Tải bản đầy đủ (.pdf) (104 trang)

Tác động của biến động giá dầu đối với các khoản nợ xấu của ngân hàng bằng chứng từ việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.45 MB, 104 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH

ĐOÀN THỊ BẢO NGỌC

TÁC ĐỘNG CỦA BIẾN ĐỘNG GIÁ DẦU ĐỐI VỚI CÁC KHOẢN
NỢ XẤU CỦA NGÂN HÀNG: BẰNG CHỨNG TỪ VIỆT NAM

Chuyên ngành: Tài chính – Ngân hàng
Mã số: 8340201

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. NGUYỄN KHẮC QUỐC BẢO

Tp. Hồ Chí Minh – Năm 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan bài viết “Tác động của biến động giá dầu đối với các khoản nợ
xấu của ngân hàng: bằng chứng từ Việt Nam” là bài nghiên cứu của tôi và kết quả
nghiên cứu chưa từng được công bố trong bất cứ công trình nghiên cứu khoa học
nào khác cho tới thời điểm này. Các số liệu nghiên cứu hoàn toàn trung thực, được
công bố rõ ràng, không chỉnh sửa. Tất cả những tài liệu sử dụng để tham khảo được
trích dẫn đầy đủ và đúng quy định.

Thành phố Hồ Chí Minh, 2018
Tác giả khóa luận

Đoàn Thị Bảo Ngọc




MỤC LỤC
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC CÁC BẢNG
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ, ĐỒ THỊ
I.

GIỚI THIỆU .............................................................................................................. 1
1.1.

Lý do chọn đề tài ................................................................................................ 1

1.2.

Mục tiêu nghiên cứu ........................................................................................... 3

1.3.

Phương pháp nghiên cứu .................................................................................... 4

1.4.

Ý nghĩa của đề tài ............................................................................................... 4

1.5.


Bố cục luận văn .................................................................................................. 5

II. TỔNG QUAN CÁC NGHIÊN CỨU TRƯỚC ĐÂY VÀ PHÁT TRIỂN GIẢ
THUYẾT .......................................................................................................................... 6
2.1.

Cơ sở lý thuyết và thực trạng.............................................................................. 6

2.1.1. Cơ sở lý luận khoa học về nợ xấu và thực trạng tại nền kinh tế Việt Nam..... 6
2.1.1.1. Nợ xấu (NPL)............................................................................................ 6
2.1.1.2. Nguyên nhân gây ra nợ xấu ...................................................................... 8
2.1.1.3. Thực trạng nợ xấu tại thị trường Việt Nam ............................................ 16
2.1.2. Cơ sở lý thuyết về giá dầu ............................................................................. 20
2.1.2.1. Sơ lượt vài nét về chuẩn dầu thô ............................................................. 20
2.1.2.2. Giá dầu là chỉ báo nền kinh tế thế giới ................................................... 21
2.1.2.3. Bối cảnh về ngành công nghiệp năng lượng dầu khí của Việt Nam ...... 24
2.1.3.Tác động của biến động giá dầu đối với nợ xấu của ngân hàng .................... 27
2.1.3.1. Mối quan hệ giữa giá dầu và nợ xấu ....................................................... 27
2.1.3.2. Giá dầu tác động đến nền kinh tế và nợ xấu của các ngân hàng thương
mại tại Việt Nam .................................................................................................. 29
2.1.3.3. Phát triển giả thuyết ................................................................................ 31


2.2. Các bằng chứng thực nghiệm ........................................................................... 33
III. MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU - GIỚI THIỆU CÁC THƯỚC ĐO KHÁC NHAU
CỦA CÚ SỐC GIÁ DẦU VÀ DỮ LIỆU – PHƯƠNG PHÁP ƯỚC LƯỢNG KIỂM
ĐỊNH .............................................................................................................................. 40
3.1.

Mô hình nghiên cứu .......................................................................................... 40


3.2.

Dữ liệu .............................................................................................................. 48

3.3.

Phương pháp ước lượng và kiểm định ............................................................. 48

3.3.1. Phân tích nội dung dữ liệu ............................................................................. 48
3.3.1.1. Thống kê mô tả ....................................................................................... 48
3.3.1.2. Phân tích tương quan các biế n đô ̣c lâ ̣p ................................................... 49
3.3.2. Cách thức kiểm định...................................................................................... 49
3.3.3. Phương pháp hồi quy ước lượng ................................................................... 51
IV. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU...................................................................................... 54
4.1.

Phân tích thống kê mô tả .................................................................................. 54

4.2.

Kiểm định sự tương quan các biến trong mô hình và đa cộng tuyến ............... 55

4.2.1. Ma trận tương quan đơn tuyến tính giữa các cặp biến Pearson .................... 55
4.2.2. Kiểm định đa cộng tuyến............................................................................... 57
4.3.

Kiểm định các giả thiết định lượng .................................................................. 58

4.3.1. Kiểm định hiện tượng phương sai thay đổi phần dư ..................................... 58

4.3.2. Kiểm định hiện tượng tự tương quan phần dư .............................................. 59
4.4.

Phân tích kết quả hồi quy ................................................................................. 60

4.5.

Thảo luận kết quả nghiên cứu........................................................................... 71

V. KẾT LUẬN ............................................................................................................. 74
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
NPL/NPLs

Nợ xấu

GDP

Tổng sản phẩm quốc nội

OPEC

Tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ

GMM

Phương pháp ước lượng Moment tổng quát


IMF

Quỹ tiền tệ quốc tế

NHNN

Ngân hàng nhà nước

GCC

Hội đồng Hợp tác vùng Vịnh

WTO

Tổ chức thương mại thế giới

CPIs

Chỉ số giá tiêu dùng

MENA

Khu vực Trung Đông-Bắc Phi

GMM

Phương pháp ước lượng Moment tổng quát

VAR


Vector tự hồi quy

MEOE

Tám nước xuất khẩu dầu ở Trung Đông

LLP

Chi phí dự phòng rủi ro tín dụng

LLR

Trích lập dự phòng rủi ro tín dụng

WTI

Dầu ngọt nhẹ Texas (West Texas Intermediate)

OLS

Phương pháp ước lượng bình phương bé nhất


DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 3.1 Cung cấp định nghĩa và nguồn thu thập của tất cả các biến được sử dụng
trong bài.......................................................................................................................... 43
Bảng 4.1 Thống kê mô tả ............................................................................................... 54
Bảng 4.2 Ma trận tương quan tuyến tính đơn giữa các cặp biến ................................... 56
Bảng 4.3 Kết quả kiểm tra đa cộng tuyến với nhân tử phóng đại phương sai............... 57

Bảng 4.4 Kết quả kiểm tra phương sai thay đổi của các mô hình ................................. 58
Bảng 4.5 Kết quả kiểm tra tự tương quan phần dư các mô hình ................................... 59
Bảng 4.6 Kết quả hồi quy .............................................................................................. 62
Bảng 4.7 Kết quả hồi quy .............................................................................................. 66
Bảng 4.8 Kết quả hồi quy .............................................................................................. 69
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ, ĐỒ THỊ
Hình 2.1 Tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ toàn hệ thống ngân hàng giai đoạn 2007 –
2016 (Nguồn: Ngân hàng nhà nước) .............................................................................. 18
Hình 2.2 So sánh tỷ lệ NPL của các Ngân hàng thương mại giai đoạn 2010 – 2011
và 2011 – 2012 (Nguồn: Báo cáo của Nguyễn Xuân Thành (2016), được tính toán
từ Báo Cáo Tài Chính của 37 Ngân Hàng trong 3 năm) ................................................ 19
Hình 2.3 Tỷ lệ nợ xấu trong tổng dư nợ tín dụng theo quý từ 2011 – 2015 (Nguồn:
Ngân hàng nhà nước Việt Nam) .................................................................................... 19
Hình 2.4 sản lượng khai thác dầu thô của Việt Nam hàng năm giai đoạn 2006 –
2016. ............................................................................................................................... 25
Hình 2.5 Sản lượng xuất nhập khẩu dầu Việt Nam giai đoạn 2006 – 2016 (Nghìn
Tấn) ................................................................................................................................ 26
Hình 2.6 Kim ngạch xuất nhập khẩu dầu Việt Nam giai đoạn 2006 – 2016 (Triệu
Đôla Mỹ) ........................................................................................................................ 26
Hình 2.7 Dự báo nhu cầu và sản xuất dầu tại Việt Nam đến năm 2025 (Nguồn: báo
cáo thường niên OPEC 2014) ........................................................................................ 27
Hình 2.8 Giá dầu và nợ xấu của Việt Nam qua các năm 2006 – 2016 ......................... 30


