Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

Giới thiệu văn hóa vật chất và tinh thần của dân tộc Tày

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.53 MB, 18 trang )

Mục lục
A.
1.
2.
3.
4.

Phần mở đầu:

Giới thiệu
Mục tiêu và nhiệm vụ
Các phương pháp nghiên cứu được sử dụng
Ý nghĩa của việc nghiên cứu
B.
I.

Phần nội dung:

C.

Phần kết luận:

Khái quát chung
1. Dân tộc là gì?
2. Nguồn gốc dân tộc Tày
3. Số dân và địa bàn cư trú
II.
Những nét văn hóa tiêu biểu trong đời sống người Tày
1. Văn hóa vật chất
1.1 . Ẩm thực
1.2 . Nhà ở


1.3 . Trang phục
1.4 . Hoạt động sản xuất
2. Văn hóa tinh thần
2.1 . Ngôn ngữ
2.2 . Tín ngưỡng
2.3 . Lễ hội
2.4 . Hôn nhân
2.5 . Tang ma
2.6 . Âm nhạc


A.

Phần mở đầu:

1. Giới thiệu:
Trên cả nước có tất cả 54 dân tộc anh em; đều là con rồng cháu tiên, là con cháu
của Lạc Long Quân và Âu Cơ, đều bước ra từ trăm trứng và cùng nhau xây dựng
đất nước đến tận ngày nay. Mỗi dân tộc đều có một bản sắc riêng biệt, góp phần
xây dựng nên một Việt Nam đa màu về văn hóa, thu hút sự quan tâm của nhiều
người trên thế giới.
Và bài tiểu luận này chúng tôi sẽ tập trung nghiên cứu về một bản sắc nằm trong
54 bản sắc đã nêu trên, chủ yếu sinh sống ở vùng rừng núi phía Bắc, đó là dân tộc
Tày.

2. Mục tiêu và nhiệm vụ:
Tập trung tìm hiểu mọi khía cạnh trong đời sống của dân tộc Tày ở Việt Nam, từ
nguồn gốc, nơi sinh sống cho đến các nét văn hóa hằng ngày như trang phục, nhà
ở, lễ hội, tín ngưỡng, hoạt động sản xuất,…


3. Các phương pháp nghiên cứu được sử dụng:
Phương pháp thu thập tài liệu.
Phương pháp phân tích, tổng hợp so sánh.
4. Ý nghĩa của việc nghiên cứu:
a. Ý nghĩa khoa học lý luận:
+
+

Đề tài đã hệ thống hóa và làm sáng tỏ một số khái niệm cơ bản về dân tộc Việt
Nam, nguồn gốc của dân tộc Tày ở Việt Nam, và các nét văn hóa riêng biệt của dân
tộc Tày.
b.

Ý nghĩa thực tiễn:

Về mặt thực tiễn, thông qua đề tài mọi người sẽ hiểu thêm về dân tộc Tày, hiểu
thêm về màu sắc dân tộc Việt Nam. Ngoài ra đề tài còn có ý nghĩa cung cấp tài liệu
cho cả nhóm và cung cấp nguồn tài liệu cho các nghiên cứu sau này.


B.
I.
1.

Phần nội dung:
Khái quát chung:

Dân tộc là gì?

Dân tộc là một quá trình phát triển lâu dài của xã hội loài người. Trước khi dân tộc

