Tải bản đầy đủ (.docx) (60 trang)

CƠ sở lý LUẬN về QUẢN lý GIÁO dục GIÁ TRỊ SỐNG CHO học SINH TRUNG học PHỔ THÔNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (257.45 KB, 60 trang )

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN
LÝ GIÁO DỤC GIÁ TRỊ SỐNG
CHO HỌC SINH TRUNG HỌC
PHỔ THÔNG


Tổng quan nghiên cứu vấn đề
Trên thế giới
Như chúng ta biết bước vào thế kỷ 21 với xu thế toàn
cầu hoá thì vấn đề giá trị là một vấn đề hết sức quan trọng và
trong thực tế nó bị khủng hoảng ở một số nước, chính vì vậy
đây là nội dung được nhiều lĩnh vực quan tâm nghiên cứu
trong đó có Tâm lý học quản lý, Giáo dục học....
Tại nhiều nước phương Tây, từ rất sớm thanh thiếu niên
đã được học những giá trị sống cũng như các kỹ năng sống,
những tình huống sẽ xảy ra trong cuộc sống từ đó đề ra cách
đối đầu với những khó khăn, cách đối xử giữ người với người
cũng như sự hà khắc của thiên nhiên.
Để chuẩn bị cho giáo dục thế kỷ XXI, năm 1986 - 1987,
UNESCO đã điều tra về giá trị đạo đức của con người với
mục đích nghiên cứu các giá trị cốt lõi nhằm hướng dẫn
những người làm công tác giảng dạy các vấn đề đạo đức.
Năm 1997 UNICEF đã xây dựng chương trình GD GTS
và đã được đưa vào giảng dạy tại hơn 80 quốc gia trên thế


giới với mục đích cung cấp các nguyên tắc, hướng dẫn con
người phát triển toàn diện.
Tại Diễn đàn Giáo dục Thế giới Dakar, tháng 5/2000 mô
hình trường học thân thiện với người học được phản ánh trong
quan điếm toàn diện về chất lượng được nêu trong Khuôn khổ


Hành động Dakar. UNESCO và UNICEF đã nhận thấy mô
hình "Trường học thân thiện" với các yếu tố của nó là một
giải pháp nâng cao chất lượng và đảm bảo công bằng giáo
dục. Trong mô hình"Trường học thân thiện" tiêu chí GD GTS
vừa như là một biếu hiện của chất lượng giáo dục, vừa đế
giúp HS sống an toàn.
Cho nên một trong những mục tiêu của chương trình đã
coi GTS là một khía cạnh của chất lượng giáo dục. Đánh giá
chất lượng giáo dục cần tính đến những tiêu chí đánh giá GTS
của người học, như vậy tiến hành GD GTS chính là đế nâng
cao chất lượng giáo dục.
Trong khuôn khổ chương trình Giáo dục những GTS của
UNESCO, bộ sách của tác giả Diane Tillman “Những giá trị
sống dành cho trẻ từ 3 đến 7 tuổi”, “Những giá trị sống dành
cho trẻ từ 8 đến 14 tuổi”, và “Những giá trị sống cho tuổi trẻ”


đã trình bày 12 giá trị: hòa bình, hợp tác, tôn trọng, trung
thực, tự do, trách nhiệm, khoan dung, giản di, yêu thương,
đoàn kết, hạnh phúc, khiêm tốn.
Với những nghiên cứu ở nước ngoài cho thấy, giáo dục
nhân cách con người với những GTS căn bản và nền tảng đạo
đức cốt lõi được xem là vấn đề quan trọng, luôn được các nhà
giáo dục trên thế giới đặc biệt quan tâm.
-Ở Việt Nam
Vấn đề GD GTS cho thế hệ trẻ đã thu hút nhiều ngành
khoa học quan tâm nghiên cứu, trọng trách lớn cả về nghiên
cứu lý luận lẫn triển khai thực tiễn giáo dục giá trị sống cho
học sinh phù hợp với thực tiễn giáo dục nước nhà.
Năm 1998 Tác giả Hà Nhật Thăng đã cho xuất bản cuốn

sách: "Giáo dục hệ thống giá trị đạo đức nhân văn". Trong
đó, trang bị cho thanh thiếu niên, học sinh và sinh viên nắm
vững những hệ thống giá trị cốt lõi.các kết quả nghiên cứu
trong cuốn sáchtrên đã được đưa vào việc xây dựng chương
trình trong sách giáo khoa của môn Giáo dục công dân trong
các cấp học.