1

I. GIỚI THIỆU
1.1. Lý do chọn đề tài
Sự suy giảm chất lượng danh mục cho vay của các ngân hàng là nguyên nhân chính
gây ra các vấn đề trong hệ thống ngân hàng và khủng hoảng tài chính ở các nền

kinh tế phát triển. Thảm họa khủng hoảng toàn cầu năm 2008 đã để lại rất nhiều hệ
lụy về kinh tế, tài chính cho hầu hết tất cả các quốc gia, bắt nguồn cũng từ sự cho
vay dưới chuẩn tại Mỹ và sự sụp đổ của ngân hàng Lehman Brothers. Sự gia tăng
nợ xấu và thế chấp ngân hàng tại Mỹ nhấn mạnh mối liên hệ giữa vĩ mô – tài chính,
mối quan hệ giữa ma sát trong thị trường tín dụng và nguy cơ bất ổn về tài chính.
Chủ đề "nợ xấu" (NPL) đã thu hút nhiều sự chú ý hơn trong những thập kỷ gần đây.
Một số nghiên cứu đã kiểm tra những thất bại của ngân hàng và thấy rằng chất
lượng tài sản là một chỉ số về khả năng mất khả năng thanh toán. Các ngân hàng
vẫn có mức nợ xấu cao trước khi phá sản. Do đó, số lượng lớn các khoản nợ xấu
trong hệ thống ngân hàng thường dẫn đến thất bại ngân hàng. NPL là một trong
những nguyên nhân chính gây ra tình trạng trì trệ kinh tế. Mỗi khoản nợ xấu trong
khu vực tài chính làm tăng khả năng dẫn đến công ty gặp khó khăn và không sinh
lợi. Việc giảm thiểu NPL là điều kiện cần thiết để cải thiện tăng trưởng kinh tế.
Rất khó có thể phóng đại sự phụ thuộc quá nhiều vào dầu mỏ của các nước trên thế
giới. Dầu được sử dụng vào gần hết mọi lĩnh vực của nền kinh tế, ảnh hưởng đến cả
người tiêu dùng và người sản xuất. Điều này cũng có nghĩa là giá dầu là một trong
số ít các chỉ số có thể được sử dụng để dự đoán các chuyển động trong tương lai của
tổng sản phẩm trong ngành, tổng sản phẩm quốc nội, và xu hướng của hoạt động
kinh tế. Những biến động về giá dầu có ảnh hưởng nghiêm trọng đến nhiều khía
cạnh của nền kinh tế, từ mức độ chi tiêu của hộ gia đình, hoạt động giao thông vận
tải đến hiệu quả của các doanh nghiệp trong các quốc gia, đặc biệt là các quốc gia
xuất nhập khẩu dầu nhiều, vì hoạt động kinh tế tài chính trong các quốc gia này có
liên quan đến biến động giá dầu. Đứng thứ 3 khu vực Châu Á – Thái Bình Dương
và thứ 22 trên thế giới về trữ lượng dầu thô (2016), Việt Nam được xem là một
trong những nước xuất khẩu dầu thô lớn trong khu vực. Kể từ năm 2008 – 2013,


2

ngành năng lượng nói chung và ngành dầu khí nói riêng của Việt Nam đóng góp rất

nhiều cho nền kinh tế, chiếm trung bình khoảng 22,6% GDP. Tuy nhiên, mặc dù là
nước xuất khẩu dầu nhiều, xăng dầu Việt Nam vẫn không thể đáp ứng được nhu cầu
trong nước do các nhà máy lọc dầu chỉ đáp ứng được khoảng 35% và sự cạnh tranh
sản phẩm thành phẩm với chi phí rẻ. Theo thống kê của Tổng cục hải quan về 10
mặt hàng xuất khẩu chính của Việt Nam năm 2016 không có sự xuất hiện của dầu
thô, trong khi đó lượng nhập khẩu xăng dầu chiếm khoảng 4,5% trong cơ cấu nhập
khẩu hàng hóa. Vì vậy, Việt Nam vẫn được xem là một trong những nước nhập
khẩu xăng thành phẩm nhiều.
Như thường xảy ra với ngành năng lượng, dầu thô đã được đi đầu trong những tin
tức của cuối năm. Trong vài năm gần đây, câu chuyện đã tập trung vào sự sụt giảm
giá dầu thô toàn cầu bắt đầu hồi giữa năm 2014, cuối cùng chạm đáy vào tháng 1
năm 2016, giảm xuống mức thấp nhất trong hơn một thập kỷ. Sự không chắc chắn
về sức khoẻ của nền kinh tế toàn cầu cũng như sự chậm lại trong kinh tế đang suy
thoái ở Trung Quốc bắt đầu vào giữa năm 2015 dẫn đến sự sụt giảm nhu cầu và tiêu
dùng dầu mỏ toàn cầu. Các nhà sản xuất dầu tiếp tục nỗ lực hết mình để giành được
thị phần quý giá đầu ra từ các nhà sản xuất khác trong khu vực, ngay cả khi giá tiếp
tục giảm. Một thỏa thuận ngừng sản xuất giữa các nhà sản xuất dầu lớn, do Ả rập
Xê út và Nga tiến hành, cuối cùng đã đạt được kết quả vào cuối tháng 11 năm 2016,
khiến giá dầu hồi phục vào cuối năm 2016 vào năm 2017. Các hậu quả kinh tế vĩ
mô của giá dầu thấp đối với các nền kinh tế đã được ghi nhận đầy đủ. Nền kinh tế
suy yếu và sự sụt giảm của giá dầu thấp đã tạo ra sự gia tăng nợ xấu (NPLs) kéo
theo lợi nhuận giảm tại nhiều ngân hàng trong năm qua.
Mặc dù có rất nhiều nghiên cứu ở Việt Nam về cú sốc giá dầu tác động đến kinh tế
vĩ mô (ví dụ Phạm Thị Hoàng Anh và cộng sự, 2015, Đinh Thị Thu Hồng, 2016) và
nghiên cứu các yếu tố nội tại ảnh hưởng đến vấn đề nợ xấu của ngân hàng (Lương
Thị Mỹ Tiên, 2016, Võ Thanh Bình, 2015) nhưng chưa có bằng chứng thực nghiệm
nào xem xét từ những cú sốc bên ngoài, cụ thể là giá dầu, ảnh hưởng như thế nào
đến nợ xấu của ngân hàng. Có một số nghiên cứu trên thế giới cho thấy được có sự



