Tải bản đầy đủ (.pdf) (101 trang)

Giải pháp tăng cường huy động vốn đối với ngân hàng thương mại cổ phần công thương việt nam chi nhánh thị xã phú thọ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (996.6 KB, 101 trang )

MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề nghiên cứu
Huy động vốn là nghiệp vụ quan trọng đối với các ngân hàng thương mại,
là yếu tố quyết định quy mô hoạt động, lợi nhuận của ngân hàng. Từ nguồn vốn
huy động đươ ̣c trong nề n kinh tế, thông qua hoa ̣t đô ̣ng tiń du ̣ng, các ngân hàng
thương mại sẽ cung cấ p vố n cho mo ̣i hoa ̣t đô ̣ng kinh tế và đáp ứng các nhu cầ u
vố n mô ̣t cách kip̣ thời cho quá triǹ h sản xuấ t. Để có thể tồn tại và phát triển
trong thời đại thông tin và hội nhập, các ngân hàng thương mại phải lựa chọn
cho mình con đường đi phù hợp nhất, từng bước khẳng định uy tín và thương
hiệu, nâng cao năng lực cạnh tranh của mình. Cách tốt nhất để giải quyết vấn đề
này trong bối cảnh hiện nay là các ngân hàng thương mại phải tăng cường hoạt
động huy động vốn để đáp ứng nhu cầu phát triển ngày càng cao của đất nước,
từ đó có thể đảm bảo khả năng thanh toán, phát triển các hoạt động đầu tư và
cho vay, nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của mình.
Là một ngân hàng thương mại lớn trên địa bàn Thị xã Phú Thọ, Ngân
hàng thương mại cổ phần Công thương Việt Nam, chi nhánh Thị xã Phú Thọ đã
và đang từng bước khẳng định vị thế của mình. Trong thời gian qua, hoạt động
huy động vốn của Chi nhánh đã không ngừng mở rộng, đáp ứng được nhu cầu
ngày càng tăng của khách hàng, góp phần phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa của đất nước. Tuy nhiên bên cạnh đó, hoạt động huy động vốn
của Chi nhánh vẫn còn bộc lộ một số hạn chế như kỳ hạn các hình thức huy
động vốn vẫn còn đơn điệu, chưa có chính sách lãi suất huy động cạnh tranh…
Ngoài ra, Chi nhánh Thị xã Phú Thọ cũng phải đối mặt với sự cạnh tranh ngày
càng gay gắt giữa các ngân hàng trên cùng địa bàn. Để có thể giữ vững và tiếp
tục phát triển hơn nữa, Ngân hàng cần phải có những điều chỉnh phù hợp trong
hoạt động huy động vốn của mình.
Mặc dù trong thời gian gần đây, tình hình kinh tế khó khăn, đầu ra – cho
vay của các ngân hàng bị hạn chế trong khi đầu vào – nguồn vốn huy động từ
dân cư và các tổ chức kinh tế lại dồi dào. Song, do cơ chế quản lý vốn tập trung
1



tại Hội sở chính, các Chi nhánh chỉ nắm giữ khoảng 60 – 70% nguồn vốn huy
động được nên việc tăng cường huy động vốn vẫn là hoạt động cần thiết và có
vai trò quan trọng trong hoạt động kinh doanh của Chi nhánh Thị xã Phú Thọ.
Nhận thức được tầm quan trọng của vốn huy động trong sự phát triển của
ngân hàng và tính cấp thiết của hoạt động huy động vốn trong thời điểm hiện
nay, em quyết định chọn đề tài “Giải pháp tăng cường huy động vốn đối với
ngân hàng thương mại cổ phần Công thương Việt Nam - Chi nhánh Thị xã
Phú Thọ” làm khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. Mục tiêu nghiên cứu
2.1. Mục tiêu chung
Phản ánh và đánh giá thực trạng huy động vốn tại Ngân hàng thương mại
cổ phần Công thương Việt Nam, chi nhánh Thị xã Phú Thọ, từ đó đưa ra một số
giải pháp nhằm tăng cường huy động vốn tại Ngân hàng thương mại cổ phần
Công thương Việt Nam, chi nhánh Thị xã Phú Thọ.
2.2. Mục tiêu cụ thể
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận về huy động vốn của ngân hàng thương mại;
- Phản ánh và đánh giá thực trạng huy động vốn tại Ngân hàng thương
mại cổ phần Công thương Việt Nam, chi nhánh Thị xã Phú Thọ;
- Đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường huy động vốn tại Ngân hàng
thương mại cổ phần Công thương Việt Nam, chi nhánh Thị xã Phú Thọ.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Thực trạng huy động vốn tại Ngân hàng thương mại cổ phần Công thương
Việt Nam, chi nhánh Thị xã Phú Thọ.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Nghiên cứu huy động vốn tại Ngân hàng thương mại cổ
phần Công thương Việt Nam, chi nhánh Thị xã Phú Thọ.
- Về không gian: Ngân hàng thương mại cổ phần Công thương Việt Nam,
chi nhánh Thị xã Phú Thọ.

- Về thời gian: Số liệu nghiên cứu từ năm 2011 đến năm 2013.
2


4. Phương pháp nghiên cứu
4.1. Phương pháp thu thập số liệu
Việc thu thập tài liệu thông tin bao gồm sưu tầm và thu thập những tài
liệu, số liệu liên quan được công bố và những tài liệu, số liệu mới tại cơ sở
nghiên cứu. Tài liệu, số liệu cần thu thập bao gồm tài liệu từ các báo cáo tài
chính, báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh giai đoạn 2011 – 2013, bảng cân
đối vốn kinh doanh tổng hợp, báo cáo tổng kết nguồn, các văn bản, giấy tờ đã
được ngân hàng công bố… giúp phân tích, đánh giá được thực trạng hoạt động
kinh doanh của Chi nhánh Thị xã Phú Thọ, đặc biệt là trong công tác huy động
vốn trong giai đoạn 2011 – 2013.
Ngoài ra đề tài còn sử dụng các thông tin thu thập được thông qua các báo
cáo của Chính phủ, bộ ngành, cơ quan thống kê; thông qua sách báo, tài liệu
giáo trình, bài giảng, các công trình nghiên cứu khoa học có liên quan đến vấn
đề huy động vốn để có được cơ sở lí luận chung nhất về huy động vốn tại ngân
hàng thương mại. Đồng thời quan sát, theo dõi thực tế hoặc hỏi cán bộ nhân viên
ngân hàng… để có thể đưa ra thêm được những giải pháp khả thi, giúp tăng
cường huy động vốn tại Chi nhánh Thị xã Phú Thọ.
4.2. Phương pháp xử lý số liệu
Các số liệu nghiên cứu được thu thập được từ nhiều nguồn khác nhau và
có sự chênh lệch nhất định tùy theo góc độ của người nghiên cứu. Do đó, để có
được những đánh giá khách quan và chính xác nhất về hoạt động ngân hàng thì
các số liệu thu thập được trong quá trình nghiên cứu sẽ được đưa vào máy tính
xử lý thông qua phần mềm excel để tính toán lại các số liệu cần thiết như số
tương đối, số tuyệt đối, số bình quân dựa trên cơ sở tôn trọng các số liệu gốc rồi
tiến hành tổng hợp so sánh các số liệu tính toán được để đánh giá thực trạng, xu
hướng phát triển của hoạt động huy động vốn trong ngân hàng.