Tác giả Nguyễn Thị Mỹ Lộc và Đinh Thị Kim Thoa đã
phân tích các giá trị truyền thống của con người Việt Nam và
12 giá trị sống phổ quát của UNESCO. Từ đó tác giả đề xuất
một số biện pháp GD GTS cho học sinh phổ thông.
Nội dung GD GTS cũng được các nhà trường thực sự
quan tâm từ khi có chỉ thị 40/2008 CT-BGD&ĐT phát động
các nhà trường thực hiện phong trào thi đua "Xây dựng
trường học thân thiện, học sinh tích cực" trong đó có nội dung
tổ chức GD GTS cho học sinh, sinh viên. Như vậy vấn đề GD
GTS cho học sinh không còn là vấn đề mới mẽ trong các nhà
trường mà là một nhiệm vụ quan trọng được các nhà trường
xây dựng trong kế hoạch từng năm học. Nhưng chúng ta chưa
quan tâm đúng mức đến GD GTS cho học sinh, chưa giáo dục
đầy đủ phẩm chất nhân cách, mới chỉ chú ý đến giáo dục hành
vi, rèn luyện biểu hiện bên ngoài, do đó học sinh chưa hiếu
bản chất của các GTS cần thực hiện, dẫn đến kết quả giáo dục
chưa cao, số học sinh có hành vi lệch chuẩn trong các nhà
trường ngày càng ra tăng trong thời gian gần đây, gây sự lo
lắng bức xúc trong dư luận, sự trăn trở của ngành giáo dục, vì
thế khoa học giáo dục ngày nay đang hướng vào nghiên cứu
GD GTS gắn liền với thực tiễn, nhằm đem lại hiệu quả thiết



thực trong thực tiễn giáo dục học sinh.
Ta thấy đã có rất nhiều nhà nghiên cứu trong nước
nghiên cứu đề tài GD GTS, các đề tài chủ yếu phân tích làm
rõ thực trạng trước tính cấp bách của vấn đề GD GTS hoặc
một số đề tài đã nghiên cứu tương đối đầy đủ các nhiệm vụ
nghiên cứu lý luận, đánh giá thực trạng và đề xuất giải pháp
quản lý, nhưng ít có đề tài nghiên cứu quản lý hoạt động GD
GTS trong nhà trường THPT ở vùng nông thôn có nhiều học
sinh dân tộc ít người có đời sống kinh tế còn gặp nhiều khó
khăn, đặc biệt các đề tài nghiên cứu nhiều về quản lý hoạt
động giáo dục giá trị sống ít đề cập tới vấn đề quản lý hoạt
động GD GTS sao cho phù hợp với một khu vực nhất định cụ
thể có nhiều nét tương đồng, đặc biệt là việc hướng dẫn cụ thể
về việc GD GTS cho giáo viên, các lực lượng trong và ngoài
nhà trường để có thể làm tốt việc này đối với học sinh. Chính
vì vậy tác giả chọn đề tài: “Quản lý giáo dục giá trị sống cho
học sinh các trường trung học phổ thông Huyện Bảo Lâm,
tỉnh Lâm Đồng” với mong muốn đây là sự kế thừa cần thiết
các nghiên cứu đi trước, cùng góp phần xây dựng các biện
pháp quản lý hoạt động GD GTS một cách phù hợp với tình
hình của các nhà trường vùng nông thôn, vùng địa bàn cư trú


của nhiều đồng bào dân tộc ít người từ đó góp phần nâng cao
chất lượng giáo dục toàn diện cho học sinh các trường trung
học phổ thông Huyện Bảo Lâm, tỉnh Lâm Đồng hiện nay.
- Các khái niệm cơ bản
- Khái niệm quản lý
Mọi hoạt động của xã hội đều cần tới quản lý. Quản lý

