạn xét xử là bước cuối cùng, quyết định cho câu hỏi lớn mà các
cơ quan tiến hành tố tụng đã tốn bao nhiêu công sức đi tìm, đó là: có tội phạm
xảy ra không, ai là người thực hiện hành vi phạm tội, quyết định tội danh,
mức hình phạt, các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ, vấn đề trách nhiệm bồi
thường dân sư, án phí… Tóm lại, Tòa án bằng phán quyết của mình trước
phiên tòa và được ghi nhận trong bản án sẽ quyết định người bị khởi tố, truy
tố phạm tội và phả i chi ̣u hì nh pha ̣t theo quy định của pháp luật hoặc tuyên bố
ngườì bị khởi tố, truy tố không phạm tội.
Tư tưởng cải cách Tư pháp hiện nay đòi hỏi "phán quyết của Tòa án
phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa". Vì vậy, để ra những
bản án, quyết định đúng pháp luật, có sức thuyết phục, trong quá trình chuẩn
bị xét xử hoặc tại phiên tòa, Tòa án có quyền trả hồ sơ để điều tra bổ sung.
Cơ quan điều tra có trách nhiệm điều tra bổ sung theo yêu cầu của Tòa

án; nhưng khi Tòa án trả hồ sơ theo quy định tại Điều 179 Bộ luật Tố tụng
hình sự thì Tòa án phải ra quyết định trả hồ sơ cho Viện kiểm sát mà không

11


Ket-noi.com
Ket-noi.com kho
kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi

trả trực tiếp cho Cơ quan điều tra. Sở dĩ tố tụng hình sự quy định như vậy là
vì Viện kiểm sát là cơ quan truy tố bị can ra trước Tòa án chứ không phải là
Cơ quan điều tra, vì thế Tòa án nhận hồ sơ từ Viện kiểm sát chuyển đến, chứ
không phải là từ Cơ quan điều tra. Hơn nữa, Viện kiểm sát là cơ quan quyết
định chuyển hồ sơ cho Cơ quan điều tra hay tự mình điều tra bổ sung. Điều đó
cũng phù hợp với chức năng nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân tại các
Điều 104, 106, 108 và 109 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Đồng thời cũng phù
hợp với quy định của pháp luật tố tụng hình sự về giới hạn xét xử của Tòa án
tại Điều 196 Bộ luật Tố tụng hình sự: "Tòa án chỉ xét xử những bị cáo và
những hành vi theo tội danh mà Viện kiểm sát truy tố và Tòa án đã đưa ra xét
xử". Đó là các bị cáo, hành vi và tội danh trên phải do Viện kiểm sát truy tố
và đã được Tòa án quyết định đưa ra xét xử sau khi nghiên cứu hồ sơ vụ án
trong giai đoạn xét xử sơ thẩm.
Mặc dù mỗi cơ quan tiến hành tố tụng đều có chức năng, nhiệm vụ
riêng nhưng đều có một trách nhiệm, mục đích chung là: Xác định sự thật của
vụ án.

Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án phải áp dụng mọi
biện pháp hợp pháp để xác định sự thật của vụ án một cách khách
quan, toàn diện và đầy đủ, làm rõ những chứng cứ xác định có tội
và chứng cứ xác định vô tội, những tình tiết tăng nặng và những
tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo.
Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan
tiến hành tố tụng. Bị can, bị cáo có quyền nhưng không buộc phải
chứng minh là mình vô tội [21, Điều 10].
Xác định sự thật của vụ án là một trong những nguyên tắc rất quan
trọng của tố tụng hình sự, bảo đảm để xử lý vụ án được đúng người, đúng tội,
đúng pháp luật. Có thể nói xác định sự thật của vụ án vừa là nội dung vừa là
bản chất của hoạt động tố tụng hình sự, của mối quan hệ giữa các cơ quan tiến

12


hành tố tụng. Để xác định sự thật của vụ án đòi hỏi các cơ quan tiến hành tố
tụng phải phối hợp, kết hợp để tiến hành các biện pháp điều tra cụ thể nhưng
phải trên cơ sở vị trí, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của từng cơ quan
được quy định trong tố tụng hình sự.
Trả hồ sơ để điều tra bổ sung là một hoạt động của Viện kiểm sát và
Tòa án nhằm mục đích để giúp các cơ quan tiến hành tố tụng khác thực hiện
tốt nhiệm vụ quy định tại Điều 10 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003.
1.2 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ TRẢ HỒ SƠ ĐỂ ĐIỀU TRA
BỔ SUNG