4.3. Phương pháp phân tích số liệu
- Phương pháp thống kê so sánh: Là phương pháp sử dụng phổ biến trong
phân tích để xác định mức độ ảnh hưởng, xu thế biến động theo cơ cấu và thời
gian của các chỉ tiêu phân tích về hoạt động huy động vốn. Phương pháp này
3


cho phép chúng ta phát hiện những điểm giống và khác nhau giữa các thời điểm
nghiên cứu đã và đang tồn tại trong những giai đoạn lịch sử phát triển nhất định
đồng thời giúp ta phân tích được các động thái phát triển của chúng. Ví dụ như
việc thống kê tình hình nguồn vốn, dư nợ, doanh thu,… giữa các năm để so sánh
tốc độ tăng trưởng giữa các năm.
- Phương pháp phân tích tổng hợp: Là phương pháp liên kết thống nhất
toàn bộ các yếu tố, nhận xét mà khi ta sử dụng các phương pháp có được thành
một kết luận hoàn thiện, đầy đủ. Vạch ra mối liên hệ giữa chúng, khái quát hóa
các vấn đề trong nhận thức tổng hợp. Phương pháp này được sử dụng để đưa ra
các đánh giá sau khi thống kê, phân tích các dữ liệu, đặc biệt là trong phần kết
luận của đề tài. Ngoài ra, đối với hoạt động huy động vốn, phân tích tổng hợp là
việc chia nhỏ các phương thức huy động vốn và phân tích, sau đó tổng hợp để
đưa ra những nhận xét, đánh giá chung nhất về thực trạng, xu hướng phát triển
và đề ra giải pháp cho hoạt động này.
Ngoài ra cũng có thể phân tích số liệu thông qua phương pháp chuyên gia,
chuyên khảo. Đó là dựa trên cơ sở tham khảo ý kiến của các cán bộ nghiên cứu
về chính sách huy động vốn, những người am hiểu về hoạt động huy động vốn
và các cán bộ ngân hàng thương mại cổ phần Công thương Việt Nam, chi nhánh
Thị xã Phú Thọ để rút ra những nhận xét, đánh giá chính xác, có căn cứ khoa
học, đồng thời đề ra được các giải pháp tăng cường huy động vốn có hiệu quả.
5. Kết cấu khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, kết cấu
khóa luận gồm 3 chương:

Chương 1: Cơ sở lí luận về huy động vốn tại Ngân hàng thương mại;
Chương 2: Thực trạng huy động vốn tại Ngân hàng thương mại cổ phần
Công thương Việt Nam, chi nhánh Thị xã Phú Thọ;
Chương 3: Giải pháp tăng cường huy động vốn tại Ngân hàng thương mại
cổ phần Công thương Việt Nam, chi nhánh Thị xã Phú Thọ.

4


Chương 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ HUY ĐỘNG VỐN TẠI
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Khái quát về ngân hàng thương mại
1.1.1. Khái niệm về ngân hàng thương mại
Theo Luật số 47/2010/QH12 Luật các TCTD năm 2010 tại Việt Nam thì
ta có khái niệm về ngân hàng thương mại như sau:
“Ngân hàng thương mại là loại hình ngân hàng được thực hiện tất cả các
hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác theo quy định của Luật này
nhằm mục tiêu lợi nhuận”.
Theo điều 4 Luật này có nêu: “Tổ chức tín dụng là doanh nghiệp thực
hiện một, một số hoặc tất cả các hoạt động ngân hàng. TCTD bao gồm ngân
hàng, TCTD phi ngân hàng, tổ chức tài chính vi mô và quỹ tín dụng nhân dân”.
Ngân hàng là loại hình TCTD có thể được thực hiện tất cả các hoạt động
ngân hàng theo quy định của Luật này. Theo tính chất và mục tiêu hoạt động, các
loại hình ngân hàng bao gồm ngân hàng thương mại, ngân hàng chính sách, ngân
hàng hợp tác xã. Trong đó, NHTM tồn tại dưới nhiều dạng sở hữu khác nhau:
quốc doanh, tư nhân, liên doanh, cổ phần và chi nhánh nước ngoài. Bất cứ hình
thức hoạt động nào của NHTM cũng bao gồm ba nghiệp vụ: nghiệp vụ nợ (huy
động vốn), nghiệp vụ có (sử dụng vốn) và nghiệp vụ môi giới trung gian (dịch vụ
thanh toán, tư vấn, bảo lãnh…). Ba loại nghiệp vụ trên có mối quan hệ mật thiết,

có tác động hỗ trợ, thúc đẩy cùng phát triển tạo nên uy tín cho ngân hàng.
1.1.2. Vai trò của ngân hàng thương mại
1.1.2.1. NHTM là nơi cung cấp vốn cho nền kinh tế
Vốn được tạo ra từ quá trình tích lũy, tiết kiệm của mỗi cá nhân, doanh
nghiệp và Nhà nước trong nền kinh tế. Vậy muốn có nhiều vốn phải tăng thu nhập
quốc dân, giảm nhịp độ tiêu dùng. Để tăng thu nhập quốc dân, tức là mở rộng quy
mô chiều rộng lẫn chiều sâu của sản xuất và lưu thông hàng hóa, đẩy mạnh sự
phát triển của các ngành trong nền kinh tế cần thiết phải có vốn. NHTM là chủ
5


thể đáp ứng nhu cầu vốn sản xuất kinh doanh. NHTM đứng ra huy động các
nguồn vốn nhàn rỗi tạm thời được giải phóng ra từ quá trình sản xuất và lưu
thông, vốn từ nguồn tiết kiệm của các cá nhân trong xã hội. Bằng nguồn vốn huy
động được, các NHTM cung cấp vốn cho mọi hoạt động kinh tế đáp ứng nhu
cầu vốn một cách kịp thời cho quá trình tái sản xuất. Như vậy nhờ có hoạt động
của hệ thống NHTM, các doanh nghiệp mới có điều kiện mở rộng phạm vi sản
xuất, công nghệ, tăng năng suất lao động và nâng cao hiệu quả kinh tế.
1.1.2.2. NHTM là cầu nối giữa doanh nghiệp với thị trường
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, hoạt động của các doanh nghiệp
chịu sự tác động mạnh mẽ của các quy luật kinh tế như quy luật giá trị, quy luật
cung cầu,… Để đáp ứng tốt nhất các yêu cầu của thị trường, các doanh nghiệp
không ngừng nâng cao chất lượng lao động, mở rộng quy mô sản xuất một cách
thích hợp. Thông qua hoạt động tín dụng, ngân hàng đáp ứng nhu cầu vốn cho
doanh nghiệp trong việc nâng cao chất lượng mọi mặt của quá trình sản xuất
kinh doanh, tạo cho doanh nghiệp có chỗ đứng vững chắc trong cạnh tranh.
1.1.2.3. NHTM là cầu nối nền tài chính quốc gia với nền tài chính quốc tế
Trong xu thế khu vực hóa, toàn cầu hóa như hiện nay thì vai trò này ngày
càng thể hiện rõ rệt hơn. Áp lực cạnh tranh buộc nền kinh tế mỗi quốc gia khi
mở cửa hội nhập phải có tiềm lực lớn mạnh về mọi mặt, đặc biệt là tiềm lực về

tài chính. Nhưng làm thế nào để có thể hòa nhập nền tài chính của một quốc gia
với phần còn lại của thế giới?
Câu hỏi đó sẽ được giải đáp nhờ vào hệ thống các NHTM vì hệ thống này
có khả năng cung cấp nhiều loại hình dịch vụ khác nhau hỗ trợ cho việc đầu tư
từ nước ngoài vào trong nước theo các hình thức: thanh toán quốc tế, nghiệp vụ
hối đoái, cho vay ủy thác đầu tư… giúp cho luồng vốn ra, vào một cách hợp lí,
đưa nền tài chính nước nhà bắt kịp với nền tài chính quốc tế. Đây là một trong
những điều kiện tiên quyết cho tiến trình hội nhập kinh tế thế giới.
1.1.2.4. NHTM là công cụ để Nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế
NHTM hoạt động hiệu quả thông qua các nghiệp vụ kinh doanh của mình
thực sự là công cụ để Nhà nước điều tết vĩ mô nền kinh tế. Bằng hoạt động tín
6


dụng và thanh toán, các NHTM đã góp phần mở rộng khối lượng tiền cung ứng
trong lưu thông; thông qua việc cấp các khoản tín dụng cho các ngành trong nền
kinh tế NHTM thực hiện việc điều hòa các luồng tiền, tích tụ và phân phối cho
các ngành. Với những nội dung hoạt động như vậy, Nhà nước đã sử dụng NHTM
như là một công cụ hữu hiệu để điều tiết nền kinh tế.
1.1.3. Các hoạt động chủ yếu của ngân hàng thương mại
1.1.3.1. Hoạt động huy động vốn
Đây là nghiệp vụ cơ bản của NHTM và thông qua nghiệp vụ này NHTM
thực hiện chức năng tạo tiền của mình. NHTM đã “góp nhặt” toàn bộ nguồn vốn
nhàn rỗi trong xã hội dưới các hình thức như: nhận tiền gửi tiết kiệm, tiền gửi
thanh toán... NHTM còn phát hành thêm các loại chứng chỉ tiền gửi, các trái
khoán ngân hàng hay đi vay từ các ngân hàng và các TCTD khác… Hệ thống
NHTM luôn luôn hoàn thiện, cập nhật các hình thức huy động vốn vô cùng đa
dạng, phong phú để đáp ứng được tối đa nhu cầu ngày càng cao của những cá
nhân và tổ chức có vốn nhàn rỗi. Nếu như gọi NHTM là tổ chức trung gian tài
chính thì hoạt động huy động vốn có thể gọi là đầu vào của quá trình trung gian.