vừa là khoa học, vừa là nghệ thuật trong việc điều khiển một
hệ thống xã hội cả ở tầm vĩ mô và vi mô.
Xuất phát từ vực khác nhau, hiện nay đã có những tác
giả trong và ngoài nước đã có những quan điểm khác nhau về
quản lý
Theo F.W Taylor (1856-1915): “Quản lý là hoàn thành
công việc của mình thông qua người khác và biết đươc một
chính xác họ đã hoàn thành công việc một cách tốt nhất và rẻ
nhất”
C. Mác đã viết: “Tất cả mọi lao động xã hội trực tiếp hay
lao động chung nào tiến hành trên quy mô tương đối lớn thì ít
nhiều cũng cần một sự chỉ đạo để điều hòa những hoạt động
cá nhân và thực hiện những chức năng chung phát sinh từ sự


vận động của toàn bộ cơ thể sản xuất” [31.67]
Tác giả Nguyễn Quốc Chí và Nguyễn Thị Mỹ Lộc cho
rằng: “Quản lý là tác động có định hướng, có chủ đích của
chủ thể quản lý (người quản lý) đến khách thể quản lý (người
bị quản lý) trong một tố chức nhằm làm cho tố chức vận hành
và đạt được mục đích của tố chức”.[27.21]
Theo Bách khoa toàn thư mở Wikipedia thì: ”Quản lý
trong kinh doanh hay quản lý trong các tố chức nhân sự nói
chung là hành động đưa các cá nhân trong tố chức làm việc
cùng nhau để thực hiện, hoàn thành mục tiêu chung”
Có nhiều ý kiến khác nhau về quản lý nhưng khái quát
lại ta thấy: Quản lý là sự tác động có tổ chức, có định hướng
của các chủ thể quản lý tới đối tượng quản lý để đạt được
mục tiên đề ra từ ban đầu cũng như phù hợp với phát sinh
trong quá trình thực hiện.

- Khái niệm quản lý giáo dục
Khái niệm "Quản lý giáo dục" cũng có nhiều cách diễn
đạt khác nhau, song trong mỗi cách định nghĩa đều đề cập tới
các yếu tố cơ bản: chủ thể quản lý giáo dục, khách thể quản lý


giáo dục, mục tiêu quản lý giáo dục, ngoài ra còn phải kể tới
cách thức (phương pháp quản lý giáo dục) và công cụ (hệ
thống văn bản quy phạm pháp luật) quản lý giáo dục.
Theo tác giả Trần Kiểm: “QLGD được hiểu là một hệ
thống những tác động tự giác, có ý thức, có mục đích, có kế
hoạch, có hệ thống , hợp quy luật của chủ thể quản lý đến tập
thể giáo viên, công nhân viên, tập thể học sinh, cha mẹ học
sinh và các lực lượng xã hội trong và ngoài nhà trường nhằm
thực hiện có chất lượng và hiệu mục tiêu giáo dục của nhà
trường”. [25.45]
Theo tác giả Đặng Quốc Bảo: “QLGD theo tổng quát là
hệ thống tác động có mục đích, có kế hoạch, có quy luật của
chủ thể quản lý trong hệ thống giáo dục, là sự điều hành hệ
thống giáo dục quốc dân, điều hành các cơ sở giáo dục nhằm
thực hiện mục tiêu đẩy mạnh công tác giáo dục theo yêu cầu
phát triển xã hội”.[2.27]
Quản lý giáo dục được thực hiện ở hai cấp độ: Vĩ mô và
Vi mô. Đối với vĩ mô “Quản lý giáo dục được hiểu là những
tác động tự giác (có ý thức, mục tiêu, kế hoạch, hệ thống hợp
quy luật) của chủ thể quản lý đến toàn bộ hệ thống (từ Trung


