Tải bản đầy đủ (.docx) (36 trang)

CƠ sở lý LUẬN của QUẢN lý HOẠT ĐỘNG NGHIÊN cứu KHOA học kỹ THUẬT ở các TRƯỜNG TRUNG học PHỔ THÔNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (148.03 KB, 36 trang )

CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
KỸ THUẬT Ở CÁC
TRƯỜNG TRUNG HỌC
PHỔ THÔNG


- Tổng quan nghiên cứu vấn đề
-Các công trình nghiên cứu về hoạt động nghiên cứu
khoa học kỹ thuật ở trường phổ thông
Nghiên cứu khoa học là một hoạt động cơ bản trong xã hội
để giúp cho xã hội phát triển. Ở mọi khoa học đều diễn ra hoạt
động nghiên cứu khoa học và tập trung nhiều công trình nghiên
cứu của các nhà khoa học về các vấn đề lí luận và thực tiễn của
nghiên cứu khoa học thuộc các lĩnh vực khoa học chuyên
ngành. Sản phẩm của các hoạt động nghiên cứu khoa học thể
hiện dưới hình thức các bài báo khoa học, tài liệu giáo trình, các
luận văn luận án... Có thể nêu ra một số công trình nghiên cứu
sau:
a) Giáo trình tài liệu: Nguyễn Văn Lê [27], Phương pháp
luận nghiên cứu học tập – nghiên cứu; Lưu Xuân Mới [31],
Phương pháp luận nghiên cứu khoa học giáo dục; Phạm Viết
Vượng [42], Phương pháp luận khoa học giáo dục; Đặng Vũ
Hoạt và Hà Thị Đức [21], Phương pháp luận nghiên cứu khoa
học... Nội dung các tài liệu trình bày những vấn đề lí luận về
phương pháp nghiên cứu khoa học: Khoa học, nghiên cứu khoa
học, phương pháp nghiên cứu khoa học, sản phẩm nghiên cứu
khoa học...



b) Các bài báo trên các tạp chí khoa học: Đỗ Thị Châu [9],
nghiên cứu khoa học góp phần đổi mới phương pháp dạy học
nhằm nâng cao chất lượng đào tạo đại học; (Tạp chí giáo dục số
96/2004); Nguyễn Hữu Châu [10], nghiên cứu khoa học giáo
dục trong giai đoạn tới (Tạp chí giáo dục số 98/2004); Nguyễn
Viết Sự [36], Cơ sở khoa học và giải pháp nâng cao năng lực
nghiên cứu khoa học cho giáo viên các trường sư phạm kĩ thuật
(Tạp chí khoa học giáo dục số 13/2006); Võ Xuân Đàn [18],
Hãy coi NCKH như một phương pháp đào tạo đại học; Lê
Thành Nghiệp [32] Hiện trạng giáo dục và nghiên cứu tại các
đại học Nhật Bản; (Ngô Bảo Châu... Đại học Humboldt 200
năm (1810-2010) kinh nghiệm thế giới và Việt Nam, NXB tri
thức, Hà Nội); Nguyễn Văn Lịch [28], “Thực trạng nghiên cứu
khoa học của giảng viên đại học và một số kiến nghị” (Bộ Giáo
dục và Đào tạo, kỉ yếu hội thảo khoa học: Giải pháp tạo động
lực cho giảng viên tham gia nghiên cứu khoa học và chuyển
giao công nghệ, Hà Nội).
- Các công trình nghiên cứu về quản lý hoạt động
nghiên cứu khoa học kỹ thuật ở trường phổ thông
Xuất phát từ vai trò quyết định của quản lý trong việc nâng
cao chất lượng hoạt động nghiên cứu khoa học cho nên trong
lĩnh vực quản lý giáo dục đã có rất nhiều công trình nghiên cứu


về vấn đề quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học ở đại học và
các cấp phổ thông. Có thể nêu lên một số công trình nghiên cứu
sau:
a) Các bài báo khoa học: Đào Văn Khanh, Phạm Thị Ly và
Nguyễn Văn Tuấn [23] đã nghiên cứu và phân tích tác động của
3 nhóm yếu tố: Các cấp quản lý nhà nước, các cơ sở nghiên cứu

và bản thân các nhà nghiên cứu đến hoạt động quản lý nghiên
cứu khoa học ở Việt Nam; Hoàng Xuân Long [29], Đổi mới cơ
chế quản lí khoa học và công nghệ. Nhìn lại để bước tiếp; Xuân
Thu [39], Phải cải cách quyết liệt cơ chế quản lí khoa học - công
nghệ; Nguyễn Thế Hưng [22], Đổi mới phương thức quản lí
nghiên cứu khoa học tại các viện nghiên cứu đa ngành... Các bài
báo nêu ra những vấn đề lí luận và thực tiễn quản lý khoa học công nghệ hiện nay của nước nhà, từ đó đưa ra các giải pháp,
phương thức quản lý nhằm nâng cao hiệu quả quản lý hiệu quả
hoạt động nghiên cứu khoa học.
b) Các luận án, luận văn chuyên ngành quản lý giáo dục:
Lê Yên Dung [14], Mô hình quản lý hoạt động nghiên cứu khoa
học trong đại học đa ngành, đa lĩnh vực; Nguyễn Thị Tuyết
[40], Cơ sở lí luận và thực tiễn hoạt động nghiên cứu khoa học
ở các trường đại học Việt Nam theo định hướng bình đẳng giới;
Nguyễn Văn Nho [33], Quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học


