Tải bản đầy đủ (.doc) (47 trang)

Tư vấn pháp luật về hành vi xâm phạm bí mật đời tư trên các phương tiện truyền thông và mạng xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (235.09 KB, 47 trang )

Đề tài: Tư vấn pháp luật về hành vi xâm phạm bí mật đời tư trên các phương tiện
truyền thông và mạng xã hội

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

− BLDS: Bộ luật dân sự
− BLHS: Bộ luật hình sự
− BLTTHS: Bộ luật tố tụng hình sự
− NĐ: Nghị định
− CHXHCN: Cộng hòa xã hội chủ nghĩa

1. Lý do chọn đề tài
1


Đề tài: Tư vấn pháp luật về hành vi xâm phạm bí mật đời tư trên các phương tiện
truyền thông và mạng xã hội
Xã hội càng phát triển, trình độ văn minh càng được nâng cao thì quyền con
người càng được chú trọng. Việt Nam đang bước trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã
hội, là hình thức kinh tế-xã hội cao nhất, tiến bộ nhất của nhân loại. Không chỉ có nền
kinh tế được đầu tư mà cả con người cũng được chú trọng để biểu hiện cho sự nâng
cao về trình độ xã hội. Cuộc sống của mỗi con người là khác nhau, ai ai cũng có những
điều bí mật và họ sở hữu những câu chuyện bí mật về mình. Những “bí mật đời tư” đó
ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống hoặc đơn giản là ảnh hưởng đến tâm trạng của chủ
sở hữu. Đó là sự nhận thức và ý thức về “cái tôi cá nhân” được đề cao. Mặt khác, tôn
trọng bí mật đời tư của người khác còn là tôn trong cuộc sống riêng của họ. Từ xa xưa,
người Việt Nam đã có tính không tốt là hay bàn chuyện làng xóm, “trong nhà chưa tỏ,
ngoài ngõ đã tường”, chuyện nhà người khác những lôi ra bàn tán, bình phẩm dẫn đến
nhiều lần mất đoàn kết “cộng đồng”. Vì vậy, qua cả 1 quá trình nhìn nhận về những
hạn chế đó, những quy phạm xã hội ra đời điều chỉnh con người phải biết tôn trọng
chuyện riêng của người khác. Và ngày nay, quy phạm xã hội đó đã được nâng lên


thành quy phạm pháp luật điều chỉnh hành vi của con người về quyền và bảo vệ quyền
bí mật đời tư. Quyền được bảo vệ đời tư (hay quyền về đời tư, quyền riêng tư) là một
quyền con người cơ bản đã được quy định trong nhiều văn kiện pháp lý của Liên hợp
quốc và của các khu vực, trong đó Việt Nam.
Thực tiễn đã chỉ ra rằng xâm phạm đời tư cá nhân, đặc biệt là việc xâm phạm đời
tư cá nhân bằng phương tiện truyền thông và mạng xã hội đang là vấn đề nhức nhối,
có tính phổ biến ở Việt Nam, gây ra những tác động tiêu cực đến trật tự, an toàn xã
hội. Bởi lẽ những năm gần đây, các phương tiện truyền thông và mạng xã hội phát
triển mạnh mẽ. Trong khi đó, quy định hiện hành về quyền được bảo vệ đời tư ở Việt
Nam trên các phương tiện truyền thông, mạng xã hội còn nhiều hạn chế và bất cập,
thiếu tính dự báo, bị lạc hậu so với sự phát triển của đời sống xã hội, các quy định có
nhiều điểm không tương thích, phần nhiều mới chỉ dừng lại ở mức độ nguyên tắc, có
rất ít các quy định cụ thể điều chỉnh quan hệ pháp luật này. Những bất cập đó đã hạn
chế và làm giảm sút hiệu quả bảo vệ quyền về đời tư.

2


Đề tài: Tư vấn pháp luật về hành vi xâm phạm bí mật đời tư trên các phương tiện
truyền thông và mạng xã hội
Mặt khác, khi xảy ra việc bị xâm phạm quyền bí mật đời tư cá nhân trên các
phương tiện truyền thông và mạng xã hội, cá nhân bị xâm phạm không biết đến hoặc
không muốn (ngại) đến tư vấn tại các Văn phòng luật sư để được bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của mình. Trong khi hoạt động tư vấn pháp luật của luật sư là một hoạt
động phổ biến, thiết yếu và đáng tin cậy cho các cá nhân bị xâm phạm quyền bí mật
đời tư.
Từ những lý lẽ trên, em chọn đề tài “Tư vấn pháp luật về hành vi xâm phạm bí
mật đời tư trên các phương tiện truyền thông và mạng xã hội” để làm đề tài báo cáo
tốt nghiệp của mình. Hi vọng với những nghiên cứu của mình sẽ góp phần làm sáng tỏ
về mặt khoa học và đưa ra giải pháp hoàn thiện pháp luật và những giải pháp nâng cao

hiệu quả của việc tư vấn pháp luật đối với hành vi xâm phạm quyền bí mật đời tư trên
phương tiện truyền thông và mạng xã hội.
2. Mục đích nghiên cứu đề tài
Tiểu luận nghiên cứu làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận các vấn đề như quyền
con người, khái niệm, đặc điểm quyền bí mật đời tư, các quy định pháp luật điều chỉnh
quyền bí mật đời tư và hành vi xâm phạm bí mật đời tư trên các phương tiện truyền
thông và mạng xã hội. Song song đó làm sang tỏ tư vấn pháp luật của luật sư là gì, tiêu
chuẩn, điều kiện về tư vấn pháp luật của luật sư. Đối chiếu, tổng hợp hai vấn đề này,
đề tài đưa ra các giải pháp hoàn thiện pháp luật về quyền bí mật đời tư và giải pháp
nâng cao kỹ năng tư vấn pháp luật của luật sư trong vấn đề này.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu những vấn đề xung quanh quyền
được bảo vệ đời tư và các hành vi xâm phạm quyền bí mật đời tư dưới góc độ luật
nhân quyền và hoạt động tư vấn pháp luật của luật sư đối với vấn đề này được quy
định trong pháp luật Việt Nam. Kết quả của việc phân tích và so sánh những quy phạm
đó kết hợp với nghiên cứu đánh giá thực trạng tư vấn pháp luật về bảo vệ quyền được
bảo vệ đời tư ở Việt Nam và chế tài xử lý hành vi xâm phạm quyền bí mật đời tư trên
các phương tiện truyền thông, mạng xã hội. Từ đó lý giải những nguyên nhân của
3


Đề tài: Tư vấn pháp luật về hành vi xâm phạm bí mật đời tư trên các phương tiện
truyền thông và mạng xã hội
những tồn tại, hạn chế này và đề kiến nghị những giải pháp hoàn thiện thực định và
nâng cao hiệu quả tư vấn pháp luật của luật sư.
- Phạm vi nghiên cứu: Vì thời gian nghiên cứu có hạn nên đề tài chỉ phân tích
các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành nhưng không phân tích chuyên sâu và trên
cơ sở có trích dẫn một số văn bản quy phạm pháp luật trước đây để phân tích, so sánh,
đánh giá. Các số liệu lấy từ Văn phòng luật sư HMBP – nơi tác giả thực tập cũng là
các số liệu trong thời gian gần đây (từ năm 2010 đến nay).

4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy vật lịch sử và
chủ nghĩa duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà
nước và pháp luật, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng Nhà nước pháp
quyền của dân, do dân và vì dân, về chính sách bảo vệ quyền quyền con người. Trong
quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả đã sử dụng các phương pháp cụ thể như: phân tích,
tổng hợp, so sánh, thống kê để làm rõ các vấn đề nghiên cứu đặt ra.
5. Kết cấu của đề tài
Đề tài được kết cấu với hai chương, ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài
liệu tham khảo và Phụ lục, cụ thể như sau:
- Chương 1. Cơ sở pháp lý về tư vấn pháp luật đối với hành vi xâm phạm quyền
bí mật đời tư trên phương tiện truyền thông và mạng xã hội theo pháp luật hiện hành.
- Chương 2. Thực trạng tư vấn pháp luật về hành vi xâm phạm quyền bí mật đời
tư trên các phương tiện truyền thông và mạng xã hội tại Văn phòng luật sư HMBP
thuộc đoàn luật sư tỉnh Bình Phước từ năm 2010 đến nay và một số kiến nghị.

