Tải bản đầy đủ (.docx) (35 trang)

CƠ sở lý LUẬN về QUẢN lý tự ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG GIÁO dục TRƯỜNG TRUNG học PHỔ THÔNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (177.39 KB, 35 trang )

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN
LÝ TỰ ĐÁNH GIÁ CHẤT
LƯỢNG GIÁO DỤC TRƯỜNG
TRUNG HỌC PHỔ THÔNG


- Tổng quan nghiên cứu
Tự đánh giá và quản lý TĐGCLGD có vai trò quan trọng trong
bất cứ một nền GD nào, vì thế nhiều nước trên thế giới đã rất quan
tâm đến vấn đề này ở cả hai phương diện nghiên cứu lý thuyết và áp
dụng trong thực tiễn.
- Trên thế giới
Ở các nước phát triển như Anh, Pháp, Hoa Kỳ, Nhật Bản,
Australia, Hàn Quốc... đánh giá CLGD và đào tạo đã được triển
khai nghiên cứu từ thập niên 70 của thế kỷ trước. Trong các cuốn
sách (đã được dịch sang tiếng Việt) của một số tác giả ở các nước
trên đều cho rằng: TĐG chất lượng có mục đích kiểm định, đo đạc
quá trình GD, từ đó các nhà quản lý có thể dự đoán kết quả, đưa ra
những quyết định, những điều chỉnh kịp thời để nâng cao CLGD.
Và họ cho rằng, TĐGCLGD cần được thực hiện đồng bộ ở cả hai
phương diện: TĐG sản phẩm GD và TĐG các yếu tố đảm bảo
CLGD của nhà trường. Cơ sở GD muốn phát triển và hội nhập quốc
tế phải có chính sách, mục tiêu và quy trình đảm bảo chất lượng; do
đó công tác TĐGCLGD được tiến hành đồng thời ngay trong quá
trình đào tạo. Cơ quan kiểm định là các đơn vị độc lập với cơ quan
quản lý và triển khai GD, từ đó các kết quả TĐG có giá trị khách
quan, loại trừ được các yếu tố chủ quan, tuỳ tiện do bệnh thành tích.


- Ở Việt Nam
Ở Việt Nam, về phương diện nghiên cứu lý thuyết: Trần


Khánh Đức (2010) với công trình “Giáo dục và phát triển nguồn
nhân lực trong thế kỉ 21” [11]. Đề tài NCKH cấp Bộ năm 2006 với
mã số B2004 - 80 - 06 “Xây dựng hệ thống tiêu chí đánh giá CLGD
trường THPT và triển khai đánh giá thí điểm tại một số tỉnh, thành
phố”. Lê Đức Ngọc (2009) “Tổng qua về kiểm định và đảm bảo
chất lượng giáo dục phổ thông” [18]. Nguyễn Đức Chính ( 2002)
“Kiểm định chất lượng giáo dục đại học”, Nxb Đại học Quốc Gia,
Hà Nội. Nguyễn Đức Chính (2003) “Chất lượng và kiểm định chất
lượng trong cơ sở giáo dục”, Nxb Đại học Quốc Gia, Hà Nội. Phạm
Lê Cường (2016) với luận án tiến sĩ “ Giải pháp đảm bảo chất lượng
đào tạo các trường/khoa Đại học sư phạm” tại Đại học Vinh.
Nguyễn Thị Bích Hường (2014) với luận văn thạc sĩ “Biện pháp
quản lý hoạt động tự đánh giá trong kiểm định chất lượng giáo dục
tại trường Đại học dân lập Hải Phòng” tại Đại học Sư phạm Hà Nội.
Nguyễn Thị Kim Dung(2017) với luận án tiến sĩ “Quản lý đào tạo
theo hướng đảm bảo chất lượng cá trường Cao đẳng khu vực Tây
bắc” tại trường Đại học Sư phạm Hà Nội. Đặng Thị Thùy Linh
(2014) với luận án tiến sĩ “Quản lý và kiểm định chất lượng giáo
dục trường trung học phổ thông tại thành phố Hồ Chí Minh” tại Đại
học sư phạm TP Hồ Chí Minh. [17]


