Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

SKKN một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học theo nhóm cho học sinh lớp 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (230.46 KB, 19 trang )

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập -Tự do - Hạnh phúc

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
DẠY HỌC THEO NHÓM CHO HỌC SINH LỚP 2

Quảng Ninh, tháng 5 năm 2018


CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập -Tự do - Hạnh phúc

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
DẠY HỌC THEO NHÓM CHO HỌC SINH LỚP 2

Họ và tên: Võ Thị Thúy Hồng
Chức vụ: TPCM tổ 2 - 3
Đơn vị công tác: Trường Tiểu học số 2 An Ninh

Quảng Ninh, tháng 5 năm 2018


1. MỞ ĐẦU
1.1 Lí do chọn sáng kiến kinh nghiệm:
Sự nghiệp giáo dục - đào tạo có vị trí quan trọng trong chiến lược con người,
chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước: “Nguồn tài nguyên và sự giàu
có của một quốc gia không phải nằm trong lòng đất mà chính là nằm trong bản
thân con người, trí tuệ con người”. Muốn tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá
thắng lợi phải đẩy mạnh phát triển giáo dục - đào tạo vì giáo dục đào tạo có vai


trò quan trọng trong lĩnh vực sản xuất vật chất xã hội cũng như xây dựng nền văn
hoá. Xác định tầm quan trọng đó tại Hội nghị lần thứ 8, Ban Chấp hành Trung
ương khóa XI đã ban hành Nghị quyết số 29-NQ/TW về đổi mới căn bản, toàn
diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong
điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc
tế. Đảng và Nhà nước xác định mục tiêu của đổi mới lần này là: Nâng cao chất
lượng giáo dục toàn diện, chú trọng giáo dục lí tưởng, truyền thống, đạo đức, lối
sống, ngoại ngữ, tin học, năng lực và kỹ năng thực hành, vận dụng kiến thức vào
thực tiễn. Phát triển khả năng sáng tạo, tự học, khuyến khích học tập suốt đời.
Để thực hiện mục tiêu đó, ngay từ cấp Tiểu học cần phải có định hướng đúng
đắn về phương pháp học tập cho các em. Trong quá trình lên lớp, giáo viên không
chỉ cung cấp kiến thức mà hơn hết phải dạy cho các em cách tự học để từng bước
rèn kĩ năng tự học và giúp các em có thể tự học suốt cả cuộc đời. Chính vì thế
việc tổ chức dạy học theo nhóm là hết sức cần thiết. Thông qua việc dạy học hợp
tác theo nhóm giúp học sinh có cơ hội được sử dụng kiến thức, kĩ năng và kinh
nghiệm mà các em đã có. Đồng thời cho phép học sinh diễn đạt những ý tưởng,
những khám phá của mình; rèn luyện và phát triển kĩ năng làm việc chung, kĩ
năng giao tiếp; tăng cường tính tích cực trong học tập và phát triển sự sáng tạo
của học sinh.
Trong năm học 2017 - 2018, theo định hướng về việc đổi mới phương pháp
dạy học (PPDH), trường tôi tiếp tục thực hiện dạy học theo mô hình trường học
mới VNEN. Tuy nhiên trong quá trình áp dụng hình thức dạy học này, việc tổ
chức dạy học theo nhóm với một số giáo viên còn mang tính hình thức nên đạt
hiệu quả chưa cao. Vậy làm thế nào để tổ chức hoạt động nhóm hiệu quả? Để trả
lời câu hỏi này tôi mạnh dạn chọn đề tài "Một số biện pháp nâng cao chất
lượng dạy học theo nhóm cho học sinh lớp 2" với mong muốn chia sẻ chút
thành công cho đồng nghiệp. Tuy nhiên, với phạm vi của một sáng kiến kinh
nghiệm nhỏ sẽ không tránh khỏi những ý kiến chủ quan và những thiếu sót, rất
mong được các bạn đồng nghiệp đóng góp, xây dựng, bản thân sẽ nghiêm túc tiếp
thu và nghiên cứu để đề tài được hoàn thiện hơn.



1.2 Điểm mới của sáng kiến kinh nghiệm:
Đã có nhiều người sử dụng phương pháp thảo luận nhóm trong giảng dạy
nhưng ở sáng kiến này có hai điểm mới sau:
- Hướng học sinh đến hoạt động tự học, tự chiếm lĩnh kiến thức dưới sự tổ chức,

điều hành của nhóm trưởng và sự hướng dẫn, giúp đỡ của giáo viên.
- Bồi dưỡng và đào tạo đội ngũ nhóm trưởng.
2. NỘI DUNG:
2.1 Thực trạng trước khi viết sáng kiến:
2.1.1 Thực trạng của giáo viên:
Một số giáo viên tổ chức hoạt động theo nhóm còn mang tính hình thức mà
chưa chú trọng đến hiệu quả.
Khi tiến hành tổ chức dạy học theo nhóm nhỏ, giáo viên chủ yếu hướng học
sinh nhằm vào mục tiêu hoàn thành nhiệm vụ học tập cụ thể mà chưa chú trọng
giáo dục cho học sinh những kĩ năng xã hội quan trọng như kĩ năng hợp tác, kĩ
năng giao tiếp....
Giáo viên chưa chú trọng đến việc bồi dưỡng các đối tượng học sinh có năng
khiếu. Cụ thể là trong một nhóm có nhiều trình độ nên các em có năng khiếu làm
xong nhiệm vụ rồi ngồi chơi mà giáo viên chưa chú ý để giao thêm nhiệm vụ cho
các em.
*Nguyên nhân của những tồn tại trên đó là:
Theo một số giáo viên thì học hợp tác nhóm là xếp các em vào một nhóm để
cùng giải quyết một câu hỏi khó mà một em học sinh bình thường không thể giải
quyết được. Hơn nữa PPDH truyền thống đã ăn sâu vào mỗi giáo viên nên một số
giáo viên chưa thực sự chú tâm và hào hứng với cách thức tổ chức lớp học mới.
Nhiều giáo viên ngại sử dụng phương pháp này vì đòi hỏi phải chuẩn bị công
phu như phiếu học tập, đồ dùng học tập…; quản lí khó khi tổ chức thực hiện trên
lớp.