1.2.1. Khái niệm trả hồ sơ để điều tra bổ sung
Theo Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam "Điều tra bổ sung là
hoạt động điều tra thêm về vụ án hình sự của cơ quan điều tra theo yêu cầu
của Viện kiểm sát hay Tòa án nhằm phát hiện, thu thập bổ sung tài liệu,

chứng cứ để giải quyết vụ án được đúng đắn, khách quan" [15, tr. 94].
Trả hồ sơ để điều tra bổ sung là chế định pháp lý được quy định tại
Điều 168 và Điều 179 Bộ luật Tố tụng hình sự cho phép các cơ quan tiến
hành tố tụng thực hiện trong quá trình điều tra, giải quyết vụ án hình sự. Đây
là quyền hạn của các cơ quan tiến hành tố tụng được thực hiện khi có căn cứ
pháp luật nhằm đảm bảo cho việc điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự
khách quan, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không làm oan người vô
tội, không bỏ lọt tội phạm.
Điều 168 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 quy định về việc Viện
kiểm ra quyết định trả hồ sơ cho Cơ quan điều tra để điều tra bổ sung khi
nghiên cứu hồ sơ vụ án phát hiện thấy còn thiếu những chứng cứ quan trọng
đối với vụ án mà Viện kiểm sát không thể tự mình bổ sung được; có căn cứ để
khởi tố bị can về một tội phạm khác hoặc có đồng phạm khác hay có vi phạm
nghiêm trọng thủ tục tố tụng. Viện kiểm sát ra quyết định trả hồ sơ để điều tra

13


Ket-noi.com
Ket-noi.com kho
kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi

bổ sung trong thời hạn truy tố quy định tại khoản 1 Điều 166 của Bộ luật Tố
tụng hình sự.
Thẩm phán được phân công nghiên cứu hồ sơ vụ án hình sự sơ thẩm
ra quyết định trả hồ sơ cho Viện kiểm sát để điều tra bổ sung trong giai đoạn

trước ngày mở phiên tòa sơ thẩm trong thời hạn cụ thể được quy định tại điểm c
khoản 2 Điều 176 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003.
Trong thời hạn ba mươi ngày đối với tội phạm ít nghiêm
trọng, bốn mươi lăm ngày đối với tội phạm nghiêm trọng, hai tháng
đối với tội phạm rất nghiêm trọng, ba tháng đối với tội phạm đặc
biệt nghiêm trọng, kể từ ngày nhận hồ sơ vụ án, Thẩm phán được
phân công chủ tọa phiên tòa phải ra một trong những quyết định
sau đây:
a) Đưa vụ án ra xét xử ;
b) Trả hồ sơ để điều tra bổ sung;
c) Đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án [21].
Trong quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung, Thẩm phán cũng cần
nêu rõ thuộc trường hợp cụ thể nào quy định tại các điểm a, b và c khoản 1
Điều 179 của Bộ luật Tố tụng hình sự và những vấn đề cụ thể cần điều tra bổ
sung. Đó là: Khi cần xem xét thêm những chứng cứ quan trọng đối với vụ án
mà không thể bổ sung tại phiên tòa được; khi có căn cứ để cho rằng bị cáo
phạm một tội khác hoặc có đồng phạm khác; hoặc khi phát hiện có vi phạm
nghiêm trọng thủ tục tố tụng.
Tại phiên tòa Hội đồng xét xử cũng có thể ra quyết định yêu cầu điều
tra bổ sung, quyết định yêu cầu điều tra bổ sung trong giai đoạn này cần tuân
thủ quy định tại Điều 199 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, quyết định đó
phải được thảo luận và thông qua tại phòng nghị án và phải được lập thành
văn bản.