xuất hiện, loài người đã trải qua những hình thức cộng đồng từ thấp đến cao: thị
tộc, bộ lạc, bộ tộc.
Cho đến nay, khái niệm dân tộc được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau, trong đó có
hai nghĩa được dùng phổ biến nhất.
Một là: dân tộc chỉ cộng đồng người ổn định hợp thành nhân dân một nước, có
lãnh thổ, quốc gia, nền kinh tế thống nhất, quốc ngữ chung và có ý thức về sự
thống nhất quốc gia của mình, gắn bó với nhau bởi lợi ích chính trị, kinh tế, truyền
thống văn hóa và truyền thống đấu tranh chung trong cuộc suốt quá trình lịch sử
lâu dài dựng nước và giữ nước. Với nghĩa này, dân tộc là toàn bộ nhân dân của
quốc gia đó- Quốc gia dân tộc.
Hai là: dân tộc chỉ một cộng đồng người có mối liên hệ chặt chẽ, bền vững, có sinh
hoạt kinh tế chung, có ngôn ngữ riêng và những nét văn hóa đặc thù, Xuất hiện sau
bộ lạc, bộ tộc. Với nghĩa này, dân tộc là bộ phận của quốc gia- Quốc gia có nhiều
dân tộc.
Trong trường hợp này dân tộc Tày thì nó mang nghĩa số hai.
Nguồn gốc dân tộc Tày:
Dân tộc Tày còn có tên gọi là “Tày Ðeng” hoặc Thổ. Họ là cư dân sinh sống lâu
dời ở khu vực miền núi phía Bắc nước ta, trong đó có Cao Bằng. Trải qua quá trình
lịch sử, với nhiều biến động chính trị, bên cạnh những dòng họ Tày bản địa, lớp cư
dân Tày mới đã xuất hiện. Trong Cao Bằng tạp chí nhật tập, Bế Huỳnh đã chia
người Thổ (người Tày) thành bốn loại là Thổ ty (con cháu công thần triều Lê được
phân phong thế tập cai quản ở đây), Phụ Ðạo (người Tày bản địa được triều đình
phong làm phụ đạo), Thổ trước (dân Tày bản địa) và Biến Thổ (người ở dưới đồng
bằng hoặc đi việc vua, đi dạy học mà tới, dân tứ xứ đến buôn bán cùng con cháu bề
tôi nhà Mạc, những người phò giúp Tây Sơn an trí ở đây …)
2.


3.


Dân số và địa bàn cư trú:

Người Tày chủ yếu cư trú tại các tỉnh trung du và miền núi phía bắc (1.400.519
người năm 1999). Bên cạnh đó, trong thời gian gần đây, người Tày còn di cư tới
một số tỉnh Tây Nguyên như Đắk Lắk và Lâm Đồng.
Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, người Tày ở Việt Nam có dân số
1.626.392 người năm 2009, là dân tộc có dân số đứng thứ 2 tại Việt Nam, có mặt
trên tất cả 63 tỉnh, thành phố. Người Tày cư trú tập trung tại các tỉnh:


Lạng Sơn (259.532 người, chiếm 35,4% dân số toàn tỉnh và 31,5% tổng số
người Tày tại Việt Nam),



Cao Bằng (207.805 người, chiếm 41,0% dân số toàn tỉnh và 25,2% tổng số
người Tày tại Việt Nam),



Tuyên Quang (185.464 người, chiếm 25,6% dân số toàn tỉnh và 22,5% tổng
số người Tày tại Việt Nam),



Hà Giang (168.719 người, chiếm 23,3% dân số toàn tỉnh và 20,5% tổng số
người Tày tại Việt Nam),




Bắc Kạn (155.510 người, chiếm 52,9% dân số toàn tỉnh và 18,9% tổng số
người Tày tại Việt Nam),



Yên Bái (135.314 người, chiếm 18,3% dân số toàn tỉnh và 16,4% tổng số
người Tày tại Việt Nam),



Thái Nguyên (123.197 người, chiếm 11,0% dân số toàn tỉnh và 15,0% tổng
số người Tày tại Việt Nam),



Lào Cai (94.243 người),



Đăk Lăk (51.285 người)...
II.

1.

Những nét văn hóa tiêu biểu trong đời sống của người Tày:

Văn hóa vật chất:
1.1. Ẩm thực:

- Cuộc sống của người Tày thường gắn bó với thiên nhiên, do đó, nguồn lương

thực, thực phẩm chính của người Tày là những sản phẩm thu được từ hoạt động
sản xuất ở vùng có rừng, sông, suối, đồi núi bao quanh. Đó là thóc, gạo, ngô,