của giảng viên trường cao đẳng Sơn La; Cầm Thị Tươi [41],
biện pháp quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh viên
trường cao đẳng Sơn La; Vũ Thị Lan Anh [1], Biện pháp tăng
cường quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học của giảng viên
trường cao đẳng Lạng Sơn; Hoàng Thị Mai Hoa [20], Nghiên
cứu đánh giá hoạt động nghiên cứu khoa học của giảng viên học
viện hành chính quốc gia... Nội dung nghiên cứu của các luận
án và luận văn thuộc chuyên ngành quản lý giáo dục về vấn đề
quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học: a) Xác lập cơ sở lý luận
về quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học ở các trường cao
đẳng và đại học đối với đối tượng giảng viên hoặc sinh viên; b)
Phát hiện và đánh giá đúng thực trạng hoạt động nghiên cứu
khoa học và quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học của giảng

viên và sinh viên bằng các phương pháp nghiên cứu thực tiễn;
c) Đề xuất các giải pháp, biện pháp quản lý hoặc mô hình quản
lý hoạt động nghiên cứu khoa học của giảng viên và sinh viên
các trường đại học và cao đẳng trên các địa bàn khác nhau của
đất nước.
Nhận xét: Tổng quan nghiên cứu vấn đề đã cho thấy các
công trình nghiên cứu về hoạt động nghiên cứu khoa học cả trên
bình diện lí luận và thực tiễn; tập trung nhiều công trình về hoạt
động nghiên cứu khoa học còn quản lý hoạt động nghiên cứu
khoa học ít được nghiên cứu hơn, còn mỏng. Các công trình


nghiên cứu về quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học tập trung
ở các trường đại học và cao đẳng còn các nghiên cứu ở phổ
thông và đặc biệt là trung học phổ thông hầu như ít được nghiên
cứu và công bố. Đặc biệt trên địa bàn thành phố Đà Lạt, tỉnh
Lâm Đồng, nghiên cứu quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học
ở các trường trung học phổ thông chưa được nghiên cứu. Vì
vậy, vấn đề nghiên cứu của luận văn đã xác định được điểm mới
trong lĩnh vực quản lý giáo dục.
Các vấn đề luận văn cần giải quyết: a) Xác định cơ sở lý
luận về quản lý hoạt động nghiên cứu KHKT ở các trường trung
học phổ thông (khái niệm, nội dung và các yếu tố ảnh hưởng);
b) Phát hiện và đánh giá đúng thực trạng quản lý hoạt động
nghiên cứu KHKT ở các trường trung học phổ thông thành phố
Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng; c) Đề xuất các biện pháp quản lý nhằm
nâng cao chất lượng hoạt động nghiên cứu KHKT của HS ở các
trường trung học phổ thông thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng.
- Các khái niệm cơ bản
- Quản lý

Quản lý là một vấn đề cơ bản của nhiều lĩnh vực khoa học
khác nhau tâm lý học, giáo dục học, điều khiển học, quản lý
giáo dục... với quan niệm của nhiều nhà khoa học như Harold,
Cyril O’Konnell và heinz Weihrich [19], Aphanaxep [4],


Aunapu [3], Đặng Quốc Bảo [5], Nguyễn Ngọc Quang [35],
Trần Kiểm [24], Nguyễn Thị Mỹ Lộc [30]... Luận văn xác định:
Quản lý là tác động có định hướng, có mục đích, có kế hoạch
của chủ thế quản lý đến khách thể quản lý một cách hợp quy
luật nhằm đạt được mục tiêu đề ra trong điều kiện biến động
của môi trường.
Với cách hiểu quản lý như trên cho thấy nội hàm của khái
niệm quản lý:
- Quản lý là quá trình tác động có chủ đích, có định hướng,
có kế hoạch thể hiện trong toàn bộ các khâu của hoạt động quản
lý.
- Quản lý có chủ thể quản lý và đối tượng quản lý. Chủ thể
và đối tượng quản lý có thể là một tổ chức, nhóm người hoặc cá
nhân.
- Trong quá trình quản lý có sử dụng các phương tiện quản
lý, phương pháp quản lý mà chủ thể quản lý dùng để tác động
đến đối tượng quản lý nhằm đạt được mục tiêu đặt ra.
- Quản lý bao giờ cũng diễn ra trong một môi trường nhất
định gồm nhiều yếu tố khác nhau và các yếu tố đó tác động đến
quá trình quản lý.
- Nội dung quản lý theo chức năng bao gồm: Lập kế