14


Sự khác nhau giữa quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai
đoạn nghiên cứu hồ sơ trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm và quyết định
trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung tại phiên tòa là:

Thứ nhất, về thời điểm: Thời điểm Thẩm phán nghiên cứu hồ sơ vụ án
hình sự sơ thẩm ra quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung là trong khi nghiên
cứu hồ sơ và trước ngày mở phiên tòa xét xử sơ thẩm. Thời điểm Hội đồng
xét xử yêu cầu điều tra bổ sung là tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
và tại phòng nghị án.
Thứ hai, về điều luật áp dụng: Quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung
trong khi nghiên cứu hồ sơ trước ngày mở phiên tòa căn cứ vào Điều 176 và
một trong số các căn cứ tại Điều 179 của Bộ luật Tố tụng hình sự.
Quyết định yêu cầu điều tra bổ sung tại phiên tòa áp dụng Điều 199 và
một trong số các căn cứ của Điều 179 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003.
Thứ ba, về thẩm quyền quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung: Quyết
định trả hồ sơ để điều tra bổ sung trước khi xét xử sơ thẩm, thuộc thẩm quyền
Thẩm phán được phân công nghiên cứu hồ sơ vụ án. Quyết định yêu cầu điều
tra bổ sung tại phiên tòa thuộc thẩm quyền Hội đồng xét xử.
Thứ tư, về hậu quả pháp lý: Hậu quả pháp lý của trả hồ sơ để điều tra
bổ sung trong giai đoạn trước khi xét xử sơ thẩm là xóa sổ thụ lý vụ án. Hậu
quả pháp lý của trả hồ sơ để điều tra bổ sung tại phiên tòa là hoãn phiên tòa.
Phiên tòa sẽ được tiến hành khi có kết quả điều tra của Cơ quan điều tra và
Viện kiểm sát.
Tuy có những điểm giống và khác nhau nhưng trả hồ sơ để điều tra bổ
sung đều mục đích chung và cốt lõi nhất đó là việc làm sáng rõ nội dung, bản
chất của vụ án hình sự.
Về hậu quả việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung:
- Vụ án tiếp tục đưa ra xét xử mà không bổ sung chứng cứ mới. Đó là
trong trường hợp Tòa án đã trả hồ sơ để yêu cầu điều tra bổ sung nhưng Viện

15


Ket-noi.com

Ket-noi.com kho
kho tai
tai lieu
lieu mien
mien phi
phi

kiểm sát không chấp nhận yêu cầu điều tra bổ sung của Tòa án hoặc đã qua
điều tra bổ sung nhưng không tìm được chứng cứ mới nên tiếp tục truy tố bị
cáo ra trước Tòa với tội danh cũ.
- Viện kiểm sát hoặc Cơ quan điều tra ra quyết định đình chỉ điều tra
vụ án.
- Vụ án có bổ sung chứng cứ và tiếp tục đưa ra xét xử.
Chế định trả hồ sơ để điều tra bổ sung không được Bộ luật Tố tụng
hình sự năm 2003 đặt ra trong giai đoạn xét xử phúc thẩm nhưng khoản 1
Điều 246, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 đã đưa ra quy định: "Trước khi
xét xử hoặc trong khi xét hỏi tại phiên tòa, Viện kiểm sát có thể tự mình hoặc
theo yêu cầu của Tòa án bổ sung chứng cứ mới". Vấn đề "bổ sung" chứng cứ
mới này cũng được chia thành hai giai đoạn là trước khi xét xử phúc thẩm và
tại phiên tòa phúc thẩm và cũng do hai chủ thể có thể đưa ra yêu cầu là Viện
Kiểm sát và Tòa án. Về bản chất thì vẫn là việc Tòa án và Viện kiểm sát yêu
cầu bổ sung chứng cứ và nếu yêu cầu bổ sung chứng cứ mới đó xuất phát từ
phía tòa án, thì Tòa án vẫn phải trả hồ sơ thì mới có thể thực hiện được việc
bổ sung chứng cứ mới, nhưng luật không quy định việc bổ sung chứng cứ mới
này phải thực hiện bằng một quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung.
Trong quyết định, bản án của mình Tòa án cấp phúc thẩm có quyền hủy
bản án sơ thẩm để điều tra lại hoặc xét xử lại khi nhận thấy việc điều tra ở cấp sơ
thẩm không đầy đủ mà cấp phúc thẩm không thể bổ sung được (Điều 250 Bộ
luật Tố tụng hình sự năm 2003). Sau khi Tòa án cấp phúc thẩm hủy bản án sơ
thẩm để điều tra lại hoặc xét xử lại thì Cơ quan điều tra tiến hành điều tra lại, Viện

kiểm sát truy tố lại và Tòa án cấp sơ thẩm xét xử lại vụ án theo thủ tục chung.
Giai đoạn giám đốc thẩm cũng không đặt ra vấn đề trả hồ sơ để điều
tra bổ sung nhưng theo quy định tại Điều 287 Bộ luật Tố tụng hình sự năm
2003, thì Hội đồng giám đốc thẩm có quyền hủy bản án hoặc quyết định đã có
hiệu lực pháp luật bị kháng nghị để điều tra lại hoặc xét xử lại.