khoai, sắn, đậu, đỗ cùng các loại rau quả do trồng trọt trong vườn hoặc hái lượm
trong rừng, các loại thuỷ sản như cá, tôm, cua do nuôi thả và đánh bắt ở sông suối,
các loại gia súc, gia cầm như trâu, bò, gà, vịt hoặc chim, thú săn bắt ở trong rừng.
- Thường ngày, người Tày ăn hai bữa: bữa trưa và bữa tối. Cơm hàng ngày là cơm
gạo tẻ. Gạo nếp thường dùng làm bánh, đồ xôi. Trong những ngày giáp hạt ngô
thường là lương thực chính. Trong mỗi bữa ăn, phổ biến nhất là rau. Bên cạnh đó ở
một số vùng, đồng bào còn ưa ăn đồ nướng trên than hồng hay gói lá vùi vào tro
nóng. Ngoài rau, đậu, thức ăn còn có cá, trứng và đôi khi có cả thịt.
- Theo truyền thống có nhiều quy định trong bữa ăn như: Khi ăn thường sắp thành
2 mâm, một mâm giành cho đàn ông đặt ở gian giữa gần bàn thờ tổ tiên, một mâm
giành cho nữ và trẻ em được đặt kế tiếp ở gian bên, nồi cơm để giữa. Có những tập
quán kiêng kỵ con dâu không được ngồi cùng mâm với bố chồng, anh, em và anh
rể chồng, con rể không được ngồi cùng mâm với mẹ vợ…
- Phong cách ẩm thực bữa ăn của người Tày đề cao tính trọng lão và trọng khách,
người cao tuổi bao giờ cũng được mời ngồi vào mâm trước và ngồi ở vị trí trang
trọng, khách đến nhà và được mời ăn cơm nếu là đàn ông thì được bố trí ngồi ăn
cùng mâm nam giới và ngược lại nếu là phụ nữ thì ngồi mâm nữ giới.
- Về đồ uống (ẩm) họ có các loại nước uống hàng ngày được nấu từ các loại lá cây
như nhân trần, chè, hạt muồng, lá vối…. Các loại rượu gồm rượu ngô, rượu sắn,
rượu cẩm….nấu rất ngon và có bí quyết riêng. Phụ nữ là người già thường ăn trầu
cau, đàn ông hút thuốc lào.
- Những món ăn đặc sắc của dân tộc Tày là: Bánh coóc mò của người Tày ở Võ
Nha -Thái Nguyên; Bánh gio; Xôi ngũ sắc; Bánh chuối của người Tày ở Nguyên
Bình-Cao Bằng, Rêu nướng ở Xuân Giang - Hà Giang; Nem măng đắng ở Lào Cai.



Xôi ngũ sắc và bánh gio

Rêu nướng và nem măng đắng
1.2. Nhà

ở:

Người Tày thường cư trú và sinh sống tại Nhà Sàn với đặc điểm thường thấy là nhà
đất mái lợp cỏ gianh và phổ biến nhất thường là loại nhà ở 3 gian, 2 mái.


a)

Những kiểu nhà ở của người Tày: Kiến trúc nhà ở của người dân tộc Tày
tồn tại 4 kiểu nhà ở khác nhau:

- Nhà Lều: Là loại nhà có kết cấu đơn giản và sơ khai nhất của người Tày.
- Nhà Quan ma: Loại nhà sàn thường có 4 gian có đặc điểm là cột được chôn sâu
xuống đất, được biến thể từ kiểu nhà lều để nhằm bảo vệ con người và vật nuôi
khỏi thú dữ.
- Nhà Cai Tư: Là kiểu nhà biến thể tiếp của nhà Quan Ma thường có đặc điểm là 5
gian ( 3 gian chính và 2 gian trái) . Cột nhà Cai tư được kê bằng đá tảng.
- Nhà Con Thong: Là loại nhà sàn được người Tày dùng để ở phổ biến nhất hiện
nay. Nhà Con Thong có tính năng vượt trội so với những kiểu nhà còn lại. Bởi
không phải sử dụng nhiều cột gỗ to mà chỉ dùng 8 cột gỗ chính và 16 cột quân,
diện tích sử dụng của nhà rộng rãi hơn nhà Cai tư rất nhiều. Về kiểu dáng thì nhà
Con Thong có thêm một hành lang chạy dọc theo sàn nhà, giúp cho ngôi nhà vừa
thêm sự vững chãi vừa có vóc dáng và tính thẩm mỹ cao.
b)


Nguyên vật liệu được sử dụng để xây nhà:

- Vật liệu làm nhà sử dụng phổ biến trong kiến trúc nhà ở của người dân tộc Tày
được lựa chọn rất kỹ lưỡng. Từ cột, ván, sàn, cọ,… Người Tày phải có quá trình
tìm kỹ càng, vào tận rừng sâu, núi cao, để tìm kiếm cho mình loại vật liệu gỗ tốt
lâu năm. Thời gian chuẩn bị nguyên liệu để làm nhà có thể là vài ba tháng, nhưng
cũng có thể là thời gian kéo dài tới vài 3 năm, chính vì thế mà tập quán du canh du
cư hiện nay của người Tày cũng dần ổn định. Họ thường có xu hướng sống tập
trung và ổn định tại bản, làng.
- Để làm nhà, nguyên liệu chủ yếu của người Tày được xử lý theo kỹ thuật truyền
thống. Họ ngâm gỗ, tre, nứa tươi dưới nước và bùn trong khoảng thoài gian từ 3
đến 6 tháng trở nên để chống mối mọt. Kết cấu nhà ở của người Tày có sàn cao
trung bình khoảng từ 1.8m và độ rộng hơn 100m2. Đối với nhà diện tích như vậy
thì mái lợp hết khoảng 6.000 tàu lá cọ. Vách mặt tiền và cửa sổ thường được tạo
hoa văn bằng cách đan cải các nan tự nhiên với vác nan nhuộm màu đen. Màu
nhuộm cho nhà được tạo từ nhọ nồi trộn với củ nâu giã nát. Những họa tiết hình
hoa và hình thoi thường thấy trong kiến trúc nhà ở của người Tày là những motip
trang trí phổ biến trên đồ vải và đồ đan của họ. Cũng chính điều này đã tạo ra sự
thống nhất từ kiến trúc cho đến phong tục văn hóa ăn mặc của người dân tộc nơi
đây.


c)

Những chú ý về kiến trúc của ngôi nhà:

- Chú ý về hướng làm nhà: Người Tày thường rất cẩn trọng trong việc lựa chọn
hướng để làm nhà. Hướng của kiến trúc nhà ở của người dân tộc Tày thường tựa
lưng vào núi, hướng ra sông, suối.
- Chú ý về cách bố trí công năng sử dụng: Nhà sàn được cấu tạo khuôn viên riêng,

có một nhà chính, có sàn phơi, nhà kho. Khuôn viên thường chỉ có một cổng duy
nhất ở phía chái chính. Thường nhà sàn có 5 gian, 3 gian hoặc 1 gian hai chái, mái
chép hình lưỡi rìu, thấp so với mặt sàn.
Nhà sàn của người Tày thường đặt 3 bếp: Một bếp đặt ở gian chính giữa ngôi nhà,
đây là bếp chính dùng để tiếp khách và là nơi giữ lửa cho tất cả các gian bếp khác
và sưởi ấm cho toàn bộ ngôi nhà. Bếp thứ hai được đặt cạnh giường của người già
với mục đích giữ ấm cho mùa đông. Bếp cuối cùng dùng để chế biến thức ăn. Nếp
này thường được dựng trong một khoảng không gian riêng của ngôi nhà.
- Chú ý về cầu thang trong thiết kế kiến trúc nhà ở của người Tày: Cầu thang lên
nhà sàn làm bằng gỗ và thường có 9 bậc, mỗi bậc tượng trưng cho một vía của
người phụ nữ Tày. Khi đón khách quý chủ nhà phải đi xuống tận chân cầu thang
chào mời khách lên nhà, khi khách lên cầu thang, chủ nhà phải đi sau bảo vệ và
hướng dẫn cho khách. Điều này trong xây dựng- kiến trúc nhà ở của người Tày thể
hiện được sự chu đáo, cẩn trọng trong kiến trúc nhà ở của người Tày.
1.3.

Trang phục:

Trang phục cổ truyền của người Tày được làm từ vải sợi bông tự dệt, nhuộm chàm
đồng nhất trên trang phục nam và nữ, hầu như không có hoa văn trang trí.