1.1.3.2. Hoạt động cấp tín dụng
Hoạt động tín dụng là một trong những nghiệp vụ cơ bản, quan trọng nhất
của NHTM, là hoạt động sinh lợi chủ yếu và luôn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng
tài sản có của các NHTM, tạo thu nhập từ lãi lớn nhất và cũng là hoạt động chứa
đựng nhiều rủi ro. Vì vậy, hoạt động tín dụng có vị trí quan trọng trong hoạt
động của ngân hàng. NHTM được cấp tín dụng cho tổ chức, cá nhân dưới nhiều
hình thức khác nhau, cụ thể: cho vay, bảo lãnh, chiết khấu, cho thuê tài chính.
Tín dụng ngân hàng là một hình thức tín dụng vô cùng quan trọng, nó là
quan hệ tín dụng chủ yếu, cung cấp phần lớn nhu cầu tín dụng cho các chủ thể
trong nền kinh tế. Với công nghệ ngân hàng hiện nay, tín dụng ngân hàng trở
thành một hình thức tín dụng không thể thiếu ở cả trong nước và quốc tế.
1.1.3.3. Hoạt động dịch vụ thanh toán và ngân quỹ
Để thực hiện các dịch vụ thanh toán giữa các doanh nghiệp thông qua
ngân hàng, NHTM được mở tài khoản cho khách hàng trong và ngoài nước, còn
7


giữa các ngân hàng với nhau thông qua NHNN thì NHTM phải mở tài khoản
tiền gửi tại NHNN nơi mà các NHTM đặt trụ sở chính. Hoạt động dịch vụ thanh
toán và ngân quỹ của NHTM bao gồm các hoạt động như: Cung cấp các phương
tiện thanh toán, thực hiện các dịch vụ thanh toán trong nước cho khách hàng,
thực hiện dịch vụ thu hộ và chi hộ…
1.1.3.4. Hoạt động khác
Ngoài các hoạt động chính nêu trên, NHTM còn có thể thực hiện một số
các hoạt động khác như: Góp vốn và mua cổ phần, tham gia trên thị trường tiền
tệ, kinh doanh ngoại hối, ủy thác và nhận ủy thác, cung ứng dịch vụ bảo hiểm, tư
vấn tài chính, bảo quản vật quý giá…
1.2. Vốn và vai trò của vốn trong hoạt động kinh doanh của NHTM
1.2.1. Khái niệm về vốn của ngân hàng thương mại
Vốn của NHTM là những giá trị tiền tệ do ngân hàng tạo lập hay huy

động được, dùng để cho vay, đầu tư hoặc thực hiện các dịch vụ kinh doanh khác.
Thực chất, vốn của NHTM là một phần thu nhập quốc dân tạm thời nhàn
rỗi trong quá trình sản xuất, phân phối và tiêu dùng mà người chủ sở hữu của
khoản vốn đó gửi vào ngân hàng để thực hiện các mục đích khác nhau. Nói cách
khác, họ chuyển quyền sử dụng khoản vốn đó cho ngân hàng và ngân hàng phải
trả phí để được sử dụng khoản vốn đó. Như vậy, NHTM đã thực hiện vai trò tập
trung và phân phối lại vốn cho nền kinh tế dưới hình thức tiền tệ, kết quả là làm
tăng nhanh quá trình luân chuyển vốn cho nền kinh tế, kích thích quá trình
SXKD phát triển. Nhưng đồng thời cũng chính những hoạt động đó là yếu tố
mang tính chất quyết định đến sự tồn tại và phát triển hoạt động kinh doanh của
các ngân hàng.
1.2.2. Vai trò của vốn trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại
1.2.2.1. Vốn là cơ sở để NHTM tổ chức hoạt động kinh doanh
Trong nền kinh tế thị trường, bất kì doanh nghiệp nào muốn SXKD đều
cần có vốn, vốn quyết định đến khả năng kinh doanh của doanh nghiệp. Đối với
NHTM vốn là đối tượng kinh doanh chủ yếu, là cơ sở để ngân hàng tổ chức mọi
hoạt động kinh doanh. Nếu thiếu vốn NHTM không thể thực hiện các hoạt động
8


kinh doanh. Vì vậy, những ngân hàng có vốn lớn sẽ có thế mạnh trong kinh
doanh. Vốn là điểm xuất phát đầu tiên trong hoạt động kinh doanh của NHTM.
1.2.2.2. Vốn quyết định quy mô hoạt động tín dụng và các hoạt động khác của NH
Ngoài vai trò là cơ sở để ngân hàng tổ chức các hoạt động kinh doanh,
vốn còn quyết định đến việc mở rộng hay thu hẹp khối lượng tín dụng và các
hoạt động khác của NHTM. Vốn tự có của ngân hàng ngoài việc sử dụng để
mua sắm tài sản cố định, trang thiết bị, góp vốn kinh doanh… còn là căn cứ để
giới hạn các hoạt động kinh doanh tiền tệ bao gồm cả hoạt động tín dụng. Việc
quy định tỷ lệ cho vay, tỷ lệ huy động vốn trên vốn tự có của NHTW thể hiện
vai trò quản lí, điều tiết thị trường của Nhà nước, để đảm bảo an toàn cho hệ

thống ngân hàng và đảm bảo quyền lợi và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền.
1.2.2.3. Vốn quyết định đến khả năng thanh toán và đảm bảo uy tín của ngân
hàng trên thị trường
Một NHTM có thể thu hút được đông đảo khách hàng đến gửi tiền và sử
dụng các dịch vụ của ngân hàng đó khi ngân hàng uy tín trên thị trường. Uy tín
của ngân hàng trước hết thể hiện khả năng sẵn sàng thanh toán cho khách hàng
khi họ yêu cầu. Khả năng thanh toán của ngân hàng thông thường tỷ lệ thuận với
vốn mà ngân hàng đó có. Nếu có vốn lớn thì năng lực thanh toán của ngân hàng
được nâng cao, từ đó sẽ thu hút được nhiều khách hàng và nâng cao vị thế của
ngân hàng trên thị trường.
1.2.2.4. Vốn là một trong những yếu tố quyết định năng lực cạnh tranh của NH
Với mỗi ngân hàng quy mô, trình độ công nghệ hiện đại là tiền đề để thu
hút vốn. Đồng thời khả năng về vốn lớn là cơ sở để ngân hàng mở rộng khối
lượng tín dụng và có thể quyết định lãi suất cho vay. Vì vậy, nếu có tiềm lực về
vốn lớn thì ngân hàng có thể giảm mức lãi suất cho vay, từ đó tạo cho ngân hàng
ưu thế trong cạnh tranh và giúp ngân hàng có tiềm lực trong việc mở rộng các
hình thức kinh doanh, liên kết cho thuê, mua bán nợ, kinh doanh chứng khoán…
1.2.3. Các loại vốn của ngân hàng thương mại
1.2.3.1. Nguồn vốn chủ sở hữu
Nguồn vốn chủ sở hữu của NHTM là những giá trị tiền tệ do ngân hàng
9


tạo lập được, thuộc sở hữu của ngân hàng. Vốn này chiếm tỷ trọng nhỏ trong
tổng nguồn vốn, song lại là điều kiện pháp lý bắt buộc khi thành lập một ngân
hàng. Với chức năng bảo vệ, nguồn vốn này được coi như tài sản đảm bảo gây
lòng tin đối với khách hàng, duy trì khả năng thanh toán trong trường hợp ngân
hàng gặp thua lỗ. Nó còn là một căn cứ quyết định đến khả năng và khối lượng
huy động của ngân hàng, qua đó quyết định đến năng lực và thế phát triển của
một NHTM. Nguồn vốn chủ sở hữu bao gồm:

a. Nguồn vốn hình thành ban đầu
Một NHTM muốn bắt đầu hoạt động thì ngân hàng đó phải đáp ứng được
yêu cầu của NHNN về mức vốn pháp định. Vốn pháp định là mức vốn tối thiểu
phải có để thành lập ngân hàng do pháp luật quy định. Khác với vốn pháp định,
vốn điều lệ lại là vốn do các cổ đông đóng góp và được ghi vào điều lệ hoạt
động của ngân hàng và theo quy định tối thiểu phải bằng vốn pháp định. Khi
ngân hàng bước vào hoạt động thì nguồn vốn này được thể hiện dưới dạng văn
phòng, trụ sở, trang thiết bị… và ngân hàng không được phép sử dụng vốn này
chia lợi tức hay trích lập quỹ phúc lợi khen thưởng.
b. Nguồn vốn bổ sung trong quá trình hoạt động
Trong suốt quá trình hoạt động của ngân hàng, vốn điều lệ không phải
luôn cố định mà được bổ sung và tăng dần theo các hình thức:
- Cổ phần phát hành thêm, ngân sách nhà nước cấp thêm: Để mở rộng
quy mô hoạt động, tăng cường khả năng chống đỡ rủi ro, các ngân hàng TMCP
có thể huy động thêm vốn bằng con đường phát hành thêm cổ phiếu, các NHTM
thuộc sở hữu nhà nước có thể xin cấp thêm vốn ngân sách, các ngân hàng tư
nhân hay ngân hàng liên doanh có thể cùng nhau góp thêm vốn.
- Lợi nhuận bổ sung: Khi ngân hàng hoạt động hiệu quả và có lãi, sẽ có
xu hướng gia tăng vốn chủ sở hữu bằng cách chuyển một phần thu nhập ròng
thành vốn đầu tư. Tỷ lệ tích lũy tùy thuộc vào khả năng hoạt động cũng như
chính sách gia tăng vốn chủ sở hữu của mỗi ngân hàng. Những ngân hàng lâu
năm, thu nhập ròng lớn, nguồn vốn tích lũy từ lợi nhuận sẽ cao so với vốn của
chủ hình thành ban đầu.
10


c. Các quỹ
Ngoài nguồn vốn hình thành ban đầu, NHTM còn có các quỹ dự trữ, các
quỹ này được coi là nguồn vốn chủ sở hữu của NH và hằng năm được bổ sung
từ lợi nhuận ròng của ngân hàng đó. Thông thường các NHTM phải lập các quỹ:

- Quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ: Quỹ được trích lập theo tỷ lệ phần trăm
nhất định trên tổng lợi nhuận ròng. Tại Việt Nam, theo quy định, hàng năm các
NHTM được trích lập 5% lợi nhuận sau khi hoàn thành nộp thuế TNDN để hình
thành quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ. Mức tối đa của quỹ này không vượt quá
mức vốn điều lệ thực có của NHTM.
- Quỹ đầu tư phát triển: Quỹ dùng để đầu tư mở rộng quy mô hoạt động
kinh doanh, đổi mới công nghệ, trang thiết bị của NHTM. Theo quy định, hàng
năm các NHTM được trích để hình thành quỹ đầu tư phát triển nghiệp vụ tối đa
không quá 50% lợi nhuận sau khi nộp thuế TNDN và trừ đi các khoản trích lập
quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ và bù khoản lỗ của năm trước.
- Quỹ dự phòng tài chính: Quỹ được hình thành từ lợi nhuận hàng năm và
được dùng để bù đắp phần còn lại của những tổn thất, thiệt hại về tài sản xảy ra
trong quá trình kinh doanh sau khi đã được bù đắp bằng tiền bồi thường của các
cá nhân, tổ chức gây ra tổn thất, của các tổ chức bảo hiểm và sử dụng dự phòng
trích lập từ chi phí. Theo quy định, quỹ này được trích bằng 10% lợi nhuận sau
thuế và đã trừ đi các khoản phải trừ như trích quỹ đầu tư phát triển, quỹ dự trữ
bổ sung vốn điều lệ. Số dư tối đa của quỹ này bằng 25% vốn điều lệ của NHTM.
Ngoài ra, các NHTM còn có thể trích lập các quỹ như: Quỹ khen thưởng
phúc lợi, quỹ đào tạo, quỹ trợ cấp mất việc làm... Các quỹ này không nhất thiết
phải lập, tùy thuộc vào chính sách của các NHTM trong từng thời kỳ.
d. Nguồn vay nợ có thể chuyển đổi thành cổ phần
Các khoản vay trung và dài hạn của NHTM có khả năng chuyển đổi thành
vốn cổ phần như trái phiếu có khả năng chuyển đổi…có thể coi là một bộ phận
vốn chủ sở hữu của ngân hàng do có đặc điểm như sử dụng lâu dài, có thể đầu tư
vào nhà cửa đất đai và có thể không phải hoàn trả khi đến hạn. Nguồn vốn này
thực sự là một công cụ hữu hiệu đối với ngân hàng trong việc gia tăng vốn chủ
11


sở hữu mà lại không làm mất đi quyền kiểm soát của các cổ đông hiện hữu.

1.2.3.2. Nguồn tiền gửi
Nguồn tiền gửi là giá trị tiền tệ mà các NHTM huy động được từ các cá
nhân, tổ chức kinh tế trong xã hội thông qua nghiệp vụ tiền gửi, thanh toán, các
nghiệp vụ kinh doanh khác và được dùng làm vốn để kinh doanh.
Bản chất của nguồn vốn này là tài sản thuộc các chủ sở hữu khác nhau.
Ngân hàng chỉ có quyền sử dụng mà không có quyền sở hữu và có trách nhiệm
hoàn trả đúng hạn cả gốc và lãi khi đến hạn hoặc khi họ có nhu cầu rút vốn.
Nguồn tiền gửi luôn biến động, nên ngân hàng không được phép sử dụng
hết số vốn đó vào kinh doanh mà phải dự trữ với một tỷ lệ hợp lý để đảm bảo
khả năng thanh toán. Nguồn tiền gửi bao gồm:
- Tiền gửi không kì hạn: Đây là khoản tiền của doanh nghiệp, tổ chức xã
hội, cá nhân gửi vào ngân hàng để nhờ ngân hàng giữ và thanh toán hộ. Trong
phạm vi số dư cho phép, các nhu cầu chi trả của đối tượng gửi tiền đều được
ngân hàng thực hiện. Với nội dung chi trả như vậy và việc sử dụng séc để thanh
toán nên tài khoản tiền gửi không kỳ hạn còn được gọi là tài khoản tiền gửi
thanh toán hay tài khoản có thể phát séc. Nhìn chung, lãi suất của khoản tiền này
rất thấp hoặc bằng không, thay vào đó chủ tài khoản có thể được hưởng các dịch
vụ ngân hàng với mức phí thấp. Ngân hàng mở tài khoản tiền gửi thanh toán cho
khách hàng. Thủ tục mở rất đơn giản. Yêu cầu của ngân hàng là khách hàng phải
có tiền và chỉ thanh toán trong phạm vi số dư.
- Tiền gửi có kì hạn: Nhiều khoản thu bằng tiền của doanh nghiệp, tổ chức
xã hội, cá nhân sẽ được chi trả sau một thời gian xác định. Vì thế trong một
khoảng thời gian nhất định, các tổ chức, cá nhân này có một khoản tiền nhàn rỗi
muốn gửi vào ngân hàng nhằm mục đích an toàn và gia tăng thu nhập. Tiền gửi
thanh toán tuy rất thuận tiện cho hoạt động thanh toán song lãi suất lại thấp. Để
đáp ứng nhu cầu tăng thu của người gửi tiền, ngân hàng đã đưa ra hình thức tiền
gửi có kì hạn. Người gửi không được sử dụng các hình thức thanh toán đối với
tiền gửi thanh toán để áp dụng đối với loại tiền gửi này. Họ chỉ được rút tiền vào
thời điểm đáo hạn hoặc yêu cầu ngân hàng cho rút trước hạn.
12



- Tiền gửi tiết kiệm: Xét về bản chất, đây là một phần thu nhập của một
tầng lớp dân cư chưa sử dụng cho tiêu dùng. Họ gửi vào ngân hàng với mục đích
tích lũy tiền một cách an toàn và hưởng một phần lãi từ số tiền đó. Tiền gửi tiết
kiệm là một dạng đặc biệt để tích lũy tiền tệ trong lĩnh vực tiêu dùng cá nhân.
Trên thực tế, trong nền kinh tế thị trường, TGTK được phát triển thành hai loại
hình tiết kiệm: tiền gửi tiết kiệm không kì hạn và tiền gửi tiết kiệm có kì hạn.
Khoản TGTK không kì hạn là khoản tiền gửi có thể rút ra bất kì lúc nào
song không được sử dụng các công cụ thanh toán để chi trả cho người khác.
TGTK có kì hạn là khoản tiền có sự thỏa thuận về thời hạn gửi và rút tiền, có mức
lãi suất cao hơn so với TGTK không kì hạn. Nhằm thu hút ngày càng nhiều
TGTK, các ngân hàng đều cố gắng khuyến khích dân cư thay đổi thói quen giữ
vàng và tiền mặt tại nhà, chấp nhận khách hàng gửi tiết kiệm bằng ngoại tệ, vàng.
Tóm lại, nguồn tiền gửi là công cụ chính đối với hoạt động kinh doanh
của các NHTM. Đây là nguồn vốn chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng nguồn
vốn, giữ vị trí quan trọng trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
1.2.3.3. Nguồn vốn đi vay
Tiền gửi là nguồn vốn quan trọng nhất của ngân hàng. Tuy nhiên, khi các
ngân hàng đã sử dụng hết vốn khả dụng mà vẫn không đủ vốn hoạt động thì các
NHTM sẽ đi vay vốn để bổ sung vào vốn hoạt động của mình. Vốn đi vay là
quan hệ vay vốn giữa NHTM với NHNN, hoặc giữa các NHTM với nhau, với
các TCTD khác hoặc vay trên thị trường. Nguồn đi vay mặc dù chỉ chiếm tỷ
trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn nhưng nó đảm bảo cho ngân hàng hoạt động
liên tục, thông suốt. Nguồn vốn đi vay bao gồm:
- Vay Ngân hàng nhà nước: là khoản vay nhằm giải quyết nhu cầu cấp
bách trong chi trả khi NHTM thiếu hụt dự trữ, thiếu khả năng chi trả hoặc quá
kẹt vốn. Đây là nguồn cứu tinh sau cùng cho các NHTM để tránh vấp phải
khủng hoảng tài chính. Tuy nhiên, việc vay NHNN phụ thuộc rất nhiều vào việc
NHNN đang thực hiện chính sách nới lỏng hay thắt chặt tiền tệ. Khi NHNN