3

tồn tại mối quan hệ giữa giá dầu và các hoạt động kinh tế tài chính, được biểu thị
bằng nợ xấu của ngân hàng, nhưng các kết quả nghiên cứu lại không đồng nhất với
nhau. Theo Osamah và Ali, 2017, sự thay đổi giá dầu có một tác động ngược đáng
kể đến các khoản nợ xấu của ngân hàng khi xem xét ở các quốc gia giàu dầu mỏ.
Hay Idris và Naya, 2017, cũng có các nghiên cứu tương tự khi cho thấy rằng giá dầu
thay đổi cũng tác động ngược đến các khoản nợ xấu ở các nước OPEC. Tuy nhiên,
khi nghiên cứu 10 nền kinh tế Châu Á, Abeysinghe (2001) đã nhận thấy rằng ngay
cả những nhà xuất khẩu dầu ròng như Indonesia và Malaysia cũng không thể thoát
khỏi ảnh hưởng tiêu cực của giá dầu cao. Theo như Cunado và Perez de Gracia
(2005), tác động của giá dầu còn phụ thuộc rất nhiều vào tình hình xuất nhập khẩu
dầu của các nước. Do Việt Nam vừa là quốc gia xuất khẩu dầu thô lớn, đồng thời
cũng nhập xăng dầu thành phẩm nhiều nên việc giá dầu tác động dương hay âm,
cùng chiều hay ngược chiều vẫn chưa rõ ràng. Từ những vấn đề trên, bài viết với đề
tài: “Tác động của biến động giá dầu đối với các khoản nợ xấu của ngân hàng: bằng
chứng từ Việt Nam” được đưa ra nhằm giải quyết lỗ hổng nghiên cứu này.
1.2. Mục tiêu nghiên cứu
(a) Mục tiêu nghiên cứu
Mu ̣c tiêu chính của bài viết là xem xét những tác động của biến động giá dầu lên
các khoản nợ xấu của ngân hàng ta ̣i thực nghiê ̣m Việt Nam, từ đó nhằm giúp bổ
sung thêm vào khung lý thuyết những yếu tố ảnh hưởng đến các khoản nợ xấu của
ngân hàng.
(b) Câu hỏi nghiên cứu
Với những vấn đề được nêu trên và để làm rõ hơn cho mục tiêu nghiên cứu, bài viết
giải quyết ba câu hỏi quan trọng:
-

Những cú sốc giá dầu có ảnh hưởng đến các khoản nợ xấu của ngân hàng ở
Việt Nam hay không?


-

Nếu tồn tại mối quan hệ trên thì tác động là cùng chiều hay ngược chiều?


4

-

Có tác động bất cân xứng giữa những trường hợp giá dầ u tăng và giảm hay
không?

1.3. Phương pháp nghiên cứu
Để giải quyết các câu hỏi nghiên cứu này, chúng tôi sử dụng bộ dữ liệu bao gồm
một mẫu 24 ngân hàng thương mại ở Việt Nam giai đoạn 2006 – 2016 từ các báo
cáo kế toán tổng hợp. Bài viết xây dựng dựa trên các nghiên cứu mới nổi về liên kết
dầu – vĩ mô – tài chính và sử dụng hồi quy bảng động, kiểm soát trực tiếp vấn đề
nội sinh, phương sai thay đổ i và tự tương quan bằng cách sử dụng ước lượng GMM.
Các biến số kinh tế vĩ mô được sử dụng trong bài bao gồm tăng trưởng GDP thực,
tỷ lệ lạm phát, tín dụng trong nước và giao dịch. Ngoài ra, để đo lường lợi nhuận
giá dầu, bài nghiên cứu sử dụng dữ liệu giá dầu giao ngay và xác định 5 chỉ số đo
lường cho lợi nhuận giá dầu bao gồm Oil Return I, Oil Return II, Oil Return Up, Oil
Return Down, Oil Price. Chi tiế t cách đo lường đươ ̣c trin
̀ h bày ở chương 3. Công cu ̣
của bài nghiên cứu sử du ̣ng là Stata 13.
1.4. Ý nghĩa của đề tài
Bài viết đóng góp cho lý thuyết nghiên cứu ở một vài khía cạnh. Thứ nhất, bài
nghiên cứu kiểm tra làm thế nào những biến động giá dầu ảnh hưởng đến nợ xấu
của ngân hàng tại Việt Nam. Tác động của cú sốc giá dầu lên sự ổn định tài chính

của các ngân hàng đã không nhận được nhiều sự xem xét. Thực tế, rất ít nghiên cứu
đã xem xét tác động của sự thay đổi giá dầu đối với sự ổn định tài chính của các
ngân hàng. Thứ hai, bài viết kiểm tra tác động bất cân xứng giữa các cú sốc giá dầu
trong gia đoạn giá dầu tăng và giai đoạn giá dầu giảm đối với nợ xấu của ngân hàng.
Việc giảm giá dầu chưa chắc cảí thiện được nền kinh tế và do đó làm giảm nợ xấu
của các ngân hàng ở các nền kinh tế vừa xuất nhập khẩu dầu ròng và cùng một cách
mà việc tăng giá chưa chắc có thể làm suy giảm nền kinh tế và tăng nợ xấu của
ngân hàng.
Về thực tiễn, sự ổn định tài chính của các ngân hàng là mối quan tâm lớn cho các
nhà hoạch định chính sách, bởi vì ngành ngân hàng đóng một vai trò quan trọng


5

trong nền kinh tế hiện nay và sự ổn định của ngành ngân hàng là tác nhân quan
trọng của tăng trưởng kinh tế. Một khía cạnh sức khỏe của ngân hàng là dựa trên
hiệu quả của nó và chất lượng của bất kỳ tài sản nào mà ngân hàng có. Mối đe dọa
lớn đối với chất lượng danh mục tài sản là sự gia tăng trong nợ xấu. Do đó, bằng
cách kiểm tra mối quan hệ giữa giá dầu và nợ xấu, bài viết cũng nâng cao kiến thức
về sự ổn định tài chính của hệ thống ngân hàng và cho thấy lỗ hổng tiềm năng của
chúng trước những cú sốc từ bên ngoài, cụ thể là giá dầu thế giới.
Bài nghiên cứu cũng nhấn mạnh đến sự đa dạng hóa kinh tế, để giảm nhẹ tác động
của biến động giá dầu. Ví dụ, bằng cách tự do hóa lĩnh vực tài chính và khuyến
khích nhiều dòng vốn quốc tế, Việt Nam sẽ thu hút đầu tư nước ngoài và tư nhân
lớn hơn, cung cấp nhiều sự lựa chọn cho chi tiêu chính phủ. Điều này làm cho hiệu
quả khu vực doanh nghiệp ít bị ảnh hưởng, giúp các ngân hàng mau phục hồi do sự
gia tăng giá dầu thế giới. Thực tế, bằng cách thu hút nhiều nguồn tài trợ từ nước
ngoài, các doanh nghiệp trong nước có thể đa dạng hóa các nguồn vốn của mình, từ
đó sẽ làm cho ngành ngân hàng linh hoạt hơn với sự biến động của giá dầu.
1.5. Bố cục luận văn

Bài viết được tổ chức như sau:
Chương 1: Giới thiệu khái quát về bài nghiên cứu
Chương 2: Tổng quan các nghiên cứu trước đây và phát triển giả thuyết
Chương 3: Mô hình nghiên cứu - giới thiệu các thước đo khác nhau của cú sốc giá
dầu và dữ liệu – Phương pháp ước lượng kiểm định
Chương 4: Kết quả nghiên cứu
Chương 5: Kết Luận