16

Formatted: Indent: First line: 0.59", Space
Before: 6 pt, Line spacing: Exactly 22.7 pt,
Don't keep with next


Xuất phát từ điều luật này tại cấp Giám đốc thẩm, vụ án hình sự có thể

Formatted: Indent: First line: 0.59", Space
Before: 6 pt, Line spacing: Exactly 22.5 pt

bị hủy để điều tra lại do các nguồn sau: Tòa án tự kiểm tra phát hiện ra (tự
Tòa án đã xét xử sơ thẩm, phúc thẩm nhận thấy và kiến nghị lên cấp giám đốc
thẩm; Do Tòa án cấp trên kiểm tra nhận thấy); Do giải quyết khiếu nại (có
đơn yêu cầu kháng nghị giám đốc thẩm của cá nhân công dân, cơ quan tổ
chức...). Tuy vậy, cho dù xuất phát từ nguồn nào thì vụ án cũng chỉ có thể
xem xét theo thủ tục Giám đốc thẩm khi người có thẩm quyền có quyết định
kháng nghị giám đốc thẩm.Trong trường hợp hủy bản án hoặc quyết định bị
kháng nghị để điều tra lại hoặc để xét xử lại và xét thấy việc tiếp tục tạm giam
bị cáo là cần thiết, thì Hội đồng giám đốc thẩm ra lệnh tạm giam cho đến khi
Viện kiểm sát hoặc Tòa án thụ lý lại vụ án.
Quy định này của giai đoạn Giám đốc thẩm là phù hợp vì Giám đốc
thẩm không phải là một cấp xét xử theo nguyên tắc được quy định tại Điều 20

của Bộ luật Tố tụng Việt Nam năm 2003 về thực hiện chế độ hai cấp xét xử:
1. Tòa án thực hiện chế độ hai cấp xét xử.
Bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án có thể bị kháng cáo,

Formatted: Indent: Left: 0.79", First line:
0.59", Space Before: 6 pt, Line spacing:
Exactly 22.5 pt

kháng nghị theo quy định của Bộ luật này.
Bản án, quyết định sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị
trong thời hạn do Bộ luật này quy định thì có hiệu lực pháp luật.
Đối với bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị thì vụ
án phải được xét xử phúc thẩm. Bản án, quyết định phúc thẩm có
hiệu lực pháp luật.
2. Đối với bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực
pháp luật mà phát hiện có vi phạm pháp luật hoặc có tình tiết mới
thì được xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm [21].
Về căn cứ để hủy bản án hoặc quyết định để điều tra lại tại Điều 250
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 bao quát hơn căn cứ để trả hồ sơ để điều
tra bổ sung được quy định tại Điều 179 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003.
17

Formatted: Indent: First line: 0.59", Space
Before: 6 pt, Line spacing: Exactly 22.5 pt


Ket-noi.com
Ket-noi.com kho
kho tai
tai lieu

lieu mien
mien phi
phi

Căn cứ để hủy bản án hoặc quyết định để điều tra lại tại Điều 273 Bộ luật Tố
tụng hình sự lại bao quát hơn căn cứ tại Điều 250 Bộ luật Tố tụng hình sự.
Điều đó là phán ánh đúng quy trình giải quyết vụ án hình sự, vì đến cấp giám
đốc thẩm thì vụ án đã được trải qua hai cấp xét xử.
Tuy vậy ở các điều luật này đều đưa ra một quy định rất được chú