- Trang phục nam giới người Tày có quần chân què, đũng rộng, cạp lá tọa, áo ngắn
cũng may năm thân, cổ đứng. Nam cũng có áo dài như cái áo ngắn kéo dài vạt
xuống quá đầu gối. Ngoài ra, họ còn có thêm áo 4 thân, đây là loại áo xẻ ngực, cổ
tròn cao, không cầu vai, xẻ tà, cài cúc vải và có hai túi nhỏ ở phía trước.
Vào những ngày hội hè người ta mặc áo cánh trắng ở trong có lẽ vì vậy mà người
Tày còn được gọi là người áo trắng để phân biệt với người Nùng thường chỉ mặc
áo chàm. Ngoài ra, đàn ông Tày còn mặc thêm loại áo dài 5 thân xẻ nách phải, đơm
cúc vải hay cúc đồng. Quần cũng làm bằng vải sợi bông nhuộm chàm như áo, cắt

theo kiểu quần đũng chéo, độ choãng vừa phải dài tới mắt cá chân. Quần có cạp
rộng không luồn rút, khi mặc có dây buộc ngoài. Khăn đội đầu màu chàm (30cm x
200cm) quấn trên đầu theo lối chữ nhân.
- Trang phục nữ giới gồm áo cánh, áo dài năm thân, quần váy, thắt lưng, khăn đội
đầu, hài (giày) vải. Phụ nữ Tày còn thắt lưng bằng những tấm vải chàm hay đũi dài
khoảng hai sải tay, rộng khoảng 40cm gấp làm tư, chiều dài đủ quấn quanh thân
người hai vòng, buộc lại ở phía sau, để buông dải đuôi xuống sau lưng. Cũng như
nam giới, phụ nữ Tày thường mặc thêm chiếc áo trắng ở bên trong vào những ngày
lễ tết.Trước đây phụ nữ Tày mặc váy, nhưng gần đây phổ biến mặc quần; nguyên
tắc cắt may giống nam giới nhưng kích thước có phần hẹp hơn. Khăn phụ nữ Tày
cũng là loại khăn vuông màu chàm khi đội gập chéo giống kiểu mỏ quạ của người
Kinh. Tôn lên vẻ đẹp của váy, áo của phụ nữ Tày còn nhờ vào sự độc đáo của
những bộ trang sức. Trang sức phụ nữ Tày đơn giản song có đủ các chủng loại cơ
bản như vòng cổ, vòng tay, vòng chân, xà tích... Có nơi còn đeo túi vải, túi đựng
trầu bên hông. Quan trọng nhất là vòng cổ của người phụ nữ. Đó là một chiếc vòng
bạc trắng to được đeo ở cổ, vòng rộng xuống 1/4 ngực làm cho cơ thể cân đối và
màu trắng của vòng bạc nổi bật trên nền chàm.
1.4.

Hoạt động sản xuất:


- Người Tày là cư dân nông nghiệp có truyền thống làm ruộng nước, từ lâu đời đã
biết thâm canh và áp dụng rộng rãi các biện pháp thuỷ lợi như đào mương, bắc
máng, đắp phai, làm cọn lấy nước tưới ruộng. Họ có tập quán đập lúa ở ngoài đồng
trên những máng gỗ rồi mới dùng dậu gánh thóc về nhà. Ngoài lúa nước người Tày
còn trồng lúa khô, hoa màu, cây ăn quả... Sản phẩm nông nghiệp có đủ các loại
như lúa, ngô, khoai, sắn và các loại rau... Các loại quả lê, táo, mận, quýt, hồng
ngon nổi tiếng ở các tỉnh Lạng Sơn, Cao Bằng. Đồng bào còn trồng các loại cây
công nghiệp như thuốc lá, trẩu, hồi, chè. Chăn nuôi phát triển với nhiều loại gia