Về phương diện thực tiễn, từ năm 2002 Bộ Giáo dục và Đào tạo
đã quan tâm xây dựng cơ quan kiểm định chất lượng giáo dục, từ đây
hệ thống KĐCL giáo dục ở nước ta được hình thành và đi vào hoạt
động. Đến năm 2012 Bộ GD&ĐT đã ban hành Quy định về tiêu chuẩn
ĐGCLGD và quy trình KĐCLGD cơ sở GD phổ thông, cơ sở GD
thường xuyên qua Thông tư số 42/2012/TT-BGDĐT ngày 23 tháng 11
năm 2012 và Công văn số 8987/BGDĐT-KTKĐCLGD ngày 28 tháng
12 năm 2012 hướng dẫn tự đánh giá và đánh giá ngoài cơ sở giáo dục

phổ thông, cơ sở giáo dục thường xuyên. Đến năm 2013 Cục Khảo thí
và KĐCL giáo dục ban hành Công văn Số 46/KTKĐCLGD-KĐPT
ngày 15 tháng 01 năm 2013 về việc hướng dẫn xác định yêu cầu, gợi ý
tìm minh chứng theo tiêu chuẩn đánh giá ĐGLCGD trường tiểu học và
trường trung học.
- Nhận xét chung
Hiện nay các trường Đại học được giao quyền tự chủ, cho nên
việc kiểm định chất lượng giáo dục rất quan trọng và cần thiết,bởi
vì:
- Kiểm định chất lượng giáo dục giúp các trường đại học định
hướng và xác định chuẩn chất lượng cho từng hoạt động


- Kiểm định chất lượng giáo dục giúp các trường đại học có cơ
hội xem xét lại toàn bộ hoạt động của mình một cách có hệ thống để
từ đó điều chỉnh các hoạt động theo một chuẩn mực nhất định
- Kiểm định chất lượng giáo dục là lời tuyên bố chắc chắn tới
các bên liên quan về hiện trạng chất lượng của trường. .
- Kiểm định chất lượng giáo dục tạo cơ sở xây dựng văn hoá
chất lượng cho CSGD.
Chính vì sự quan trọng và cần thiết của kiểm định chất lượng
giáo dục ở các trường Đại học như vậy nên có rất nhiều đề tài nghiên
cứu về vấn đề này. Tuy nhiên ở các trường THPT thì vấn đề kiểm định
chất lượng giáo dục chưa thực sự được coi trọng bởi vì quyền tự chủ
của các trường THPT chưa cao. Chính vì vậy mà còn rất ít đề tài
nghiên cứu về kiểm định chất lượng giáo dục ở THPT và đặc biệt là
mảng tự đánh giá chất lượng giáo dục tại các trường THPT.
Các công trình nghiên cứu lý thuyết về TĐGCLGD và kinh
nghiệm hoạt động thực tiễn về lĩnh vực này ở nước ta như trình bày
trên, đã tạo nền tảng cho việc nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn

kinh nghiệm để triển khai hoạt động TĐGCLGD ở các trường trong
hệ thống GD quốc dân nói chung và ở Trường THPT Phạm Ngũ
Lão nói riêng.


- Các khái niệm cơ bản
- Chất lượng và chất lượng giáo dục
Chất lượng là vấn đề quan trọng trong đời sống xã hội, nhất là
trong GD. Việc phấn đấu không ngừng nâng cao chất lượng trong
mọi lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, dịch vụ... luôn là nhiệm vụ, quan
trọng nhất của bất kì tổ chức nào. Mặc dù giữ tầm quan trọng như
vậy nhưng thuật ngữ “chất lượng” vẫn là khái niệm khó xác định,
khó đo lường, đánh giá và cách hiểu của người này khác với của
người kia.
Khái niệm chất lượng được xem xét từ nhiều góc độ khác
nhau tùy theo cách tiếp cận. Do đó, khó có thể có một khái niệm
chung về chất lượng. Tuy nhiên, chất lượng có thể được hiểu theo
những cách sau:
- Chất lượng là sự xuất sắc bẩm sinh, tự nó (là cái tốt nhất).
Điều này chỉ có thể hiểu được, cảm nhận được nếu đem so sánh
chúng với những vật có cùng đặc tính. Đây là cách tiếp cận tiên
nghiệm về chất lượng.
- Chất lượng được xem xét trên cơ sở những thuộc tính đo
được. Có nghĩa là chất lượng có thể được đo lường khách quan và