Formatted: Indent: First line: 0.59", Space
Before: 6 pt, Line spacing: Exactly 22.65 pt

trọng khi xem xét đến vấn đề phải điều tra lại, đó là "khi có sự vi phạm
nghiêm trọng thủ tục tố tụng".
Về hậu quả pháp lý của việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung và hủy bản
án có hiệu lực pháp luật để điều tra lại giống nhau ở chỗ là đều là việc Cơ
quan điều tra sẽ nhận lại hồ sơ do Viện kiểm sát chuyển lại theo yêu cầu điều
tra bổ sung của Viện kiểm sát hay của Tòa án nhưng khác nhau về thời hạn
điều tra. Về thời hạn để điều tra bổ sung theo yêu cầu của Viện kiểm sát hoặc
Tòa án thì thời hạn điều tra phải đảm bảo thực hiện theo đúng quy định tại
khoản 2 Điều 121 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003:
Trong trường hợp vụ án do Viện kiểm sát trả lại để điều tra
bổ sung thì thời hạn điều tra bổ sung không quá hai tháng; nếu do
Tòa án trả lại để điều tra bổ sung thì thời hạn điều tra bổ sung
không quá một tháng. Viện kiểm sát hoặc Tòa án chỉ được trả lại
hồ sơ để điều tra bổ sung không quá hai lần. Thời hạn điều tra bổ
sung tính từ ngày Cơ quan điều tra nhận lại hồ sơ vụ án và yêu cầu
điều tra [21].
Về thời hạn điều tra của Cơ quan điều tra sau khi Tòa án hủy bản án

có hiệu lực pháp luật để điều tra lại thì thời hạn điều tra và việc gia hạn điều
tra được tính theo thủ tục chung được quy định tại Điều 119 của Bộ luật Tố
tụng hình sự năm 2003:
Thời hạn điều tra vụ án hình sự không quá hai tháng đối với
tội phạm ít nghiêm trọng, không quá ba tháng đối với tội phạm nghiêm
trọng, không quá bốn tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng và

18

Formatted: Indent: First line: 0.59", Space
Before: 6 pt, Line spacing: Exactly 22.65 pt


tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, kể từ khi khởi tố vụ án cho đến khi
kết thúc điều tra; Trong trường hợp cần gia hạn điều tra do tính
chất phức tạp của vụ án thì chậm nhất là mười ngày trước khi hết
hạn điều tra, Cơ quan điều tra phải có văn bản đề nghị Viện kiểm
sát gia hạn điều tra... [21].
Những phân tích và so sánh trên của chúng tôi không đơn thuần chỉ là

Formatted: Indent: First line: 0.59", Space
Before: 6 pt, Line spacing: Exactly 22.3 pt

so sánh về sự khác nhau và giống nhau của trả hồ sơ để điều tra bổ sung ở các
giai đoạn tố tụng khác nhau được tiến hành bởi các chủ thể giống và khác
nhau cũng như hậu quả pháp lý của việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung ở từng
giai đoạn. Mục đích của chúng tôi là qua việc so sánh và phân tích để hiểu
một cách sâu sắc về bản chất pháp lý của chế định trả hồ sơ để điều tra bổ
sung để có thể đưa ra khái niệm ban đầu về chế định trả hồ sơ để điều tra bổ
sung như sau:

Trả hồ sơ để điều tra bổ sung là chế định của luật tố tụng hình sự quy
định Viện kiểm sát hoặc Tòa án chuyển trả hồ sơ cho Viện kiểm sát hoặc cơ
quan điều tra để điều tra thêm về vụ án hình sự. Theo các căn cứ được quy định
trong Bộ luật Tố tụng hình sự nhằm mục đích làm sáng tỏ vụ án hình sự, để Tòa
án xét xử vụ án một cách công minh, chính xác, khách quan, đúng người,
đúng tội, đúng pháp luật, không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội.
1.2.2. Các căn cứ để trả hồ sơ điều tra bổ sung
1.2.2.1. Khi cần xem xét thêm những chứng cứ quan trọng đối với
vụ án mà Viện kiểm sát và Tòa án không thể bổ sung được
Theo quy định tại khoản 1 Điều 168 Bộ luật Tố tụng hình sự thì Viện
kiểm sát ra quyết định trả hồ sơ cho Cơ quan điều tra để điều tra bổ sung khi
nghiên cứu hồ sơ vụ án phát hiện thấy: Còn thiếu những chứng cứ quan trọng
đối với vụ án mà Viện kiểm sát không thể tự mình bổ sung được.
Điểm a khoản 1 Điều 179 Bộ luật Tố tụng hình sự cũng quy định
Thẩm phán ra quyết định trả hồ sơ cho Viện kiểm sát để điều tra bổ sung: Khi

19

Formatted: Indent: First line: 0.59", Space
Before: 6 pt, Line spacing: Exactly 22.3 pt


×