6

II. TỔNG QUAN CÁC NGHIÊN CỨU TRƯỚC ĐÂY VÀ PHÁT TRIỂN GIẢ
THUYẾT
2.1. Cơ sở lý thuyết và thực trạng
2.1.1. Cơ sở lý luận khoa học về nợ xấu và thực trạng tại nền kinh tế Việt Nam
2.1.1.1. Nợ xấu (NPL)
Khi các ngân hàng nhận được khoản thanh toán đúng hạn, các khoản cho vay sẽ có
hiệu quả và các ngân hàng sẽ có lợi nhuận. Trên thực tế, có bằng chứng thực
nghiệm cho thấy rằng cho vay là trọng tâm của ngành ngân hàng vì tiền lãi mà ngân
hàng tính vào tiền vay là nguồn thu chính của họ. Do các khoản vay và các khoản
tạm ứng là những hoạt động mang lại nhiều lợi nhuận nhất cho các ngân hàng
thương mại, các ngân hàng sẵn sàng cho vay nhiều hơn mặc dù thực tế đây là công
cuộc làm ăn đầy mạo hiểm (Karim, et al., 2010). Chắc chắn rất nhiều lần các ngân
hàng đã không nhận được lợi nhuận đối với các khoản vay mà họ phát hành vì vỡ
nợ. Các khoản vay này không được thanh toán trong thời gian quy định được coi là
không có hiệu quả và gây nguy hiểm cho ngân hàng vì chúng có thể gây ra sự sụp
đổ của ngân hàng, ngành ngân hàng và toàn bộ nền kinh tế. Theo Fatemi và Fooladi
(2006), khoản nợ xấu là các khoản cho vay, không thu hồi được trong thời hạn do
luật pháp của quốc gia quy định hoặc do ngân hàng và bên đi vay đồng ý tại thời
điểm quy định. Như vậy, khả năng lấy được tiền lời từ các khoản vay như vậy là

không chắc chắn. Các khoản nợ xấu cũng được coi là các khoản vay có thời gian trả
nợ hơn 90 ngày và còn được biết đến như là tài sản không hoạt động theo ngôn ngữ
của ngân hàng (Richard, 2011). Vấn đề nợ xấu đã được chú ý nhiều ở nhiều quốc
gia trên thế giới, đặc biệt là kể từ cuộc khủng hoảng tài chính 2007-2008 vì nó được
cho là nguyên nhân chính gây thất bại của hầu hết các ngân hàng trong cuộc khủng
hoảng.
Không có một tiêu chuẩn toàn cầu nào để xác định NPL ở hầu hết tất cả các quốc
gia vì thừa nhận rằng có thể những tiêu chuẩn đó phù hợp ở một quốc gia này
nhưng lại không phù hợp ở một quốc gia khác. Sự khác biệt tồn tại dưới dạng hệ


7

thống phân loại, phạm vi và nội dung. Tuy nhiên, có một số ý kiến chung về vấn đề
này. Một khoản nợ xấu là khoản vay dừng thanh toán hoặc trong tình trạng gần như
vỡ nợ. “Một khoản vay không còn hiệu quả khi việc thanh toán lãi và/hoặc nợ gốc
quá hạn từ 90 ngày trở lên, hoặc các khoản thanh toán lãi suất từ 90 ngày trở lên đã
được tái cấp vốn, tái cơ cấu hoặc trì hoãn theo thoả thuận hoặc thanh toán chậm hơn
90 ngày, nhưng có những lý do chính đáng khác để không chắc việc thanh toán sẽ
được thực hiện đầy đủ” (IMF, 2009). Sau khi khoản vay được phân loại là không
còn hiệu quả, khoản vay này (và, có thể là các khoản vay thay thế) vẫn giữ phân
loại như vậy cho đến khi xóa sổ hoặc lãi suất được thanh toán và/hoặc nợ gốc được
nhận. Định nghĩa của Ngân hàng thế giới về vấn đề nợ xấu như sau: “nợ xấu của
ngân hàng trên tổng nợ là giá trị các khoản nợ trên tổng giá trị danh mục cho vay
(bao gồm các khoản nợ xấu trước khi khấu trừ khoản dự phòng cụ thể). Số tiền vay
được ghi nhận không hiệu quả là tổng giá trị của khoản vay được ghi nhận trên bảng
cân đối kế toán, không chỉ số tiền nợ quá hạn.”
Theo quy định của Ngân hàng nhà nước Việt Nam, nợ xấu như sau: “"Nợ xấu"
(NPL) là các khoản nợ thuộc các nhóm 3, 4 và 5 quy định tại Điều 6 hoặc Điều 7
Quy định này. Tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ là tỷ lệ để đánh giá chất lượng tín dụng

của tổ chức tín dụng. Theo điều 6, nhóm 3 (nợ dưới tiêu chuẩn) bao gồm: các khoản
nợ quá hạn từ 90 đến 180 ngày, các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn
dưới 90 ngày theo thời hạn đã cơ cấu lại; Nhóm 4 (nợ nghi ngờ) bao gồm: các
khoản nợ quá hạn từ 181 đến 360 ngày, các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá
hạn từ 90 ngày đến 180 ngày theo thời hạn đã cơ cấu lại; Nhóm 5 (nợ có khả năng
mất vốn) bao gồm: các khoản nợ quá hạn trên 360 ngày, các khoản nợ khoanh chờ
Chính phủ xử lý, các khoản nợ đã cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn trên 180 ngày
theo thời hạn đã được cơ cấu lại. Theo điều 7, nhóm 3 (Nợ dưới tiêu chuẩn) bao
gồm: các khoản nợ được tổ chức tín dụng đánh giá là không có khả năng thu hồi nợ
gốc và lãi khi đến hạn, các khoản nợ này được tổ chức tín dụng đánh giá là có khả
năng tổn thất một phần nợ gốc và lãi; Nhóm 4 (Nợ nghi ngờ) bao gồm: các khoản
nợ được tổ chức tín dụng đánh giá là khả năng tổn thất cao; Nhóm 5 (Nợ có khả


8

năng mất vốn) bao gồm: các khoản nợ được tổ chức tín dụng đánh giá là không còn
khả năng thu hồi, mất vốn.” (Theo Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN ngày
22/4/2005 của Thống đốc ngân hàng nhà nước Việt Nam). Nói chung, nợ xấu là các
khoản cho vay không thanh toán gốc và lãi trong một khoảng thời gian dài trái với
các điều khoản và điều kiện của hợp đồng vay. Bất kỳ khoản vay nào không cập
nhập về thanh toán gốc và lãi trái với các điều khoản của hợp đồng vay nợ là nợ
xấu. Nợ xấu có thể được coi như là đầu ra không mong muốn hoặc chi phí của sự
cho vay mà nó làm giảm hiệu quả hoạt động của ngân hàng. Hennie và Sonja (2009)
xác định NPLs là tài sản không tạo ra thu nhập. Việc không trả nợ vay là điều
không thể tránh khỏi trong bất kỳ khoản cho vay nào. Những gì các ngân hàng làm
là giảm thiểu nguy cơ vỡ nợ. Như vậy, tổng khối lượng nợ xấu đo lường chất lượng
tài sản ngân hàng (Tseganesh, 2012).
2.1.1.2. Nguyên nhân gây ra nợ xấu
Trên thực tế, các khoản cho vay không hiệu quả là rất quan trọng đối với ngân hàng

vì chúng có thể được sử dụng để xác định sự ổn định của ngành ngân hàng cũng
như là lợi nhuận của ngân hàng. Điều này là do các khoản vay nợ xấu có thể làm
giảm nguồn vốn của ngân hàng khiến ngân hàng không thể tăng trưởng hoặc phát
triển kinh doanh và kết quả là dẫn đến phá sản hay thanh lý ngân hàng. Các khoản
cho vay không hiệu quả là những rủi ro tiềm ẩn đối với ngành ngân hàng và nền
kinh tế bởi chúng có khả năng làm giảm thanh khoản của ngân hàng, gây ra sự mở
rộng tín dụng và làm sụt giảm trong khu vực sản xuất. Hơn nữa, các ngân hàng có
nợ xấu cao trong danh mục đầu tư chắc chắn sẽ nhận thấy sự sụt giảm trong thu
nhập của họ.
Theo các nhà kinh tế, các chuyên gia, các cơ quan hoạch định quản lý, nguyên nhân
xảy ra vấn đề nợ xấu của các ngân hàng có thể bắt nguồn từ rất nhiều khía cạnh như
môi trường kinh tế nội tại và đối ngoại có nhiều bất lợi; sự tăng trưởng chậm chạp
của nền kinh tế; sự thay đổi thường xuyên trong chính sách của chính phủ, lỗ hổng
nằm trong các quy định, các chính sách, các cơ chế, công tác giám sát, quản lý,
thanh tra; sự cạnh tranh khốc liệt giữa các ngân hàng đã làm cho chất lượng tài sản