súc, gia cầm nhưng cách nuôi thả rông cho đến nay vẫn còn khá phổ biến.
- Người Tày có nghề thủ công khá phong phú, họ đan các đồ dùng bằng cót, bồ,
sọt, rổ, nơm,.. Nổi tiếng nhất là nghề dệt thổ cẩm với nhiều loại hoa văn đẹp và
độc đáo. Nhiều vùng tự nuôi tằm, kéo tơ, dệt lụa nên họ tự túc được các loại vải
may váy áo, khăn,…. Nghề làm gạch, ngói, nung vôi; nghề kéo dầu thực vật để ăn
và thắp cũng khá phổ biến. Lạng Sơn có nghề chưng cất dầu hồi đã có truyền thống
từ lâu. Nghề rèn cũng phát triển ở nhiều nơi để làm ra nông cụ như: Lưỡi cày,
cuốc, xẻng, hái, các loại dao,…
2. Văn hóa tinh thần:
1. Ngôn ngữ:
- Ngôn ngữ của dân tộc Tày là tiếng Tày. Tiếng Tày có vị trí quan trọng và được sử
dụng phổ biến trong đời sống hàng ngày của cư dân bản xứ. Song để biểu thị các
khái niệm xã hội, chính trị, pháp lý, khoa học,... thì tiếng Tày phải vay mượn từ
tiếng Hán và đặc biệt từ tiếng phổ thông là tiếng Việt. Tiếng Tày có quan hệ gần
gũi với tiếng Nùng, tiếng Tráng ở mức trao đổi trực tiếp được và giao tiếp được với
người nói tiếng Lào, tiếng Thái.
- Trước đây tiếng Tày sử dụng chữ viết là chữ Hán Nôm - Tày, dạng chữ này hiện
giờ không còn được sử dụng. Ngày nay tại Việt Nam chữ quốc ngữ được sử dụng,
và vấn đề phát âm của tiếng Tày theo chữ quốc ngữ không có sai là bao nhiêu.


Chữ Nôm Tày
Tín ngưỡng:
- Người Tày chủ yếu theo tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, một trong những vấn đề tín
ngưỡng tâm linh quan trọng nhất của dân tộc Tày. Tổ tiên với người Tày là thiêng
liêng, được thờ cúng trong nhà. Gian giữa nhà, nơi trang trọng nhất hướng ra cửa
chính là vị trí đặt bàn thờ tổ tiên của gia đình. Trước bàn thờ tổ tiên là nơi đón tiếp
khách quý, già làng, người cao tuổi. Nhưng khi đàm đạo, uống trà, ăn cơm, nhất
thiết chủ và khách đều ngồi song song hai bên và phía dưới nhìn lên bàn thờ, tuyệt
đối không được quay lưng lại bàn thờ. Thường thì trên bàn thờ có ba lọ hương

hoặc bát hương, một lọ thờ tổ tiên ở giữa, hai lọ hai bên thờ trời và đất. Trước mỗi
lọ hương đều có một chén rượu nhỏ để mời tổ tiên.
2.

Những ngày tết, ngày giỗ, mừng thọ, ngày cưới, mừng nhà mới hay khi con cháu
đi làm ăn xa trở về,... và những lúc có việc hệ trọng, người Tày đều thắp hương, rót
rượu kính cẩn trước bàn thờ cầu mong tổ tiên phù hộ độ trì, làm ăn phát đạt, mọi
việc tốt lành, bình an.


Bàn thờ tổ tiên của người Tày
- Cũng như nhiều dân tộc khác, người Tày còn có quan niệm phổ biến là "vạn vật
hữu linh" (bái vật giáo), bắt nguồn từ sự nhận thức có hạn "bất khả tri" của con
người với thế giới, vũ trụ bao la. Vì thế, người Tày còn thờ cúng ngoài nhà hay
thắp hương trước cửa chuồng gia súc để tạ lễ thần trông coi gia súc.
- Trong đời sống tâm linh, người Tày đều chịu ảnh hưởng của tam giáo từ xa xưa.
Đó là, Nho giáo với giáo lý: lễ, nghĩa, trung, hiếu được thể hiện qua phong cách
ứng xử, giao tiếp giữa họ trong cộng đồng. Những giáo lý Phật giáo là từ, bi, hỷ, xả
cũng được tiếp nhận, hòa quyện vào dòng chảy tín ngưỡng của bản địa làm cho đời
sống tâm linh càng thêm phong phú, đa dạng. Tại các đền, chùa, miếu ở Cao Bằng,
nét đặc trưng không chỉ thờ Phật mà còn thờ cả các nhân thần, phúc thần và những
người có công với đất nước - người Tày đều ngưỡng mộ quy thờ, biểu thị lòng
nhân nghĩa "uống nước nhớ nguồn", tri ân với các bậc tiền nhân. Còn Đạo giáo thể
hiện ở việc người Tày thờ nhiều thần, từ Ngọc Hoàng đến các thần dương gian, âm
phủ,... có thể đuổi tà ma, yêu quái, chữa bệnh bằng tinh thần cho con người.
Có thể nói, đời sống tín ngưỡng của người Tày khá đa dạng, phong phú. Trong đó,
ảnh hưởng của tam giáo đậm nét thể hiện trong các phong tục tập quán, lễ nghi
truyền thống tạo nên một dạng tín ngưỡng đặc trưng dung hòa giữa "vạn vật hữu
linh" và các thành tố: Nho giáo, Phật giáo, Đạo giáo.