Việc chuẩn bị mọi điều kiện cho tiết dạy của một số giáo viên chưa chu đáo
vì vậy không có những bài tập hoặc câu hỏi để dành cho những học sinh có năng
khiếu khi các em đã hoàn thành nhiệm vụ chung.
2.1.2 Thực trạng của học sinh:
Đa số nhóm trưởng còn thiếu kỹ năng trong điều hành và quản lý hoạt động
của nhóm.
Những kỹ năng và phương pháp hoạt động theo nhóm của học sinh còn hạn
chế. Các em chỉ biết nhận nhiệm vụ là hoàn thành bài tập bằng cách làm việc
nhóm mà chưa biết phải làm việc nhóm như thế nào để hoàn thành bài tập một
cách tốt nhất.


Một số học sinh còn rụt rè, nhút nhát trong thảo luận nhóm; ngại giao tiếp với
giáo viên và các bạn.
Một số nhóm chưa có sự tương tác, hỗ trợ lẫn nhau để cùng hoàn thành nhiệm
vụ học tập.
Mô hình học nhóm suốt trong buổi học, tạo cho một bộ phận học sinh có cơ
hội nói chuyện riêng và ỷ lại vào người khác.
* Nguyên nhân của những tồn tại trên đó là:
Học sinh lớp 2 mới bước đầu tiếp cận với mô hình trường học mới và phương
pháp học tập theo nhóm nên việc tổ chức các hoạt động của lớp học còn hạn chế.
Các nhóm trưởng chưa được tập huấn thường xuyên nên chưa có kĩ năng điều
hành hoạt động của nhóm. Nhóm trưởng chưa thực sự phát huy được vai trò của
mình.
Chưa thật sự có sự gắn kết, hỗ trợ giữa các thành viên trong một nhóm.
Không khí làm việc trong nhóm chưa thân thiện, cởi mở, ít tạo cơ hội cho các
thành viên phát huy năng lực, khiến các thành viên không muốn tham gia hoặc
tham gia một cách rất hình thức.
Học sinh vùng nông thôn giao tiếp còn nhiều hạn chế nên các em thường
nhút nhát, thiếu tự tin.

Một số học sinh còn có tâm lý ỷ lại, dựa dẫm vào các bạn cùng nhóm.
Giáo viên thỉnh thoảng thiếu bao quát tất cả các nhóm; lớp học có số học sinh
đông ( 29 em), trình độ nhận thức không đồng đều nên dẫn đến các em có thời
gian trống để nói chuyện riêng.
Từ thực tế trên, vấn đề đặt ra là phải làm sao để chính các em cảm thấy hứng
thú với việc học để từ đó, hướng các em đến sự đam mê học tập, có ý thức tự học
và đạt kết quả cao trong học tập. Tôi luôn trăn trở làm thế nào để tìm ra một số
giải pháp góp phần nâng cao chất lượng dạy học theo nhóm cho học sinh lớp 2.
Tôi tự hứa với lòng mình phải cố gắng thật nhiều trong công tác giảng dạy và
phải đặc biệt quan tâm, gần gũi hơn với tất cả học sinh trong lớp.
2.2 Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học theo nhóm cho học sinh
lớp 2:
2.2.1 Nhận thức đúng tầm quan trọng của việc dạy học theo nhóm:
Sự thành công của việc giảng dạy phụ thuộc rất nhiều vào PPDH được giáo
viên lựa chọn. Cùng một nội dung nhưng tùy thuộc vào phương pháp sử dụng thì
sẽ có những kết quả khác nhau. Trong dạy học theo mô hình trường học mới
VNEN, PPDH theo nhóm phát huy được tính tích cực của người học, dạy học
hướng về người học. Chính vì vậy mà giáo viên và học sinh phải nhận thức đúng
đắn tầm quan trọng của việc học theo nhóm.


Phương pháp học tập theo nhóm có rất nhiều ích lợi nhưng sau đây là một
số ích lợi cơ bản:
Thứ nhất: Hoạt động nhóm giúp học sinh tích cực và tham gia học tập
nhiều hơn.
Thứ hai: Các kĩ năng giao tiếp về mặt xã hội và một số kĩ năng sống được
phát triển.
Thứ ba: Thông qua hoạt động nhóm, các em có thể tự diễn đạt bằng lời và
chia sẻ các ý tưởng của mình với những người khác trong việc phát triển các kĩ
năng ngôn ngữ, qua đó các em có thể giúp đỡ lẫn nhau.

Thứ tư: Thông qua hoạt động nhóm, giáo viên có thể hỗ trợ các đối tượng
học sinh theo nhu cầu khác nhau đồng thời tạo cho các em tính mạnh dạn, tự tin
trong quá trình giao tiếp.
Dựa trên việc xác định đúng đắn những lợi ích mà phương pháp học tập
theo nhóm mang lại thì điều quan trọng nhất là giáo viên có thể chuyển hóa
những lí thuyết trên thành các hoạt động cụ thể, có tính thường xuyên để góp
phần nâng cao chất lượng dạy học.
2.2.2 Phân biệt sự khác nhau giữa cách tổ chức dạy học theo nhóm
truyền thống và cách tổ chức hoạt động nhóm theo mô hình trường học mới
VNEN:
Trên thực tế không phải khi áp dụng mô hình trường học mới VNEN mới tổ
chức dạy học theo nhóm mà từ trước đến nay trong quá trình dạy học đã tổ chức
học sinh hoạt động theo nhóm. Tuy nhiên việc tổ chức hoạt động nhóm theo mô
hình trường học mới VNEN có sự khác biệt rõ rệt. Cụ thể:
Tổ chức dạy học theo nhóm truyền Tổ chức hoạt động nhóm theo mô
thống
hình trường học mới VNEN
Chỉ tổ chức hoạt động theo nhóm khi Tổ chức học sinh hoạt động theo nhóm
có những nội dung khó cần phải tập xuyên suốt cả quá trình học tập.
trung trí tuệ của cả nhóm, hoặc khi
giáo viên đưa ra một vấn đề có nhiều
cách trả lời khác nhau.
Nhóm trưởng nêu vấn đề, các thành
viên trong nhóm suy nghĩ rồi mỗi
thành viên trả lời một ý kiến, thư kí tập
hợp các ý kiến thảo luận rồi từng nhóm
lần lượt trình bày kết quả thảo luận
trước lớp.