CHƯƠNG 1. CƠ SỞ PHÁP LÝ VỀ TƯ VẤN PHÁP LUẬT
ĐỐI VỚI HÀNH VI XÂM PHẠM QUYỀN BÍ MẬT ĐỜI TƯ
TRÊN PHƯƠNG TIỆN TRUYỀN THÔNG VÀ MẠNG XÃ HỘI
THEO PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH
4


Đề tài: Tư vấn pháp luật về hành vi xâm phạm bí mật đời tư trên các phương tiện
truyền thông và mạng xã hội

1.1. Một số khái niệm về tư vấn pháp luật đối với hành vi xâm phạm
quyền bí mật đời tư trên phương tiện truyền thông và mạng xã hội
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm của tư vấn pháp luật đối với luật sư
Hoạt động tư vấn pháp luật được thực hiện bởi luật sư là hoạt động đòi hỏi sự lao

động trí óc cẩn thận sâu sắc của luật sư. Câu trả lời hay ý kiến tư vấn của luật sư phải
bao hàm được hai yếu tố. Thứ nhất, luật sư cần phải cung cấp thông tin pháp lý cho
khách hàng. Khách hàng là người yêu cầu tư vấn một hoặc một số tình huống cụ thể
với một loạt các câu hỏi. Vì vậy trong lời tư vấn của luật sư phải giải đáp được các câu
hỏi luật pháp quy định như thế nào về trường hợp cụ thể mà khách hàng đề nghị luật
sư tư vấn. Điều mà khách hàng mong muốn có hợp pháp không. Trình tự thủ tục thực
hiện được luật quy định như thế nào. Thứ hai, luật sư phải đưa ra được chính kiến của
mình bằng việc đưa ra các chỉ dẫn và lời khuyên. Nói một cách cụ thể, chỉ dẫn của luật
sư phải chỉ ra được những điểm yếu và điểm mạnh của khách hàng, đánh giá được
mức độ rủi ro, cách thức phòng tránh và ngăn ngừa rủi ro để khuyên khách hàng nên
hành động hay không hành động. Như vậy luật sư đóng vai trò định hướng cho khách
hàng bằng việc chỉ dẫn cho khách hàng cách thức hành động cụ thể.
Theo Từ điển luật học, tư vấn pháp luật được hiểu là: “Việc tham gia ý kiến theo
góc độ pháp luật với tư cách là cộng tác viên hoặc là làm dịch vụ 1”. Trong Sổ tay luật
sư, tư vấn pháp luật được định nghĩa là “việc giải đáp pháp luật, hướng dẫn ứng xử
đúng pháp luật, cung cấp dịch vụ pháp lý nhằm giúp công dân, tổ chức trong nước và
quốc tế thực hiện và bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của họ2”.
Khoản 1 điều 28 Luật luật sư 2006 sửa đổi, bổ sung năm 2012 đưa ra khái niệm
tư vấn pháp luật như sau: “Tư vấn pháp luật là việc luật sư hướng dẫn, đưa ra ý kiến,
giúp khách hàng soạn thảo các giấy tờ liên quan đến việc thực hiện quyền, nghĩa vụ
của họ”.

Bộ Tư pháp – Viện Khoa học pháp lý (2006). Từ điển luật học. NXB Từ điển bách khoa – NXB Tư
pháp, Hà Nội, tr.606.
1

2

Phạn Hữu Thư (chủ biên) (2004). Sổ tay luật sư. NXB Công an nhân dân, Hà Nội, Tr.525.


5


Đề tài: Tư vấn pháp luật về hành vi xâm phạm bí mật đời tư trên các phương tiện
truyền thông và mạng xã hội
Như vậy, tư vấn pháp luật không phải chỉ là cung cấp lý thuyết về các điều luật
đã được quy định mà còn phải kèm theo lời khuyên, cách ứng dụng pháp luật vào
trường hợp cụ thể của người cần tư vấn. Ngoài ra, theo pháp luật luật sư hiện hành thì
các lĩnh vực tư vấn của luật sư rất rộng, trải từ dân sự, hình sự, kinh tế - thương mại
cho tới hành chính, lao động… (tiết 2 khoản 1 điều 28 Luật luật sư 2006 sửa đổi, bổ
sung năm 2011). Trong đó có tư vấn pháp luật về xâm phạm quyền bí mật đời tư trên
phương tiện truyền thông và mạng xã hội. Phần khái niệm này sẽ được trình bày ở
mục 1.1.2 dưới đây.
Từ các phân tích và khái niệm trên, tư vấn pháp luật của luật sư bao gồm các đặc
điểm sau đây:
- Tư vấn pháp luật của luật sư là sự giúp đỡ về mặt tâm lý cho người cần được
tư vấn (khách hàng). Trong đó, luật sư không có quyền quyết định và giải quyết vấn đề
thay cho khách hàng mà chỉ được đưa ra lời khuyên về mặt pháp lý, giúp cho khách
hàng tự giải quyết được vấn đề của họ.
- Đối tượng được thụ hưởng tư vấn pháp luật của luật sư là khách hàng của luật
sư. Từ cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp đến cơ quan nhà nước đều có thể được luật sư
cung cấp dịch vụ tư vấn pháp luật. Điểm khác biệt cơ bản giữa khách hàng của luật sư
với các đối tượng được tư vấn khác là thông thường khách hàng phải trả phí dịch vụ
pháp lý, trừ trường hợp được luật sư tư vấn miễn phí.
- Tư vấn pháp luật là quá trình xây dựng mối quan hệ tích cực giữa luật sư với
khách hàng. Thông qua việc tư vấn pháp luật mà luật sư nắm bắt được tâm lí khách
hàng, các vấn đề mà khách hàng cần được giúp đỡ, được hướng dẫn. Từ đó tạo nên
một mối quan hệ thân thiện, cảm thông giữa luật sư và khách hàng của mình.
- Kết quả của tư vấn pháp luật là tìm ra được giải pháp hợp lý và đúng pháp luật
để giải quyết vấn đề của khách hàng, giúp họ bảo vệ được tốt nhất quyền và lợi ích

hợp pháp của mình.
- Luật sư tư vấn phải là người có đủ tiêu chuẩn, trình độ pháp luật và kỹ năng tư
vấn. Tư vấn pháp luật là hoạt động chuyên môn đặc thù, vì vậy, đòi hỏi người thực
6


Đề tài: Tư vấn pháp luật về hành vi xâm phạm bí mật đời tư trên các phương tiện
truyền thông và mạng xã hội
hiện tư vấn pháp luật phải hội đủ các tiêu chuẩn nhất định. Luật sư là những người có
kiến thức pháp luật, có kỹ năng và kinh nghiệm tư vấn, đồng thời phải tuân thủ quy tắc
đạo đức và ứng xử nghề nghiệp, tận tâm, nhiệt tình và chịu trách nhiệm cá nhân đối
với hoạt động tư vấn pháp luật của mình.

1.1.2. Khái niệm, đặc điểm về quyền bí mật đời tư
Quyền bí mật đời tư là quyền nhân thân bất khả xâm phạm của cá nhân. Hiến
pháp 2013 của nhà nước CHXHCN Việt Nam đã ghi nhận quyền bí mật đời tư của cá
nhân như sau: “(1.)Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư, bí mật
cá nhân và bí mật gia đình; có quyền bảo vệ danh dự, uy tín của mình.Thông tin về
đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình được pháp luật bảo đảm an toàn và
(2.) Mọi người có quyền bí mật thư tín, điện thoại, điện tín và các hình thức trao đổi
thông tin riêng tư khác. Không ai được bóc mở, kiểm soát, thu giữ trái luật thư tín,
điện thoại, điện tín và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư của người khác3”.
Tuy nhiên hiện nay trong các văn bản quy phạm pháp luật cũng như văn bản áp
dụng, hướng dẫn thi hành của pháp luật Việt Nam, cụ thể là Bộ Luật Dân sự 2005 đều
không nêu rõ khái niệm “quyền bí mật đời tư” mà chỉ ghi nhận quyền bí mật đời tư.
Đây cũng là một trong những khó khăn gây ra cho các cơ quan có thẩm quyền giải
quyết các vụ việc liên quan đến bí mật đời tư. Vậy, “quyền bí mật đời tư” được hiểu
như thế nào và có đặc điểm ra sao. Trước tiên, ta cần xét khái niệm quyền bí mật đời
tư. Hiện nay có rất nhiều khái niệm bí mật đời tư, cụ thể như sau:
Đầu tiên, ta tiếp cận khái niệm này qua lăng kính của khoa học xã hội phương

Tây. Phương Tây được biết đến với nhân quyền được bảo vệ rất tốt. Con người làm
chủ cuộc sống của mình, đề cao cái tôi và bảo vệ rất tích cực những quyền mà mình
được trao. Đã từ rất lâu, “quyền bí mật đời tư” luôn được xem trọng tại các quốc gia
Âu-Mỹ. GS. Pierre Trudel (Khoa luật, Đại học Montreal, Cannada) đã cho rằng: Nội
dung của đời tư thay đổi tùy theo tình huống, những người có liên quan và những giá
trị của một xã hội hay của cộng đồng 4. Nhưng nhìn chung, bí mật đời tư là những
thông tin liên quan tới đời sống, tình cảm hay dục vọng, tình trạng sức khỏe, đời sống
3

Điều 21 Hiến pháp 2013.