ương, địa phương đến các cơ sở giáo dục là nhà trường) nhằm
thực hiện có chất lượng và hiệu quả mục tiêu phát triển giáo

dục, đào tạo thế hệ trẻ mà xã hội đặt ra cho ngành giáo dục”.
Đối với cấp vi mô: “Quản lý giáo dục được hiểu là hệ thống
những tác động tự giác (có ý thức, mục tiêu, kế hoạch, hệ
thống và quy luật) của chủ thể quản lý đến tập thể giáo viên,
công nhân viên, tập thể HS, CMHS và các lực lượng xã hội
trong và ngoài nhà trường nhằm thực hiện có chất lượng và
hiệu quả mục tiêu giáo dục của nhà trường” [6.34]
Tóm lại, dù QLGD được hiểu theo cách tiếp cận nào thì
khái niệm QLGD cũng phải có những yếu tố cơ bản chất sau:
có chủ thể QLGD, ở tầm vĩ mô là Bộ giáo dục và đào tạo, Sở
giáo dục và đào tạo các tỉnh thành, Phòng giáo dục và đào
tạo. Ở tầm vi mô là quản lý của Hiệu trưởng nhà trường.
Nhà trường là đối tượng cuối cùng, cơ bản nhất của QLGD,
trong đó đội ngũ giáo viên và học sinh là đối tượng quản lý
quan trọng nhất.
- Khái niệm quản lý trường học
Quản lý trường học về bản chất là huy động các nguồn
lực để tổ chức tốt các hoạt động giáo dục trong nhà trường


theo mục tiêu giáo dục. Có nhiều cấp quản lý trường học: cấp
cao nhất là Bộ GD - ĐT, cơ quan quản lý hệ thống giáo dục
quốc dân bằng các biện pháp vĩ mô. Có hai cấp trung gian
quản lý trường học là Sở GD - ĐT ở tỉnh, thành phố và các
Phòng Giáo dục ở các quận, huyện, nơi chỉ đạo và giám sát
nhà trường thực hiện các chương trình giáo dục. Cơ quan
quản lý trực tiếp các hoạt động giáo dục trong nhà trường là
ban giám hiệu nhà trường.
Công tác quản lý trong nhà trường bao gồm tất cả những
hoạt động diễn ra trong nhà trường đồng thời nó có mối quan

hệ qua lại giữa nhà trường với các hoạt động ngoài xã hội.
“Quản lý nhà trường bao gồm các nội dung sau: Quản lý
chương trình dạy, quản lý chương trình học và quản lý khâu
hỗ trợ chương trình dạy, chương trình học như: Quản lý
CSVC và thiết bị GD, quản lý việc bồi dưỡng GV, quản lý
môi trường GD, quản lý việc kiểm tra đánh giá kết quả học
tập, rèn luyện của học sinh”.[7.42]
Vậy ta thấy, quản lý là hoạt động trường học là hoạt
động của các cơ quan quản lý nhằm huy động các nguồn lực
để tổ chức tốt các hoạt động giáo dục trong nhà trường theo
mục tiêu giáo dục được đề ra.


- Khái niệm giá trị sống
Để nghiên cứu khái niệm giá trị sống cần phải làm rõ
khái niệm giá trị.
Khái niệm giá trị:
Theo từ điển Tiếng Việt: “Giá trị là cái làm cho một vật
có ý nghĩa, có ích, nó đáng quý về một mặt nào đó”.[31.354]
Theo Bách khoa toàn thư Wikipedia “giá trị được coi là
những cái mà ta thích, ta cho là quan trọng, là đáng có. Từ đó,
giá trị ảnh hưởng đến hành vi của chúng ta”.
Theo quan điểm của Triết học Mác-Lênin: “Giá trị là
những hiện tượng xã hội đặc thù, mọi giá trị đều có nguồn gốc
từ lao động sáng tạo của con người”.
Theo tác giả Phạm Minh Hạc “giá trị là tính có ý nghĩa
tích cực, đáng quý, có ích của các đối tượng với các chủ
thể”[23.30]
Qua các quan điểm về giá trị ta thấy giá trị đều có chung
một số đặc điểm sau:



Giá trị là những gì mang tính tích cực, được mọi người
thừa nhận.
Giá trị mang tính khách quan, sự tồn tại hay mất đi của
một giá trị nào đó không phụ thuộc vào ý thức của một người
hoặc một nhóm người nhất định.
Giá trị giúp con người điều chỉnh hành vi của mình. Giá
trị tốt thì sẽ hình thành hành vi tốt và điều chỉnh được những
hành vi lệch chuẩn, chưa phù hợp với thời điểm hiện tại.
Giá trị giúp định hướng hành vi, cách thực hiện để đạt
được mục tiêu tốt đẹp, toàn diện.
Giá trị luôn luôn biến đổi theo thời gian và không gian
để phù hợp với điều kiện từng thời điểm. Chính vì vậy, có
những giá trị tồn tại trong quá khứ nhưng ở hiện tại nó không
còn tồn tại do không còn phù hợp.
Có hai loại giá trị: giá trị tinh thần và giá trị vật chất
Từ những hiểu biết và kinh nghiệm của mình tôi cho
rằng: Giá trị là cái cần thiết, quan trọng, có ý nghĩa đối với
chủ thể (cá nhân hay nhóm), được mọi người thừa nhận có
khả năng chi phối suy nghĩ, thái độ và hành vi của con người.


Khái niệm giá trị sống:
Mặc dù khái niệm GTS mới được nhắc đến những năm
gần đây nhưng thật ra, từ xưa tới nay, loài người luôn quan
tâm, đề cao GTS và đề cập dưới nhiều góc độ khác nhau.
Tư tưởng Nho giáo: trong tư tưởng Nho giáo, đức luôn
luôn là chủ đạo, là gốc rễ để giải quyết mọi vấn đề. Nho giáo
lấy đức để trị quốc, để đối nhân xử thế. Coi đức tính thánh

thiện của con người là nòng cốt để giải quyết các bất đồng
trong xã hội.
Tư tưởng của đạo Phật: con người sống trên đời quý ở
tấm lòng, do đó cần phải tu tâm dưỡng tính. Thực chất là đánh
giá cao GTS hơn là kỹ năng sống, bởi không có GTS đúng
đắn thì con người có thể dùng kỹ năng sống để làm điều ác.
Phật giáo khuyên con người sống cuộc sống nhân đức để có
được cuộc sống tốt đẹp hơn cho mọi người hiện tại và mai
sau.
Cũng trên tư tưởng lấy đức làm gốc nhưng phải coi trọng
cả đức và tài là tư tưởng của Hồ Chí Minh "Có tài phải có
đức, có tài mà không có đức - tham ô, hủ hoá thì có hại cho
đất nước. Có đức mà không có tài chẳng làm được gì, thì


không giúp ích được cho ai".[29.48]
Tác giả Phạm Minh Hạc gọi “GTS là những Giá trị bản
thân. Ông coi đây là một nét mới của “tư duy” trong thời kỳ
đất nước phát triển với nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội
nhập quốc tế”. [20.34]
Tác giả Đặng Quốc Bảo cho rằng “phạm trù GTS được
tạo nên bởi kỹ năng sống thành thạo trên nền tảng quan điểm
sống đúng đắn. Đất nước nào xây dựng và giúp cho thế hệ trẻ
thực hiện được hệ giá trị bản thân đúng đắn và phù hợp, thì
đất nước đó sẽ có các giờ học tốt, nhà trường tốt, hệ thống
giáo dục và nền giáo dục tiên tiến không lạc hậu, lạc điệu với
thời đại. Nếu các giá trị sống được phát triển bền vững thì
nhân cách cũng trưởng thành vững vàng, có bản lĩnh, bản sắc
riêng”. [3.18]

Tác giả Nguyễn Công Khanh cho rằng: “GTS là những
thứ được cá nhân nhận thức là rất quan trọng, rất cần thiết, rất
có ý nghĩa, luôn mong đợi, chúng có khả năng chi phối thái
độ, xúc cảm, tình cảm, hành vi của một cá nhân trong cuộc
sống hàng ngày. Không chỉ tài sản, mà cả tri thức, sức khỏe,