hoạch, tổ chức nhân sự trong quản lý, chỉ đạo và kiểm tra việc

thực hiện kế hoạch.
- Nghiên cứu khoa học
Luật Khoa học Công nghệ (2000) điều 2 khoản 4 xác định:
“Nghiên cứu khoa học là hoạt động khám phá, phát hiện, tìm
hiểu bản chất, quy luật của sự vật, hiện tượng tự nhiên, xã hội
và tư duy; sáng tạo giải pháp nhằm ứng dụng vào thực tiễn”.
Với định nghĩa trên, có thể hiểu nội hàm của nghiên cứu
khoa học:
- Mục đích của nghiên cứu khoa học là tìm tòi, khám phá
bản chất và các quy luật vận động của các sự vật, hiện tượng,
tạo ra thông tin mới, nhằm áp dụng chúng vào sản xuất vật chất
hay tạo ra những giá trị tinh thần, để đáp ứng nhu cầu vật chất
con người.
- Bản chất của nghiên cứu khoa học là hoạt động sáng tạo
của các nhà khoa học nhằm nhận thức thế giới khách quan, tạo
ra hệ thống tri thức có giá trị để sử dụng vào cải tạo thế giới.
- Chủ thể của nghiên cứu khoa học là các nhà khoa học với
những phẩm chất trí tuệ và tài năng đặc biệt, được đào tạo chu
đáo ở trình độ cao.


- Đối tượng nghiên cứu khoa học là thế giới phức tạp, mỗi
bộ môn khoa học chọn riêng cho mình một đối tượng.
- Quá trình nghiên cứu khoa học được thực hiện trong một
cơ quan nghiên cứu được tổ chức chặt chẽ, có chương trình
chiến lược hoạt động.
- Nghiên cứu khoa học bao gồm các thể loại: a) Nghiên
cứu cơ bản nhằm phát hiện các dấu hiệu bản chất và quy luật
của hiện tượng tự nhiên và xã hội; b) Nghiên cứu ứng dụng là
vận dụng những tri thức khoa học mới thu được từ nghiên cứu

cơ bản để tạo ra những nguyên lí mới, các giải pháp ứng dụng
vào sản xuất và đời sống; c) Nghiên cứu triển khai là vận dụng
các kết quả thu được từ nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu ứng
dụng vào thực tiễn triển khai trên diện rộng; d) Nghiên cứu dự
báo là loại hình nghiên cứu dự báo sự phát triển của khoa học,
các vấn đề khoa học được nghiên cứu trong tương lai.
- Nghiên cứu khoa học kỹ thuật ở trường phổ thông
Từ khái niệm “nghiên cứu khoa học” có thể hiểu hoạt động
nghiên cứu KHKT của HS trong trường phổ thông là hoạt động
nhận thức sáng tạo của HS có mục đích, có kế hoạch được tổ
chức chặt chẽ dưới sự hướng dẫn của GV nhằm phát hiện, tìm
hiểu các hiện tượng tự nhiên, xã hội và tư duy sáng tạo ra các
sản phẩm mới phục vụ cho học tập và tác động vào thực tiễn.


Với cách hiểu khái niệm trên cho thấy nghiên cứu KHKT
của HS trong trường phổ thông có các đặc trưng cơ bản:
- Là hoạt động nhận thức sáng tạo có mục đích, chủ đích
rõ ràng, được tổ chức chặt chẽ trong nhà trường phổ thông.
- Nhận thức và tìm kiếm cái mới phục vụ cho học tập và
góp phần giải quyết các vấn đề thực tiễn.
- Là hoạt động sáng tạo phát hiện ra cái mới nhưng có sự
khác biệt giữa nghiên cứu KHKT của HS đang học tập với
nghiên cứu khoa học của nhà khoa học:
+ Nghiên cứu KHKT của HS về bản chất và mục đích
khác với nghiên cứu khoa học của những nhà khoa học và GV.
+ Hoạt động nghiên cứu khoa học của những nhà khoa học
là quá trình tìm kiếm khám phá cái mới, những tri thức mới, giải
pháp mới mà loài người chưa từng biết đến, còn HS thì tìm lại
cho bản thân kiến thức đã biết của nhân loại. Trong học tập, HS

tự "khám phá lại" các kiến thức để tập làm cái công việc khám
phá đó trong hoạt động thực tiễn sau này.
+ Các nhà khoa học phải mất nhiều thời gian để khám phá
một kiến thức, còn HS thì chỉ có thời gian rất ngắn trên lớp.
Về mặt tâm lý, cần phải tạo được mâu thuẫn nhận thức,