7


Đề tài: Tư vấn pháp luật về hành vi xâm phạm bí mật đời tư trên các phương tiện
truyền thông và mạng xã hội
gia đình, quê quán, những quan điểm tôn giáo, chính trị, hay triết học…Đời tư gồm cả
khuynh hướng tình dục của mỗi người, thể xác và những điều thẩm kín bên trong. Đời
tư được hiểu theo trừu tượng như là “vùng hoạt động riêng của mỗi người với hàng
rào không phận sự bất khả xâm phạm5”, nơi cấm người khác can thiệp hay nhòm ngó.
Theo từ điển Việt Nam6, “bí mật” có nghĩa là “giữ kín, không để lộ ra ngoài,
không công khai”. Một cách giải thích khác cho rằng “bí mật là những thông tin cần
che giấu, chỉ có 1 người hoặc nhóm người liên quan trực tiếp biết đến”. Tuy nhiên,
những thông tin mang ý nghĩa bí mật chỉ là tương đối. Đối với nhận thức về giá trị
thông tin của mỗi người thì ý nghĩa, tầm quan trọng của bí mật con người cũng luôn
thay đổi. Có thể dưới góc độ này nó cần được giữ kín tuyệt đối những dưới góc đô
khác thì có thể không cần che giấu. Tính bí mật có được do những thông tin được chưa
đựng có liên quan, ảnh hưởng đến tâm trạng, đời sống mà con người cho là quan trọng
cần phải che đậy. Nếu để những thông đó cho người khác biết được sẽ có ảnh hưởng
xấu đến đời sống, tâm trạng của người có bí mật đó. Theo BLDS Việt Nam 2015, bí

mật đời tư bên cạnh các thông tin còn có các tư liệu dưới các hình thức khác nhau như
văn bản, hình ảnh, đoạn ghi âm… Theo luật sư Hồ Hữu Tỷ (Đoàn luật sư TP.Hồ Chí
Minh), bí mật đời tư có thể hiểu là những gì gắn liền với nhân thân con người, là
quyền cơ bản. Đó có thể là những thông tin về hình ảnh, cuộc sống gia đình, đời sống
tình cảm, tình trạng sức khỏe, các mối quan hệ…gắn liền với mỗi cá nhân mà người
này không muốn cho người khác biết. Nhưng bí mật đời tư này chỉ có chính bản thân
họ biết hoặc những người liên quan biết và họ chưa công bố ra ngoài cho bất kì ai. Bí
mật đời tư có thể hiểu trên hai phương diện:
- Thứ nhất là bí mật về đời sống tình cảm, tinh thần. Bí mật về đời sống tình
cảm, tinh thần biểu hiên tính chất đặc biệt riêng tư của cá nhân. Việc công khai cho
Xem thêm tại:
/>Quyenbimatvedoitu.aspx
4

“Quyền bí mật đời tư theo quy định của pháp luật dân sự Việt Nam” : Luận án tiến sĩ Luật học / Lê
Đình Nghị; Người hướng dẫn TS.Bùi Đăng Hiếu, PGS.TS. Hà Thị Mai Hiên; Hà nội – 2008
5

6

Xem thêm tại />
8


Đề tài: Tư vấn pháp luật về hành vi xâm phạm bí mật đời tư trên các phương tiện
truyền thông và mạng xã hội
mọi người biết các mối quan hệ thực tại hoặc mang tính chất hình tượng mà cá nhân
đó vốn có là vi phạm quyền bí mật riêng tư, xâm phạm đến danh dự, nhân phẩm và uy
tín của người đó. Ví dụ: Chị A được biết đến với hình tượng là cô con gái ngoan
ngoãn, học giỏi. Tuy nhiên, trong một lần cảm thấy chán trường vì kết quả học tập

không được như ý muốn, A bị đám bạn xấu dụ dỗ bỏ nhà đi ba ngày ba đêm. Đây là bí
mật mà A muốn dấu kín và yêu cầu đám bạn kia đồng ý. Nhưng sau đó, vì ganh tỵ với
hình ảnh của A ở trường học nên đám bạn này đã phát tán thông tin “A cũng không
ngoan ngoãn gì, đã từng bỏ nhà đi thâu đêm”. Thông tin này được xem là bí mật đời tư
của A.
- Thứ hai là bí mật về đời sống nghề nghiệp, vật chất của cá nhân thể hiện qua
những bí mật về hoạt động nghề nghiệp, tình trạng vật chất gắn liền với hạt động đó.
Ví dụ: số tiền trong tài khoản ngân hàng, thông tin dự án đầu tư khi chưa công bố…
Tuy nhiên, bí mật đời tư luôn là một khái niệm vô cùng bao quát và chỉ mang
tính tương tối. Bởi lẽ, đó là do sự đánh giá của mỗi người về giá trị thông tin, dữ liệu
liên quan đến bản thân. Nó đơn giản chỉ là sự việc nhỏ nhưng họ cảm thấy ảnh hưởng
tâm lý và không muốn ai biết. Hay quan trọng hơn là ý tưởng công việc liên quan trực
tiếp đến lợi ích nghề nghiệp. Thói quen sinh hoạt, phong tục cũng ảnh hưởng mạnh mẽ
đến quan niệm bí mật đời tư. Mặt khác, các quy định pháp luật cũng cần phải chú ý
xem xét khái niệm bí mật đời tư.
Theo quan điểm của mình, em xin được nêu khái niệm về “quyền bí mật đời tư”
như sau: “Quyền bí mật đời tư của cá nhân hoặc một nhóm cá thể là quyền được tôn
trọng và không công được công khai các bí mật đời tư là lượng thông tin, dữ liệu của
họ mà chỉ có họ mới biết, chưa từng công bố công khai vì không muốn mọi người biết
gây ảnh hưởng đến hình tượng, lợi ích của họ, tạo tâm lý tiêu cực. Và một khi bị người
khác biết được và vô ý hay cố ý phát tán thông tin sẽ gây ảnh hưởng tiêu cực đối với
tâm lý, đời sống của họ cũng như hình tượng và lợi ích bản thân”.
Như vậy, nếu pháp luật không quy định rõ ràng về khái niệm “quyền bí mật đời
tư” và phạm vi giới hạn của nó thì rất dễ xảy ra tình trạng cá nhân hoặc nhóm các cá
nhân không biết đời tư của mình được pháp luật bảo vệ đến đâu, còn Tòa án không
9


Đề tài: Tư vấn pháp luật về hành vi xâm phạm bí mật đời tư trên các phương tiện
truyền thông và mạng xã hội

biết lấy đâu ra căn cứ chứng minh, xử lý vụ việc nào liên quan đến bí mật đời tư. Điều
này vô hình trung tất yếu xảy ra tình trạng xâm phạm về nhân quyền không chỉ đối với
chính cá nhân, tổ chức mà còn là cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.
Từ những phân tích trên, có thể thấy được quyền bí mật đời tư có những đặc
điểm nổi trội như sau:
- Quyền bí mật đời tư được pháp luật thừa nhận và bảo vệ luôn thuộc về cá nhân
- Những thông tin liên quan đến đời tư được bảo hộ phải là những thông tin
mang tính bí mật, chưa từng được công khai.
- Những thông tin được coi là “bí mật đời tư” không được trái với pháp luật và
đạo đức xã hội
- Chủ thể được bảo hộ quyền bí mật đời tư không bị hạn chế, tuy nhiên có
những trường hợp ngoại lệ như chủ thể liên quan đến các vụ án cần tiết lộ thông tin
phục vụ cho xử lý các vụ việc, phục vụ cho điều tra hợp pháp. Hay mặt khác, đó có thể
là những người của công chúng nên công chúng có quyền khai thác thông tin, hình ảnh
của hộ trong giới hạn cho phép
- Không gian bảo hộ, quyền bí mật đời tư được bảo hộ ở một không gian rộng.
Quyền bí mật đời tư được đảm bảo không chỉ trong cuộc sống hàng ngày của cá nhân
ở nơi cư trú mà còn có thể đảm bảo ở môi trường xung quanh.
- Những thông tin, tư liệu thuộc về bí mật đời tư của cá nhân luôn có ý nghĩa
đối với cá nhân dù những thông tin, tư liệu đó được công bố hay không được công bố.
- Việc công bố những thông tin thuộc về bí mật đời tư sẽ tạo ra sự bất lợi đối
với chủ sở hữu thông tin. Về đặc điểm này, đề tài sẽ phân tích sâu hợn ở phần hành vi
xâm phạm bí mật đời tư.
- Quyền bí mật đời tư được ghi nhận và bảo vệ trong suốt cuộc đời của cá nhân
kể cả khi cá nhân chết hoặc bị tuyên bố là đã chết.