đang hạ lãi suất chiết khấu, nới lỏng cung ứng tiền tệ nhằm kích thích đầu tư thì
các NHTM có thể có nguồn vốn dồi dào với chi phí thấp.
13


- Vay các TCTD khác: Trong trường hợp vốn huy động không đủ đáp ứng
nhu cầu thanh khoản, NHTM có thể đi vay các TCTD khá để đáp ứng nhu cầu
thanh khoản. Đây là nguồn vốn có tỷ trọng thấp trong tồng nguồn vốn, NHTM
chỉ sử dụng nguồn vốn này khi thực sự cần thiết vì nó có chi phí cao hơn vốn
huy động rất nhiều.
- Vay trên thị trường: Bên cạnh phương thức vay trên, các NHTM còn có
thể vay trên thị trường tiền tệ và thị trường vốn bằng cách phát hành chứng chỉ
tiền gửi, kỳ phiếu và trái phiếu. Thực chất các nghiệp vụ này là ngân hàng huy
động vốn tiền tệ bằng việc phát hành chứng từ có giá. Trong đó, chứng chỉ tiền
gửi và kỳ phiếu là phiếu nợ ngắn hạn với mệnh giá quy định, trái phiếu là loại
phiếu nợ trung và dài hạn.
1.2.3.4. Các nguồn khác
Do quá trình hoạt động, thanh toán và cung cấp các dịch vụ, nguồn vốn
của NHTM còn bao gồm nguồn ủy thác, nguồn trong thanh toán và tiền khác.
- Nguồn ủy thác: Thông qua nghiệp vụ đại lý thực hiện các dịch vụ ủy thác,
các NHTM cũng thu hút được một lượng vốn đáng kể trong quá trình thu hoặc chi
hộ khách hàng, làm đại lý cho các TCTD khác, nhận và chuyển vốn cho khách
hàng hay một dự án đầu tư. Do việc giải ngân được thực hiện theo tiến độ công
việc, nên ngân hàng có thể sử dụng tạm thời tồn khoản đó vào kinh doanh.
- Nguồn trong thanh toán: Trong quá trình làm trung gian thanh toán,
NHTM tạo được một khoản vốn trong thanh toán như vốn trên tài khoản mở thư
tín dụng, séc bảo chi và các khoản tiền phong tỏa do ngân hàng chấp nhận các
hối phiếu thương mại… Các khoản tiền tạm thời được trích khỏi tài khoản này
nhập vào tài khoản khác chờ sử dụng nên tạm thời được coi là tiền nhàn rỗi.
- Tiền khác: Bao gồm các khoản nợ chưa đến hạn thanh toán như lương

chưa trả, thuế chưa nộp…
1.3. Hoạt động huy động vốn của ngân hàng thương mại
1.3.1. Sự cần thiết của hoạt động huy động vốn
Hoạt động huy động vốn không mang lại lợi ích trực tiếp cho ngân hàng
nhưng nó là nghiệp vụ rất quan trọng. Không có hoạt động huy động vốn xem
14


như không có hoạt động của NHTM. Một NHTM khi được cấp phép thành lập
phải có vốn điều lệ theo quy định. Tuy nhiên, vốn điều lệ chỉ đủ để tài trợ cho tài
sản cố định như trụ sở, văn phòng, máy móc, thiết bị cần thiết cho hoạt động chứ
chưa đủ vốn để ngân hàng có thể thực hiện các hoạt động kinh doanh như cấp
tín dụng và các dịch vụ ngân hàng khác. Để có vốn phục vụ cho các hoạt động
này, ngân hàng phải huy động vốn từ khách hàng. Hoạt động huy động vốn có ý
nghĩa rất quan trọng đối với ngân hàng cũng như đối với khách hàng.
Đối với ngân hàng, hoạt động huy động vốn góp phần mang lại nguồn
vốn cho ngân hàng thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh khác. Không có hoạt
động huy động vốn, NHTM sẽ không đủ nguồn tài trợ cho hoạt động kinh doanh
của mình. Mặt khác, thông qua hoạt động huy động vốn, NHTM có thể đo lường
được uy tín cũng như sự tín nhiệm của khách hàng đối với ngân hàng. Từ đó,
NHTM có những biện pháp không nghừng hoàn thiện hoạt động huy động vốn
để giữ vững và mở rộng quan hệ với khách hàng. Có thể nói hoạt động huy động
vốn góp phần giải quyết “đầu vào” của ngân hàng.
Đối với khách hàng, hoạt động huy động vốn cung cấp cho khách hàng
một kênh tiết kiệm và đầu tư nhằm làm cho tiền của họ sinh lợi, tạo điều kiện
cho họ có thể gia tăng tiêu dùng trong tương lai. Mặt khác, hoạt động huy động
vốn còn cung cấp cho khách hàng một nơi cất trữ và tích lũy vốn tạm thời nhãn
rỗi. Cuối cùng, hoạt động huy động vốn giúp cho khách hàng có cơ hội để tiếp
cận với các dịch vụ khách của ngân hàng, đặc biệt là dịch vụ thanh toán qua
ngân hàng và dịch vụ tín dụng khi khách hàng cần vốn cho sản xuất kinh doanh

hoặc cần tiền cho tiêu dùng.
1.3.2. Các hình thức huy động vốn tại ngân hàng thương mại
1.3.2.1. Theo đối tượng huy động
a. Huy động vốn từ dân cư
Trong nền kinh tế phát triển, đời sống dân cư được nâng cao thì ngoài
khoản tiền tiêu dùng, các tầng lớp dân cư đều có các khoản thu nhập tạm thời
nhàn rỗi. Nhằm mục đích đảm bảo an toàn và sinh lời, họ có thể sử dụng các
hình thức đầu tư như mua vàng, ngoại tệ mạnh, bất động sản, cổ phiếu hay trái
15


phiếu. Các hình thức này mặc dù mang lại lợi nhuận cao nhưng lại tiềm ẩn nhiều
rủi ro lớn. Do đó, đại bộ phận dân chúng đều chọn hình thức gửi tiền tiết kiệm
vào ngân hàng vừa được đảm bảo an toàn, vừa có thể thu được một khoản lợi
tức nhất định. Tùy thuộc vào nhu cầu sử dụng tiền mặt mà khách hàng có thể lựa
chọn các hình thức gửi tiền khác nhau với các kì hạn khác nhau. Tiền gửi có kỳ
hạn mang giá trị cốt lõi là sinh lời, trong khi đó tiền gửi thanh toán hay tiền gửi
không kì hạn lại mang mục đích phục vụ cho nhu cầu thanh toán của khách hàng.
b. Huy động vốn từ các tổ chức kinh tế, các TCTD và các tổ chức khác
Đây là khoản tiền gửi của các doanh nghiệp, các TCTD trong và ngoài
nứơc, các tổ chức xã hội khác như cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang, tổ chức
chính trị xã hội… Phần lớn mục đích của nguồn tiền gửi này là nhằm mục tiêu
thanh toán, hưởng các dịch vụ của ngân hàng. Bên cạnh đó, còn nhằm mục đích
sinh lời đối với khoản tiền nhàn rỗi chưa cần sử dụng.
Đối với mục đích gửi tiền để hưởng các dịch vụ thanh toán, ngân hàng
thường không trả lãi hoặc quy định một tỷ lệ lãi suất rất thấp và khách hàng khi
hưởng các dịch vụ này thì phải trả một khoản phí dịch vụ nhất định. Do nhu cầu
thanh toán của các doanh nghiệp là rất lớn nên hình thức huy động vốn này tạo
nên một nguồn lớn trong vốn của ngân hàng.
Đối với những khoản tiền tạm thời nhàn rỗi và chưa cần dùng đến trong

thanh toán, khách hàng thường lựa chọn hình thức gửi tiết kiệm với mức lãi suất
quy định cao hơn nhưng không được hưởng các dịch vụ thanh toán. Khi có nhu
cầu sử dụng, các tổ chức phải cử người đại diện của mình đến ngân hàng để yêu
cầu rút tiền.
1.3.2.2. Theo phương thức huy động
a. Huy động tiền gửi
- Tiền gửi không kỳ hạn
Đây là khoản tiền mà người gửi có thể rút ra sử dụng bất cứ lúc nào và
ngân hàng phải thỏa mãn yêu cầu đó của khách hàng. Tiền gửi không kỳ hạn có
lãi suất thấp hoặc không được trả lãi. Tùy theo mục đích gửi tiền mà người ta
phân chia thành tiền gửi thanh toán và tiền gửi không kỳ hạn thuần túy.
16