tình yêu thương, sự trung thực, danh dự... cũng được coi là
một giá trị sống của cá nhân”.[12.75]
Theo Chương trình Giáo dục các giá trị sống của
UNESCO thì GTS (hay còn gọi là “giá trị cuộc sống”, “giá trị
của cuộc sống”) là “những điều mà một con người cho là tốt,
là quan trọng, phải có cho bằng được và vì thế giá trị sống là
cơ sở của hành động sống, nó chi phối hành vi hướng thiện
của con người”. [36.65]
Nhìn chung, ta thấy giá trị sống là một hình thái ý thức
xã hội, là hệ thống các quan niệm về cái thiện, cái ác, lẽ phải,
công bằng, văn minh, lương tâm, trách nhiệm,... trong các
mối quan hệ giữa con người với con người, giữa con người
với thế giới xung quanh.
Phân loại giá trị sống: Hiện nay có rất nhiều cách phân
loại GTS, trong đề tài này, tác giả lựa chọn cách phân theo các
GTS của UNESCO. Các gía trị này đã được triển khai ở nhiều
nước trên thế giới.Việc sử dụng những giá trị này được xem là
chuẩn trong quá trình đánh giá.
Nội dung tóm tắt của 12 giá trị như sau:


Giá trị Hòa bình:
Trước đây người ta quan niệm hòa bình là không có

chiến tranh nhưng hiện nay ngoài không có chiến tranh hòa
bình thể hiện rộng lớn hơn trên mọi lĩnh vự. Đó là một xã hội
không có xung đột, không có mâu thuẩn, là một xã hội ổn
định, công bằng và văn minh.
Muốn có hòa bình, con người phải sống yêu thương
chan hòa không chì giữa con người với con người mà cả giửa
con người với môi trường xung quanh. Trên thế giới đã có
những cuộc xung đội cũng vì tranh giành các lợi ích như
nguồn tài nguyên thiên nghiên, nguồn nước...Khi con người
sông trong chiến tranh, xung đột, tranh giành thì giá trị to lớn
của hòa bình mới được coi trọng và đề cao đặc biệt là trong
một xã hội bất ổn như hiện nay.
- Giá trị Tôn trọng:
Tôn trọng là giá trị cao quý nhất của mỗi con người
chúng ta. Tôn trọng trước hết là lòng tự trọng của cá nhân
đối với bản thân mình và giữa mình với người khác cũng như
giữa mình với thế giới xung quanh.


sự tôn trọng lẫn nhau sẽ là động lực, là niềm tin, là sự
tin cậy trong quá trình cùng chung sống. Mình tôn trọng
người khác cũng chính là tôn trọng bản thân mình. Có tôn
trọng sẽ có trung thực, có ngay thẳng và đó chính là động lức
cho mỗi cá nhân để cùng chia sẽ và cùng lắng nghe.
- Giá trị Yêu thương:
Tình yêu thương giữa con người với con người, giữa con
người với các sự vật, hiện tượng xung quanh được xem là giá
trị cao đẹp nhất. Nó là nền tảng làm cho ác mối quan hệ được
trở nên tốt đẹp hơn. Nó là chất xúc tác để tạo nên các giá trị
khác. Tinh thần yêu thương còn thể hiện ở sự tương trợ, giúp

đở lẫn nhau trong đời sống hàng ngày cũng như khi xãy ra
hoạn nạn “là lành đùm lá rách”, ” một con ngựa đau cả tàu
bỏ cỏ”...
Tình yêu thương là cái gốc của đạo đức. Không có tình
yêu thương thì không thể thông cảm, không thể tha thứ khi
mác những lỗi lầm, không thể giúp đỡ, hỗ trợ nhau khi người
khác cần mình. Cao hơn nữa, tình yêu thương đó là tình yêu
đất nước, yêu quê hương, tinh thần tự hào dân tộc, tình yêu
đồng loại, tình yêu hòa bình....


- Giá trị Khoan dung:
Khi nói đến khoan dung, người ta nói đến lòng vị tha.
Khi ta khoan dung ta sẽ trở nên cởi mở với chính bản thân
cũng như những người xung quanh từ đó ta biết chấp nhận sự
khác biệt đồng tời cũng rút ra được những điều tốt đẹp mà
những người khác mang lại.
Khoan dung chính là tôn trọng và thông cảm với người
khác, biết rộng lòng tha thứ đồng thời cũng chính là cho
người khác cơ hội sửa chữa những lỗi lầm mắc phải trong
cuộc sống.
Giá trị khoan dung sẽ hóa giải lòng thù địch, ghanh đua,
tranh giành lẫn nahu để xây dựng một môi trường, một thế
giới hòa bình, ổn định.
- Giá trị Trung thực:
Trung thực là tôn trọng sự thật. Là giá trị cao quý của
mỗi cá nhân trong cuộc sống. Đó là chân lý, là lẽ phải, là
nhận thức đúng đắn phù hợp với thế giới khách quan. Biết
chấp nhận lỗi làm của mình, biết cái sai, cái không đúng để
sửa chữa.