gợi động cơ, hứng thú tìm cái mới bằng cách xây dựng các tình
huống có vấn đề, đồng thời tạo ra một môi trường sư phạm
thuận lợi để HS tin tưởng vào khả năng của mình trong việc giải
quyết nhiệm vụ được giao và tình nguyện tham gia vào hoạt
động nhận thức.
Về nội dung, GV tổ chức hoạt động dạy học làm sao để
HS tự tham gia giải quyết các nhiệm vụ học tập. Tạo cho HS tự
tin, hứng thú, mạnh dạn suy nghĩ để giải quyết các vấn đề tiếp
theo.
Nghiên cứu KHKT là một quá trình học tập rèn luyện
thông qua nghiên cứu KHKT, HS được phát triển năng lực sáng
tạo, khả năng tư duy. Trong khi những nhà khoa học gặp thất bại
hoặc thành công thì sự thành công hay thất bại trong nghiên cứu
KHKT của HS sẽ là những bài học quý giá giúp cho HS ngày
càng trưởng thành hơn.
Những cái mới của HS trong nghiên cứu KHKT có thể
không mới với con người, nhưng nghiên cứu KHKT sẽ hình
thành tư duy mới, năng lực mới ở mỗi HS. Nghiên cứu KHKT ở
HS sẽ luyện tập khả năng phỏng đoán, dự đoán, xây dựng giả
thiết, xây dựng phương án kiểm tra dự đoán, luyện tập HS giải
quyết các tình huống có vấn đề, tiến hành thí nghiệm thực hành
để kiểm tra phỏng đoán...



Nghiên cứu KHKT được sử dụng như là một hoạt động
giáo dục nhằm rèn luyện tư duy, tác phong làm việc khoa học
của HS, gắn liền kiến thức trong nhà trường với thực tiễn đời
sống thông qua hoạt động nghiên cứu KHKT, từ đó góp phần
nâng cao chất lượng giáo dục trung học theo định hướng dạy
học phát triển năng lực người học.
Nghiên cứu là một quá trình mà qua đó chúng ta khám phá
hoặc tạo ra những tri thức mới về thế giới mà ta đang sống.
HS thiết kế các công trình nghiên cứu nhằm cung cấp các
dữ kiện định lượng thông qua việc thực hiện các thí nghiệm, sau
đó phân tích và ứng dụng các dữ liệu thu được.
Các công trình nào chỉ là những minh hoạ hay là tổng hợp
nghiên cứu từ tài liệu hoặc các công trình mang thông tin, các
mô hình giải thích hoặc xây dựng công cụ đều không thích hợp
cho các cuộc thi khoa học dựa trên nền tảng nghiên cứu.
- Quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học kỹ thuật ở
trường phổ thông
Từ khái niệm “quản lý” và “nghiên cứu khoa học kỹ thuật”
có luận văn xác định: Quản lý hoạt động nghiên cứu KHKT của
HS ở trường phổ thông là tác động có mục đích, có định hướng,
có kế hoạch của các chủ thể quản lý (sở GD&ĐT; hiệu trưởng


trường THPT...) đến hoạt động nghiên cứu KHKT của HS trong
nhà trường thông qua lập kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo, kiểm tra
nhằm đạt được mục đích nâng cao chất lượng hoạt động nghiên
cứu KHKT và phát triển năng lực nghiên cứu KHKT cho HS
trong nhà trường.
Với khái niệm quản lý hoạt động nghiên cứu KHKT của

HS, có thể thấy nội hàm bao gồm:
- Mục tiêu quản lý hoạt động nghiên cứu KHKT là nhằm
tổ chức và thực hiện tốt hoạt động nghiên cứu KHKT cho HS
trong nhà trường phổ thông đạt chất lượng và có hiệu quả.
- Chủ thể quản lý hoạt động nghiên cứu KHKT bao gồm
nhiều chủ thể, nhưng chủ thể chính trong luận văn là Sở
GD&ĐT; các chủ thể quản lý phối hợp bao gồm các phòng ban
chức năng của Sở, lãnh đạo các trường THPT và các bộ phận
trong nhà trường có liên quan.
- Đối tượng quản lý hoạt động nghiên cứu KHKT bao gồm
các thành tố của hoạt động nghiên cứu KHKT, như: Mục tiêu,
nội dung chương trình, hình thức, phương pháp... của hoạt động
nghiên cứu KHKT.
- Phương pháp quản lý hoạt động nghiên cứu KHKT bao
gồm các nhóm phương pháp quản lý cơ bản: Phương pháp tổ


chức - hành chính; phương pháp tâm lý - giáo dục và phương
pháp kinh tế...
- Công cụ, phương tiện quản lý hoạt động nghiên cứu
KHKT ở trường THPT là các văn bản pháp quy, các qui định
của Nhà nước, Bộ GD&ĐT, các tỉnh... về hoạt động nghiên cứu
KHKT và quản lý hoạt động nghiên cứu KHKT ở trường THPT.
Các thành tố trên của quản lý hoạt động nghiên cứu KHKT
của HS ở trường phổ thông có quan hệ qua lại và chặt chẽ với
nhau, vì vậy khi tổ chức quản lý nghiên cứu KHKT cần quản lý
đồng bộ và chú ý đến các mối quan hệ này nhằm nâng cao chất
lượng hoạt động nghiên cứu KHKT của HS trong trường phổ
thông.
- Nghiên cứu khoa học kỹ thuật của học sinh ở trường

