Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

Sử dụng chất hóa học và thuốc BVTV trong sản xuất

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (341.17 KB, 28 trang )

Tiểu Luận Môn Môi Trường
1

MỤC LỤC
Đặt Vấn Đề.....................................................................................3
Chương I: Tổng Quan...................................................................6
1.

Giới thiệu về phân bón và thuốc bảo vệ thực vật.................6

1.1 Một số khái niệm cơ bản...........................................................6
1.2 Phân loại phân bón và thuốc BVTV..........................................7
1.2.1 Phân loại thuốc BVTV

7

1.2.2 Phân Loại Phân Bón

10

Chương II ẢNH HƯỞNG CỦA HOÁ CHẤT DÙNG TRONG
NÔNG NGHIỆP ĐẾN MÔI TRƯỜNG..........................................13
1. Ảnh hưởng của phân bón trong sản xuất nông nghiệp tới
môi trường......................................................................................13
1.1 Ảnh hưởng tới môi trường đất:

13

1.2 Ảnh hưởng đến môi trường nước:

14



1.3 Ảnh hưởng đến môi trường không khí

14

1.4 Ảnh hưởng đến con người 15

2. Ảnh hưởng của thuốc BVTV trong sản xuất nông nghiệp
tới môi trường................................................................................15
2.1 Đối với môi trường khí

16

2.2 Đối với môi trường đất

16

2.3 Đối với môi trường nước

16

2.4 Ảnh hưởng đến sức khỏe con người 16
2.5 Ảnh hưởng đến hê sinh thai 17

Chương III Hiện Trạng Sử Dụng Trong Nền Nông Nghiệp Ở
Việt Nam............................................................................................18
1.

Phân bón.................................................................................18


2.

Thuốc BVTV..........................................................................20

NGUYỄN TẤN TÀI
1711140495
TRẦN THỊ THAHH TÂM 1611142074

1


Tiểu Luận Môn Môi Trường
2

Chương IV Giải Pháp Và Kết Luận..........................................23
1.

Giải Pháp................................................................................23

1.1 Giải phap chung

23

1.2 Đối với phân bón

24

1.3 Đối với thuốc BVTV 24
Phương phap xử lý bao bì phân bón, thuốc BVTV


2.

24

Kết Luận.................................................................................25

NGUYỄN TẤN TÀI
1711140495
TRẦN THỊ THAHH TÂM 1611142074

2


Đặt Vấn Đề
Trong thời kỳ công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước, ngành sản xuất và
kinh doanh hoá chất phát triển rất mạnh, đặc biệt là hoá chất dùng trong nông
nghiệp. Hoá chất dùng trong nông nghiệp được sản xuất và sử dụng nhiều vì lợi
ích kinh tế song do việc sử dụng không đúng kỹ thuật, không đảm bảo an toàn
vệ sinh lao động đã gây nên những ảnh hưởng bất lợi đến môi trường và sức
khoẻ cộng đồng nhiều khu vực. Các vấn đề môi trường và sức khoẻ đã được
Đảng và Nhà nước ta đặt thành vấn đề hết sức cụ thể trên cơ sở nhiều dự luật và
nghị quyết. Hệ thống chính sách, thể chế đã từng bước được hoàn thiện, phục vụ
ngày càng có hiệu quả cho công tác bảo vệ sức khoẻ, cải thiện môi trường sống
của cộng đồng. Nhận thức về nâng cao sức khoẻ, bảo vệ môi trường sống trong
các cấp, các ngành và cộng đồng nông nghiệp ngày càng tiến bộ hơn.
Tuy nhiên môi trường sống đặc biệt là môi trường nông nghiệp, nông thôn
vẫn còn đang là một vấn đề bức xúc bởi rất nhiều nguyên nhân trong đó có khối
lượng lớn hoá chất dùng làm phân bón (PB) và hóa chất bảo vệ thực vật
(HCBVTV) thải ra đồng ruộng, thậm chí cả các khu vực dân cư sinh sống. Tác
động độc hại của hoá chất trong canh tác và bảo vệ hoa màu, thực phẩm là rất

lớn Những tác động độc hại do chúng đem lại không những ảnh hưởng nghiêm
trọng lên sức khoẻ và môi trường lao động mà còn ảnh hưởng lên sức khoẻ của
những người tiêu dùng.
Trong nghị quyết 41 - NQ/TW của Bộ Chính trị ra ngày 15/1/2004 về vấn
đề bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước có đoạn ghi: "Đối với vùng nông thôn: cần hạn chế sử dụng hoá chất trong
canh tác nông nghiệp và nuôi trồng thuỷ sản, thu gom và xử lý hợp vệ sinh với
các loại bao bì hoá chất sau sử dụng..." Người nông dân tiếp cận với phân bón
và hóa chất bảo vệ thực vật trong đó có người trồng chè và canh tác các loại rau
màu thường có ít kiến thức về các loại hoá chất độc hại này song họ lại thường
bị các mục tiêu lợi nhuận tác động nên thường gây nên những hậu quả xấu cho
môi trường và sức khoẻ.
Quá trình canh tác nông nghiệp luôn luôn tạo ra sự giao lưu, chuyển đổi của
các thành phần hoá học sẵn có của môi trường đất và những chất mà con người
đưa vào theo mục đích nâng cao hiệu quả kinh tế cho cây trồng như phân bón và
hóa chất bảo vệ thực vật. Các hoá chất mà con người sử dụng trong nông nghiệp
hiện nay bao gồm rất nhiều loại sản phẩm từ phân bón hoá học (đạm, lân,