Trung thực là thật thà, là không dối trá từ đó hình thành
hành động đúng đắn, trong sáng, không vụ lợi.
- Giá trị Hợp tác:
Trong một xã hội liên kết như hiện nay, giá trị hợp tác
ngày càng đóng vai trò ngày càng quan trọng. Hợp tác tức là
cùng làm việc với nhau, cùng tư tưởng, cùng mục đích để
hướng tới dựa trên nguyên tác tôn trọng và giúp đỡ lẫn nhau.
Một người biết hợp tác thì sẽ biết yêu thương, biết chia
sẽ, biết khoan dung với nhau từ đó bù đăp cho nhau trong
công việc cũng như trong đời sống.
Hợp tác không phải là kéo bè, kéo cánh bè phái mà là
biết phối hợp để đạt được mục đích trong sáng, đôi khi là phải
biết chấp nhận vì cái chung để phát triển. Một người biết hợp
tác sẽ nhận được sự hợp tác.
Giá trị Khiêm tốn:
Khiêm tốn luôn đi đôi với lòng tự trọng. Đó là không
khoe khoang, tự cao, tự đại. Một người khiêm tốn là biết cách
lắng nghe, biết chia sẽ, biết hợp tác với những người bên
cạnh.


Khiêm tốn sẽ làm cho người bên cạnh mình cảm nhận
được giá trị thực của mình. Khiêm tốn đối lập với tự cao, tự
đại, lòng kiêu ngạo.
Giá trị khiêm tốn luôn là nền tảng để hình thành lòng vị
tha, gia 1tri5 trung thực từ đó sẽ là mãnh đất cho sự hợp tác
trong ổn định và phát triển.
Giá trị Hạnh phúc:

Hạnh phúc là trạng thái cao nhất của tâm hồn. Hạnh
phúc đôi khi chỉ đơn giản là đã hoàn thành một công việc mà
mình yêu thích, đôi khi chỉ là một hành động nhỏ mà ta thấy
có ích. Hạnh phúc của cá nhân cũng chính chính là đem lại
hạnh phúc cho người khác.
Muốn có hạnh phúc con người cần có tình yêu thương,
lòng vị tha và tinh thần trách nhiệm cao.
Giá trị Trách nhiệm:
Trách nhiệm là thực hiện tốt quyền và nghĩa vụ của mỗi
người. Sự phát triển của mỗi tổ chức, mỗi tập thể hay rộng
hơn là của mỗi đất nước đều gắn liền với sự đồng hành và
phát triển của mỗi cá nhân. Mỗi cá nhân có trách nhiệm thực


hiện phần việc của mình một cách tốt nhất trên tinh thần trách
nhiệm cao. Trách nhiệm còn thể hiện qua sự đóng góp sức lực
vào việc giải quyết cái chung, vì tập thể.
Trách nhiệm đòi hỏi lòng tự trọng và tinh thần đoàn kết,
biết thế nào là đúng, thế nào là sai, không bao che cái xấu, cái
không đúng.
Giá trị Giản dị:
Giản dị là cách sống không cầu kì, xa hoa, cách sống sao
cho phù hợp với hoàn cảnh hiện tại của cá nhân, của cả một
cộng đồng hay lớn hơn là của cả một dân tộc. Giản dị là điều
đầu tiên cho sự phát triển ổn định và bền vững. Giản dị giúp
ta kiên nhẫn và từ tốn. Sự giản dị được thể hiện trong cách ăn
nói, trang phục, cử chỉ, cách xử lý các vấn đề, nhìn nhận sự
việc một cách khách quan, không phức tạp hóa vấn đề trong
cuộc sống.
Giản dị thường kèm theo sự tiết kiệm phù hợp, sử dụng

của cải vật chất một cách đúng đắn,. Từ đó giúp ta tiết kiệm
về thời gian, công sức, tiền bạc đồng thời khiến mọi người
xung quanh tôn trọng ta hơn.