trung học phổ thông
- Đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi học sinh trung học phổ
thông
Lứa tuổi THPT là giai đoạn quan trọng trong việc phát
triển trí tuệ do cơ thể được hoàn thiện nên tạo điều kiện cho
phát triển trí tuệ. Có thể nói tiềm năng về trí tuệ đạt mức cao
nhất, tính chủ định được phát triển mạnh ở tất cả các quá trình
nhận thức. Cảm giác và tri giác của các em đã đạt tới mức độ


của người lớn. Tri giác có mục đích phát triển ở mức rất cao.
Tuy nhiên, sự tri giác của tuổi này cũng vẫn rất cần sự hướng
dẫn của GV, vì họ vẫn dễ dàng kết luận sai hoặc chưa đầy đủ
khi chưa tích lũy đủ sự kiện.
Khả năng trí nhớ đạt đỉnh cao, trí nhớ chủ định, ghi nhớ ý
nghĩa, lôgic phát triển mạnh và chiếm ưu thế. Hoạt động tư duy
của HS THPT phát triển mạnh. Các thao tác tư duy như phân
tích, tổng hợp, so sánh, khái quát hoá, trừu tượng hoá đều phát
triển khá mạnh giúp các em có khả năng tiếp thu tốt các khái
niệm trừu tượng và phức tạp.
Ở thời kỳ này HS đã có khả năng tư duy lý luận, trừu
tượng một cách độc lập và sáng tạo. Những năng lực như phân
tích, so sánh, tổng hợp cũng phát triển. Tư duy lý luận tăng lên
biểu hiện ở sự thích thú tranh luận về các vấn đề khác nhau.
Thậm chí các em thích suy nghĩ, lập luận, bàn bạc ngay cả trong
các trường hợp các em không đủ kiến thức để làm điều đó. Tư
duy lôgic và tính phê phán của tư duy phát triển mạnh hơn. Các
em suy nghĩ chặt chẽ, nhất quán hơn. Chính sự phát triển mạnh
mẽ của tư duy đã góp phần thúc đẩy sự xuất hiện nét tâm lý mới
ở lứa tuổi này đó là sự hoài nghi khoa học. Thiếu sót cơ bản của

tư duy trong giai đoạn này là tính độc lập trong tư duy chưa phát
triển đến mức cần thiết. Trong nhiều trường hợp các em chưa cố


gắng phát huy khả năng độc lập suy nghĩ của bản thân, do đó
kết luận vội vàng hoặc lặp lại ý tưởng, cách chứng minh của
người khác, nhất là của những người có uy tín (thần tượng) với
các em. Do đó, dạy học cần chú trọng việc phát triển khả năng
nhận thức cho HS. Tuy nhiên cũng cần nhận thức rõ, khả năng
phát triển của tư duy ở mỗi em HS là khác nhau.
Học sinh THPT là lứa tuổi mộng mơ, khao khát sáng tạo,
thích cái mới lạ, đang phát triển về tài năng tiếp thu cái mới
nhanh, thông minh sáng tạo nhưng cũng rất dễ sinh ra chủ quan
nông nổi, ít chịu học hỏi đến nơi đến chốn. Thích hướng về
tương lai, ít chú ý đến hiện tại và dễ quên quá khứ…
Tóm lại, ở tuổi thanh niên mới lớn những đặc điểm chung
của con người về mặt trí tuệ thông thường đã được hình thành
và chúng vẫn còn được tiếp tục hoàn thiện.
- Vai trò, ý nghĩa của nghiên cứu khoa học kỹ thuật ở
trường trung học phổ thông
Nghiên cứu KHKT là một hoạt động trải nghiệm bổ ích,
thiết thực, gắn liền giữa lý thuyết với thực hành và thực tiễn lao
động sản xuất. Hoạt động này giúp phát huy, khích lệ, định
hướng, tiếp lửa, khơi dậy niềm đam mê nghiên cứu, sáng tạo
của HS. Đặc biệt, hoạt động nghiên cứu KHKT còn rèn luyện
cho HS kĩ năng tự học, tự nghiên cứu, tự kiểm chứng kết quả


bằng thực nghiệm... Việc HS được trải nghiệm với nghiên cứu
sẽ là một tập dượt quan trọng để trở thành nhà khoa học, đặc