Lễ cấp sắc cho Then của người Tày

Lễ hội:
Hàng năm có nhiều ngày tết với những ý nghĩa khác nhau. Tết Nguyên đán - mở
đầu năm mới và tết rằm tháng 7 - cúng các vong hồn là những tết lớn được tổ chức
linh đình hơn cả. Ngoài ra, còn có lễ hội Lồng tồng, lễ hội Nàng Hai, lễ hội rước
Đất rước Nước là các lễ hội đặc trưng cho đồng bào dân tộc Tày.
3.

Lễ hội Lồng tồng


- Lễ hội Lồng tồng cũng thường gọi là Hội xuống đồng. Được xem là hoạt động tín
ngưỡng cầu trời cho mưa thuận gió hòa, cây cối tốt tươi, mùa màng bội thu, đời
sống ấm no. Nơi tổ chức là tại những ruộng tốt nhất, to nhất.
- Lễ hội Lồng tồng được tổ chức trong 3 ngày, từ ngày mồng 9 đến hết ngày 11
tháng giêng hàng năm.

Lễ hội Nàng Hai
- Lễ hội Nàng Hai là một nét sinh hoạt văn hóa dân gian độc đáo. Theo đúng tên
gọi là: Mời Nàng Hai (mời Nàng Trăng) xuống hạ giới để giao lưu cùng với con
người.
- Với nhiều hình thức khác nhau, lễ mời “Nàng Hai” được gắn với các lễ Then như:
Lẩu Then, Cống Sử, Kỳ Em,... và tổ chức vào các đêm trăng mùa thu với các trò
chơi phong phú như: Hát lượn Hai, bói việc sản xuất, tình duyên,... Lễ thường do
một nhóm trai gái tụ tập trên nhà sàn, thắp hương mời Nàng Hai về nhập vào một
cô gái nào đó để hát đối đáp, hoặc là dân bản đứng ở một sân bãi, trong đó có một
người chủ chốt làm lễ mời Nàng Hai về. Một hình thức nữa được tổ chức vào
tháng 3 âm lịch diễn ra trong nhiều ngày, theo quy mô bản và xã.



Lễ hội rước Đất rước Nước
- Lễ hội rước Đất, rước Nước để cầu xin Mẹ Đất, Mẹ Nước phù hộ cho đất luôn
màu mỡ, cầu cho nguồn nước không bao giờ cạn, giúp dân bản có cuộc sống no đủ
quanh năm.
- Diễn ra vào ngày rằm tháng giêng hàng năm.
Hôn nhân:
- Theo phong tục truyền thống, hầu hết người Tày kết hôn trong cùng dòng họ. Gia
đình người Tày theo chế độ gia đình hạt nhân, phụ hệ, một vợ một chồng. Thanh
niên nam nữ được tự do tìm hiểu trước khi đi đến hôn nhân. Thế nhưng, có đi đến
hôn nhân hay không lại tuỳ thuộc vào bố mẹ hai bên và "số mệnh" của họ có hợp
nhau hay không. Vì thế trong quá trình đi tới hôn nhân phải có bước nhà trai xin lá
số của cô gái về so với lá số của con mình. Hôn lễ truyền thống của người Tày
được tiến hành qua các nghi thức: Lễ dạm, lễ ăn hỏi, lễ sêu tết, lễ báo ngày cưới, lễ
cưới, lễ đón dâu, đưa dâu,… thể hiện bản sắc văn hoá của một tộc người. Sau khi
cưới, cô dâu ở nhà bố mẹ đẻ cho đến khi có mang sắp đến ngày sinh nở mới về ở
hẳn bên nhà chồng. Gia đình người Tày thường quý con trai hơn và có qui định rõ
ràng trong quan hệ giữa các thành viên trong nhà.
4.