1.1.3. Khái niệm, đặc điểm phương tiện truyền thông và mạng xã hội

10



Đề tài: Tư vấn pháp luật về hành vi xâm phạm bí mật đời tư trên các phương tiện
truyền thông và mạng xã hội
Trước khi tìm hiểu về khái niệm xâm phạm quyền bí mật đời tư trên phương tiện
truyền thông và mạng xã hội, ta cần xét đến khái niệm “phương tiện truyền thông” và
“mạng xã hội”.
Về khái niệm “phương tiện truyền thông”, xét về mặt ngữ nghĩa, câu từ thì
phương tiện truyền thông có thể hiểu là việc sử dụng những công cụ, cách thức,
phương tiện khác nhau để truyền tải thông tin từ người này sang người khác, nơi này
sang nơi khác. Cách hiểu này tương tự theo định nghĩa ở website Thư viện điện tử
Khoa học Công nghệ Quảng Trị, thì “Phương tiện truyền thông là việc vận dụng các
khả năng của cơ thể, sử dụng những phương tiện có sẵn trong thiên nhiên, những
công cụ nhân tạo để diễn tả và chuyển tải những thông tin, thông điệp từ bản thân đến
người khác hay từ nơi này sang nơi khác7”.
Theo định nghĩa Nghị định số 73/2013/NĐ-CP của Chính phủ 8, dưới đề xuất của
bộ Thông Tin và Truyền thông, thì truyền thông xã hội là “là hệ thống thông tin cung
cấp cho cộng đồng người sử dụng mạng các dịch vụ lưu trữ, cung cấp, sử dụng, tìm
kiếm, chia sẻ và trao đổi thông tin với nhau, bao gồm dịch vụ tạo trang thông tin điện
tử cá nhân, diễn đàn (forum), trò chuyện (chat) trực tuyến, chia sẻ âm thanh, hình ảnh
và các hình thức dịch vụ tương tự khác.”
Đối với khái niệm mạng xã hội, khái niệm này mới xuất hiện tại Việt Nam từ
khoảng năm 2010 đến nay, tên tiếng anh là: social network. Theo Từ điển Bách khoa
toàn thư trực tuyến Wiki thì “Mạng xã hội, hay gọi là mạng xã hội ảo, là dịch vụ nối
kết các thành viên cùng sở thích trên Internet lại với nhau với nhiều mục đích khác
nhau không phân biệt không gian và thời gian”9. Như vậy, về bản chất, mạng xã hội
cũng là một phương tiện truyền thông, với sự tham gia trực tiếp của nhiều cá nhân trên
cùng một trang web và mạng xã hội là 1 website mở, nội dung của website được xây
dựng hoàn toàn bởi các thành viên tham gia trong website. Các trang thông tin điện tử
7


Xem thêm tại />
8

Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam, Nghị định Về quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet và

thông tin điện tử trên mạng Số: 72/2013/NĐ-CP.
9

Xem them tại: />
11


Đề tài: Tư vấn pháp luật về hành vi xâm phạm bí mật đời tư trên các phương tiện
truyền thông và mạng xã hội
hay còn gọi là website như: forum, video, blog… được trình bày dưới dạng ký hiệu,
số, chữ viết, hình ảnh, âm thanh và các dạng khác phục vụ cho việc cung cấp và sử
dụng thông tin trên internet.
Như vậy, từ hai khái niệm về “phương tiện truyền thông và mạng xã hội”nêu
trên thì ta có thể thấy được đặc trưng chung của hai khái niệm này là:
Một là, phương tiện truyền thông hoặc mạng xã hội đều là các trang thông tin
mở, các hình ảnh, video, clip, bài viết, tin tức… được lưu hành và chia sẻ bằng cách sử
dụng Internet.
Hai là, phương tiện truyền thông và mạng xã hội luôn có nguồn thông tin phong
phú, đa dạng, với những tin tức thời sự, bình luận, quan điểm cá nhân của bất kỳ ai
hoặc những hình ảnh, video, clip của một cá nhân bất kỳ… về sự việc nào đó do chính
các cá nhân đăng tải trên các phương tiện truyền thông và mạng xã hội.
Ba là, độ tương tác cao, giao tiếp thuận lợi, các cá nhân, tổ chức bằng phương
tiện truyền thông hoặc mạng xã hội chia sẻ thông tin và tương tác trực tuyến với nhau
theo các cách rất đơn giản và sử dụng các ứng dụng, kết nối về một nội dung hay một
trang web nào đó. Nhờ vậy, con người có thể cùng nhau thảo luận, chia sẻ, tương tác ở

bất cứ đâu với gia đình, bạn bè, xã hội...
Bốn là, do tính đặc thù cao nên việc kiểm soát thông tin trên các phương tiện
truyền thông và mạng xã hội là không dễ, các nguồn thông tin đúng, sai khó bề kiểm
chứng; tốc độ phát tán rộng rãi, nhanh chóng thông qua rất nhiều hình thức khác nhau.
Nếu một thông tin không đúng sự thật, xuyên tạc, vu khống, xúc phạm cá nhân hay tổ
chức, phát tán các hình ảnh nhạy cảm, phản cảm… sẽ gây tác động tiêu cực đến nhiều
người.
Hiện nay, các phương tiện truyền thông và mạng xã hội đã và đang phát triển
nhanh chóng, hiệu quả đã vượt ra ngoài giới hạn về không gian và thời gian, có vai trò
ngày càng quan trọng trong đời sống xã hội hiện đại. Chỉ tính riêng các mạng
(Facebook, Twitter, LinkedIn), trên thế giới đã có gần 2 tỷ người sử dụng. Ở Việt Nam
con số này vào khoảng gần 30 triệu người.
12


Đề tài: Tư vấn pháp luật về hành vi xâm phạm bí mật đời tư trên các phương tiện
truyền thông và mạng xã hội
1.1.4. Khái niệm, đặc điểm về xâm phạm quyền bí mật đời tư trên phương
tiện truyền thông và mạng xã hội
Nhiều người cứ hiểu nôm na và quan niệm rằng “bí mật đời tư là chuyện
riêng của người này, được giữ kín và không công khai cho người khác biết”. Trong
cuộc sống, mỗi người đều có không ít những bí mật, không công khai cho người khác
biết. Những bí mật được xem là đời tư khi các thông tin được cá nhân đó giấu kín,
không công khai tiết lộ cho người khác biết. Những thông tin đó được cho là bí mật
đời tư, bất khả xâm phạm và được pháp luật bảo hộ. Tuy nhiên, trường hợp những
thông tin này do chính người đó tự ý tiết lộ và công khai cho người khác biết hoặc
được người đó nhắc đến ở nơi công cộng thì vấn đề sẽ trở nên khác đi. Những thông
tin đó không được coi là bí mật đời tư và không được pháp luật bảo hộ.
Khái niệm “Xâm phậm bí mật đời tư” được hiểu là hành vi cố ý phát tán
những thông tin bí mật, riêng tư của một cá nhân nào đó mà chưa được sự cho phép,

đồng thuận của người này10. Tuy nhiên, tùy vào từng trường hợp cụ thể mới có thể xác
định được hành vi đó có xâm phạm bí mật đời tư hay không.
Việc người khác cố tình thu thập thông tin và công bố trên các phương tiện
truyền thông hoặc mạng xã hội nếu không có sự đồng ý của người đó được xem là
xâm phạm bí mật đời tư. Thực tế cho thấy, nhiều người đã bị các cá nhân, tổ chức xâm
phạm quyền riêng tư và tùy tiện đưa những hình ảnh, tư liệu cũng như các thông tin
nhạy cảm… lên các trang báo hoặc trên mạng Internet làm ảnh hưởng đến tinh thần,
sức khỏe, nhân phẩm, công việc thậm chí ảnh hưởng đến tính mạng của nạn nhân.
Trong đó, không ít trường hợp dẫn đến chán nản, tuyệt vọng và đi đến con đường tự tử
để giải thoát và tránh khỏi dư luận.
Tuy nhiên, đôi khi sự lan truyền thông tin, dữ liệu bí mật trên các phương tiện
truyền thông, mạng xã hội chỉ là một tai nạn. Chính những người nắm giữ bí mật bản
thân mình vì muốn được chia sẻ, đồng cảm và tin tưởng người khác cũng có cùng quan
điểm và tự ý thức tôn trọng mình nên đã chia sẻ, tiết lộ thông tin mà mình mình. Nếu
người có bí mật đời tư không coi nó là “bí mật” thì người khác tiết lộ thông tin đó trên
10