9

của họ dễ bị tổn thương; sự yếu kém trong vấn đề quản lý, năng lực của người lãnh
đạo, tư cách chuyên môn và đạo đức làm việc bị suy giảm trong cán bộ nhân viên
ngân hàng; về vấn đề trung thực từ phía khách hàng;.…Nói chung, thay vì tiếp tục
xem xét về những căn nguyên mà được thảo luận rất nhiều và khó bàn cãi này thì
bài viết sẽ gộp chung vào 2 luận điểm chính liên quan đến các biến số trong mô
hình nghiên cứu và nhìn vào các nguyên nhân này một cách chi tiết.
a) Các yếu tố kinh tế vĩ mô là một trong những nguyên ngân gây ra các khoản nợ
xấu cho các ngân hàng.
“Có một sự thật là nền kinh tế Việt Nam luôn luôn nằm trong trạng thái bất ổn”
(Thống đốc NHNN: Có cơ sở để đưa ra 3 gói bơm tiền, tháng 2/2013). Những thay
đổi thường xuyên trong chính sách của chính phủ mà cuối cùng làm cho doanh

nghiệp trở nên khó khăn vì các quy trình chính sách của chính phủ không minh bạch
nhiều như được công bố bởi khu vực doanh nghiệp. Theo Trịnh Quang Anh (2013),
nguyên do của vấn đề nợ xấu trong khu vực ngân hàng hiện nay là sự bất cân đối và
yếu kém nghiêm trọng nằm sâu bên trong nền kinh tế do bởi sự bất cập trong quản
lý và năng lực công tác điều hành nền kinh tế của Chính Phủ. Lạm phát dâng cao
kéo theo sự mất ổn định trong tỷ giá, đặc biệt là lãi suất, tiếp theo làm hoạt động của
ngành ngân hàng bị rối loạn, mất niềm tin. Trên thực tế, một số nghiên cứu được
tiến hành tại các nền kinh tế của các nước phát triển và đang phát triển chỉ ra rằng
các yếu tố kinh tế vĩ mô ảnh hưởng đến rủi ro tín dụng. Một số yếu tố đã được xác
định là đặc biệt quan trọng trong việc xác định khoản nợ xấu. Trong đó bao gồm
suy thoái kinh tế (lạm phát), tỷ giá hối đoái (giao dịch xuất nhập khẩu), tổng sản
phẩm quốc nội cũng như tăng trưởng tín dụng
Có một liên kết phức tạp giữa sự ổn định của ngân hàng và chu kỳ kinh doanh. Trên
thực tế, sự ổn định kinh tế vĩ mô đã được tìm thấy liên quan đến sự ổn định ngân
hàng (Richard, 2011). Theo nghĩa này, sự mở rộng kinh tế được thể hiện bằng mức
nợ xấu thấp của các ngân hàng thương mại. Khi nền kinh tế đang mở rộng, cả người
tiêu dùng và các doanh nghiệp kinh doanh đều có thu nhập và doanh thu cao hơn và
do đó có nhiều khả năng chi trả hoặc bù đắp các khoản nợ đang chờ xử lý. Vì vậy số


10

lượng hoặc mức nợ xấu của ngân hàng được sụt giảm. Babouček và Jančar (2005)
nhận thấy rằng trong giai đoạn mở rộng hoặc thời kỳ bùng nổ của nền kinh tế, các
ngân hàng có thể mở rộng tín dụng cho những người vay nợ chất lượng thấp mà
không cần nhiều sự phòng bị, giới hạn. Beck (2006) cho rằng hoạt động kinh tế
không chỉ ở một quốc gia mà cả toàn cầu, có ảnh hưởng đến mức nợ xấu. Do đó, sự
sụt giảm trong nền kinh tế toàn cầu vẫn là một rủi ro cho các ngân hàng dẫn đến nợ
xấu. Bằng chứng của việc suy thoái kinh tế liên quan đến nợ xấu cao hơn đã trở nên
phổ biến khi tỷ lệ thất nghiệp gia tăng và người đi vay gặp khó khăn trong việc trả

nợ. Một số nghiên cứu kết hợp trực tiếp tình trạng thất nghiệp trong mô hình của họ
và cũng tìm ra mối quan hệ tích cực mạnh giữa thất nghiệp và nợ xấu, vì tỷ lệ thất
nghiệp cao làm giảm khả năng trả nợ của khách hàng vay (Klein, 2013, Nkusu,
2011). Tỷ lệ lạm phát cao hơn do suy thoái kinh tế dẫn đến tình trạng bấp bênh và
không thể đoán trước được lợi nhuận kinh doanh (Karim, et al., 2010). Điều này có
liên quan đến sự gia tăng chi phí hàng hoá và dịch vụ, mà tạo nên chỉ số giá, ảnh
hưởng một cách tích cực đến sự sẵn lòng của người dân đến việc chấp nhận rủi ro
và rất có khả năng không trả được nợ (Beck, và cộng sự 2013).
Theo Beck và các cộng sự (2013), GDP thực là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng
đến tỷ lệ NPL. Các kết quả thực nghiệm đã chỉ ra rằng giữa GDP thực và nợ xấu đã
có một mối tương quan tích cực có ý nghĩa (Murumba, 2013). Bessis (2006) chỉ ra
rằng các nghiên cứu được tiến hành tại các ngân hàng Tây Ban Nha cho thấy rằng
tăng trưởng GDP, các điều khoản vay và lãi suất cao là yếu tố xác định nợ xấu. Do
đó, các nghiên cứu cho thấy rằng khi nền kinh tế u ám, tổng sản phẩm quốc nội
(GDP) đi xuống, và kết quả là mức nợ xấu biến động tăng lên do người đi vay
nhiều khả năng không giữ được khoản cho vay mà họ đã được cung cấp (Babouček
và Jančar, 2005). Sự tăng trưởng kinh tế trái với sự gia tăng trong căng thẳng về tài
chính vì nó thừa nhận sự tăng lên doanh thu và thu nhập. Do đó, sự gia tăng trong
tăng trưởng GDP thực được thực hiện khi mức độ việc làm cũng tăng, kết quả là
giảm nợ xấu (Murumba, 2013). Điều này là bởi vì tăng trưởng GDP thực sẽ tăng
cường khả năng trả nợ của khách hàng dẫn đến giảm mức nợ xấu. Do đó, sự tăng


11

trưởng âm trong GDP thực do suy giảm kinh tế rõ ràng đã làm gia tăng nợ xấu
(Beck, và cộng sự, 2013). Tuy nhiên, mối liên quan giữa GDP thực và các khoản nợ
xấu vẫn là chủ đề của cuộc tranh luận khi cho rằng có những phát hiện cho thấy mối
liên quan này không có ý nghĩa hay không chắc chắn. Ví dụ Murumba (2013) quan
sát rằng trong một nghiên cứu của Khemja và Pasha (2009) về ngành ngân hàng