Nhóm trưởng nêu vấn đề hoặc giao

nhiệm vụ, cá nhân suy nghĩ và tự hoàn
thành nhiệm vụ được giao. Sau đó
nhóm trưởng yêu cầu các thành viên
trong nhóm trình bày kết quả làm việc
của mình, các thành viên khác bổ sung


để hoàn thiện kiến thức. Như vậy dù
học theo nhóm nhưng học cá nhân vẫn
là chủ yếu, nhóm chỉ giúp cá nhân
hoàn thiện kiến thức. Giáo viên theo
dõi, kiểm tra việc hoàn thành nhiệm vụ
của nhóm để trợ giúp khi học sinh gặp
khó khăn.
Nhóm trưởng cố định

Nhóm trưởng có sự luân phiên

Giáo viên chốt kiến thức sau khi các Các thành viên trong nhóm tương tác
nhóm trình bày.
với nhau để hoàn thành nhiệm vụ. Chỉ
tổ chức hoạt động theo lớp khi giáo
viên quan sát thấy các nhóm đều sai
những lỗi giống nhau hoặc đều lúng
túng trước nhiệm vụ nào đó.
Giáo viên thiết kế phiếu học tập cho Giáo viên chủ yếu thiết kế phiếu chỉ
những nội dung cần thảo luận.
dẫn học tập cho những bài có sự điều
chỉnh.
2.2.3 Giáo viên và học sinh làm tốt công tác chuẩn bị:

Hiện nay, theo mô hình trường học mới, vai trò của giáo viên đã được thay đổi
thực sự. Giáo viên không còn là người truyền thụ, giảng giải mà chuyển sang là
người hướng dẫn, trợ giúp học sinh khi cần thiết. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa
là vai trò quan trọng của người thầy bị giảm sút, mà ngược lại vai trò của giáo viên
thực sự “nặng nề” hơn rất nhiều. Xác định được điều đó tôi dành nhiều thời gian
để tìm hiểu hoàn cảnh, đặc điểm, tâm lí, trình độ của các em học sinh trong lớp;
nghiên cứu, điều chỉnh tài liệu hướng dẫn học; xác định mục tiêu, yêu cầu cần đạt
trong từng hoạt động, từng bài để từ đó xây dựng kế hoạch bài học hợp lí. Trước
khi lên lớp, tôi chuẩn bị đồ dùng, sưu tầm tư liệu như tranh, ảnh, vật thực giúp
học sinh gắn kiến thức với thực tiễn.
VD : Bài 29 C: CÂY CÓ NHỮNG BỘ PHẬN NÀO? (Tiết 3)
- Sách Hướng dẫn học Tiếng Việt lớp 2 - tập 2B, trang 26.
Sau khi nghiên cứu kĩ tài liệu tôi có một số điều chỉnh. Cụ thể như sau:
* Mục tiêu:
Ngoài 2 mục tiêu như ở trong SGK ( Nghe - kể lại câu chuyện; mở rộng vốn từ về
các bộ phận của cây) tôi đã bổ sung thêm mục tiêu thứ ba: Giáo dục các em biết
yêu quý và bảo vệ các loài hoa.
* HĐ 3: Bổ sung thêm yêu cầu:


Kể câu chuyện “ Sự tích hoa dạ lan hương”.
Câu hỏi: Câu chuyện “Sự tích hoa dạ lan hương” nói lên điều gì?
Tôi chuẩn bị phiếu chỉ dẫn học tập cụ thể. Đồng thời sưu tầm tranh, ảnh về hoa dạ
lan hương để học sinh dễ dàng quan sát; chuẩn bị băng hình để cho học sinh nghe
mẫu câu chuyện.
Học sinh: cần chuẩn bị đầy đủ phương tiện học tập như sách, vở, bút mực, thước
kẻ, bút dạ và các đồ dùng khác phục vụ cho việc thảo luận nội dung học tập như:
sưu tầm tranh ảnh, vật thực, giấy A0…
Tùy theo nội dung, yêu cầu của từng bài học để giáo viên nhắc nhở học sinh chuẩn
bị cho phù hợp.

* Bài 28 C: BẠN THÍCH CÂY GÌ? (Tiết 3)
- Sách Hướng dẫn học Tiếng Việt lớp 2 - tập 2B, trang 12.
HĐ 6: ( HĐ thực hành)
Viết một đoạn văn về loại quả em thích theo gợi ý sau:
- Đó là quả gì?
- Màu sắc, hình dáng như thế nào?
- Quả có mùi vị gì?
Để học sinh có thể viết được một đoạn văn hay thì giáo viên hướng dẫn học sinh
chuẩn bị tranh, ảnh hoặc các quả thật. Từ việc quan sát và biết được đặc điểm của
mỗi loài quả các em có thể viết đoạn văn dễ hơn.
2.2.4 Chia nhóm và tổ chức quản lí hoạt động nhóm hiệu quả:
a. Chia nhóm:
Có nhiều cách chia nhóm. Tùy theo bài học hoặc tùy theo đặc điểm của lớp, ta
có thể chia nhóm theo các cách sau đây:
* Cho HS tự chọn nhóm:
Đây là hoạt động mà học sinh rất hứng thú. Các nhóm nhỏ (4 - 6 học sinh)
được hình thành dựa theo sở thích, thói quen của nhau. Học sinh tự hình thành
nhóm trên cơ sở nguyện vọng.
* Chia nhóm một cách ngẫu nhiên:
Đây là dạng tổ chức nhóm ngẫu nhiên, một hình thức chia nhóm công bằng
cho tất cả HS.
Cách làm như sau:
Người quản trò hô“ đoàn kết - đoàn kết”; Học sinh đáp “ kết mấy kết mấy” kết thành vòng tròn, từ đó ta chia nhóm tiếp.
Lớp tôi có 28 học sinh, tôi muốn chia lớp thành 7 nhóm thì ta hô
“ đoàn kết đoàn kết” “ kết mấy kết mấy” : “ kết 4 - kết 4” …
* Giáo viên là người chọn nhóm:


- Nhóm khả năng đa dạng: Giáo viên sẽ phân chia để trong nhóm có cả học
sinh khá lẫn học sinh yếu nhằm hỗ trợ lẫn nhau.