Xem thêm tại: />
13


Đề tài: Tư vấn pháp luật về hành vi xâm phạm bí mật đời tư trên các phương tiện
truyền thông và mạng xã hội
các phương tiện truyền thông, mạng xã hội sẽ không bị coi là xâm phạm bí mật đời tư.
Hoặc có những trường hợp trên thực tế, cá nhân hiểu sai về bí mật đời tư, xem nó là bí
mật đời tư không cho phép phát tán nhưng thực chất tính chất bí mật đã không còn khi
chính họ chia sẻ vì hướng đến lợi ích vật chất hoặc tinh thần. Ví dụ: Người mẫu đang
nổi tiếng H.Q thân mật với 1 người đàn ông trong quán bar. 1 vị khách do hiếu kì đã
chụp lại ảnh của cặp đôi này và gửi cho Tòa soạn báo K. Ngày hôm sau, những bức
ảnh này được lan truyền mạnh mẽ trong cộng đồng mạng. Người mẫu H.Q kiện Tòa

soạn, cùng người chụp ảnh xâm phạm đời tư, chụp ảnh không đươc sự đồng ý của
mình gây ảnh hưởng đến hình tượng của mình. Trường hợp này không được coi là
xâm phạm đời tư. Bởi lẽ, hành vi thân mật với người đàn ông trong quán bar của người
mẫu này vốn đã có tính chất công khai. “Xâm phạm đến đời tư” chẳng qua là cách quy
chụp của cô Q khi bị người khác soi mói, đánh giá vào cuộc sống riêng. Và hậu quả
“Ảnh hưởng tổn hại đến hình tượng” không được công nhận vì chính cô người mẫu
này đã có hành vi không giữ gìn hình tượng của mình. Vì vậy, trường hợp này Tòa
soạn và người chụp ảnh không thể bị truy cứu trách nhiệm dân sự về làm lộ bí mật đời
tư.
Từ những phân tích và dẫn chứng về khái niệm xâm phạm bí mật đời tư nêu trên,
đề tài mạnh dạn đưa ra khái niệm về việc xâm phạm quyền bí mật đời tư trên phương
tiện truyền thông và mạng xã hội như sau: “là những hành vi (bao gồm hành động
hoặc không hành động) tác động đến quyền bí mật đời tư của một hay nhiều cá nhân
nhất định, bằng việc sử dụng phương tiện truyền thông và mạng xã hội nhằm chia sẻ,
lan truyền đời sống riêng tư của cá nhân đó mà không được sự đồng ý của họ, gây tổn
hại đến danh dự, nhân phẩm, uy tín hoặc gây thiệt hại khác cho cá nhân đó”.
Như vậy, từ khái niệm trên, ta có thể xác định được đặc điểm của hành vi xâm
phạm quyền bí mật đời tư trên phương tiện truyền thông và mạng xã hội như sau:
- Thứ nhất: Đối tượng có thể bị xâm phạm quyền bí mật đời tư là bất kì ai,
không phân biệt già hay trẻ, nam hay nữ, công dân hay người bị tạm giữ, tạm giam, bị
can bị cáo, người có quốc tịch Việt Nam hay người nước ngoài... Bất cứ ai đều có khả

14


Đề tài: Tư vấn pháp luật về hành vi xâm phạm bí mật đời tư trên các phương tiện
truyền thông và mạng xã hội
năng bị xâm phạm quyền riêng tư về đời sống cá nhân, thân nhân hoặc gia đình của
mình.
-


Thứ hai: Hành vi này có thể là do lỗi cố ý hoặc vô ý của người thực hiện hành

vi. Nhưng được thể hiện bằng hành động hoặc không hành động. Một cá nhân, tổ chức
có thể vô ý chia sẻ một thông tin, hình ảnh của cá nhân khác mà không được sự đồng ý
của họ thì cũng đã bị xem là xâm phạm quyền bí mật đời tư của người khác.
- Thứ ba: Phương tiện để người thực hiện hành vi xâm phạm quyền bí mật đời
tư là trên các phương tiện truyền thông và mạng xã hội. Thông qua mạng Internrt để
phát tán thông tin cá nhân, chia sẻ hình ảnh, thư tín của cá nhân, điều này dẫn đến tất
cả mọi người trên phạm vi toàn thế giới (không riêng gì lãnh thổ Việt Nam) đều được
biết đến những thông tin, hình ảnh cá nhân của người bị xâm phạm.
- Thứ tư: hậu quả của hành vi xâm phạm quyền bí mật đời tư trên phương tiện
truyền thông và mạng xã hội là gây thiệt hại về danh dự, uy tín, nhân phẩm của người
bị phát tán thông tin cá nhân, bí mật đời tư trên mạng xã hội hoặc các kênh truyền
thông.
-

Thứ năm: Việc làm lộ bí mật đời tư của người khác khiến người đó rơi vào

hoàn cảnh người đó không mong muốn. Những thông tin bí mật bị người khác biết đến
dẫn tới sự bàn tán ảnh hưởng đến đời sống của người đó. Hơn nữa, có rất nhiều thông
tin liên quan đến hình tượng cá nhân hay lợi ích quan trọng của cá nhân, nếu bị tiết lộ
ra ngoài sẽ gây ra hậu quả nghiêm trọng. Hậu quả của tiết lộ thông tin bí mật liên quan
đến hình tượng cá thể mang lại cho người bị hại nhẹ thì là tâm lý bi quan, chán trường,
hoang mang, thiếu tự tin, nặng có thể tổn hại đến danh dự, nhân phẩm cá nhân, bị
người khác khinh rẻ, xa lánh ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống. Hậu quả của tiết
lộ thông tin liên quan đến vật chất, hoạt động nghề nghiệp bí mật thì gây tổn hại trực
tiếp đến sự hoạt động nghề nghiệp thuận lợi, lợi ích vật chất của người bị hại, rồi từ đó
cũng ảnh hưởng đến tâm lý.
- Thứ sáu: Người có hành vi làm lộ bí mật đời tư của người khác phải chịu trách

nhiệm dân sự khi thỏa mãn các điều kiện sau: Có hành vi làm lộ bí mật đời tư trái với
ý chí của người có bí mật đời tư; Có hậu quả làm giảm sút danh dự, uy tín và nhân
15


Đề tài: Tư vấn pháp luật về hành vi xâm phạm bí mật đời tư trên các phương tiện
truyền thông và mạng xã hội
phẩm của người đó; Có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi cố ý làm lộ đời tư của một
người với những sự tổn hại về uy tín, nhân phẩm của người có đời tư.; Người làm lộ bí
mật đời tư của người khác có lỗi cố ý đối với hành vi làm lộ.

1.1.5. Vai trò của tư vấn pháp luật của luật sư đối với hành vi xâm phạm bí
mật đời tư trên phương tiện truyền thông và mạng xã hội trong giai đoạn hiện
nay
Tư vấn pháp luật là một trong những yếu tố quan trọng góp phần tạo môi
trường pháp lý an toàn, tin cậy cho hoạt động của đời sống – xã hội. Khi xã hội càng
phát triển thì đồng thời càng có nhiều các mối quan hệ được thiết lập, những vấn đề
phát sinh trong mọi lĩnh vực xảy ra hàng ngày mà ở đây cụ thể là việc hành vi xâm
phạm bí mật đời tư trên phương tiện truyền thông và mạng xã hội trong giai đoạn hiện
nay ngày càng phổ biến. Để thực hiện những việc làm đúng với quy định của pháp luật
thì chúng ta cần phải tìm hiểu luật và có sự vận dụng linh hoạt.Tuy vậy, không phải ai
cũng có thể làm được điều này. Do vậy mà hoạt động tư vấn pháp luật của luật sư có
vai trò rất quan trọng và cần thiết đối với xã hội hiện nay. Cụ thể những vai trò đó là:
- Thứ nhất, luật sư tư vấn pháp luật đóng vai trò quan trọng vào việc phổ biến
giáo dục pháp luật, giúp định hướng hành vi ứng xử cho các cá nhân,tổ chức theo
khuôn khổ pháp luật. Thông qua hoạt động tư vấn pháp luật, rất nhiều tổ chức, cá nhân
có thể hiểu rõ hơn về những quy định của pháp luật. Đối tượng mà hoạt động tư vấn
pháp luật hướng tới rất nhiều, pháp luật không quy định hạn chế về những trường hợp
không có quyền được tư vấn pháp luật. Không chỉ khách hàng có nhu cầu muốn được
tư vấn, mà những đối tượng được ưu tiên theo quy định của pháp luật đều có quyền

được tư vấn về những vấn đề mình đang gặp phải.
- Thứ hai: Luật sư tư vấn pháp luật còn giúp hướng dẫn cho các đối tượng ứng
xử đúng pháp luật trong từng hoàn cảnh cụ thể để thực hiện và bảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp của mình. Có thể nhận thấy rằng, khi mà chưa được tư vấn cụ thể và kỹ
lưỡng những vấn đề mình đang gặp phải thì nhận thức và cách cư xử của họ cũng sẽ bị
lệch lạc, có thể sẽ không đúng với quy định của pháp luật, sau khi được tư vấn thì họ
sẽ cư xử sao cho phù hợp, đúng với luật định. Đây là hoạt động mang lại kết quả trực
16