+ Tiền gửi thanh toán: Đây là khoản tiền gửi thanh toán của các doanh
nghiệp, tổ chức, cá nhân gửi vào ngân hàng trước hết được sử dụng để tiến hành
thanh toán, chi trả cho các hoạt động hàng hóa, dịch vụ và các khoản chi khác
phát sinh trong quá trình kinh doanh một cách thường xuyên, an toàn và thuận
tiện. Khi sử dụng các tiện ích thanh toán, chủ sở hữu tài khoản phải trả cho ngân
hàng một khoản phí. Tiền gửi thanh toán thường được bảo quản tại ngân hàng
trên hai loại tài khoản: tài khoản tiền gửi thanh toán và tài khoản vãng lai.
+ Tiền gửi không kỳ hạn thuần túy: Đây là khoản tiền của doanh nghiệp, cá
nhân, tổ chức gửi vào ngân hàng trong khi chưa có kế hoạch sử dụng cụ thể nhằm
mục đích đảm bảo an toàn tài sản và khi cần có thể sử dụng ngay, không mang
tính chất phục vụ thanh toán. Khi cần khách hàng có thể đến ngân hàng rút ra để
chi tiêu. Hình thức gửi tiền này không được ngân hàng cho phép phát hành séc.
- Tiền gửi có kì hạn
Đây là loại tiền gửi có sự thỏa thuận trước giữa khách hàng và ngân hàng
về thời gian rút tiền. Loại tiền gửi này của các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế, cá
nhân, có nguồn gốc từ tích lũy và xét về bản chất chúng được ký thác với mục

đích hưởng lãi. Về cơ bản, các khoản tiền gửi có kì hạn không được sử dụng để
tiến hành thanh toán như các khoản chi trả bằng vốn trên tài khoản vãng lai nên
không thể phát séc. Thông thường, tiền gửi có kỳ hạn là các khoản tiền gửi có
thời hạn dài và có lãi suất cao.
Tiền gửi có kỳ hạn giữ vị trí trung gian giữa tiền gửi thanh toán và tiền
gửi tiết kiệm. Đây là nguồn tiền tương đối ổn định, ngân hàng có thể sử dụng
phần lớn tồn khoản vào kinh doanh. Chính vì vậy, các NHTM luôn tìm cách đa
dạng hóa loại tiền gửi này bằng cách áp dụng nhiều kỳ hạn với mức lãi suất khác
nhau nhằm đáp ứng nhu cầu của mọi khách hàng.
- Tiền gửi tiết kiệm
Quy chế về tiền gửi tiết kiệm ban hành theo quyết định số 1160/2004/QĐNHNN của thống đốc NHNN đã quy định rõ “Tiền gửi tiết kiệm là khoản tiền
của cá nhân được gửi vào tài khoản tiền gửi tiết kiệm, được xác nhận trên thẻ
tiết kiệm, được hưởng lãi theo quy định của tổ chức nhận tiền gửi tiết kiệm và
17


được bảo hiểm theo quy định của pháp luật về bảo hiểm tiền gửi”.
Trong nền kinh tế thị trường, tiền gửi tiết kiệm được phát triển thành hai
loại là tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn và tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn.
+ TGTK không kỳ hạn là TGTK mà người gửi tiền có thể rút tiền theo
yêu cầu mà không cần báo trước cho tổ chức nhận tiền gửi tiết kiệm.
+ TGTK có kỳ hạn là TGTK mà người gửi tiền có thể rút tiền sau một kỳ
hạn gửi tiền nhất định theo thỏa thuận với tổ chức nhận tiền gửi tiết kiệm.
Nguồn tiền gửi tiết kiệm chiếm tỷ trọng lớn và quan trọng nhất trong tổng
nguồn vốn huy động, nhất là đối với các ngân hàng bán lẻ. Do đó, việc tăng
cường huy động nguồn tiền này đóng vai trò vô cùng quan trọng đối với sự phát
triển của NHTM.
b. Phát hành giấy tờ có giá
Các GTCG là các công cụ Nợ do ngân hàng phát hành để huy động vốn
trên thị trường, bao gồm kỳ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi. Nguồn vốn này

tương đối ổn định để sử dụng cho một mục đích nào đó.
Theo chuẩn mực kế toán số 16, các doanh nghiệp trong đó có NHTM phát
hành GTCG theo ba phương thức là phát hành GTCG ngang giá, phát hành
GTCG chiết khấu và phát hành GTCG phụ trội. Về trả lãi phát hành GTCG
thường áp dụng ba hình thức trả lãi là trả lãi trước, trả lãi sau và trả lãi định kỳ.
1.3.2.3. Theo thời gian huy động
- Ngắn hạn: Các khoản huy động có thời gian dưới 12 tháng được gọi là
các khoản huy động ngắn hạn. Tùy theo chiến lược phát triển cũng như mức độ
đa dạng hóa các sản phẩm tiền gửi của các NHTM mà có thể chia nhỏ các kỳ hạn
theo ngày, tuần, tháng, quý. Đối với khoản tiền gửi này, tỷ lệ dự trữ bắt buộc
thường cao. Đây là nguồn tiền thường được khách hàng ưa chuộng nên chiếm tỷ
trọng cao trong tổng vốn huy động.
- Trung và dài hạn: Do ngân hàng chủ yếu là cho vay dài hạn nên để nâng
cao khả năng thanh khoản cũng như hạn chế rủi ro lãi suất, các NHTM thường
huy động các nguồn tiền trung hạn (từ 12 tháng đến dưới 60 tháng) và dài hạn (từ
60 tháng trở lên). Do kỳ hạn dài nên lãi suất chi trả cho nguồn này thường cao.
18


Theo quyết định của thống đốc NHNN về việc điều chỉnh dự trữ bắt buộc
đối với các TCTD ban hành ngày 16 tháng 1 năm 2008 thì tỷ lệ dự trữ bắt buộc
đối với loại tiền gửi có kỳ hạn trên 12 tháng là 5% trên tổng số dư tiền gửi phải
dự trữ bắt buộc. Đây là nguồn tiền có chi phí cao nên chiếm tỷ trọng thấp hơn so
với nguồn ngắn hạn trong tổng nguồn vốn huy động và thường được cho vay,
đầu tư vào các dự án có tính khả thi cao.
1.3.2.4. Theo loại tiền huy động
Căn cứ vào tính thanh khoản, mức độ ưa thích, nhu cầu dự trữ, đầu tư của
người dân mà ngân hàng có thể huy động bằng nội tệ (VNĐ) hoặc là ngoại tệ
(ngoại tệ mạnh).
- Huy động bằng nội tệ: Do quá trình tích lũy và nhu cầu tiêu dùng, thanh

toán trong nước nên khách hàng thường gửi tiền bằng đồng nội tệ. Do đó, nguồn
vốn này thường chiếm phần lớn trong vốn huy động và có lãi suất cao hơn.
- Huy động bằng ngoại tệ: Từ nhu cầu thanh toán trong xuất nhập khẩu
hàng hóa với yêu cầu đầu tư, cất trữ các ngoại tệ mạnh của khách hàng đã làm nên
nguồn vốn huy động bằng ngoại tệ trong ngân hàng. Do sự biến động về tỷ giá
nên lãi suất huy động của loại này thường thấp hơn so với huy động bằng nội tệ.
1.4. Các nhân tố ảnh hưởng tới hoạt động huy động vốn của NHTM
1.4.1. Các nhân tố khách quan
1.4.1.1. Nhân tố pháp luật, chính sách của Nhà nước
Việc huy động vốn và sử dụng vốn của Ngân hàng đều tác động trực tiếp
đến tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế, thu nhập của các chủ thể, tốc độ chu
chuyển vốn, tình trạng thất nghiệp, lạm phát. Chính vì vậy mà hoạt động của
Ngân hàng cũng chịu sự điều chỉnh của pháp luật, đôi khi còn chặt chẽ hơn cả
đối với doanh nghiệp. Trên thực tế, ngân hàng chịu sự tác động của rất nhiều
chính sách, các quy định của Chính phủ, NHNN, đó là luật các tổ chức tín dụng,
luật kinh tế, luật dân sự… Do sự ràng buộc về pháp luật, nghiệp vụ huy động
vốn chắc chắn sẽ thay đổi cả về quy mô và hiệu quả. Cụ thể chính sách tiền tệ,
chính sách lãi suất, tín dụng… thay đổi sẽ ảnh hưởng đến khả năng thu hút vốn
cũng như chất lượng nguồn vốn.
19