- Nhóm học sinh theo đối tượng: Cách phân chia nhóm như thế này được
áp dụng trong các tiết ôn luyện buổi chiều. Bằng cách này giúp giáo viên dạy sát
đối tượng hơn.
Trong nhóm, các em tham gia thực hiện các nhiệm vụ học tập một cách
cộng hưởng và bổ trợ cho nhau. Bởi vậy, trong một năm học sẽ có nhiều lần chia
nhóm thì lần đầu tiên chia nhóm trong năm học là do tôi chủ động chia, các lần
sau mới vận dụng cách chia ngẫu nhiên hay cho học sinh tự chọn nhóm…
Lí do: Tôi muốn ngay đầu năm nhóm học tập có đủ các đối tượng học sinh
để nhóm trưởng và các thành viên trong nhóm làm quen, xử lí các tình huống liên
quan đến mọi đối tượng học sinh có thể xảy ra trong quá trình học tập.
Sau khi học sinh được tập huấn và làm quen với nhóm có đủ mọi đối tượng
học sinh thì những lần sau dù giáo viên chia nhóm theo hình thức nào học sinh
cũng không có gì khó khăn, bỡ ngỡ.
b. Tổ chức quản lí hoạt động nhóm:
* Phân công vị trí cá nhân và công việc của từng thành viên trong nhóm.
Việc xếp chỗ ngồi cũng là vấn đề mà tôi phải cân nhắc, làm sao để lựa chọn
bạn ngồi chung bàn không gây mất trật tự, hỗ trợ nhau trong việc học và làm việc
theo nhóm thuận tiện, xếp chỗ dàn đều số học sinh nổi trội, học sinh hạn chế giữa
các nhóm để tạo sự cân bằng trong thi đua và cùng nhau phấn đấu tốt hơn.
Tôi thường xuyên thay đổi chỗ ngồi nếu thấy tình hình thực tế chưa hợp lí.
Những em chậm tiến bộ thì xếp các em ngồi lên bàn đầu, đồng thời giao nhiệm
vụ cho em nổi trội kèm cặp, hỗ trợ bạn học tập qua từng tiết học, bài học và trong
mọi hoạt động. Đồng thời cũng tiện cho giáo viên theo dõi hướng dẫn học sinh
học tập và theo dõi kết quả học tập của các em qua từng bài học. Đặc biệt, cần
chú ý phát triển tư duy, nâng cao kiến thức, bồi dưỡng học sinh nổi trội, học sinh
có năng lực đặt biệt.
VD : Sơ đồ lớp học 22
Bàn GV:
Cá Vàng


Họa Mi

Sóc Nâu

Gấu Trúc

Vịt Con

Nai Con

Thỏ Trắng
Trong mỗi nhóm tôi xây dựng phong trào “Đôi bạn cùng tiến”… Đôi bạn ấy phải
tâm đầu ý hợp, biết yêu thương, giúp đỡ nhau, tạo điều kiện phát huy vai trò tự quản
của học sinh và các em thấy được sự quan tâm của cô giáo với các em.


Tôi phân công nhiệm vụ cụ thể cho các thành viên trong nhóm. Cụ thể như
sau:
Nhóm trưởng: Quản lí, chỉ đạo, điều khiển các thành viên trong nhóm hoạt động.
Thư kí: Ghi chép kết quả công việc của nhóm sau khi được sự đồng tình của cả
nhóm.
Báo cáo viên trình bày trước lớp kết quả thảo luận của cả nhóm.
Các thành viên khác có nhiệm vụ tham gia tích cực, đóng góp ý kiến vào hoạt
động của nhóm.
* Các cách thức làm việc trong nhóm:
Chấp hành sự chỉ đạo của nhóm trưởng.
Làm việc cá nhân.
Báo cáo kết quả học tập trước nhóm.
Nhận xét kết quả, bài làm của bạn.
Chủ động tìm trợ giúp khi gặp khó khăn.

Sẵn sàng chia sẻ với bạn khi cần thiết.
Tôn trọng và lắng nghe người khác.
Giáo viên cần giúp học sinh thấy được: mỗi thành viên đều phải cố gắng
hết sức mình không phải vì thành tích cá nhân, mà thành công của từng người tạo
nên niềm vui của cả nhóm. Các em gắn kết với nhau theo phương thức mỗi người
cũng như toàn nhóm không thể thành công nếu mỗi người không cố gắng hoàn
thành trách nhiệm của mình.
2.2.5 Tập huấn, bồi dưỡng kĩ năng điều hành, quản lí cho các nhóm
trưởng:
* Định hướng và lựa chọn nhóm trưởng:
Để hoạt động nhóm đạt kết quả cao thì vai trò của người nhóm trưởng là
rất quan trọng. Nhóm trưởng như là “người giáo viên nhỏ” để điều hành hoạt
động nhóm. Trong các tiết học, nhóm trưởng sẽ thay giáo viên điều hành các hoạt
động nhóm; xác định mục tiêu của hoạt động nhóm; phân công nhiệm vụ cho các
thành viên trong nhóm; quan sát, hướng dẫn các bạn đánh giá bài học; báo cáo
kết quả học tập… Nhóm trưởng huy động sự tham gia ý kiến của mọi thành viên
để giải quyết nhiệm vụ nhóm. Đồng thời hướng dẫn các bạn biết cách tìm kiếm
hỗ trợ và giải quyết một số khó khăn khi gặp phải; biết tổ chức, quản lí công
việc…
Một trong những ưu điểm lớn nhất của phương pháp học nhóm là tất cả
học sinh trong nhóm đều luân phiên nhau làm nhóm trưởng, hướng dẫn, điều
hành các bạn trong nhóm hoạt động. Để có thể chọn lựa các nhóm trưởng làm
việc có hiệu quả tôi đã tìm hiểu kĩ về từng học sinh của lớp mình (năng lực, hạn