Đề tài: Tư vấn pháp luật về hành vi xâm phạm bí mật đời tư trên các phương tiện
truyền thông và mạng xã hội
tiếp, dễ nhận thấy và đánh giá sau một quá trình tư vấn. Điều quan trọng nhất là giúp
đối tượng được tư vấn pháp luật hiểu rõ hoàn cảnh, vị thế của mình, từ đó lựa chọn
cách xử sự phù hợp với pháp luật và đạo đức xã hội.
- Thứ ba: luật sư tư vấn pháp luật giúp nâng cao sự hiểu biết pháp luật của
người được tư vấn. Thông qua quá trình thực hiện các công việc cụ thể của hoạt động
tư vấn pháp luật (cung cấp thông tin, giải đáp pháp luật cho cá nhân, tổ chức …) thì
luật sư tư vấn pháp luật còn giúp nâng cao sự hiểu biết về pháp luật của người được tư
vấn. Thông qua vụ việc mà họ yêu cầu tư vấn, sẽ giúp họ có cái nhìn cụ thể và rõ hơn
về vấn đề mình đang vướng mắc,để từ đó cho họ nâng cao hiểu biết pháp luật để có
nhận thức, thái độ và hành vi ứng xử đúng, hình thành và phát huy ý thức tôn trọng và
thi hành nghiêm chỉnh pháp luật.
- Thứ tư, luật sư tư vấn pháp luật giúp tổ chức, cá nhân hiểu được những quyền
và nghĩa vụ pháp lý của mình. Luật sư cung cấp cho cá nhân, tổ chức những hiểu biết
pháp luật ở mức cơ bản, phổ thông về một vấn đề nhất định, giúp họ hiểu rõ vị thế,
quyền và nghĩa vụ pháp lý của mình trong một quan hệ pháp luật cụ thể nảy sinh trong
đời sống xã hội. Khi họ hiểu được những quyền và nghĩa vụ của mình thì sẽ cư xử
đúng với pháp luật, hạn chế được sự xâm phạm về quyền và lợi ích của người khác
- Thứ năm: Luật sư tư vấn pháp luật góp phần giảm nhẹ sự căng thẳng cho các

cơ quan tố tụng, tránh được sự quá tải trong hoạt động xét xử. Tư vấn pháp luật góp
phần hòa giải hoặc giải quyết theo một trình tự phù hợp các mâu thuẫn, xung đột liên
quan đến quyền, lợi ích, góp phần giảm thiểu các tranh chấp, giảm bớt tình trạng khiếu
kiện tràn lan, kéo dài do người dân hiểu pháp luật không đúng hoặc không đầy đủ. Khi
mọi người đã hiểu những quyền và nghĩa vụ của mình thì cũng tránh được những hiện
tượng tiêu cực, tệ nạn xảy ra trong xã hội . Tỉ lệ phạm tội sẽ giảm xuống,những tranh
cãi mâu thuẫn với nhau được hạn chế và cuộc sống sẽ tốt đẹp hơn, đời sống được nâng
cao, xã hội ổn định.
- Thứ sáu, luật sư tư vấn pháp luật còn góp phần hoàn thiện pháp luật, giám sát
việc tuân thủ pháp luật của các cơ quan, tổ chức, cá nhân. Thông qua hoạt động tư vấn
sẽ phát hiện được những điểm còn thiếu sót.những quy định còn hạn chế, những bất
17


Đề tài: Tư vấn pháp luật về hành vi xâm phạm bí mật đời tư trên các phương tiện
truyền thông và mạng xã hội
cập tồn tại trong việc xây dựng pháp luật, từ đó kịp thời có những kiến nghị sửa đổi bổ
sung cho phù hợp với thực tiễn.Hoạt động tư vấn pháp luật còn góp phần giám sát việc
tuân thủ pháp luật của các cơ quan nhà nước, của tổ chức và công dân.Khi sự hiểu biết
pháp luật được nâng cao, sẽ tránh được tình trạng cơ quan nhà nước lạm quyền,lợi
dụng sự thiếu hiểu biết của người dân để thực hiện những hành vi trái với quy định của
pháp luật,những tổ chức, cá nhân không thể lách luật, cố tình làm sai những quy định
mà pháp luật đề ra.

1.2. Quy định của pháp luật hiện hành về tư vấn pháp luật của luật sư
và hành vi xâm phạm quyền bí mật đời tư trên phương tiện truyền thông và
mạng xã hội trong các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành
1.2.1. Quy định của pháp luật về tư vấn pháp luật của người luật sư theo
pháp luật luật sư hiện hành
Tư vấn pháp luật là hoạt động mang tính chất lao động trí óc bằng việc sử dụng

chất xám vào công việc chuyên môn đặc thù, có vai trò rất quan trọng trong đời sống
xã hội. Vì vậy, đòi hỏi người thực hiện tư vấn pháp luật phải hội đủ các tiêu chuẩn nhất
định. Luật sư cũng vậy, tiêu chuẩn trước tiên mà người luật sư cần có là các tiêu chuẩn
điều kiện để được công nhận là luật sư.
Theo đó, cá nhân muốn được công nhận là luật sư và hoạt động với tư cách luật
sư, mỗi người phải đạt đủ các tiêu chuẩn theo quy định như sau: “Công dân Việt Nam
trung thành với Tổ quốc, tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, có phẩm chất đạo đức tốt,
có bằng cử nhân luật, đã được đào tạo nghề luật sư, đã qua thời gian tập sự hành
nghề luật sư, có sức khoẻ bảo đảm hành nghề luật sư thì có thể trở thành luật sư” 11.
Ngoài những tiêu chuẩn này, cá nhân muốn trở thành luật sư còn phải đáp ứng điều
kiện như: “Người có đủ tiêu chuẩn quy định tại Điều 10 của Luật này muốn được
hành nghề luật sư phải có Chứng chỉ hành nghề luật sư và gia nhập một Đoàn luật
sư”12.
11

Điều 10 Luật luật sư 2006, sửa đổi bổ sung năm 2012.

12

Điều 11 Luật luật sư 2006, sửa đổi bổ sung năm 2012.

18


Đề tài: Tư vấn pháp luật về hành vi xâm phạm bí mật đời tư trên các phương tiện
truyền thông và mạng xã hội
Theo Điều 23 Luật Luật sư 2006 được sửa đổi bổ sung năm 2012 thì luật sư có
thể hành nghề dưới hai hình thức: cá nhân hoặc trong tổ chức hành nghề luật sư (bao
gồm văn phòng luật sư, công ty luật 13). So với quy định pháp luật trước đây thì hình
thức hành nghề luật sư được mở rộng, đó là được phép hành nghề với tư cách cá nhân.

Tổ chức hành nghề luật sư hay cá nhân hành nghề luật sư đều có quyền, nghĩa vụ của
luật sư trong từng lĩnh vực hoạt động bao gồm cả hoạt động tham gia tố tụng, hoạt
động đại diện ngoài tố tụng, hoạt động tư vấn pháp luật và các hoạt động dịch vụ pháp
lý khác.
Sau khi được công nhận luật sư theo quy định pháp luật hiện hành, luật sư được
thực hiện các hoạt động cung cấp dịch vụ pháp lý, trong đó có tư vấn pháp luật14.
Tuy nhiên, khi hoạt động tư vấn pháp luật, luật sư cũng phải tuân thủ những
nguyên tắc chung trong hoạt động hành nghề luật sư theo quy định tại Điều 5 Luật luật
sư 2006, sửa đổi bổ sung năm 2012. Theo đó, nguyên tắc đầu tiên và quan trọng nhất
yêu cần khi hành nghề luật sư đó là tuân thủ Hiến pháp và pháp luật. Tiếp đến, tuân
theo quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư, đây được hiểu những chuẩn mực
đạo đức, quy tắc ứng xử chung trong toàn xã hội. Đồng thời khi tư vấn pháp luật, luật
sư cần tôn trọng sự thật khách quan, không dựa trên ý chí chủ quan của bản thân luật
sư để tư vấn, hỗ trợ cho khách hàng. Với mỗi sự việc phức tạp hay đơn giản thì đều
yêu cầu khi hành nghề luật sư cần có sự độc lập, trung thực từ đó sẽ đưa ra được
những biện pháp tưu vấn, bỗ trợ, bảo vệ cho khách hàng về quyền, lợi ích hợp pháp
một cách tốt nhất dựa trên các biện pháp hợp pháp pháp luật cho phép. Đồng thời yêu
cầu khi thực hiện tư vấn pháp luật, luật sư phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về
hoạt động nghề nghiệp luật sư
Việc pháp luật quy định một số nguyên tắc cơ bản yêu cầu khi thực hiện tư vấn
pháp luật đối với luật sư nói riêng và hành nghề luật sư nói chung để đảm bảo hoạt
động hành nghề luật sư được thực hiện đúng quy định pháp luật và đạt hiệu quả tốt
nhất.
13

Khoản 1 Điều 32 Luật luật sư 2006, sửa đổi bổ sung năm 2012.

14

Điều 4 Luật luật sư 2006, sửa đổi bổ sung năm 2012.