1.4.1.2. Nhân tố tình hình kinh tế - xã hội
Những yếu tố của nền kinh tế ảnh hưởng đến tăng trưởng nguồn vốn huy
động của các NHTM phải kể đến đó là: Thu nhập bình quân đầu người, tốc độ
tăng trưởng và phát triển kinh tế, tỷ lệ lạm phát… Khi nền kinh tế ổn định và
đang trên đà phát triển thì thu nhập của người dân tăng lên, nhu cầu thanh toán
không dùng tiền mặt cũng tăng lên, do đó nguồn vốn huy động trong thời gian
này cũng tăng mạnh. Ngược lại, khi nền kinh tế rơi vào suy thoái, bất ổn thì
cũng gây khó khăn cho Ngân hàng trong việc huy động vốn.

1.4.1.3. Nhân tố đối thủ cạnh tranh
Với sự phát triển mạnh mẽ của ngành ngân hàng trong nước và sự gia
nhập của các ngân hàng nước ngoài sau khi Việt Nam hội nhập kinh tế thế giới
thì các NHTM ngày càng phải đối mặt với càng nhiều cạnh tranh trong quá trình
thu hút vốn bởi vì khách hàng ngày càng có nhiều sự lựa chọn để đáp ứng nhu
cầu ngày càng cao của họ. Để cạnh tranh với các đối thủ, các ngân hàng phải tự
nâng cao năng lực cạnh tranh của mình, phải biết phân tích đặc điểm của từng
nhóm đối tượng khách hàng, tiến hành phân đoạn và lựa chọn các đoạn thị
trường chính, áp dụng chính sách khách hàng linh hoạt, phù hợp.
1.4.2. Các nhân tố chủ quan
1.4.2.1. Nhân tố quy mô, uy tín của ngân hàng
Trong hoạt động kinh doanh thì uy tín là yếu tố vô cùng quan trọng quyết
định thành công của doanh nghiệp. Uy tín của ngân hàng không phải một sớm
một chiều có được mà phải do kết tinh của một quá trình lâu dài phấn đấu, cố
gắng của tập thể cán bộ nhân viên trong ngân hàng. Nó được thể hiện dưới nhiều
hình thức khác nhau như sự tín nhiệm của người dân, khả năng phục vụ khách
hàng, hệ thống cơ sở vật chất, công nghệ ngân hàng…
1.4.2.2. Nhân tố các dịch vụ ngân hàng
Một ngân hàng có cơ cấu sản phẩm dịch vụ đa dạng thì thường có lợi thế
cao hơn trong việc thu hút khách hàng. Các hình thức huy động mới kèm theo
các dịch vụ ưu đãi, khuyến mãi, sử dụng công nghệ hiện đại khiến khách hàng
quan tâm nhiều hơn và đáp ứng được nhiều hơn nhu cầu của khách hàng.
20


1.4.2.3. Nhân tố chính sách lãi suất
Phần lớn nguồn vốn của ngân hàng là tiền gửi tiết kiệm. Mục đích của việc
gửi tiền tiết kiệm chính là được hưởng lãi. Do đó, lãi suất cao luôn thu hút được
nguồn vốn lớn. Tuy nhiên, lãi suất huy động chính là căn cứ để ngân hàng tiến
hành xác định lãi suất cho vay, lãi suất cho vay càng cao thì hoạt động tín dụng

của ngân hàng càng hạn chế. Do đó, để vừa thu hút và duy trì mối quan hệ với
khách hàng, vừa đẩy mạnh hoạt động kinh doanh, các ngân hàng phải ấn định
từng mức lãi suất phù hợp cho từng số dư, từng kỳ hạn, từng khách hàng.
1.4.2.4. Nhân tố năng lực và trình độ của cán bộ ngân hàng
Các cán bộ nhân viên ngân hàng chính là người đảm bảo vận hành cỗ máy
ngân hàng hoạt động liên tục và hiệu quả. Do đó, trình độ chuyên môn nghiệp
vụ cũng như thái độ của nhân viên ngân hàng có ảnh hưởng trực tiếp đến quá
trình hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Cán bộ ngân hàng không những thực
thi nghiệp vụ nhanh chóng, chính xác, linh hoạt mà còn phải có kiến thức sâu
rộng. Các ngân hàng không những cần phải nâng cao trình độ chuyên môn
nghiệp vụ cho cán bộ, nhân viên của mình mà còn phải xây dựng môi trường
làm việc năng động và chuyên nghiệp.
1.4.2.5. Nhân tố hoạt động Marketing ngân hàng
Marketing ngân hàng là yếu tố vô cùng quan trọng trong việc đưa hình
ảnh của ngân hàng gần gũi hơn với dân chúng. Hoạt động Marketing ngân hàng
tốt sẽ giúp ích nhiều trong việc đưa khách hàng đến gần hơn với các sản phẩm
dịch vụ của ngân hàng, từ đó có thể huy động vốn một cách hiệu quả. Các ngân
hàng phải vận dụng đồng bộ chính sách Marketing hỗn hợp bao gồm chính sách
giá cả, sản phẩm, phân phối… Đối với các sản phẩm dịch vụ cần phải tạo nên sự
khác biệt, độc đáo, mới lạ để thu hút sự chú ý của khách hàng.
1.4.2.6. Nhân tố mạng lưới hoạt động
Ngân hàng là tổ chức kinh doanh dịch vụ gửi tiền, việc tiếp cận với khách
hàng là một nhân tố vô cùng quan trọng. Do đó, mạng lưới chi nhánh, phòng
giao dịch là kênh phân phối sản phẩm của ngân hàng đến với khách hàng.

21


Chương 2
THỰC TRẠNG HUY ĐỘNG VỐN TẠI NGÂN HÀNG

THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN CÔNG THƯƠNG VIỆT NAM
CHI NHÁNH THỊ XÃ PHÚ THỌ
2.1. Khái quát chung về Ngân hàng thương mại cổ phần Công thương Việt
Nam, chi nhánh Thị xã Phú Thọ
2.1.1. Sơ lược lịch sử hình thành và phát triển của NHCT Thị xã Phú Thọ
2.1.1.1. Tên và địa chỉ
- Tên giao dịch: Ngân hàng thương mại cổ phần Công thương Việt Nam,
chi nhánh Thị xã Phú Thọ
- Địa chỉ trụ sở chính: Số 1 phố Phú An, phường Phong Châu, thị xã Phú
Thọ, tỉnh Phú Thọ.
- Số điện thoại: 02103.820.088
- Số đăng ký kinh doanh và mã số thuế: 0100111948-112
- Giám đốc chi nhánh: Nguyễn Vĩnh Tân
2.1.1.2. Quá trình hình thành và phát triển
Lịch sử hình thành và phát triển của NHCT Thị xã Phú Thọ gắn liền với
lịch sử ra đời của NHCT Việt Nam. Được thành lập từ tháng 07 năm 1988, là
một chi nhánh cấp II của NHCT Việt Nam hoạt động trên địa bàn thị xã Phú
Thọ - tỉnh Phú Thọ. NHCT Thị xã Phú Thọ là đơn vị trực thuộc chịu sự chỉ đạo
trực tiếp của NHCT tỉnh Phú Thọ, làm nhiệm vụ của một Ngân hàng cơ sở.
NHCT thị xã Phú Thọ là Chi nhánh cấp I thuộc NHCT Việt Nam từ ngày
15/07/2006 theo quyết định số 192/QĐ/HĐQT – NHCT ngày 29/06/2006 của Hội
đồng quản trị NHCT Việt Nam về việc chuyển chi nhánh cấp II NHCT Thị xã
Phú Thọ trực thuộc NHCT tỉnh Phú Thọ trở thành Chi nhánh cấp I.
Chi nhánh có chức năng, nhiệm vụ chính là kinh doanh tiền tệ tín dụng và
dịch vụ ngân hàng, nhận và sử dụng có hiêụ quả vốn của Nhà nước giao. Với hệ
thống giao dịch một cửa NHCT Thị xã Phú Thọ đã, đang và sẽ cung cấp những
sản phẩm, dịch vụ ngân hàng tốt nhất cho khách hàng.
22