chính xác. Đây là cách tiếp cận dựa trên sản phẩm khi xem xét chất
lượng.
- Chất lượng được xem như là sự đáp ứng nhu cầu. Một sản
phẩm hay một dịch vụ, yếu tố quyết định chất lượng là xác định nhu

cầu của khách hàng, để sản phẩm có được những đặc tính, giá trị sử
dụng mà khách hàng mong muốn với giá cả mà họ sẽ hài lòng chi
trả. Cách tiếp cận này dựa trên sản xuất về chất lượng.
Trong GD&ĐT, khách hàng là học sinh, sinh viên; chính phủ,
doanh nghiệp, cha mẹ của người học. Đối với giáo viên giảng dạy,
học sinh, sinh viên thì khái niệm chất lượng là các yếu tố đảm bảo
được yêu cầu của xã hội, đó là quá trình đào tạo, là cơ sở vật chất
dùng cho quá trình giảng dạy và học tập. Đối với những người sử
dụng sản phẩm của GD&ĐT thì ưu tiên về chất lượng của họ là trình
độ, năng lực và kiến thức của học sinh, sinh viên khi ra trường.
- Chất lượng là sự phù hợp với mục đích (mục tiêu).
Đây là một khái niệm về chất lượng do tổ chức đảm bảo chất
lượng giáo dục Đại học quốc tế đề xướng, nó phù hợp đối với việc
xác định CLGD và cả với việc đánh giá nó.


Mục tiêu ở đây được hiểu một cách toàn diện bao gồm từ triết
lý của GD, tới định hướng, mục đích của cả hệ thống GD và sứ
mệnh, các nhiệm vụ chiến lược... của cơ sở đào tạo.
Xét trên quan điểm hệ thống, khi xét chất lượng của cả hệ
thống GD, thì trước hết phải xác định được cấu trúc của toàn hệ
thống đó, các nhà khoa học GD đã xác định hệ thống GD bao gồm
các yếu tố sau:
- Đầu vào:
Đầu vào của hệ thống GD bao gồm: nguồn nhân lực (giáo
viên, học sinh, các nhà quản lý...); vật lực (cơ sở vật chất, kỹ thuật,
học liệu....); tài lực

(tài chính cho GD, các nguồn thu...)


- Quá trình:
Quá trình GD bao gồm: các hoạt động dạy, học, diễn ra trong
nhà trường, trong cả hệ thống GD; bao gồm cả hoạt động quản lý
nhà trường.
- Kết quả đầu ra:
Kết quả đầu ra bao gồm con người được GD với những
phẩm chất, năng lực mà họ nhận được trong những năm học tập.
Đối với các trường phổ thông, kết quả đầu ra là kiến thức, kỹ năng


thái độ của người học đáp ứng với yêu cầu của bậc học cao hơn
hoặc tham gia thị trường lao động ở mức độ nhất định.
Từ định nghĩa chất lượng là sự phù hợp với mục tiêu ở
trên, có thể xem chất lượng giáo dục là sự phù hợp với mục tiêu
giáo dục. Mục tiêu GD là những yêu cầu của xã hội đối với
người học mà nhà trường cần đáp ứng.
CLGD được xác định theo:
* Chất lượng của môi trường học tập và đầu vào
- Chương trình, nội dung.
- Giáo viên.
- Cơ sở vật chất.
- Tài chính.
- Quản lý
* Chất lượng của quá trình học tập
- Phương pháp dạy
- Phương pháp học
- Thời lượng.


* Chất lượng của kết quả học tập

- Sự tiếp thu kiến thức của học sinh.
- Giá trị.
- Thái độ.
- Kỹ năng.
Nền GD chất lượng là một nền GD giữ gìn được truyền thống,
bản sắc dân tộc, đảm bảo tính khoa học tiên tiến hiện đại và phù hợp
với tiến trình phát triển kinh tế - xã hội bền vững. Đó là một nền
GD:
- Hướng tới mục tiêu nâng cao chất lượng sống cho từng thành
viên trong xã hội, chất lượng sống cho cộng đồng.
- Đảm bảo sự phù hợp giữa các điều kiện đảm bảo chất lượng
với sự mở rộng qui mô trong quá trình phát triển.
- GD về sự phát triển bền vững của con người với nghĩa con
người vừa là mục tiêu vừa là động lực của phát triển kinh tế - xã
hội.
- Là môi trường tốt nhất để con người tiết thu những kiến thứ
mới, tự hoàn thiện mình trong điều kiện biến đổi liên tục của cuộc
sống.