Guyana từ năm 1994 đến năm 2004, người ta thấy rằng giữa GDP thực và nợ xấu
chỉ tổn tại mối quan hệ chớp nhoáng. Những phát hiện này thực sự đáng báo động
trong bối cảnh các lập luận ủng hộ một mối quan hệ giữa GDP thực và nợ xấu. Vấn
đề xuất hiện khi nếu các bằng chứng của Khemja và Pasha được coi là xác thực và
được giải thích thì điều đó ngụ ý rằng hiệu quả kinh tế mạnh sẽ làm giảm các khoản
nợ xấu (Murumba, 2013). Mặt khác, sự sụt giảm của GDP thực dẫn đến sự gia tăng
mức nợ xấu của các ngân hàng.
Giai đoạn tăng trưởng kinh tế đôi khi đi kèm với tăng trưởng tín dụng mạnh mẽ và
có thể nhiều xu hướng dẫn đến rủi ro mang lại tăng. Tăng trưởng tín dụng cao hơn
làm gia tăng rủi ro tín dụng, vì nó thường liên quan đến các tiêu chuẩn bảo lãnh cho
vay nới lỏng, dẫn đến nợ xấu cao hơn (Klein, 2013). Và sự mất cân bằng được tạo
ra trong những thời kỳ đó chỉ trở nên rõ ràng khi tăng trưởng kinh tế chậm lại và
tăng thiệt hại về khoản vay. Salas và Saurina (2002) khám phá mối liên hệ giữa hệ
thống ngân hàng và chu kỳ kinh doanh. Trong giai đoạn tốt, cả người đi vay và
người cho vay tự tin về dự án đầu tư và khả năng thanh toán, bù đắp khoản vay và
các khoản phí và lãi suất tương ứng. Sự lạc quan quá mức của các ngân hàng về
triển vọng trong tương lai của người đi vay, cùng với bảng cân đối tài chính mạnh
mẽ và cạnh tranh ngày càng tăng đã mang lại các chính sách tín dụng tự do hơn với
các tiêu chuẩn tín dụng thấp hơn. Vì đóng vai trò cung cấp các chức năng trung gian
cho nền kinh tế thực, các ngân hàng được tiếp xúc với các điều kiện chu kỳ kinh
doanh để xác định toàn diện sức khỏe của nền kinh tế thực. Khi điều kiện kinh tế
xấu đi trong thời kỳ suy thoái kinh tế, rủi ro của trung gian có xu hướng tăng lên.
Hiệu quả trong ngành ngân hàng và tăng trưởng hoạt động kinh tế cao theo cùng


12

một chu kì là tín hiệu của một nền kinh tế quá nóng và do đó sự suy giảm trong hoạt
động kinh tế sẽ thúc đẩy sự tăng trưởng của tỷ lệ nợ xấu (Festic et al., 2011).
Nguyên nhân và giải quyết các khoản nợ xấu cũng đã được nghiên cứu kỹ bởi

Gorter và Bloem (2001). Họ đồng ý rằng “các khoản cho vay xấu” có thể tăng đáng
kể do những thay đổi đột ngột về lãi suất. Một nghiên cứu do Espinoza và Prasad
tiến hành năm 2010 đã tập trung vào các yếu tố kinh tế vĩ mô và ngân hàng cụ thể
ảnh hưởng đến các khoản vay không hiệu quả và tác động của chúng đến hệ thống
ngân hàng GCC. Sau khi phân tích toàn diện, họ phát hiện ra rằng lãi suất cao sẽ
tăng các khoản cho vay không hiệu quả nhưng mối quan hệ này không có ý nghĩa
thống kê. Salas và Saurina (2002) tìm thấy mối quan hệ tiêu cực giữa quy mô ngân
hàng và nợ xấu và cho rằng quy mô lớn hơn cho phép nhiều cơ hội đa dạng hơn. Hu
và cộng sự (2004) báo cáo những bằng chứng thực nghiệm tương tự.
b) Nợ xấu gắn liền với đặc trưng ngân hàng
Các yếu tố kinh tế vĩ mô là những nguyên nhân bên ngoài gây ảnh hưởng đến nợ
xấu của ngân hàng. Richard (2011) nhận xét rằng có những yếu tố từ bên trong tổ
chức của ngân hàng là nguyên nhân ảnh hưởng đến mức nợ xấu. Những yếu tố bên
trong này liên quan đến cấu trúc và chính sách nội bộ của các ngân hàng cụ thể.
Phần lớn NPL có thể quy cho là liên quan đến chính trị trong vấn đề điều khoản tín
dụng, cơ cấu sở hữu ngân hàng và cho vay nội bộ. Cho vay không trung thực, đặc
biệt ở các ngân hàng thuộc sở hữu nhà nước và những tác động từ cá nhân bởi
những người đi vay không có đạo đức là vấn đề của việc quản trị kém của các ngân
hàng và cơ quan quản lý. Các điều khoản về tín dụng nên được nghiêm ngặt nhất để
có thể đảm bảo rằng cơ hội vỡ nợ của khách hàng vay được giảm thiểu nhiều càng
tốt. Theo Lu và các cộng sự (2011), khi các ngân hàng thực hiện các điều khoản tín
dụng nghiêm ngặt và tuân theo chúng, thì cơ hội không trả được nợ vay sẽ giảm
xuống rất lớn. Điều khoản tín dụng là điều kiện mà các ngân hàng bắt buộc liên
quan đến tổng số tiền tín dụng hàng tháng, thời gian trả nợ tối đa và tỷ lệ trả nợ
muộn. Điều quan trọng đối với các ngân hàng là không khoan hồng hoặc từ bi khi
thiết lập và tuân thủ các điều khoản tín dụng. Các nghiên cứu chỉ ra rằng khi các


13


ngân hàng và người quản lý của họ quá khoan hồng trong việc thiết lập các điều
khoản tín dụng, họ tạo điều kiện thuận lợi cho người đi vay không trả được nợ.
Thực tế, khi các khoản tín dụng được nới quá lỏng, khuynh hướng khách hàng vay
vốn cao hơn nhiều và điều này có thể dẫn tới việc cho vay quá mức vốn là tiền đề
cho nợ xấu (Khemraj và Pasha, 2009).
Các nghiên cứu chỉ ra rằng sở hữu của các ngân hàng quyết định mức độ cho vay
đối với các cá nhân và công ty. Do đó, các ngân hàng nhà nước khoan hồng trong
việc cung cấp các khoản vay cho các cá nhân, các nhóm và các ngân hàng vì các
ngân hàng phải tạo điều kiện thuận lợi cho các kế hoạch phát triển của chính phủ
(Richard, 2013). Tuy nhiên, các ngân hàng tư nhân, được điều khiển bởi lợi nhuận
chứ không phải chương trình phát triển quốc gia, có xu hướng cung cấp các khoản
tín dụng khá nghiêm ngặt cho người đi vay. Về cơ bản, mức nợ xấu đối với các
khoản vay được cấp bởi các khoản tín dụng khoan hồng lớn hơn các khoản cho vay
theo các điều khoản tín dụng chặt chẽ hơn. Micco và cộng sự (2004), phân tích
50.000 tổ chức tài chính với các loại hình sở hữu khác nhau trên 119 quốc gia. Họ
kết luận rằng các khoản nợ xấu có xu hướng cao hơn ở các ngân hàng sở hữu nhà
nước so với các nhóm ngân hàng khác. Gần đây hơn là Fawad Ahmad (2013), đã
phân tích mối quan hệ giữa nợ xấu và cơ cấu sở hữu của các ngân hàng tại Pakistan.
Nghiên cứu cho thấy tính hợp lệ của quan điểm truyền thống khi các ngân hàng
thuộc sở hữu nhà nước làm giảm hiệu quả hoạt động và tăng cường rủi ro cho các
ngân hàng (tăng NPL) nhưng lại bác bỏ quan điểm cho rằng các ngân hàng thuộc sở
hữu tư nhân và ngân hàng nước ngoài tăng cường hiệu quả hoạt động và giảm rủi ro
ngân hàng.
Có một quy tắc ứng xử được chấp nhận trong ngành ngân hàng ở hầu hết các quốc
gia trên thế giới rằng khi các ngân hàng cho khách hàng vay tiền của mình, ngân
hàng sẽ cung cấp cho khách hàng các điều khoản và điều kiện tương tự như khoản
vay của khách hàng khác. Do đó, các điều khoản tương tự bao gồm lãi suất, tiêu
chuẩn đánh giá tín dụng và thời hạn trả nợ áp dụng cho người vay khác cũng nên áp
dụng cho nhân viên của ngân hàng (Messai và Jouini, 2013). Những khoản vay này