chế..) và coi trọng công tác tổ chức lớp ngay từ đầu năm học. Tùy theo giai đoạn
của quá trình học tập mà tôi có thể chỉ định học sinh làm nhóm trưởng hoặc tổ
chức cho học sinh bình bầu một cách khách quan và dân chủ nhất. Trong quá
trình bình bầu, giáo viên cần nêu ra các tiêu chí cụ thể để học sinh dựa vào đó
tiến hành chính xác nhất. Đồng thời, học sinh cũng sẽ lấy những tiêu chí đó làm

hướng phấn đấu trong quá trình học tập để trở thành nhóm trưởng.
Đối với từng môn học, từng thời điểm và năng lực của học sinh mà giáo
viên cần lựa chọn các thành viên làm nhóm trưởng cho phù hợp. Giáo viên nên
hạn chế việc để một học sinh đảm nhận vai trò nhóm trưởng xuyên suốt một năm
học, hoặc làm nhóm trưởng tất cả các môn học trong chương trình. Có thể một
học sinh học chưa học tốt môn Toán, nhưng em lại vẽ rất đẹp thì tôi để học sinh
đó làm nhóm trưởng HĐGD Mỹ thuật, từ đó có cơ sở khuyến khích các em phấn
đấu ngày càng nhiều hơn để hoàn thiện bản thân mình
* Tập huấn, bồi dưỡng kĩ năng điều hành, quản lí cho các nhóm trưởng.
Sau khi đã bầu được nhóm trưởng, tôi hướng dẫn để các nhóm trưởng như
em Trần Lê Như Nguyệt, Võ Thị Thu, Nguyễn Đức Quân …biết cách điều hành
nhóm, hiểu các bước của quá trình học tập, biết tổ chức để mọi thành viên trong
nhóm đều tích cực, tự giác thực hiện các hoạt động học. Các học sinh yếu cần
được quan tâm nhiều hơn để theo kịp nhóm; những học sinh học yếu, nhút nhát
chưa nên bầu làm nhóm trưởng.
VD: Trong tổ chức hoạt động nhóm, tôi hướng dẫn học sinh phải tuân thủ theo 5
bước hoạt động nhóm, đó là:
B1: Cá nhân đọc yêu cầu bài
B2: Nhóm trưởng kiểm tra các thành viên trong nhóm đã nắm được yêu cầu bài
chưa? (chỉ khi nào tất cả thành viên trong nhóm nắm được yêu cầu bài mới
chuyển sang bước tiếp theo);
B3: Hoạt động cá nhân; hoạt động nhóm
B4: Nhóm trưởng tổ chức cho nhóm kiểm tra, thống nhất kết quả.
B5: Báo cáo kết quả hoạt động với giáo viên.
Tôi đã bồi dưỡng năng lực điều hành cho các nhóm trưởng bằng các cách
sau:
- Cách 1: Vào đầu buổi hoặc giờ ra chơi, tôi thường mời các nhóm trưởng ngồi
lại tạo thành một vòng và hướng dẫn các em từng bước một.
VD: Bài 1. ÔN TẬP CÁC SỐ ĐẾN 100 ( HDH Toán tập 1A – trang 3 )
Sau khi học sinh ghi xong tên bài học, nhóm trưởng điều khiển các bạn đọc cá

nhân mục tiêu. Nhóm trưởng nói to, đủ cho cả nhóm nghe: “ Mời các bạn đọc


mục tiêu”. Nhóm trưởng mời bạn A chia sẻ mục tiêu, nhận xét; có thể mời bạn
B nhắc lại. Sau đó đưa thẻ tín hiệu báo hoàn thành.
- Cách 2: Đối với các nhóm còn hạn chế, nhóm trưởng còn lúng túng trong
việc điều hành hoạt động nhóm thì tôi làm mẫu. Từ đó học sinh dễ dàng quan sát
và thực hiện.
- Cách 3: Tôi cho nhóm làm tốt làm mẫu thảo luận một hoạt động nào đó và
các nhóm còn lại chú ý để học tập theo. Tôi động viên, tuyên dương kịp thời các
nhóm làm tốt.
VD: Bài 19 A. CHUYỆN BỐN MÙA ( HDH Tiếng Việt - 2A - trang 3 )
HĐ 5 : Đọc theo nhóm
- Việc 1: Nhóm trưởng yêu cầu các bạn đọc cá nhân bài văn “ Chuyện bốn
mùa”
- Việc 2: Phân công nhiệm vụ đọc nối tiếp đoạn: Mỗi bạn đọc một đoạn, nối
tiếp nhau đến hết bài. Bạn A đọc “từ đầu đến được nghỉ hè”. Bạn B đọc “tiếp theo
đến sao lại có người không thích em được?” Bạn C đọc đoạn còn lại.
- Việc 3: Nhóm trưởng tổ chức cho các bạn chia sẻ, nhận xét. Sau đó, đưa thẻ
tín hiệu báo hoàn thành.
- Cách 4: Tôi chọn ra một số học sinh có năng lực, nhanh nhẹn và nhiệt tình
trong học tập xếp các em vào một nhóm ngay từ những tuần đầu của năm học để
huấn luyện, bồi dưỡng. Khi các em biết việc tôi chia các em này đến làm nhóm
trưởng ở các nhóm.
2.2.6. Cách hướng dẫn các nhóm trong lớp tương tác lẫn nhau và trình
bày, đánh giá kết quả:
* Cách hướng dẫn các nhóm trong lớp tương tác lẫn nhau
Trong một lớp học bao giờ cũng có các đối tượng học tập ở các mức độ
khác nhau. Dạy học theo mô hình trường học mới đòi hỏi phát huy được năng lực
của từng học sinh, cá thể hóa các đối tượng học sinh. Vì vậy, tôi cũng luôn quan

tâm đến tiến độ học tập của các nhóm và tổ chức cho các nhóm tương tác lẫn
nhau.
Để việc tương tác giữa các nhóm đạt hiệu quả tôi đã làm như sau:
Nhóm nào có tiến độ học tập tốt, hoàn thành nhiệm vụ trước, tôi đến kiểm
tra kết quả.
Chỉ dẫn cho các thành viên của nhóm đó đến tương tác với các nhóm còn
lại. Mục đích xem các nhóm đó có vướng mắc gì không để hỗ trợ hoặc đối chiếu
kết quả của mình với nhóm bạn để giúp nhóm bạn sửa sai nếu có.
Đặt ra một số câu hỏi xoay quanh nội dung của hoạt động đang tương tác
để giao lưu, trao đổi.