- CLGD được thể hiện trong bốn trụ cột mà UNESCO đã đề
xuất: Học để biết; Học để làm; Học để chung sống và học để tồn tại.
- Tự đánh giá chất lượng giáo dục
TĐG là nghĩa vụ và trách nhiệm của các cơ sở đào tạo trong
quá trình hình thành và phát triển và được thực hiện trong quá trình
tổ chức KĐCL các cơ sở GD.
TĐG là khâu đầu tiên trong tổng thể các hoạt động KĐCL.
TĐG có ý nghĩa quan trọng bởi vì nó chứng tỏ nếu nhà trường làm
được điều này là nhà trường có ý thức và khả năng thực hiện tính tự
chủ và tự chịu trách nhiệm của mình trong toàn bộ các hoạt động

GDĐT, nghiên cứu và dịch vụ xã hội theo chức năng mà các cấp
lãnh đạo và xã hội giao cho Nhà trường.
Vậy: Tự đánh giá chất lượng giáo dục ở các trường phổ
thông là quá trình hình thành những nhận định, phán đoán về
kết quả GD dựa trên sự phân tích những thông tin thu được đối
chiếu với những mục tiêu, tiêu chuẩn, tiêu chí đã đề ra nhằm đề
xuất những ý kiến thích hợp để cải thiện thực trạng, điều chỉnh,
nâng cao chất lượng và hiệu quả GD đào tạo ở các trường phổ
thông hiện nay.
Mục đích của TĐG:


- Làm rõ thực trạng qui mô chất lượng và hiệu quả các hoạt
động của Nhà trường.
- Xác định và so sánh theo các tiêu chuẩn KĐCL của Nhà
nước đã công bố xem đã đạt được đến mức nào.
- Xác định rõ tầm nhìn, các điểm mạnh, điểm yếu, thời cơ
thách thức của Nhà trường, đề xuất ra các chiến lược, kế hoạch, biện
pháp nhằm từng bước nâng cao chất lượng đào tạo và chất lượng
chung. Đưa ra kiến nghị với các cơ quan có trách nhiệm và thẩm
quyền để chỉ đạo và cung cấp các nguồn lực, biện pháp hỗ trợ cho
nhà trường thực hiện sứ mệnh đã đề ra.
TĐG là một khâu quan trọng trong hoạt động KĐCL trường
THPT. Đó là quá trình nhà trường tự xem xét, nghiên cứu trên cơ sở
các tiêu chuẩn ĐGCL do Bộ GD&ĐT ban hành để báo cáo về tình
trạng CL, hiệu quả hoạt động GD, nhân lực, cơ sở vật chất cũng như
các vấn đề liên quan khác, từ đó tiến hành điều chỉnh các nguồn lực
và quá trình thực hiện nhằm đáp ứng các tiêu chuẩn chất lượng.
TĐG không chỉ tạo cơ sở cho công ĐGN mà còn là cơ sở để
trường cải tiến CL, đồng thời thể hiện tính tự chủ và tính tự chịu

trách nhiệm của trường trong toàn bộ các hoạt động GDĐT, NCKH,
dịch vụ XH theo chức năng, nhiệm vụ được giao, phù hợp với sứ
mạng và mục tiêu của trường.


