Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (65.29 KB, 5 trang )
hay các thực thể đặc biệt khác. Và trong luật điều ước quốc tế, quốc gia cũng là chủ
thể phổ biến nhất.
- Về sự hình thành luật, cũng giống như luật quốc, luật điều ước quốc tế được
hình thành trên cơ sở tự nguyện, bình đẳng giữa các chủ thể.
- Nguồn của luật điều ước quốc tế: các quy phạm của luật điều ước quốc tế
được ghi nhận trong các điều ước quốc tế và các tập quán quốc tế.
+ Các tập quán quốc tế về luật điều ước quốc tế chủ yếu từ chính thực tiễn đàm
phán, ký kết và thực hiện điều ước quốc tế của quốc gia. Hiện nay, các tập quán quốc
tế liên quan đến thủ tục, nghi lễ ký kết điều ước quốc tế vẫn được các chủ thể áp dụng
trong các quan hệ điều ước quốc tế với nhau.
+ Nguồn thành văn (điều ước quốc tế) chủ yếu của luật điều ước quốc tế hiện
nay gồm có Công ước Viên năm 1969 về luật điều ước quốc tế giữa các quốc gia và
Công ước viên năm 1986 về luật điều ước quốc tế giữa các quốc gia và tổ chức quốc
tế hoặc giữa các tổ chức quốc tế.
+Trong từng quốc gia, để thống nhất quản lý hoạt động ký kết và thực hiện điều
ước quốc tế, mỗi quốc gia đều ban hành các văn bản quy phạm pháp luật trong nước
điều chỉnh cụ thể quan hệ ký kết và thực hiện điều ước quốc tế giữa nước đó và các
chủ thể khác của Luật quốc tế. Ví dụ: Luật Điều ước quốc tế của Việt Nam năm 2016,
Luật về Điều ước quốc tế của Liên Bang Nga năm 1995, Luật về trình tự kí kết điều
ước quốc tế điều ước của Cộng hòa nhân dân Trung hoa năm 1990.
Từ các đặc điểm trên, có thể khẳng định luật điều ước quốc tế là một ngành luật
trong hệ thống pháp luật quốc tế.
2. Luật điều ước quốc tế là một ngành luật độc lập trong hệ thống pháp luật quốc
tế.
- Về quan hệ mà luật điều chỉnh là các quan hệ giữa các quốc gia hoặc các thực
thể quốc tế khác về việc ký kết và thực hiện điều ước của điều ước quốc tế. Cũng
2
giống như các lĩnh vực khác của luật quốc tế như luật thương mại quốc tế điều chỉnh