biệt hình thành giá trị học thuật ngay từ khi các em còn rất trẻ.
Đó là tư duy phản biện, luôn tôn trọng minh chứng khách quan,
tự chủ học thuật, hợp tác giải quyết vấn đề, sáng tạo và đổi mới.
Trong tiến trình đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục đào
tạo hiện nay hoạt động nghiên cứu KHKT đóng vai trò quan
trọng, là sân chơi bổ ích giúp HS áp dụng những kiến thức đã
học vào cuộc sống, học đi đôi với hành; tiếp cận, làm quen với
phương pháp, kỹ năng nghiên cứu KHKT. Không những thế,
hoạt động nghiên cứu KHKT trong nhà trường là một trong
những nội dung được đẩy mạnh, nhằm thực hiện mục tiêu đổi
mới căn bản toàn diện nền giáo dục. Để phát huy những lợi ích
trên, hoạt động nghiên cứu KHKT phải được chú trọng ngay
trong độ tuổi học trò, có như vậy mới có cơ sở xây dựng và phát
triển được đội ngũ nhân lực chất lượng cao cho xã hội.
- Góp phần đẩy mạnh việc dạy học các môn khoa học
trong nhà trường; đòi hỏi HS phải tham gia vào khoa học thực
sự: Sử dụng phương pháp khoa học vào quá trình thiết kế kỹ
thuật; nghiên cứu, thực nghiệm; giao tiếp, giải thích và bảo vệ
hoạt động nghiên cứu. Từ đó tăng hứng thú học tập, hình thành
năng lực vận dụng kiến thức, giúp HS tự tin hơn vào bản thân,


say mê hơn với nghiên cứu KHKT; học được cách thức truyền
đạt những ý tưởng khoa học; cơ hội nghề nghiệp, cơ hội nhận
được học bổng/kinh phí học tập.
- Mục tiêu hoạt động nghiên cứu khoa học kỹ thuật ở
trường trung học phổ thông
Hoạt động nghiên cứu KHKT là hoạt động học tập giúp
HS vận dụng kiến thức vào giải quyết các vấn đề thực tiễn cuộc
sống từ đó nâng cao chất lượng học tập của HS. Thông qua hoạt

động nghiên cứu KHKT các nhà quản lí tạo môi trường học tập
sáng tạo trong nhà trường, nâng cao chất lượng dạy học trong
nhà trường; phát triển năng lực nghiên cứu khoa học cho HS;
chuẩn bị cho năng lực sáng tạo về sau này khi bước vào cuộc
sống. Trong quá trình HS thực hiện các dự án nghiên cứu
KHKT rất cần có sự hỗ trợ của gia đình và xã hội từ đó lôi cuốn
sự tham gia, đóng góp của xã hội, cộng đồng vào giáo dục phổ
thông. Thông qua việc chuẩn bị thực hiện dự án và tham gia
cuộc thi Intel ISEF hàng năm cũng tạo cơ hội lớn để HS giao
lưu, trao đổi giữa các địa phương và giao lưu quốc tế
Trong dự thảo Chương trình giáo dục phổ thông tổng
thể: “Nghiên cứu KHKT được đưa thành một hoạt động tự
chọn dành cho HS từ lớp 8 đến lớp 12 nhằm khuyến khích HS
trung học nghiên cứu, sáng tạo khoa học, công nghệ, kỹ thuật


và vận dụng kiến thức đã học vào giải quyết những vấn đề thực
tiễn cuộc sống; góp phần hình thành và phát triển cho HS các
phẩm chất trung thực, tự trọng, tự tin, có tinh thần vượt khó,
chấp hành kỷ luật và pháp luật,...; các năng lực phát hiện và
giải quyết vấn đề, sáng tạo, tự học, giao tiếp, hợp tác, tính
toán, công nghệ thông tin - truyền thông...”.
- Nội dung nghiên cứu khoa học kỹ thuật ở trường
trung học phổ thông
Nội dung là kết quả nghiên cứu của các dự án khoa học
hoặc các dự án kỹ thuật thuộc các lĩnh vực … được tiến hành
theo theo quy trình cụ thể theo các nội dung:
Từ những vấn đề thực tiễn của cuộc sống và học tập HS
lựa chọn chủ đề nghiên cứu phù hợp với năng lực, khả năng, sở
thích của bản thân. HS phải hoàn thành các tài liệu cần thiết cho

dự án (các mẫu phiếu theo quy định và xin ý kiến phê duyệt
trước và sau khi tiến hành dự án. Trên cơ sở chủ đề đã lựa chọn
HS phải tiến hành nghiên cứu tổng quan, lập kế hoạch nghiên
cứu; xây dựng các giả thuyết khoa học hoặc đặt mục tiêu để
nghiên cứu; thiết kế thí nghiệm và tiến hành thí nghiệm, nghiên
cứu; phân tích dữ liệu thí nghiệm thu được, trên cơ sở đó tìm ra
quy luật và đưa ra kết luận. Viết báo cáo và tóm tắt báo cáo
cũng như chuẩn bị Poster và các hình ảnh giới thiệu dự án để