Sau khi tương tác với nhóm bạn phải báo cáo lại với giáo viên.
* Cách hướng dẫn nhóm trình bày, đánh giá kết quả
Sau khi hết thời gian thảo luận, dưới sự hướng dẫn của giáo viên các nhóm
tiến hành trình bày, chia sẻ kết quả trước lớp. Chia sẻ trước lớp cũng là một hình
thức tự học sinh trao đổi lại nội dung học tập một lần nữa nhằm mục đích khái
quát lại kiến thức, củng cố khắc sâu. Thông qua hoạt động trình bày, chia sẻ toàn
lớp của học sinh mà tôi nhận định các em nắm kiến thức, kĩ năng ở mức độ nào
để chia sẻ tiếp.
Để việc chia sẻ trước lớp của học sinh đạt hiệu quả tôi thường hướng dẫn
học sinh chủ trì việc chia sẻ thực hiện như sau:
Yêu cầu một bạn nêu lại kết quả hoặc cách làm của hoạt động học tập.
Đặt các câu hỏi phỏng vấn bạn như: Vì sao bạn làm như vậy? Bạn đã làm
thế nào để tìm ra, tính ra…? Hoặc dựa vào đâu bạn khẳng định như vậy? Hoạt
động này bạn rút ra điều gì? Tiết học này giúp bạn hiểu thêm điều gì?
Yêu cầu các bạn trong lớp nhận xét, bổ sung.
Học sinh chủ trì đó chốt lại theo ý hiểu của bản thân và các bạn trong lớp.
Xin ý kiến, giáo viên nhận xét bổ sung.
Giáo viên cần khen ngợi những học sinh biết lắng nghe và đưa ra những

câu hỏi thắc mắc phù hợp.
2.2.7. Rèn các kĩ năng giao tiếp cho học sinh trong quá trình hoạt động
nhóm:
a. Kỹ năng giao tiếp, tương tác giữa trẻ với trẻ.
+ Biết lắng nghe và trình bày ý kiến một cách rõ ràng.
+ Biết lắng nghe và biết thừa nhận ý kiến của người khác.
+ Biết ngắt lời một cách hợp lí.
+ Biết phản đối một cách lịch sự và đáp lại lời phản đối.
+ Biết thuyết phục người khác và đáp lại sự thuyết phục.
b. Kỹ năng tạo môi trường hợp tác.
Đây là sự ảnh hưởng qua lại, sự gắn kết giữa các thành viên.
c. Kỹ năng xây dựng niềm tin.
Đây là kỹ năng tránh đi sự mặc cảm nhất là đối tượng học sinh có khó khăn
về học tập.
d. Kỹ năng giải quyết mâu thuẫn.
Đây là kỹ năng giúp học sinh tránh những từ ngữ dễ gây mất lòng
nhau .Vì thế, trong thảo luận cần tránh những từ ngữ như đúng, sai mà cần thay
vào đó những cụm từ như: thế này sẽ tốt hơn, tìm một giải pháp hợp lý hơn…
2.2.8 Nâng cao vai trò của giáo viên trong dạy học theo nhóm:
Tục ngữ Việt Nam có câu: “Không thầy đố mày làm nên”. Quả thật người thầy
có vai trò rất quan trọng không những trong việc truyền thụ kiến thức mà còn giúp
các em hình thành nhân cách, cách sống, cách đối nhân xử thế, cách làm người. Hiện


nay, theo mô hình trường học mới, vai trò của giáo viên đã được thay đổi thực sự.
Giáo viên không còn là người truyền thụ, giảng giải mà chuyển sang là người hướng
dẫn, trợ giúp học sinh khi cần thiết. Ở mô hình trường học mới này, giáo viên phải
biết khuyến khích mọi cố gắng , nỗ lực và những tiến bộ dù là nhỏ nhất của học
sinh để các em tự trải nghiệm, khám phá tri thức, để những em vốn rụt rè, nhút nhát
dần trở nên mạnh dạn, tự tin hơn.

* Giáo viên tăng cường việc sử dụng, phối hợp các phương pháp dạy học, các kỹ
thuật dạy học để phát huy tính tích cực, sáng tạo của học sinh, gắn nội dung dạy
học với các tình huống thực tiễn. Trao đổi với đồng nghiệp, chuyên môn để tùy
theo từng môn, từng bài, từng lớp, tuỳ theo từng hoạt động để vận dụng phương
pháp dạy học nào, kỹ thuật dạy học nào cho phù hợp đặc biệt gắn bài học với
thực tế cuộc sống để học sinh nhớ lâu, không bị gò ép.
* Sử dụng tài liệu hướng dẫn học hợp lý khi giảng bài trên lớp, khắc phục dạy
học theo lối đọc, chép:
Khi thực hiện dạy học theo mô hình VNEN việc sử dụng tài liệu hướng dẫn học
làm phương tiện dạy học là hết sức cần thiết. Giáo viên chú trọng khai thác đầy
đủ nội dung tài liệu hướng dẫn học và cập nhật thêm kiến thức các nội dung tích
hợp như giáo dục môi trường, giáo dục môi trường biển đảo, giáo dục kỹ năng
sống...
Tôi thiết kế câu hỏi, bài tập, nhiệm vụ học tập đa dạng, đòi hỏi phát triển tư duy
học sinh và tổ chức thực hiện cho phù hợp. Không nhất thiết phải thực hiện máy
móc theo những quy định, quy trình; chủ động về thời gian và tiến độ hoàn thành
bài học trong chương trình. Vận dụng linh hoạt các hình thức tổ chức phù hợp với
nội dung bài dạy và đối tượng học sinh, đánh giá hiệu quả đạt được sau mỗi tiết
dạy để có biện pháp cụ thể khắc phục những tồn tại ở tiết học sau.
VD: * Bài 24 C: VOI NHÀ (HDH Tiếng Việt - 2A - trang 83 )
Để tạo không khí lớp học vui vẻ, thoải mái trước khi vào học, Trưởng ban
văn nghệ tổ chức cho lớp hát và vận động theo lời bài hát “ Chú voi con ở bản
Đôn”. Sau khi hát xong bạn Trưởng ban văn nghệ hỏi: Bài hát “ Chú voi con ở
bản Đôn” vừa nhắc đến con vật nào? Các bạn trong lớp trả lời.
Giáo viên liên kết với bài học: Bài hát “ Chú voi con ở bản Đôn” của nhạc
sĩ Phạm Tuyên nhắc đến chú voi con thật ngộ nghĩnh, đáng yêu. Bài hát cũng
phần nào nói đến chủ điểm mà chúng ta sẽ học hôm nay: “ Voi nhà”.
* Bài 31 A: BÁC ĐỂ LẠI MUÔN VÀN TÌNH THƯƠNG YÊU ( Tiết 2)
(HDH Tiếng Việt lớp 2 - 2B - trang 48 )
HĐ 1: Tìm những từ ngữ ca ngợi Bác Hồ