Qua hơn hai mươi năm xây dựng và trưởng thành, Chi nhánh thị xã Phú
Thọ đã có những bước phát triển vượt bậc, trở thành một Chi nhánh có tiềm lực
mạnh với quy mô và phạm vi hoạt động không ngừng được mở rộng, chất lượng
và hiệu quả kinh doanh ngày càng được nâng cao, uy tín và vị thế được khẳng
định, thể hiện vai trò hết sức quan trong và là chỗ dựa đáng tin cậy trong quá trình
phát triển kinh tế – xã hội địa phương. Mô hình hoạt động của Chi nhánh gồm 01
Hội sở chính, 02 PGD loại I và 06 PGD loại II và 60 cán bộ công nhân viên.
Mạng lưới hoạt động được bố trí tập trung ở các khu vực thị trấn thị xã, có khả
năng huy động vốn, đầu tư cho vay hoặc mở rộng ứng dụng các dịch vụ ngân
hàng. Đối tượng kinh doanh của NHCT đã được mở rộng tới mọi thành phần kinh
tế, ngành nghề SXKD với phương châm “Nâng giá trị cuộc sống”.
Tại Chi nhánh đã áp dụng công nghệ ngân hàng đã theo hướng hiện đại,
đáp ứng yêu cầu kinh doanh trong tình hình kinh tế ngày càng phát triển. Đến
nay kỹ thuật tin học đã được ứng dụng vào hầu hết các lĩnh vực hoạt động của
Chi nhánh như thanh toán, hạch toán kế toán, quản lý tín dụng, thông tin tín
dụng và phòng ngừa rủi ro, quản lý nhân sự; thông tin, báo cáo,… Bên cạnh đó
Chi nhánh cũng đã có nhiều quan tâm xây dựng đội ngũ nhân lực có phẩm chất
chính trị, năng lực quản lý và trình độ nghiệp vụ, từng bước đáp ứng được yêu
cầu của hoạt động kinh doanh ngân hàng trong cơ chế thị trường. Đây là một
trong những nhân tố quyết định tới sự thành công trong hoạt động kinh doanh.
2.1.2. Chức năng và nhiệm vụ của NHCT Thị xã Phú Thọ
2.1.2.1. Chức năng của Chi nhánh
Cũng như các NHTM khác hoạt động trên lĩnh vực tiền tệ ngân hàng,
NHCT Thị xã Phú Thọ là một pháp nhân tự chủ tài chính, tự chịu trách nhiệm về
kết quả kinh doanh, có bảng tổng kết tài sản và con dấu riêng, hoạt động trong
khuôn khổ pháp lệnh ngân hàng, thực hiện các chức năng sau:
- Tiến hành huy động vốn dưới mọi hình thức: Nhận tiền gửi không kỳ
hạn, có kỳ hạn đa dạng và nhiều hình thức tiết kiệm phong phú.
- Tiến hành cho vay đáp ứng nhu cầu SXKD, các dự án đầu tư phát triển
kinh tế xã hội, nhu cầu tiêu dùng của cá nhân, hộ gia đình dưới mọi hình thức.

23


- Thực hiện dịch vụ thanh toán trong nước, thanh toán quốc tế về mậu
dịch và phi mậu dịch, các dịch vụ ngân quỹ.
- Thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ tài trợ thương
mại khác theo quy định của NHCT Việt Nam.
- Thực hiện nghiệp vụ ngân hàng đại lý, quản lý vốn cho các dự án, tư vấn
đầu tư theo yêu cầu của khách hàng và theo quy định của pháp luật. Nhận vốn
ủy thác từ các chương trình tài trợ Quốc gia.
- Cung cấp dịch vụ thẻ ATM và ngân hàng điện tử: Phát hành, thanh toán
ATM, thẻ tín dụng quốc tế Visa, Master Card…
Các giao dịch ngân hàng điện tử: Internet banking, Phone banking và nhiều
hoạt động khác như tư vấn đầu tư, tài trợ thương mại, thu chi hộ ngân quỹ.
2.1.2.2. Nhiệm vụ của Chi nhánh
Năm 2014 và những năm tiếp theo, Chi nhánh Thị xã Phú Thọ đã xác
định nhiệm vụ chung là tiếp tục giữ vững, phát huy vai trò của NHTM, cung cấp
các sản phẩm, dịch vụ tiện ích, chất lượng cao để đáp ứng nhu cầu của đông đảo
khách hàng. Tập trung mọi nguồn lực cho công tác huy động vốn, theo dõi diễn
biến lãi suất huy động trên thị trường, thực hiện theo chỉ đạo của NHCT Việt
Nam; Mở rộng các sản phẩm dịch vụ chất lượng cao: Thẻ tín dụng quốc tế, séc
du lịch, séc nhờ thu đáp ứng đầy đủ các nhu cầu dịch vụ của khách hàng. Coi
trọng chiến lược khách hàng, tiếp tục phát triển khách hàng mới. Nâng cao năng
lực quản trị, điều hành, ổn định công tác tổ chức và nhân sự. Tập trung toàn bộ
mọi sức lực để Chi nhánh vượt qua khó khăn, thử thách, nâng cao năng lực cạnh
tranh, giữ vững thương hiệu và vị thế của Vietinbank.
2.1.3. Cơ cấu bộ máy tổ chức và quản lý của NHCT Thị xã Phú Thọ
Bộ máy tổ chức của Vietinbank – Chi nhánh thị xã Phú Thọ được áp dụng
theo phương thức quản lý trực tuyến. Giám đốc chịu trách nhiệm cao nhất về
mọi hoạt động của chi nhánh; Ban giám đốc chỉ đạo điều hành tất cả các phòng

ban tại Hội sở chính và các PGD; các phòng chức năng ở Hội sở chính quản lý
về mặt nghiệp vụ; các PGD hoạt động như một chi nhánh trực thuộc, trưởng
phòng chịu trách nhiệm về mọi hoạt động của đơn vị mình.
24


Dưới đây là sơ đồ bộ máy tổ chức của NHCT Thị xã Phú Thọ:
Ban giám đốc

Phòng
tổ
chức
hành
chính

Bộ
phận
TTTM
và KD
ngoại
tệ

Phòng
khách
hàng
doanh
nghiệp

Phòng
khách

hàng

nhân

Phòng
tổng
hợp

Bộ
phận
QLRR
&
NCVĐ

Bộ
phận
thông
tin
điện
toán

Phòng
kế
toán

Phòng
tiền tệ
kho
quỹ


Phòng
giao
dịch

Bộ
phận
thẻ và
Dịch
vụ NH
điện tử

Sơ đồ 2.1: Sơ đồ bộ máy tổ chức của NHCT TX.Phú Thọ
Chức năng nhiệm vụ của các phòng ban:
* Phòng tổ chức hành chính:
Phòng tổ chức hành chính có chức năng tham mưu cho BGĐ các lĩnh vực:
tổ chức đào tạo công nhân viên, tuyển dụng lao động, quản lý tiền lương, công
tác phòng tổng hợp thi đua, công tác hành chính quản trị.
* Phòng khách hàng doanh nghiệp:
Phòng KHDN có chức năng tham mưu cho BGĐ Chi nhánh trong quản
lý, khai thác và bán các sản phẩm dịch vụ cho các khách hàng là doanh nghiệp.
Nhiệm vụ: Chủ động tìm kiếm, tiếp thị khách hàng mới, chăm sóc duy trì
quan hệ thường xuyên với các KHDN; Khai thác vốn bằng VNĐ và ngoại tệ từ
các KHDN và các tổ chức khác như đơn vị hành chính sự nghiệp, các ban quản lý
dự án… theo quy định hiện hành của NHCT; Tìm kiếm, tiếp nhận, thẩm định
phương án và tài sản bảo đảm, cung cấp các sản phẩm tín dụng cho KHDN.
Kiểm tra giám sát chặt chẽ các khoản vay. Đôn đốc thu hồi các khoản nợ.
25



×