báo cáo kết quả nghiên cứu KHKT.
- Phương pháp nghiên cứu khoa học kỹ thuật ở trường
trung học phổ thông
Phương pháp nghiên cứu khoa học ở trường THPT cũng
giống như phương pháp nghiên cứu khoa học nói chung là hệ
thống các thao tác có tính qui trình lên đối tượng nghiên cứu và
liên quan đến đối tượng nghiên để đạt đến mục đích nghiên cứu
của các nhà nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu khoa ở trường THPT rất đa dạng, có
nhiều phương pháp nghiên cứu khoa học khác nhau. Trong thực
tế, hoạt động nghiên cứu KHKT ở trường THPT của HS là tự
"khám phá lại" các kiến thức chủ yếu sử dụng phương pháp
nghiên cứu lý thuyết (nhóm các phương pháp thu thập thông tin
khoa học trên cơ sở nghiên cứu các văn bản, tài liệu đã có và
bằng các thao tác tư duy lôgic để rút ra các kết luận khoa học
cần thiết).
Bên cạnh đó nhóm các phương pháp nghiên cứu thực tiễn
(nhóm các phương pháp trực tiếp tác động vào đối tượng có
trong thực tiễn để làm bộc lộ bản chất và các quy luật vận động
của các đối tượng ấy) cũng được sử dụng phổ biến trong hoạt

động nghiên cứu KHKT ở trường THPT


- Các nguồn lực và điều kiện phục vụ hoạt động nghiên
cứu khoa học kỹ thuật ở trường trung học phổ thông
Hoạt động nghiên cứu KHKT ở trường THPT là một quá
trình tìm tòi, nghiên cứu, sáng tạo của HS, đòi hỏi phải có sự hỗ
trợ rất lớn từ các điều kiện về định hướng, chỉ đạo của GV, các
nhà khoa học, cha mẹ HS, người bảo trợ, các điều kiện về tài
liệu, tư liệu, cơ sở vật chất khác như các cơ sở nghiên cứu, các
phòng thí nghiệm, thực hành và cả sự đầu tư về kinh phí để thực
hiện.
Nguồn nhân lực (GV hướng dẫn, sự hỗ trợ của nhà khoa
học, người bảo trợ…). Nhân lực khoa học công nghệ nói chung,
đội ngũ những người làm công tác nghiên cứu KHKT nói riêng
là những người phát minh, sáng tạo, truyền bá và ứng dụng rộng
rãi công nghệ mới. Lịch sử phát triển khoa học công nghệ trên
thế giới đã chỉ rõ: Số lượng và chất lượng của đội ngũ nhân lực
ở một quốc gia và tỉ lệ tương quan so sánh với các nước trên thế
giới có liên quan mật thiết với trình độ và tốc độ phát triển khoa
học công nghệ của nước đó.
Quản lý khoa học sẽ không có hiệu quả nếu như coi nhẹ
yếu tố con người – chủ thể của hoạt động nghiên cứu KHKT.
Chất lượng nghiên cứu KHKT do chất lượng của từng HS quyết
định, không thể có sản phẩm nghiên cứu tốt nếu không có


những HS tốt.
Trong các trường THPT, nguồn nhân lực nghiên cứu
KHKT chủ yếu là cán bộ quản lý, đội ngũ GV và HS. Điều quan

trọng nhất của nguồn nhân lực khoa học là khả năng sáng tạo và
lòng say mê khoa học. Nguồn nhân lực khoa học là tiền đề
quyết định kết quả hoạt động nghiên cứu KHKT: “Nhân lực
khoa học là tiềm năng của mọi tiềm năng, là nhân tố quan trọng
nhất tạo ra mọi thành công không những cho khoa học, mà còn
cho tất các những lĩnh vực hoạt động khác của nhân loại”.
Trong hoạt động nghiên cứu KHKT của HS ở trường
THPT các nguồn nhân lực cơ bản thường xuyên theo dõi và tích
cực hỗ trợ HS trong hoạt động nghiên cứu KHKT gồm:
Người hướng dẫn nghiên cứu: Thường xuyên liên lạc, theo
dõi quá trình nghiên của HS để đảm bảo việc nghiên cứu đúng
hướng. Có chuyên môn sâu rộng về lĩnh vực nghiên cứu của
HS; nắm được qui định của pháp luật, của địa phương đối với
lĩnh vực nghiên cứu của HS. Người hướng dẫn có thể là GV,
anh, chị, cha, mẹ, nhà khoa học, chuyên gia, giảng viên cao
đẳng, đại học, nhà khoa học. Người hướng dẫn phải có một nền
tảng về khoa học vũng chắc phải liên hệ thường xuyên với HS
trong suốt quá trình nghiên cứu, tham gia cuộc thi KHKT.
Người hướng dẫn chịu trách nhiệm hoàn toàn không chỉ


với sức khỏe và sự an toàn của HS trong quy trình thực hiện dự
án nghiên cứu mà còn đối với những đối tượng thí nghiệm là
con người hoặc động vật. Người hướng dẫn phải nắm được
những quy định của cuộc thi nghiên cứu KHKT.
Người bảo trợ: Chịu trách nhiệm về sức khoẻ, sự an toàn
của HS khi thực hiện công trình nghiên cứu; với đối tượng
nghiên cứu là người hay động vật.
Người giám sát: Là người thành niên, có trách nhiệm giám
sát quá trình thí nghiệm của HS; hiểu cặn kẽ công trình của HS.