kili...), hóa chất trừ sâu, trừ cỏ, diệt chuột và các loại hoá chất có tác dụng đến
quá trình sinh trưởng.
Đến nay Việt Nam chúng ta vẫn được coi là một nước đang phát triển về
nhiều mặt. Sản xuất chính của người dân ở nhiều vùng nông thôn rộng lớn vẫn
là nông nghiệp, nông thôn chưa được công nghiệp hoá. Tổng diện tích đất canh
tác nông nghiệp của nước ta được ước tính là khoảng 4,5 triệu héc ta, hệ số quay
vòng đất đến nay vào khoảng 2,5 lần. Nếu tính diện tích theo đầu người thì bình
quân chung chỉ là 0,095 đến 0,098 ha.
Tuy nhiên trong thời gian gần đây, Việt Nam chúng ta đã trở thành quốc gia
xuất khẩu gạo đứng thứ 2 và xuất khẩu cà phê thứ 2, thứ 3 trên thế giới. Chúng
ta đã xuất khẩu nhiều loại rau, quả, chè sang nhiều nước trên thế giới với số

lượng rất lớn. Có được như vậy là nhờ vào nhiều biện pháp kinh tế, kỹ thuật,
trong đó có phân bón và hoá chất bảo vệ thực vật. Tuy nhiên những bất cập, ảnh
hưởng có hại của phân bón và đặc biệt là hoá chất bảo vệ thực vật đối với môi
trường và sức khoẻ đã và đang là vấn đề khó giải quyết của các nhà khoa học có
liên quan cũng như cả cộng đồng. Những thông tin trong tài liệu này sẽ chủ yếu
đề cập đến thực trạng sử dụng, ảnh hưởng của hoá chất dùng trong nông nghiệp
và vấn đề xử trí, dự phòng những tác hại do phân bón hoá học (PHH) và các
loại hoá chất bảo vệ thực vật (HCBVTV) gây nên.


(Người nông dân phun thuốc trừ sâu có chứa thành phần hóa học để bảo vệ
và giúp tăng sản lượng)( Rác thải trong quá trình sử dụng phân – thuốc bảo vệ
thực vật)


Chương I: Tổng Quan
1. Giới thiệu về phân bón và thuốc bảo vệ thực vật
1.1 Một số khái niệm cơ bản
Hóa chất dùng trong nông nghiệp: bao gồm hóa chất dùng trong trồng trọt
(phân bón, thuốc bảo vệ thực vật…) và hóa chất dùng trong chăn nuôi (thức ăn
tổng hợp, thuốc thú y,…)
Thuốc bảo vệ thực vật (thuốc BVTV): là những chế phẩm có nguồn gốc hóa
chất, thực vật, động vật, vi sinh vật và các chế phẩm khác dùng để phòng trừ
sinh vật gây hại tài nguyên thực vật. Gồm các chế phẩm dùng để phòng trừ sinh
vật gây hại tài nguyên thực vật; các chế phẩm điều hòa sinh trưởng thực vật;
chất làm rụng hay khô lá; các chế phẩm có tác dụng xua đuổi hoặc thu hút các
loài sinh vật gây hại thực vật đến để tiêu diệt (Pháp lệnh bảo vệ và kiểm dịch
theo nguyên tắc nước CHXHCN Việt Nam và Điều lệ quản lý thuốc BVTV).
Thuốc BVTV có độc tính chọn lọc sử dụng trên cây trồng vẫn có khả năng
gây ô nhiễm môi trường nếu sử dụng không đúng cách.