Tôi đã tổ chức cho các nhóm thi tìm những từ ngữ ca ngợi Bác Hồ vào
bảng nhóm. Trong thời gian 5 phút nhóm nào tìm được nhiều từ đúng thì nhóm
đó thắng cuộc. Qua thực tế giảng dạy ở lớp, tôi thấy học sinh rất thích thú, hào
hứng với cách học này tiêu biểu có nhóm Vịt Con, Thỏ Trắng, Sóc Nâu.
Trong các tiết học, tôi hướng dẫn học sinh làm việc với tài liệu HDH qua
hình thức hoạt động nhóm có sự hỗ trợ của đồ dùng học tập. Khi tổ chức, hướng
dẫn tôi chọn vị trí đứng thích hợp quan sát tốt các tình huống xảy ra để phát hiện
và giúp đỡ kịp thời cho cá nhân, nhóm học sinh nếu các em có tín hiệu yêu cầu
hoặc khi các em đã hoàn thành yêu cầu bài học. Nếu thấy học sinh, nhóm nào còn
lúng túng tôi hỗ trợ kịp thời bằng các hình thức khác nhau như đặt câu hỏi gợi
mở.
VD: Bài 21A: CHIM SƠN CA VÀ BÔNG CÚC TRẮNG ( Tiết 2)
(HDH Tiếng Việt - 2A - trang 32)
HĐ thực hành:

HĐ 1: Thảo luận để trả lời câu hỏi:
Câu 1: Trước khi bỏ vào lồng, chim và hoa sống thế nào?
Nếu quan sát thấy cá nhân học sinh lúng túng thì tôi yêu cầu các bạn khác trong
nhóm hỗ trợ. Trường hợp các bạn trong nhóm khó khăn trong việc trả lời tôi sẽ
đặt ra một số câu hỏi để gợi mở và hỏi thêm một số câu hỏi để củng cố kiến thức
cơ bản.
1. Chim sơn ca nói về bông cúc như thế nào? ( Chim sơn ca nói: Cúc ơi! Cúc
mới xinh xắn làm sao!)
2. Khi được sơn ca khen ngợi cúc cảm thấy thế nào? ( Cúc cảm thấy sung
sướng khôn tả).
3. Tác giả đã dùng từ ngữ nào để miêu tả tiếng hót của sơn ca ? ( Chim sơn
ca hót véo von)
Từ các câu hỏi gợi ý trên học sinh tìm được câu trả lời cho câu hỏi 1.

* Tôi tổ chức đánh giá học sinh trong quá trình dạy học theo nguyên tắc
đánh giá đa chiều (Học sinh tự đánh giá, học sinh đánh giá lẫn nhau, kết hợp đánh
giá của giáo viên, cha mẹ học sinh...); đánh giá sự tiến bộ của học sinh .Tôi luôn
cố gắng đưa ra những đánh giá công tâm giúp học sinh tiến bộ, khuyến khích học
sinh năng khiếu, biết được sự phát triển, mức độ tiến bộ của mỗi học sinh so với


chính các em. Khi các nhóm thực hiện tốt tôi luôn động viên kịp thời bằng nhiều
hình thức khác nhau như khen bằng lời, vỗ tay động viên hay khuyến khích cộng
thêm điểm tốt ở bảng thi đua.
* Sử dụng hợp lý công nghệ thông tin trong các bài học, khai thác tối đa
thiết bị dạy học.
Ứng dụng công nghệ thông tin giúp cho tiết dạy thêm sôi động, thu hút sự tập
trung của học sinh. Giáo viên thật sự phải có kiến thức về ứng dụng công nghệ
thông tin, sử dụng thành thạo máy, nếu không sẽ phản tác dụng khi thực hiện.
2.2.9 Phối hợp với nhà trường, gia đình trong công tác giáo dục học
sinh:
* Phối hợp với nhà trường.
Kết thúc mỗi năm học ngoài việc đề nghị khen thưởng những học sinh có
thành tích xuất sắc trong quá trình học tập, tôi còn chú trọng việc khen thưởng
những học sinh có năng lực vượt trội như: Mạnh dạn, tự tin trong giao tiếp, năng
lực điều hành nhóm tốt,...
Tăng cường tổ chức các buổi giao lưu, ngoại khóa như: kể chuyện, ngâm
thơ, múa,...nhằm giúp các em được trải nghiệm để mạnh dạn hơn, tự tin hơn.
Đồng thời tuyên dương, động viên kịp thời làm động lực để các em cố gắng hơn.
* Phối hợp với phụ huynh.
Vào đầu năm học, thông qua buổi họp phụ huynh tôi thường trò chuyện và
tìm hiểu về hoàn cảnh, tính cách của các em học sinh để có biện pháp giáo dục
hợp lý. Đề nghị phụ huynh thường xuyên trò chuyện, nhắc nhở việc học bài ở nhà
và chuẩn bị bài trước khi đến lớp của con em mình.