14

xuất phát từ áp lực chính trị, nỗ lực của ban quản lý để làm hài lòng nhân viên ngân
hàng, quyền sở hữu ngân hàng hay là do vấn đề về thiếu vốn. Các nhà quản lý
thường phản đối các quy định và đưa ra các điều khoản tín dụng tốt hơn cho nhân
viên của họ. Cho vay nội bộ có tiềm năng gây ra sự sụp đổ của ngân hàng (Nkusu,
2011). Do đó, cho vay nội bộ đã được xác định là một trong những nguyên nhân
gây ra mức nợ xấu cho nhiều ngân hàng (Brownbridge, 2007). Richard (2011) nhận
xét rằng các khoản cho vay nội bộ là một trong những lý do chính cho sự thất bại
của nhiều ngân hàng. Lý do chính tại sao các khoản vay nội bộ thất bại là bởi ngoài
các khoản vay được cấp theo các điều khoản khác với các khoản cho vay ở bên
ngoài; các khoản vay từ nội bộ cũng được đầu tư vào các dự án đầu cơ có khuynh
hướng thất bại cao như phát triển bất động sản (Messai và Jouini, 2013). Bên cạnh
đó, các khoản vay thường được đầu tư vào các dự án mở rộng lớn nên ít có khả
năng tạo ra lợi nhuận trong ngắn hạn.
Berger và DeYoung (1997), người nghiên cứu mối liên hệ giữa nợ xấu, hiệu quả
trong chi phí và vốn hóa ở các ngân hàng thương mại Mỹ trong giai đoạn 19851994, đã tìm ra mối quan hệ nhân quả hai chiều giữa hiệu quả về chi phí và nợ xấu.
Họ giải thích nguyên nhân gây ra nợ xấu từ hiệu quả về chi phí thông qua giả thuyết
"quản lý tồi". Cụ thể, giả thuyết này cho rằng hiệu quả về chi phí thấp là một tín
hiệu của việc quản lý kém, ngụ ý rằng do việc bảo lãnh, giám sát và kiểm soát nợ
kém, các khoản nợ xấu có thể sẽ tăng lên. Podpiera và Weil (2008), người đã phân
tích các ngân hàng Séc từ năm 1994-2005, và Louzis, Vouldis và Metaxas (2010),
những người đã tập trung vào mối quan hệ giữa chất lượng khoản vay và hiệu quả
chi phí giữa các ngân hàng tiết kiệm Châu Âu từ năm 1990-1998 và cũng kiểm tra
các yếu tố quyết định NPL trong ngành ngân hàng Hy Lạp, đã tìm thấy sự ủng hộ
cho giả thuyết này. Ngoài ra, tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản thấp cũng là một
trong những nguyên gây gây ảnh hưởng đến NPL. Tác động của nó thông qua giả
thuyết “rủi ro đạo đức”, được Keeton và Morris (1987) thảo luận, cho rằng các ngân
hàng vốn tương đối thấp dẫn đến nguy cơ về đạo đức do có nhiều động cơ tham gia

vào các hành vi cho vay rủi ro làm tăng tỷ lệ các khoản nợ xấu.


15

Lãi suất là tiền phí mà người đi vay thanh toán khi họ vay tiền từ ngân hàng hoặc
một tổ chức tài chính. Mặc dù tiêu chuẩn được áp dụng trong nền kinh tế tự do hóa
là để cho lực thị trường điều chỉnh lãi suất, nhưng các ngân hàng đã can thiệp để
đưa ra mức lãi suất bằng việc dẫn chứng một số lý do (Onsarigo, và các cộng sự,
2013). Theo Messai và Jouini (2013), lãi suất ảnh hưởng đến mức nợ xấu đặc biệt
trong trường hợp lãi suất thả nổi. Lãi suất cao có nghĩa là khách hàng sẽ phải trả
nhiều hơn số tiền họ vay cũng như các ngân hàng thu được nhiều tiền hơn từ số tiền
mà họ cho vay khách hàng. Lãi suất tăng gây khó khăn cho người đi vay trong việc
đảm bảo khoản vay của họ, kết quả là mức nợ xấu gia tăng. Chẳng hạn, việc tăng lãi
suất cao ở Kenya trước cuộc bầu cử năm 2007 và 2013 đã được cho là nguyên nhân
gây ra sự gia tăng các khoản nợ xấu trong giai đoạn này vì người đi vay khó có thể
đảm bảo các khoản vay (Onsarigo, và các cộng sự ., 2013). Nhiều nghiên cứu cho
thấy mức lãi suất mà các ngân hàng tính cho các khoản vay là nguyên nhân gây nên
sự xuất hiện NPLs. Các ngân hàng đặt lãi suất cao hơn cho các khoản vay mà họ
cho là có khả năng gặp phải nợ xấu cao so với các khoản cho vay có mức lãi suất
thấp hơn. Theo Beck và các cộng sự (2013), tăng lãi suất cho vay có mối quan hệ
trực tiếp với sự gia tăng mức nợ xấu.
Theo Kroszner (2002) các khoản nợ xấu cũng gắn liền với khủng hoảng ngân hàng.
Sultana (2002) cũng liên kết cuộc khủng hoảng Tài chính Nhật Bản với các khoản
nợ xấu. Theo Sultana (2002), ngân hàng Nhật Bản vẫn chịu ảnh hưởng nặng nề của
hàng nghìn tỷ yên nợ xấu do sự sụp đổ của giá tài sản cách đây một thập kỷ trong hệ
thống tài chính của đất nước này. Mối quan tâm gần đây nhất là trong năm 2016,
việc khu vực ngân hàng ở Châu Âu có nguy cơ bên bờ vực của khủng hoảng khi
ngân hàng Deutsche Bank bị dính án phạt của chính phủ Mỹ do cơ quan này áp đặt
là có liên quan đến vụ cho vay thế chấp dưới chuẩn trong lĩnh vực bất động sản tại

Mỹ, nguồn gốc gây nên cuộc khủng hoảng toàn cầu năm 2008. Kết quả là ngân
hàng trung ương Châu Âu (ECB) phải xem xét trong vấn đề tái cấp vốn vì hiện tại
các ngân hàng đang bên bờ thiếu hụt vốn trầm trọng và giúp họ chống đỡ với tình
trạng lượng nợ xấu lớn mà không được bảo lãnh. Theo ngân hàng trung ương Việt