19


Đề tài: Tư vấn pháp luật về hành vi xâm phạm bí mật đời tư trên các phương tiện
truyền thông và mạng xã hội
Ngoài ra, để nâng cao trách nhiệm nghề nghiệp, trách nhiệm pháp lý của luật sư,
khi hoạt động tư vấn pháp luật, luật sư không được thực hiện các hành vi nhất định,
gọi là các hành vi bị nghiêm cấm theo Khoản 3 Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung một số
điều của Luật luật sư năm 2012. Theo đó, khi thực hiện tư vấn pháp luật, nghiêm cấm
luật sư thực hiện các hành vi như sau: hướng dẫn khách hàng cung cấp tài liệu, vật
chứng giả, sai sự thật; nhận, đòi hỏi bất kỳ một khoản tiền, lợi ích khác khi thực hiện
trợ giúp pháp lý cho các khách hàng thuộc đối tượng được hưởng trợ giúp pháp lý theo
quy định của pháp luật; từ chối vụ, việc đã đảm nhận theo yêu cầu của tổ chức trợ giúp
pháp lý, của các cơ quan tiến hành tố tụng, trừ trường hợp bất khả kháng hoặc theo
quy định của pháp luật.
Bên cạnh đó, kỹ năng của luật sư khi tư vấn pháp luật cho khách hàng cũng cần
được coi trọng. Qua thực tiễn hoạt động tư vấn pháp luật cho thấy hình thức tư vấn của
luật sư bao gồm hai hình thức: tư vấn bằng miệng và tư vấn bằng văn bản. Trong đó tư
vấn bằng miệng là hình thức phổ biến. Với các vụ việc tư vấn về hành vi xâm phạm
quyền bí mật đời tư trên các phương tiện truyền thông và mạng xã hội, các khách hàng
Việt Nam thường gặp gỡ luật sư để tìm hiểu bản chất pháp lý của vụ việc trên cơ sở đó
giúp họ tìm giải pháp để bảo vệ quyền lợi hợp pháp một cách nhanh chóng, có hiệu
quả. Tuy vậy, hoạt động tư vấn pháp luật là một hoạt động đa dạng, phức tạp đòi hỏi
một quá trình lao động trí óc. Vì vậy khi tư vấn trực tiếp bằng miệng cho khách hàng,
luật sư tư vấn cần thiết phải tôn trọng một quy trình sau đây:
- Luật sư phải lắng nghe khách hàng trình bày và ghi chép đầy đủ nội dung
chính, ý chính, trên cơ sở đó đặt câu hỏi để làm rõ thêm. Thông thường, lần đầu tiên
tiếp xúc, luật sư chưa thể nắm bắt một cách chắc chắn bản chất của sự việc đó hơn
nữa, khách hàng thường trình bày theo ý chủ quan và bỏ qua nhiều chi tiết mà họ cho

là không cần thiết. Vì vậy, luật sư cần gợi ý những vấn đề để khách hàng trình bày
đúng bản chất của vụ việc. Luật sư tư vấn nên lưu ý khách hàng, chỉ có thể đưa ra giải
pháp chính xác, đầy đủ và đúng pháp luật nếu khách hàng trình bày vấn đề trung thực
và khách quan.

20


Đề tài: Tư vấn pháp luật về hành vi xâm phạm bí mật đời tư trên các phương tiện
truyền thông và mạng xã hội
- Yêu cầu khách hàng cung cấp các tài liệu liên quan đến việc cần tư vấn.
Những giấy tờ tài liệu này phản ánh diễn biến của quá trình tranh chấp hoặc bản chất
của vụ việc mà khách hàng yêu cầu tư vấn. Nếu không có những tài liệu này, việc tư
vấn có thể sẽ không chính xác. Sau khi khách hàng cung cấp đầy đủ các văn bản giấy
tờ, tài liệu có liên quan, luật sư phải dành thời gian để đọc các giấy tờ tài liệu đó. Đối
với các tài liệu bằng tiếng nước ngoài nhất thiết phải được dịch ra tiếng Việt để hiểu
đúng nguyên văn tài liệu đó, đồng thời cũng dùng đính kèm hồ sơ để sử dụng lâu
dài. Trong trường hợp sau khi nghe khách hàng trình bày và nghiên cứu các tài liệu do
khách hàng cung cấp mà thấy không thể trả lời ngay được, phải thông báo điều đó cho
khách hàng và hẹn khách hàng gặp vào một ngày khác.
- Tra cứu tài liệu tham khảo. Việc dùng các quy định của pháp luật để làm cơ sở
cho các kết luận của mình là điều bắt buộc. Trong nhiều trường hợp khách hàng biết
họ đúng họ không giải thích được và yêu cầu luật sư phải cung cấp cho họ cơ sở pháp
luật để khẳng định yêu cầu của họ. Đối với luật sư tư vấn việc tra cứu tài liệu tham
khảo là điều bắt buộc bởi vì: một là để khẳng định với khách hàng rằng luật sư đang
tư vấn theo luật chứ không phải theo cảm tính chủ quan của mình, hai là tra cứu tài
liệu tham khảo giúp luật sư khẳng định chính những suy nghĩ của mình.
- Định hướng cho khách hàng. Về thực chất là việc đưa ra giải pháp bằng miệng
cho khách hàng để trả lời các vấn đề mà khách hàng yêu cầu. Tuy vậy có thể sau khi
luật sư đã đưa ra định hướng nhưng khách hàng không thực hiện những bước tiếp

theo.
- Một trong những nguyên tắc khi tiến hành tư vấn cho khách hàng là luật sư
phải thể hiện thái độ trung thực, phân tích các vấn đề trên cơ sở pháp lý và luôn đứng
về phía khách hàng của mình. Thái độ thiên vị, thiếu cơ sở pháp luật của luật sư có thể
tác động đến khách hàng khiến họ thiếu tin tưởng vào luật sư.
- Trong quá trình tư vấn, luật sư có thể kết hợp làm công tác của người hoà giải,
giúp hai bên đương sự hoà giải, thoả thuận với nhau để tìm một giải pháp thoả đáng.
Tuy nhiên, trong trường hợp hoà giải, luật sư phải cho khách hàng biết bản chất của
21


Đề tài: Tư vấn pháp luật về hành vi xâm phạm bí mật đời tư trên các phương tiện
truyền thông và mạng xã hội
vấn đề, tức là nếu đưa vụ án ra xét xử tại Toà án hoặc trọng tài họ sẽ được lợi gì và nếu
tự hoà giải họ cũng sẽ được lợi gì.
- Trong hoạt động tư vấn pháp luật, quá trình thu thập, nghiên cứu và đánh giá
chứng cứ sau đó đưa ra một giải pháp cho khách hàng là quá trình diễn ra nhanh chóng
và đòi hỏi độ chính xác, độ tin cậy cao. Khi nghe khách hàng trình bày, luật sư yêu cầu
khách hàng của mình làm rõ những vấn đề cần quan tâm, yêu cầu khách hàng cung cấp
tài liệu, đó là luật sư đang thu thập chứng cứ.
- Song song với hoạt động thu thập chứng cứ, luật sư nghiên cứu chứng cứ.
Trong trường hợp tư vấn bằng miệng, luật sư vừa thu thập chứng cứ vừa nghiên cứu và
đánh giá chứng cứ. Đây là một quá trình kết hợp nhuần nhuyễn thông qua hoạt động tư
duy của con người để nhanh chóng tìm ra được giải pháp tối ưu trong thời gian nhanh
nhất. Trong quá trình nghiên cứu và đánh giá chứng cứ, luật sư tư vấn cần sử dụng
nhiều biện pháp khác nhau và kết hợp thành một quá trình logic để đưa ra một hoặc
nhiều kết luận. Tất nhiên quá trình nghiên cứu và đánh giá chứng cứ không phải lúc
nào cũng xẩy ra trong hoạt động tư vấn. Có nhiều trường hợp khách hàng hỏi về
những thủ tục mà đấy là một phần chuyên môn của luật sư. Có khi chỉ cần kiểm tra lại
các dữ liệu để phân biệt giúp khách hàng hoàn thành thủ tục mà họ yêu cầu. Trong

phần lớn các yêu cầu tư vấn của khách hàng đều yêu cầu trả lời chi tiết và lý giải tại
sao, vì vậy, luật sư tư vấn phải đưa ra các luận cứ sắc bén, có sức thuyết phục để trả lời
khách hàng của mình.

1.2.2. Quy định pháp luật về các hành vi xâm phạm bí mật đời tư trên
phương tiện truyền thông và mạng xã hội trong các văn bản pháp luật hiện hành
Điều 12 Tuyên ngôn Quốc tế về Nhân quyền năm 1948 ghi nhận quyền bí mật
đời tư như quyền cơ bản của con người: “Không ai phải chịu sự can thiệp một cách
tùy tiện vào cuộc sống riêng tư, gia đình, nơi ở hoặc thư tín, cũng như bị xúc phạm
danh dự hoặc uy tín cá nhân. Mọi người đều có quyền được pháp luật bảo vệ chống sự
can thiệp và xâm phạm như vậy”.