TĐG là một quá trình liên tục, đòi hỏi tốn nhiều công sức, thời
gian, phải có sự tham gia góp sức của nhiều tập thể và cá nhân
trong toàn trường. Hoạt động TĐG đòi hỏi tính khách quan, trung
thực và công khai. Các giải thích, nhận định, kết luận đưa ra trong
quá trình TĐG phải dựa trên các minh chứng cụ thể, rõ ràng, đảm
bảo độ tin cậy, bao quát đầy đủ các tiêu chí trong bộ tiêu chuẩn đánh
giá CLGD.
* Vai trò của TĐGCLGD ở Trường THPT
Thông tư số 42/2012/TT-BGDĐT ngày 23/11/2012 đã được Bộ
GD&ĐT xây dựng và ban hành, đó là kết quả nghiên cứu các yếu tố
làm nên và ảnh hưởng đến CLGD của cơ sở GD, được cụ thể hóa
thành 5 tiêu chuẩn, 36 tiêu chí, 108 chỉ số. Việc một cơ sở GD đạt
được yêu cầu của các chỉ số, tiêu chí này tất yếu sẽ làm nên CLGD
toàn diện của cơ sở GD.
Quá trình TĐGCLGD là quá trình nhà trường tìm hiểu, đối
chiếu thực trạng với chuẩn, là đánh giá mức độ đáp ứng của các yếu
tố hiện có so với chuẩn. Giúp nhà quản lý hiểu được thực trạng các
yếu tố tạo nên và ảnh hưởng đến CLGD. Từ đó xác định được
những yếu tố đã có, những yếu tố còn thiếu, những yếu tố đã đạt,
chưa đạt so với chuẩn, những điểm mạnh, điểm yếu của nhà trường
và đề ra được chiến lược, kế hoạch phát triển các thành tố trong nhà


trường, đưa ra các biện pháp quản lý phát huy được điểm mạnh,
khắc phục được điểm yếu nhằm đảm bảo CLGD trong nhà trường.

Mục tiêu cơ bản nhất của TĐGCLGD là xây dựng được nề
nếp CL cho cơ sở GD. Đó là cơ sở GD mà ở đó mỗi thành viên
trong nhà trường đều biết mức độ yêu cầu về các phẩm chất, năng
lực, trách nhiệm của bản thân liên quan thế nào đến CL, nhờ đó họ
biết chủ động nâng cao năng lực, trách nhiệm, CL công việc, góp
phần cùng những thành viên, bộ phận, tổ chức có liên quan hành
động theo CLGD.
Thông qua quá trình TĐG, các thành viên trong nhà trường
hiểu biết được những yếu tố tạo nên CLGD. Từ đó mỗi thành viên
tự nhận xét, đánh giá bản thân về mức độ đáp ứng theo yêu cầu của
chuẩn, biết được điểm mạnh, điểm yếu và xác định được trách
nhiệm của mình đối với việc đáp ứng yêu cầu của chuẩn, có định
hướng học tập bồi dưỡng, điều chỉnh bản thân, góp phần xây dựng
CLGD của nhà trường. Các bộ phận, các tổ chức đoàn thể, các tổ
chuyên môn và tổ văn phòng biết được mức độ đáp ứng yêu cầu của
chuẩn, điểm mạnh, điểm yếu mà điều chỉnh, cải tiến hoạt động
nhằm thực hiện được yêu cầu nâng cao CLGD trong nhà trường.
Nhà QLGD xây dựng được chiến lược, kế hoạch phát triển nhà


trường có tính khả thi cao, mang lại hiệu quả cho nhiệm vụ nâng
cao CLGD trong Nhà trường.
Trên cơ sở TĐG, nhà trường đăng ký ĐGN, nhờ các chuyên
gia có năng lực, có kinh nghiệm kiểm định lại, để có hiểu biết đầy
đủ, chính xác và khách quan về thực trạng nhà trường, điểm mạnh,
điểm yếu, đặc biệt là có được những tư vấn về kế hoạch cải tiến
CLGD, từ đó có định hướng cho sự phát triển của nhà trường như:
- Định hướng đầu tư có trọng điểm của nhà trường, nhà nước
dựa trên những nguồn lực hiện có và có thể huy động được đạt hiệu
quả cao nhất.

- Ðịnh hướng lựa chọn của người học, của phụ huynh học
sinh, của cộng đồng đối với nhà trường.
- Ðịnh hướng đầu tư của các doanh nghiệp muốn đầu tư trong
lĩnh vực GD và đào tạo.
- Ðịnh hướng phát triển cho các cơ sở GD để tăng cường năng
lực cạnh tranh trong và ngoài nước
Điều 17 Luật Giáo dục năm 2005 quy định: “Kiểm định chất
lượng giáo dục là biện pháp chủ yếu nhằm xác định mức độ thực
hiện mục tiêu, chương trình, nội dung giáo dục đối với nhà trường
và cơ sở giáo dục. Việc kiểm định chất lượng giáo dục được thực