Phải được đào tạo trong lĩnh vực nghiên cứu của HS, người
hướng dẫn cũng có thể là người giám sát được chỉ định.
Nguồn tài lực nghiên cứu KHKT là nguồn tài chính chi phí
cho hoạt động nghiên cứu KHKT bao gồm: Ngân sách Nhà nước chi cho hoạt động nghiên cứu KHKT; kinh phí của tổ chức
dành cho nghiên cứu KHKT; đầu tư, tài trợ của các chương
trình, dự án, các tổ chức và cá nhân. Quản lý nguồn tài lực cho
hoạt động nghiên cứu KHKT tuân theo một quy trình sau: Lập
dự toán cho hoạt động nghiên cứu KHKT hàng năm theo tài
chính; duyệt dự án; cấp phát (chi); thanh quyết toán; kiểm tra.
Nguồn vật lực nghiên cứu KHKT là toàn bộ cơ sở vật chất,
trang thiết bị, vật tư chuyên dùng cho nghiên cứu KHKT bao
gồm: Cơ sở hạ tầng là trụ sở làm việc, phòng thí nghiệm, nhà


xưởng nơi nghiên cứu, thực nghiệm, máy móc thiết bị. Nguyên
liệu, vật tư kĩ thuật dùng trong phòng thí nghiệm, thực nghiệm,
văn phòng phẩm ...
Nguồn thông tin lực phục vụ cho nghiên cứu KHKT: Quản
lý hoạt động nghiên cứu KHKT phải quan tâm đến thông tin, tư
liệu khoa học, nó được coi là nguồn vật chất không thể thiếu được của quá trình nghiên cứu. Quy trình cơ bản của hoạt động
thông tin nghiên cứu KHKT bao gồm: Thu thập thông tin, xử lý
thông tin, lưu trữ bảo quản thông tin... Quản lý nguồn tin lực
trong nghiên cứu KHKT là làm sao cho quy trình trên được thực
hiện thuận lợi và có hiệu quả cao.
Trong thời đại bùng nổ thông tin như hiện nay, có hai mâu
thuẫn đã và đang tồn tại: Mâu thuẫn giữa khối lượng thông tin
khoa học ngày càng tăng và khả năng tiếp thu các thông tin đó
của cán bộ khoa học chuyên môn, mâu thuẫn giữa nhu cầu
thông tin ngày càng lớn, đa dạng và khả năng nhận được những
thông tin có nội dung phù hợp với yêu cầu nghiên cứu. Việc

cung cấp nguồn tin cũng như giúp đỡ các đối tượng nghiên cứu
KHKT cập nhật được thông tin là trách nhiệm và cũng là khó
khăn của nhà quản lý vì hơn ai hết chính những nhà quản lý
phải là những người có hiểu biết tốt về nguồn thông tin khoa
học cũng như kĩ năng xử lý thông tin đó.


- Quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học kỹ thuật ở
trường trung học phổ thông của Sở Giáo dục và Đào tạo
- Sở Giáo dục và Đào tạo với hoạt động quản lý nghiên
cứu khoa học kỹ thuật ở trường trung học phổ thông
Sở GD&ĐT nhận thức đầy đủ và tổ chức tốt các hoạt động
đã tuyên truyền rộng rãi mục đích, ý nghĩa của công tác nghiên
cứu KHKT của học sinh trung học và các quy định, hướng dẫn
của Bộ GD&ĐT về hoạt động nghiên cứu KHKT đến CBQL,
GV, HS, cha mẹ HS và cộng đồng xã hội.
Trên cơ sở quy chế và các quy định, hướng dẫn về hoạt
động nghiên cứu KHKT hằng năm, Sở GD&ĐT chỉ đạo các
Phòng GD&ĐT, các cơ sở giáo dục trung học tổ chức triển khai
hoạt động nghiên cứu KHKT của HS phù hợp với điều kiện
thực tế của đơn vị.
Chỉ đạo các cơ sở giáo dục tổng kết, đánh giá các hoạt
động nghiên cứu KHKT của HS; biểu dương, khen thưởng HS
và cán bộ hướng dẫn có thành tích trong hoạt động nghiên cứu
KHKT của HS năm học cũ; phát động phong trào nghiên cứu
KHKT và tham gia Cuộc thi nghiên cứu KHKT năm học mới;
Tổ chức hội thảo, tập huấn bồi dưỡng cho CBQL, GV và
HS về các quy định, hướng dẫn về hoạt động nghiên cứu



×