Tang ma:
- Theo quan niệm của người Tày, con người sinh ra có linh hồn. Song để linh hồn
người chết được siêu thoát, trở về đoàn tụ với tổ tiên ở bên kia thế giới thì làm ma
chay càng có ý nghĩa quan trọng. Tục ma chay của người Tày đã có từ xa xưa, đây
là nghi lễ mang đậm tính tín ngưỡng tôn giáo. Làm ma chay cho người chết là sự
báo hiếu của người sống đối với người chết, hay tỏ rõ công ơn sinh thành dưỡng
dục với đạo lý truyền thống “uống nước nhớ nguồn” đã có từ lâu đời. Người Tày
có hai nghi lễ làm ma cho người đã khuất, đó là đưa tang (làm ma tươi) và dâng

nhà xe (làm ma khô).
5.

Thầy Tào đang hành lễ


Âm nhạc:
- Người Tày có một nền văn nghệ cổ truyền phong phú, đủ các thể loại thơ, ca,
múa nhạc,... Các điệu dân ca phổ biến nhất là hát lượn, hát đám cưới, ru con.
Người Tày phổ biến hát lượn như hát ví ở miền xuôi. Hai bên nam nữ hát đối đáp
về mọi khía cạnh của đời sống xã hội, nhất là về tình yêu đôi lứa. Có nhiều điệu
lượn như lượn Slương, lượn Then, lượn Nàng Hai,... Người Tày còn có các điệu
hát Then, gọi là Văn ca - được ngâm hát trong đám tang, gọi là hát hội trong các
hội Lồng tồng, gọi là Cỏ lẩu trong hát đám cưới.
6.

- Đàn Tính là loại nhạc cụ có mặt trong tất cả những sinh hoạt văn hoá tinh thần
của đồng bào Tày. Nó như linh hồn trong nghệ thuật dân ca, dân vũ Tày. Bao đời
nay đàn Tính như một phương tiện giao tiếp mang đậm bản sắc.

Hát then và đàn tính


C.

Phần kết luận:

Các dân tộc trên đất nước ta là một cộng đồng thống nhất trong đa dạng, cư trú
phân tán và đan xen nhau trên mọi vùng miền của đất nước với cơ cấu dân số và
trình độ phát triển không đồng đều. Bản sắc văn hoá từng dân tộc góp phần tạo nên

sự đa dạng, phong phú của nền văn hoá Việt Nam. Đoàn kết các dân tộc luôn là
vấn đề chiến lược, cơ bản, lâu dài của sự nghiệp cách mạng nước ta.
Dân tộc Tày là một dân tộc ít người trong tổng số năm mươi tư dân tộc anh em của
Việt Nam. Có nền văn hóa đặc sắc cả về tinh thần lẫn vật chất.Người Tày mến
khách và cởi mở.Nghiên cứu về dân tộc Tày, cũng giúp chúng tôi hiểu thêm hơn về
con người cũng như cuộc sống của họ.
Dân tộc Tày có rất nhiều đóng góp cho nền văn hóa Việt Nam như là chữ Nôm Tày
một di sản văn hóa quý giá của nước ta, cùng với các loại văn tự khác đã lưu trữ
nguồn tư liệu to lớn có giá trị về mọi mặt trong lịch sử dựng nước và giữ nước.
Cùng với các dân tộc khác, người Tày, Nùng đã sáng tạo và hoàn thiện dần chữ
Nôm Tày hàng nghìn năm nay để làm văn tự dùng trong giao lưu và lưu trữ tư liệu.
Đó là một thành tựu lớn của giới trí thức Tày, Nùng và cộng đồng trí sĩ Việt Nam
góp phần làm giàu cho kho tàng văn hóa nước nhà. Hay là Hát Then là một di sản
văn hóa – nghệ thuật truyền thống độc đáo của các dân tộc Tày, Nùng, Thái ở các
tỉnh miền núi phía bắc như Cao Bằng, Bắc Kạn, Yên Bái, Lạng Sơn…hát then
được lưu giữ, phát triển thành một không gian văn hóa hát then – đàn tính hết sức
đồ sộ về khối lượng, phong phú về thể loại, đa dạng về hình thức biểu diễn.



×