16

Nam, trong lúc các ngân hàng phải gồng mình nỗ lực tăng trích lập dự phòng và xử
lý vấn đề nợ xấu thì lợi nhuận trước thuế của ngành ngân hàng trong năm 2013 đã
giảm khoảng 1% là điều không quá ngạc nhiên. NPL có thể được xem là đầu ra
hoặc chi phí không mong muốn đối với ngân hàng cho vay, làm giảm hiệu quả của
ngân hàng (Chang, 1999). Rủi ro NPL chủ yếu phát sinh khi môi trường kinh tế đối
ngoại trở nên tồi tệ hơn như suy thoái kinh tế.
2.1.1.3. Thực trạng nợ xấu tại thị trường Việt Nam
Theo P.Samuelson, nhà kinh tế học nổi tiếng người Mỹ, thì: "Cạnh tranh là sự kình
địch giữa các doanh nghiệp với nhau để giành khách hàng, thị trường". Ngân hàng
thương mại cũng giống như một doanh nghiệp hoạt động vì mục tiêu tối đa hóa lợi
nhuận, có vị thế trên thị trường và thị phần kinh doanh. Khác với những doanh
nghiệp hoạt động bình thường, các tổ chức tài chính nói chung và ngành ngân hàng
nói riêng là một ngành đặc thù với sản phẩm cung cấp cho thị trường là những sản
phẩm không tồn tại theo dạng vật chất mà tồn tại một cách vô hình. Ngày nay, với
sự phát triển của công nghệ - khoa học kỹ thuật, các sản phẩm vô hình được tạo ra
ngày càng đa dạng và phong phú, giúp cho người tiêu dùng dễ dàng hơn trong việc
lựa chọn sản phẩm phù hợp với lợi ích của mình và đặt các ngân hàng trước áp lực
phải luôn luôn làm mới sản phẩm để không bị mất thị phần trong nền kinh tế cạnh
tranh ngày một gay gắt. Sự cạnh tranh được thể hiện thông qua cạnh tranh về giá cả
(các mức phí thường niên áp dụng đối với các sản phẩm, lãi suất), cạnh tranh về
kênh phân phối (mạng lưới các chi nhánh, ngân hàng điện tử), cạnh tranh về đa
dạng hóa các sản phẩm dịch vụ cung ứng (đa dạng loại hình dịch vụ tài chính, tạo

sự riêng biệt, đặc trưng, không ngừng sáng tạo đổi mới). Hiện tại, sự cạnh tranh
không còn chỉ trong nội bộ ngành. Sự phát triển của các tổ chức tài chính phi ngân
hàng gần đây đã tạo nên áp lực ngày một gia tăng cho các ngân hàng thương mại.
Chính vì thế, để giữ thị phần và giữ chân khách hàng, các ngân hàng đã không
ngừng giảm tiêu chuẩn tín dụng của mình và kết quả là làm nợ xấu gia tăng.
Có rất nhiều cách tính tỷ lệ nợ xấu của ngành ngân hàng Việt Nam dựa trên những
tiêu chí khác nhau về quy định trong việc phân loại nợ, bao gồm các tính toán của


17

Ngân hàng nhà nước, của Cơ quan thanh tra và giám sát, ước tính của tổ chức xếp
hạng tín nhiệm quốc tế Moody’s, của Quỹ tiền tệ và Ngân hàng Thế Giới,…và do
đó sẽ có sự chênh lệch về số liệu. Ví dụ vào 9/2012, tỷ lệ nợ xấu được Ngân hàng
Nhà nước công bố là 4.93%, trong khi báo cáo của Cơ quan thanh tra và giám sát là
17.43%, Ngân hàng Thế Giới cung cấp với con số 12%. Tuy nhiên, các ước tính
trên đây chỉ mang tính chất tham khảo và theo khẳng định của Ngân hàng nhà nước,
từ cuối năm 2014 số liệu đã không còn chênh lệch nhiều. Bài viết sẽ sử dụng số liệu
do Ngân hàng nhà nước cung cấp để phân tích thực trạng nợ xấu của Việt Nam.
Trong hơn 20 năm xây dựng đổi mới và phát triển, bắt đầu từ những thay đổi trong
chính sách và luật từ những năm 2006 – 2010 với quá trình chuẩn bị tham gia vào
WTO, hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam đã mở rộng một cách nhanh chóng
và có nhiều sự thay đổi về mặc quy mô, số lượng, tổng tài sản, vốn, dư nợ tín dụng,
phù hợp với tình hình hiện tại và đóng góp rất nhiều cho nền kinh tế, đi đôi cùng
với sự phát triển của đất nước. Đến năm 2011, do bất ổn về vĩ mô trong nền kinh tế
Việt Nam xuất phát từ cuộc khủng hoảng suy thoái kinh tế toàn cầu làm cho các
ngân hàng thương mại gặp khó khăn về tài chính, buộc Ngân hàng nhà nước phải
tiến hành xác định, phân loại và đánh giá những ngân hàng thương mại yếu kém cần
cơ cấu lại theo các phương án như bị ép bán với giá 0 đồng cho nhà nước, tự
nguyện sáp nhập hay tự tái cơ cấu lại, điển hình như các ngân hàng Dầu khí, Tín

Nghĩa, Đệ Nhất, Phương Tây, SCB và Tiên Phong. Nợ xấu trong giai đoạn này
cũng có sự tăng giảm rõ rệt, cụ thể giảm trong năm 2007 và 2009 với tỷ lệ chỉ vỏn
vẹn theo thứ tự 1.5% và 1.9%, sau đó tăng liên tục và mạnh mẽ trong năm 2011
(với tỷ lệ 3.3%) và 2012 là 4.86%, tỷ lệ nợ cao nhất trong vòng 10 năm trở lại đây
(Hình 1). Sau đợt tăng mạnh này, nợ xấu đã giảm dần đến 2016. Nguyên nhân của
việc giảm này có thể là do hiệu quả mang lại trong lộ trình thực hiện tái cơ cấu
những ngân hàng yếu kém; ban hành các quyết định, các thông tư, văn bản liên
quan về thị trường mua và bán nợ; nền kinh tế Việt Nam dần ổn định sau cuộc
khủng hoảng;…


18

Hình 2.1 Tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ toàn hệ thống ngân hàng giai đoạn 2007 –
2016 (Nguồn: Ngân hàng nhà nước)
Trong năm 2011, đa số các Ngân hàng thương mại đều thể hiện nợ xấu tăng lên so
với 2010, ngoại trừ những ngân hàng Vietcombank, Gia Định và Dầu Khí và đỉnh
điểm năm 2012 với một vài ngân hàng có mức nợ xấu lên gần 9% (Hình 2). Theo
ngân hàng nhà nước đánh giá: “Nợ xấu có xu hướng tăng so với năm trước nhưng
vẫn trong tầm kiểm soát” (Nguồn: Ngân hàng Nhà nước, Báo cáo Thường niên
2011, trang 39). Theo Nguyễn Xuân Thành (2016), giai đoạn đóng băng của thị
trường bất động sản Việt Nam là nguyên nhân làm cho nợ xấu ngày càng gia tăng.
Trong năm 2011, giá bán căn hộ ở phân khúc trung cấp đến hạng sang giảm mạnh
kéo theo giá chứng khoán bình quân có trọng số của nhóm doanh nghiệp kinh doanh
bất động sản sụt giảm đến 45%.


19

Hình 2.2 So sánh tỷ lệ NPL của các Ngân hàng thương mại giai đoạn 2010 – 2011

và 2011 – 2012 (Nguồn: Báo cáo của Nguyễn Xuân Thành (2016), được tính toán
từ Báo Cáo Tài Chính của 37 Ngân Hàng trong 3 năm)
Nếu xem xét số liệu theo tháng, có một điều thú vị là đường biểu diễn của tỷ lệ nợ
xấu (Hình 2.3) có xu hướng lặp qua các năm, từ tháng 12/2011 – 2015, với hướng
đi tăng dần xuất phát từ những tháng đầu năm và kết thúc vào cuối tháng 12 là một
đợt giảm mạnh, như là ngụ ý rằng ngành ngân hàng muốn cho thị trường thấy bức
tranh toàn cảnh về nợ xấu trong năm bớt tệ hơn.
6.000
5.000
4.000
3.000
Tỷ lệ nợ xấu

2.000

1.000

Dec-15

Sep-15

Jun-15

Mar-15

Dec-14

Sep-14

Jun-14


Mar-14

Dec-13

Sep-13

Jun-13

Mar-13

Dec-12

Sep-12

Jun-12

Mar-12

Dec-11

0.000

Hình 2.3 Tỷ lệ nợ xấu trong tổng dư nợ tín dụng theo quý từ 2011 – 2015 (Nguồn:
Ngân hàng nhà nước Việt Nam)


×