Giá trị Tự do
Mọi người đều có quyền tự do. Tự do làm những điều
mình thích, mình mong muốn. Xâm phạm quyền tự do của cá
nhân khác là vi phạm pháp luật. Thế nhưng tự do trong khuôn
khổcho phép và phải dựa trên luật pháp. Tự do phải dựa trên
tinh thần trách nhiệm và tính trung thực.
Suy nghĩ một cách tự do sẽ đưa con người phải phóng
được những điều lầm lẫn và phức tạp từ đó đưa chúng ta
hướng tới những suy nghĩ tích cực đối với bản thân và những
người xung quanh.
Tôn trọng quyền tự do của người khác chính là tôn trọng
quyền tự do của chính bản thân mình.
- Giá trị Đoàn kết:
“Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết
Thành công, thành công, đại thành công”
Đoàn kết là sự tập hợp, hòa thuận, cùng chung ý chí,
cùng chung mục đích phấn đấu của các cá nhân trong một tổ
chức. Muốn đoàn kết phải tôn trọng quey26n tự do của mỗi
cá nhân, phải có tinh thần trách nhiệm cao đồng thời phải có


lòng vị tha. Đoàn kế chính là cùng làm việc, cùng chia sẽ,
cùng hợp tác để tạo ra bầu không khí làm việc thân ái, hiệu
quả và ổn định cùng phát triển.
Giá trị đoàn kết là điều bắt buộc trong cuộc số mở hiện

nay, không một các nhân nào có thể đứng ngoài sự phát triển
của tổ chức. Một dấu hiệu thiếu tôn trọng có thể làm cho tính
đoàn kết bị đỗ vỡ vì vậy sự tôn trọng, lòng vị tha là điều kiện
bắt buộc phải có trong mỗi con người.
Vậy ta thấy rõ ràng, những giá trị này đều được chứa
đựng và thống nhất với các giá trị truyền thống của Việt Nam
hiện nay. Những học sinh càng có nhiều GTS đúng đắn sẽ
phát triển nhân cách một cách toàn diện. Ngược lại, những
học sinh thiếu hụt những GTS cơ bản sẽ có những biểu hiện,
hành vi không đúng, không phù hợp thậm chí vi phạm pháp
luật....
Vai trò của giá trị sống
Cùng với việc học nhằm chuẩn bị cho cuộc sống tương
lai của mình, HS cũng cần phải biết làm thế nào để ứng phó
trước các tình huống gặp phải, quản lý cảm xúc, học cách giao
tiếp, ứng xử, giải quyết mâu thuẫn trong mối quan hệ, những


biến động của cuộc sống. Từ đó có thể thích ứng tốt nhất khi
phải đối mặt với những tình huống cám dỗ, thử thách. HS
thiếu nền tảng GTS dẫn tới động cơ học tập, rèn luyện không
đúng, không biết tôn trọng bản thân và người khác, không biết
cách xây dựng và duy trì tình đoàn kết, hợp tác tương trợ lẫn
nhau, đôi khi đưa đến hành vi thiếu trung thực, bất hợp tác,
ích kỷ cá nhân.
Hiện nay GTS của không ít HS đang thay đổi theo chiều
hướng mỗi ngày một phù phiếm và thực dụng. Vì vậy, để các
bạn trẻ, các em học sinh xét đoán, nhận diện, thẩm định đúng
đâu là giá trị cuộc sống có vai trò đặc biệt quan trọng.
Thứ nhất, GTS là những điều quan trọng đối với cuộc

sống của con người, nó thôi thúc con người làm điều gì đó tốt
đẹp, có ích cho bản thân và cộng đồng. GTS có thể là tình yêu
thương, lòng kính trọng, sự bình yên, sự hợp tác, tình bạn.
Nhân cách bao gồm những nét đặc trưng riêng của mỗi con
người, bao gồm động cơ hành động, khí chất, thái độ, những
thuộc tính thể chất. Chính vì vậy GTS định hướng tư duy,
nhân cách và hành động của các cá nhân.
Thứ hai, GTS là động lực bên trong thúc đẩy hành vi,


×