22


Đề tài: Tư vấn pháp luật về hành vi xâm phạm bí mật đời tư trên các phương tiện
truyền thông và mạng xã hội
Trên thế giới, quyền của cá nhân đối với hình ảnh bắt đầu được quy định từ
khoảng cuối thế kỷ 19. Từ nội dung ban đầu là bảo vệ tính mạng con người, quyền
sống phát triển thành các quyền riêng rẽ, bảo vệ các giá trị trừu tượng như danh dự,
nhân phẩm, quan hệ gia đình. Quyền sống phát triển thành quyền có nội hàm rộng và
bao quát: quyền không bị quấy rầy. Theo đó, cá nhân được pháp luật bảo vệ không
gian riêng để phát triển, hình thành nhân cách. Các tác động từ bên ngoài, kể cả dưới
hình thức quay phim, chụp ảnh, đều không được phép, trừ trường hợp vì lợi ích chung.
Ngoài ra, cá nhân có quyền quyết định việc đưa ra xã hội hình ảnh của mình, vì việc
này ảnh hưởng tới quan hệ của họ với người chung quanh. Quyền đối với hình ảnh
cũng hình thành trên cơ sở quyền tài sản. Cùng với sự phát triển của xã hội, ngoài
phần tài sản hữu hình còn có các tài sản vô hình như: phát minh, sáng chế, sáng tác
nghệ thuật, nhãn hiệu hàng hóa... Và hình ảnh cũng được xem là tài sản vô hình của cá
nhân, quyền đối với hình ảnh được xếp vào quyền tác giả. Các công ty quảng cáo

thường cố gắng ký hợp đồng với người nổi tiếng để khai thác hình ảnh của họ phục vụ
việc quảng cáo sản phẩm. Quyền của cá nhân đối với hình ảnh bị giới hạn trong trường
hợp xung đột với quyền lợi chung, quyền lợi của bên thứ ba hoặc đương sự từ bỏ
quyền của mình đối với hình ảnh. Pháp luật các nước đều cho phép đăng hình tội phạm
bị truy nã để phục vụ việc truy bắt tội phạm...
Tại Việt Nam, có thể nói, quyền bí mật đời tư là quyền gắn chặt với nhân thân vô
cùng quan trọng đối với mỗi cá nhân được quy định trong Hiến pháp Việt Nam từ năm
1946 cho điến Hiến pháp hiện hành. Điều 11 Hiến pháp 1946 quy định: “Tư pháp
chưa quyết định thì không được phép bắt bớ, giam cầm công dân Việt Nam. Nhà ở và
thư tín của công dân Việt Nam không ai được xâm phạm một cách trái pháp luật.”
Hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) lại một lần nữa nhấn mạnh: “Công dân
có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức
khỏe, danh dự và nhân phẩm”15 và “Công dân có quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở.
Không ai được tự ý vào chỗ ở của người khác nếu người đó không đồng ý, trừ trường
hợp pháp luật cho phép. Thư tín, điện thoại, điện tín của công dân được đảm bảo an

15

Điều 71 Hiến pháp năm 1992, sửa đổi bổ sung năm 2001.

23


Đề tài: Tư vấn pháp luật về hành vi xâm phạm bí mật đời tư trên các phương tiện
truyền thông và mạng xã hội
toàn và bí mật. Việc khám xét chỗ ở, việc bóc mở, kiểm soát, thu giữ thư tín, điện tín
của công dân phải do người có thẩm quyền tiến hành theo quy định của pháp luật”16.
Từ những ghi nhận trên, Hiến pháp năm 2013 một lần nữa nhấn mạnh quyền
quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân và bí mật gia đình 17 (như
đã nêu tại phần các khái niệm của đề tài). Theo như đạo luật cao nhất hiện nay quy

định như trên, thì mọi hành vi xâm phạm quyền bí mật đời tư của cá nhân khác, bao
gồm cả việc chia sẻ thông tin cá nhân đó trên phương tiện truyền thông và mạng xã hội
đều là hành vi xâm phạm quyền bí mật đời tư cá nhân.
Tuy nhiên, trong thời đại công nghệ thông tin phát triển, rất nhiều nguồn thông
tin không có chọn lọc được phát tán qua các kênh mạng thông tin. Điều này gây ảnh
hưởng và xâm phạm nghiêm trọng đến quyền bí mật đời tư của cá nhân, cũng như
quyền bí mật thư tín, phá hoại hình tượng cá nhân, xâm phạm quyền tác giả. Mặt khác,
các thông tin phát tán qua mạng rất khó xác định nguồn phát tán thông tin bởi sự rộng
lớn của mạng toàn cầu, Internet đang là mảnh đất, môi trường béo bở cho các thành
phần xâm phạm đến quyền bí mật đời tư cá nhân. Vì vậy, để kịp thời điều chỉnh hành
vi vi phạm này, Nhà nước đã kịp thời ban hành quy định, lấy căn cứ xử lý các vụ việc
liên quan đến xâm phạm bí mật đời tư qua “các phương tiện truyền thông, mạng xã
hội”.
Cụ thể, BLDS hiện hành đã ghi nhận quyền bí mật đời tư, đời sống riêng tư, bí
mật cá nhân, bí mật gia đình là bất khả xâm phạm và được pháp luật bảo vệ. Việc thu
thập, lưu giữ, sử dụng, công khai thông tin liên quan đến đời sống riêng tư, bí mật cá
nhân, gia đình phải được người và gia đình đó đồng ý. Thư tín, điện thoại, điện tín, cơ
sở dữ liệu điện tử và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác của cá nhân cũng
được bảo đảm an toàn và bí mật18. Ngoài ra, BLDS còn quy định về việc sử dụng hình
ảnh của cá nhân khác, cụ thể: “việc sử dụng hình ảnh của cá nhân phải được người đó
đồng ý. Nếu ai sử dụng hình ảnh của người khác vì mục đích thương mại phải trả thù
16

Điều 73 Hiến pháp năm 1992, sửa đổi bổ sung năm 2001.

17

Điều 21 Hiến pháp năm 2013.

18


Điều 38 BLDS năm 2015

24


Đề tài: Tư vấn pháp luật về hành vi xâm phạm bí mật đời tư trên các phương tiện
truyền thông và mạng xã hội
lao cho người có hình ảnh, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác” 19. Chế tài cho
hành vi xâm phạm các quyền trên được BLDS quy định như sau: người bị xâm phạm
đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, người có hình ảnh có quyền yêu cầu tòa án ra quyết
định buộc người vi phạm, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan phải thu hồi, tiêu hủy,
chấm dứt việc sử dụng hình ảnh, bồi thường thiệt hại.
Tuy BLDS quy định việc “sử dụng” các hình ảnh nói chung cần có sự đồng ý của
người có hình ảnh. Điều này dẫn tới việc sử dụng hình ảnh của người khác, dù chỉ cho
nhu cầu bản thân, không phát tán cho người thứ ba, cũng phải xin phép người có hình
ảnh. Về bản chất, hành vi này không ảnh hưởng tới quan hệ của người có hình ảnh với
xã hội, không cản trở người đó hình thành và phát triển nhân cách của mình. Nhưng
trên thực tế, cũng khó phát hiện được các trường hợp này, vì hình ảnh không được phát
tán, người có hình ảnh không biết hình ảnh của mình đang bị sử dụng trái phép. Ngoài
ra, điều luật này chỉ đề cập hành vi “sử dụng” chứ không điều chỉnh hành vi “ghi
hình”. Ðây thật sự là "khoảng trống" đáng lo ngại trong pháp luật Việt Nam, vì cá
nhân bị xâm phạm vào chi tiết riêng tư nhất. Trong điều kiện trang thiết bị ghi hình
ngày càng phổ biến, nguy cơ bị chụp trộm, bị ghi hình trộm cao hơn bao giờ hết. Nếu
không thể chứng minh người chụp trộm, ghi hình trộm phát tán các hình ảnh này thì
không thể quy trách nhiệm dân sự theo Ðiều 32 BLDS hay trách nhiệm hình sự theo
BLHS.
Ngoài ra, đối với vụ việc cá nhân, tổ chức hoặc ngay cả báo chí xâm phạm bí mật
đời tư thì có thể áp dụng các quy định của Luật Giao dịch điện tử, Luật Báo chí… để
áp dụng. Qua đó, người bị xâm phạm bí mật đời tư có thể yêu cầu phía cá nhân vi

phạm hoặc nhà báo vi phạm phải xin lỗi, cải chính và bồi thường thiệt hại. Nếu yêu
cầu không được chấp nhận, người bị xâm phạm bí mật đời tư có thể khiếu nại hoặc
khởi kiện đến các cơ quan chức năng có thẩm quyền. Tùy theo mức độ nghiêm trọng
của việc xâm phạm bí mật đời tư, pháp luật sẽ áp dụng các mức phạt khác nhau, cụ
thể:

19

Điều 32 BLDS năm 2015

25


×