hiện định kỳ trong phạm vi cả nước và đối với từng cơ sở giáo dục.
Kết quả kiểm định chất lượng giáo dục được công bố công khai để
xã hội biết và giám sát”. [22]
- Quản lý nhà trường và quản lý tự đánh giá chất lượng
giáo dục nhà trường
Quản lý nhà trường
Theo Bùi Minh Hiền: “Quản lý nhà trường là tác động có mục
đích, có định hướng, có tính kế hoạch của các chủ thể quản lý (đứng
đầu là Hiệu trưởng nhà trường) đến các đối tượng quản lý (Giáo
viên, cán bộ nhân viên, người học, các bên liên quan...) và huy
động, sử dụng đúng mục đích, có hiệu quả các nguồn lực nhằm thực
hiện sứ mệnh của nhà trường đối với hệ thống giáo dục và đào tạo,
với cộng đồng và xã hội nhằm thực hiện mục tiêu giáo dục đã xác
định trong một môi trường luôn biến động ” [13].
Quản lý tự đánh giá chất lượng giáo dục nhà trường
Từ những phân tích trên, chúng tôi quan niệm:
Quản lý tự đánh giá chất lượng giáo dục nhà trường là sự
tác động có mục đích, có tổ chức của chủ thể quản lý theo sự

phân cấp đến toàn bộ hoạt động TĐG ở các trường THPT nhằm
thu thập những thông tin về CLGD thực tế, trên cơ sở đó kiến


nghị với cấp trên và nhà trường kiểm soát chặt chẽ hoạt động GD
của nhà trường, đáp ứng yêu cầu đổi mới toàn diện GD hiện nay.
Mục đích quản lý TĐGCLGD nhà trường nhằm bảo đảm thực
hiện đầy đủ các chức năng, nhiệm vụ được giao. Quản lý
TĐGCLGD ở các trường THPT là một hoạt động quản lý nên cần
phải vận dụng các chức năng trong quản lý để tổ chức thực hiện đó
là: kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo, kiểm tra.
Nội dung quản lý TĐG CLGD nhà trường phải đảm bảo việc
tổ chức tất cả các khâu của việc tổ chức thực hiện nội dung TĐG từ
khâu chuẩn bị đánh giá, tiến hành thanh tra, kết thúc TĐG, sau đánh
giá.
Chủ thể quản lý TĐGCLGD nhà trường bao gồm: Sở GD, Ban
Giám hiệu các nhà trường THPT.
Đối tượng TĐG là các trường THPT đạt kết quả tốt sẽ giúp
chức năng trong quản lý của Hiệu trưởng đạt hiệu quả, tăng cường
hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý nhà trường; góp phần hoàn
thành tốt nhiệm vụ, nâng cao CLGD và phát huy tính tích cực của
tập thể sư phạm; đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản và toàn diện GD,
đổi mới quản lý nhà trường.


- Nội dung quá trình tự đánh giá chất lượng giáo dục
trường Trung học phổ thông
- Mục đích, ý nghĩa quá trình tự đánh giá chất lượng giáo
dục trường Trung học phổ thông
* Mục đích

Tự đánh giá chất lượng đóng vai trò rất quan trọng trong công
tác đảm bảo chất lượng giáo dục tại các trường THPT. Các trường
THPT muốn nâng cao chất lượng giáo dục thì cần phải thực hiện tốt
công tác TĐGCLGD. Bởi vì TĐGCLGD giúp cho các trường:
- Có một cái nhìn hoàn chỉnh, khách quan về nhà trường, có
cái nhìn tổng quát về tình hình hiện tại của nhà trường, xác định
được điểm mạnh, điểm yếu của nhà trường.
- Từ điểm mạnh, điểm yếu xây kế hoạch tự cải tiến và nâng
cao chất lượng giáo dục một các liên tục
- Thúc đẩy xây dựng và phát triển hệ thống ĐBCL bên trong.
- Cung cấp thông tin phù hợp cho các bên liên quan
Là bước chuẩn bị cho công tác đánh giá ngoài
* Ý nghĩa