Các cuộc họp phụ huynh ở giữa hay cuối mỗi học kỳ tôi thường nêu gương
những học sinh có biểu hiện năng lực học nhóm tốt, động viên những em có tiến
bộ. Phối hợp cùng gia đình để nhằm nâng cao hiệu quả của quá trình học nhóm
nói riêng và chất lượng giáo dục nói chung.
Kết quả:

Trước khi áp dụng sáng kiến kinh Sau khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
nghiệm
Học sinh chưa có thói quen thảo luận Đã hình thành cho học sinh thói quen
nhóm; kĩ năng và phương pháp hoạt động thảo luận nhóm; kĩ năng và và phương
theo nhóm còn hạn chế.
pháp học tập theo nhóm thành thạo.


Nhóm trưởng còn thiếu kĩ năng trong điều Kĩ năng điều hành và quản lý hoạt động
hành và quản lý hoạt động nhóm.
nhóm của các nhóm trưởng thành thạo.
Học sinh còn rụt rè, nhút nhát trong thảo Học sinh mạnh dạn, tự tin chia sẻ ý kiến
luận nhóm.
của mình.
Chưa có sự hợp tác, hỗ trợ lẫn nhau để Biết hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau hoàn thành
hoàn thành nhiệm vụ học tập.
nhiệm vụ học tập.
Ý thức tự giác, tự quản trong mỗi nhóm Các thành viên trong nhóm đã có ý thức tự
chưa cao.
giác, tự quản tốt.
Đến cuối học kì II, chất lượng lớp 22 đã có sự vượt trội. Cụ thể:
+ Hoàn thành xuất sắc các nội dung học tập và rèn luyện: 13em.
+ Có thành tích học tập trong môn Toán: 04 em
+ Có thành tích học tập trong môn Tiếng Việt: 01 em.

+ Có tiến bộ vượt bậc trong giao tiếp: 01 em.
Đây là một kết quả đáng khích lệ cho cả cô và trò, là động lực để bản thân
tôi cố gắng hơn trong công tác giảng dạy của mình.
3. KẾT LUẬN
3.1. Ý nghĩa của sáng kiến kinh nghiệm:
Dạy học theo nhóm không chỉ chú trọng đến việc học sinh nắm được kiến
thức của bài học mà phải quan tâm đến việc rèn kĩ năng giao tiếp, kĩ năng sống...
cho học sinh. Ý thức được điều này, bản thân tôi luôn không ngừng học hỏi
phương pháp giảng dạy, cách thức tổ chức lớp học theo mô hình trường học mới
để đào tạo ra những “giáo viên nhỏ” trợ giúp mình trong công tác điều hành hoạt
động nhóm.
Từ việc áp dụng những kinh nghiệm về tổ chức hoạt động nhóm trong dạy
học theo mô hình trường học mới VNEN, tôi nhận thấy học sinh lớp tôi phát huy
được tính tích cực, chủ động; các em mạnh dạn tham gia ý kiến của mình. Các em
biết hợp tác, giúp đỡ nhau để tìm ra tri thức, nắm bài chắc hơn, hứng thú với học
tập hơn và phát triển những kĩ năng giao tiếp. Đồng thời kĩ năng tổ chức, điều
hành hoạt động nhóm của học sinh thành thạo hơn. Còn giáo viên có thời gian
quan tâm đến các học sinh có năng khiếu và học sinh chưa hoàn thành. Những
học sinh năng khiếu có điều kiện phát huy hơn năng lực của mình. Còn những em
vốn nhút nhát, tiếp thu bài chậm, ít trao đổi thì nay mạnh dạn hơn, tự tin hơn, sôi
nổi trong học tập và các hoạt động. Các em biết hợp tác, giúp đỡ, giao tiếp, học
hỏi lẫn nhau, tự tìm tòi, tự phát hiện và tự chiếm lĩnh kiến thức. Tiết học nhẹ


nhàng, tự nhiên, sinh động và hiệu quả. Lớp học trở nên thân thiện, gần gũi tạo
cho các em có được cảm giác mỗi ngày đến trường là một ngày vui.
Việc nâng cao chất lượng dạy học theo nhóm không phải ngày một ngày
hai là thành công nên đòi hỏi người giáo viên phải kiên trì, phải thực sự tâm
huyết trong mọi hoạt động “Tất cả vì học sinh thân yêu”. Đó chính là chìa khóa
thành công của mô hình trường học mới.

3.2. Kiến nghị, đề xuất:
- Đối với Nhà trường:
Để hoạt động hướng dẫn và dạy học theo nhóm trở thành hoạt động dạy
học thường xuyên, có chất lượng, mang lại hiệu quả cao cho công tác dạy học và
nâng cao chất lượng giáo dục. Cụm chuyên môn và trường thường xuyên tổ chức
các chuyên đề theo từng môn và các hoạt động giáo dục cho giáo viên học hỏi,
trao đổi kinh nghiệm lẫn nhau; tổ chức thi nhóm trưởng, hội đồng tự quản điều
hành giỏi. Quan tâm hơn và tạo điều kiện xây dựng cơ sở vật chất đảm bảo cho
việc dạy học theo mô hình trường học mới.
- Đối với các giáo viên dạy: Cần có tâm huyết hơn, biết sáng tạo và linh hoạt hơn
trong quá trình dạy học nhằm đưa chất lượng giảng dạy ngày một cao hơn.
Xin chân thành cảm ơn!
An Ninh, ngày 10 tháng 5 năm 2018

XẾP LOẠI CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC CƠ SỞ
……………………………………………………………………
……………………………………………………………………
……………………………………………………………………
……………………………………………………………………
……………………………………………………………………
……………………………………………………………………

NGƯỜI VIẾT :

Võ Thị Thúy Hồng

XẾP LOẠI CỦA HĐKH PHÒNG GD & ĐT QUẢNG NINH
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………

……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………


……………………………………………………………………………………
………………



×