- Là sự thể hiện cụ thể tính tự chủ và tự chịu trách nhiệm của
nhà trường, trong toàn bộ các hoạt động quản lý chất lượng giáo dục
- Thúc đẩy các hoạt động đánh giá và tự phân tích về nhà
trường
- Đẩy mạnh tinh thần hợp tác trong trường, thu hẹp khoảng
cách mục tiêu cá nhân với mục tiêu tập thể và khuyến khích sự minh
bạch;
- Phát hiện kịp thời những bất cập của các chính sách đã lỗi
thời;
- Đề ra được các kế hoạch hành động nhằm cải tiến và nâng
cao chất lượng giáo dục
- Phát triển đội ngũ cán bộ, giáo viên
- Khẳng định hơn vị thế của nhà trường với xã hội
- Nội dung của quá trình tự đánh giá chất lượng giáo dục
trường Trung học phổ thông

Theo thông tư 42/2012/TT-BGDĐT ngày 23 tháng 11 năm
2012 ban hành Bộ tiêu chuẩn đánh giá, chu kỳ KĐCLGDB cơ sở,
GDPT, GDTX cần tập trung vào các nội dung chủ yếu sau.


- Thu thập, phân tích và tổng hợp các thông tin, tư liệu, số
liệu thống kê theo yêu cầu của các minh chứng cần có cho các tiêu
chuẩn và tiêu chí kiểm định đề ra.
- Tổ chức thẩm tra, khảo sát ý kiến tự đánh giá của các cán bộ,
giảng viên và học sinh nhà trường..
- Viết báo cáo TĐG theo các tiêu chuẩn kiểm trên cơ sở các
thông tin và bằng chứng thu được.
- Tham khảo ý kiến các cán bộ, giáo viên, nhân viên của trường
về báo cáo TĐG để bổ sung và hoàn thiện. Phần viết báo cáo TĐG theo
5 tiêu chuẩn, 36 tiêu chí, 108 chỉ số (Theo thông tư 42/2012/TTBGDĐT ngày 23 tháng 11 năm 2012 ban hành Bộ tiêu chuẩn đánh giá,
chu kỳ KĐCLGDB cơ sở, GDPT, GDTX).
+ Tiêu chuẩn 1: Tổ chức và quản lý nhà trường (10 tiêu chí, 30
chỉ số)
+ Tiêu chuẩn 2: Cán bộ quản lý, giáo viên, nhân viên và học
sinh ( 5 tiêu chí, 15 chỉ số)
+ Tiêu chuẩn 3: Cơ sở vật chất và trang thiết bị dạy học (6 tiêu
chí, 18 chỉ số)


+ Tiêu chuẩn 4: Quan hệ giữa nhà trường, gia đình và xã hội
( 3 tiêu chí, 9 chỉ số)
+ Tiêu chuẩn 5: Hoạt động giáo dục và kết quả giáo dục ( 12
tiêu chí, 36 chỉ số)
- Quy trình tự đánh giá chất lượng giáo dục trường Trung
học phổ thông.

Theo công văn Số 8987/BGDĐT-KTKĐCLGD ngày 28 tháng
12 năm 2012 về hướng dẫn tự đánh giá và đánh giá ngoài cơ sở giáo
dục phổ thông, cơ sở giáo dục thường xuyên tiến hành theo các
bước sau:
- Thành lập Hội đồng tự đánh giá: Chủ tịch Hội đồng là Hiệu
trưởng; Phó chủ tich Hôi đồng là Phó Hiệu trưởng; Nhóm trưởng;
Nhóm thư ký( từ 2 đến 3 người); Nhóm công tác ( Mỗi nhóm từ 2
đến 5 người).
- Xây dựng kế hoạch tự đánh giá và thông qua kế hoạch triển
khai chi tiết công tác tự đánh giá của Hội đồng tự đánh giá của nhà
trường.
- Thu thập, xử lý và phân tích các minh chứng
- Đánh giá mức độ đạt được theo từng tiêu chí


- Viết báo cáo tự đánh giá ( báo cáo ngắn gọn, rõ ràng, chính
xác và đầy đủ các hoạt động liên quan đến tiêu chí, Trước khi đưa ra
báo cáo chính thức phải dự thảo báo cáo để lấy ý kiến góp ý của cán
bộ, giáo viên nhân viên cơ sơ giáo dục. Báo cáo tự đánh giá do Hiệu
trưởng xem xét và phê duyệt)
- Công bố báo cáo tự đánh giá
- Điều kiện thực hiện quá trình tự đánh giá chất lượng giáo
dục trường trung học phổ thông
Để thực hiện quá trình tự đánh giá chất lượng trường trung
học phổ thông thì cần có cá yếu tố sau:
- Nguồn nhân lực hiểu biết sâu về công tác kiểm định chất
lượng
- Được trang bị bộ văn bản dùng làm công cụ để đánh giá
( Thông tư 42/2012/TT-BGDĐT ngày 23 tháng 11 năm 2012 ban
hành Bộ tiêu chuẩn đánh giá, chu kỳ KĐCLGDB cơ sở, giáo dục

phổ thông, giáo dục thường xuyên; Công văn Số 8987/BGDĐTKTKĐCLGD ngày 28 tháng 12 năm 2012 về hướng dẫn tự đánh giá
và đánh giá ngoài cơ sở giáo dục phổ thông, cơ sở giáo dục thường
xuyên)
- Kinh phí cho hoạt động


- Nội dung quản lý tự đánh giá chất lượng giáo dục trường
trung học phổ thông
- Lập kế hoạch tự đánh giá chất lượng giáo dục trường
trung học phổ thông
Sau khi công bố quyết định thành lập Hội đồng TĐGCLGD.
Nhà trường phải xây dựng kế hoạch TĐG:
Theo Công văn Số 8987/BGDĐT-KTKĐCLGD ngày 28 tháng
12 năm 2012 của Bộ GD&ĐT,
“a) Kế hoạch TĐG do chủ tịch Hội đồng TĐG phê duyệt gồm
các nội dung:
- Mục đích và phạm vi TĐG;
- Phân công nhiệm vụ cho từng thành viên Hội đồng TĐG;
- Tập huấn nghiệp vụ TĐG cho Hội đồng TĐG và cán bộ giáo
viên, nhân viên;
- Dự kiến các nguồn lực và thời điểm cần huy động;
- Dự kiến các minh chứng cần thu thập cho từng tiêu chí;


- Xác định thời gian thực hiện cho từng hoạt động (bao gồm
thời gian cần thiết để triển khai TĐG và lịch trình thực hiện các hoạt
động);
b) Kế hoạch TĐG cần được xây dựng cụ thể, chi tiết và phù
hợp với điều kiện của cơ sở GD. Cần xác định rõ công việc, thời
gian hoàn thành, tránh chung chung và hình thức;

c) Định kỳ, đánh giá việc thực hiện kế hoạch để điều chỉnh, bổ
sung’’ [6]
- Tổ chức thực hiện tự đánh giá chất lượng giáo dục trường
trung học phổ thông
Đây là giai đoạn các kế hoạch TĐG được thực hiện, là sự phân
công những cá nhân làm những công việc cụ thể một cách khoa học,
hợp lý nhất; là sự phối kết hợp của các bộ phận thành phần để đạt
kết quả cao nhất.
Bước 1:
- Thông báo kế hoạch TĐG.
- Tổ chức tập huấn cho cán bộ giáo viên, nhân viên tham gia
công tác TĐG về mục đích, yêu cầu, nội dung, phương pháp điều
tra, đánh giá và xây dựng các văn bản báo cáo.


- Xây dựng đề cương văn bản báo cáo TĐG.
Bước 2: Các trưởng nhóm sẽ điều hành nhóm mình làm công
việc được giao.
- Thực hiện các công tác thu thập minh chứng, thống kê thông
tin, tư liệu và điều tra khảo sát và viết báo cáo theo yêu cầu.
- Soạn thảo dự thảo báo cáo TĐG theo các tiêu chuẩn kiểm
định.
Bước 3:
- Tổ chức các cuộc họp đóng góp ý kiến cho dự thảo Báo cáo
TĐG.
- Hoàn thiện văn bản Báo cáo TĐG.
- Xây dựng văn bản báo cáo TĐG chính thức của nhà trường.
- Chỉ đạo việc thực hiện tự đánh giá chất lượng giáo dục
trường trung học phổ thông
TĐG là một hoạt động vẫn còn khá mới mẻ với nhà trường.

Nhận thức của lãnh đạo các trường về KĐCL nói chung và TĐG nói
riêng rất khác nhau. Hoạt động TĐG của trường sẽ được thực hiện
đúng quy trình và đạt hiệu quả cao khi lãnh đạo nhà trường có nhận
thức đúng, thực sự quan tâm, đầu tư công sức, chỉ đạo sát sao.


×