Phân bón: là cách chất dinh dưỡng khoáng thiết yếu sử dụng để tăng năng
suất cây trồng và chống suy thoái đất trong quá trình sử dụng phân bón, chúng
sẽ chuyển hóa trong các điều kiện xác định (tạo điều kiện cho cây trồng sử dụng
được nhưng đồng thời tác động gây ảnh hưởng xấu tới môi trường đặc biệt khi
chúng ta quản lý không tốt).
Dịch hại: dùng để chỉ mọi loài gây hại cho mùa màng, nông lâm sản, cho
môi trường sống. Bao gồm các loài côn trùng, vi sinh vật gây bệnh cho cây, cỏ
dại, các loài gặm nhắm, chim và động vật phá hoại cây trồng. Danh từ này
không bao gồm các vi sinh vật gây bệnh cho người.
Thuốc trừ dịch hại: là những chât hay hỗn hợp các chất dùng để ngăn ngừa,
tiêu diệt hay phòng trừ các loài dịch hại cho cây trồng, nông lâm sản, gia súc
hoặc những loài dịch hại gây hại, cản trở quá trình chế biến, bảo quản vận
chuyển nông lâm sản, những loại côn trùng, gây hại cho cây trồng và gia súc.


1.2 Phân loại phân bón và thuốc BVTV
1.2.1 Phân loại thuốc BVTV
Theo Nguyễn Trần Oánh và cộng sự, 2007 việc phân loại thuốc BVTV có
thể thực hiện theo nhiều cách như phân loại theo đối tượng phòng trừ hoặc theo
gốc hóa học... Các thuốc có nguồn gốc khác nhau thì tính độc và khả năng gây
độc cũng theo đó maà khác nhau. Cụ thể:
Phân loại theo đối tượng phòng trừ
bệnh

Thuốc

trừ

- Thuốc trừ ốc
nhện


Thuốc

trừ

- Thuốc trừ sâu
- Thuốc trừ chuột

- Thuốc trừ cỏ
- Thuốc trừ tuyến
trùng

- Thuốc điều hòa sinh
trưởng

Trong các nhóm thuốc nêu trên, được sử dụng phổ biến hơn cả là thuốc trừ
sâu, thuốc trừ bệnh và thuốc trừ cỏ.
Phân loại dựa vào nguồn gốc hóa học
- Thuốc có nguồn gốc thảo mộc: bao gồm các thuốc BVTV làm từ cây ỏ hay
các sản phẩm chiết xuất từ cây cỏ có khả năng tiêu diệt dịch hại.có độ độc cấp
tính cao, mau phân hủy trong môi trường.
- Thuốc có nguồn gốc sinh học: gồm các loài sinh vật (các loài ký sinh thiên
địch), các sản phẩm có nguồn gốc sinh vật ( như các loài kháng sinh...) có khả
năng tiêu diệt dịch hại.
- Thuốc có nguồn gốc vô cơ: bao gồm các hợp chất vô cơ (như dung dịch
boocđô, lưu huỳnh...) có khả năng tiêu diệt dịch hại.
- Thuốc có nguồn gốc hữu cơ: Gồm các hợp chất hữu cơ tổng hợp có khả
năng tiêu diệt dịch hại. Cụ thể:
+ Nhóm clo hữu cơ: DDT, 666, ...: có độ độc cấp tính tương đối thấp nhưng
tồn tại lâu trong môi trường, và cả trong cơ thể người, động vật, gây độc mãn

tính nên nhiều sản phẩm bị cấm hoặc hạn chế sử dụng.


+ Nhóm lân hữu cơ: Wofatox Bi-58, ...: có độ độc cấp tính tương đối cao,
mau phân hủy trong cơ thể và môi trường hơn nhóm clo hữu cơ.
+ Nhóm Carbamate: Mipcin, Basa, Sevin, ...: có độ độc cấp tính tương đối
cao, khả năng phân hủy tương tự nhóm lân hữu cơ. Đây là thuốc được sử dụng
rộng rãi vì tương đối rẻ tiền mà hiệu lực cao.
+ Nhóm Pyrethoide: Decis, Sherpa, Sumicidine, ...: dễ bay hơi, tương đối
mau phân hủy trong cơ thể người và môi trường.
+ Các hợp chất Pheromone: là những hóa chất đặc biệt do sinh vật tiết ra để
kích thích hành vi của những sinh vật khác cùng loài. Các chất điều hòa sinh
trưởng côn trùng (Nomolt, Applaud, ...) là những chất dùng để biến đổi sự phát
triển của côn trùng. Chúng ngăn cản côn trùng biến thái hoặc ép chúng phải
trưởng thành từ rất sớm. Loại này ít độc với người và môi trường.
Phân loại dựa vào cách tác động của thuốc đến dịch hại: Tiếp xúc, vị độc,
xông hơi, thấm sâu và nội hấp.
Ngoài ra còn có các cách phân loại khác như:
Phân loại theo độc cấp tính
Tổ chức Y tế thế giới (WHO) và tổ chức Nông Lương Thế giới (FAO) trực
thuộc Liên Hợp Quốc phân loại độc tính của thuốc như sau:
Bảng: Phân loại độc tính thuốc BVTV của tổ chức Y tế thế giới và tổ chức
Nông Lương Thế Giới
LD50 (chuột)(mg/kg thể trọng)
Loại độc

Đường miệng

Đường da


Chất rắn

Chất lỏng

Chất rắn

Chất lỏng

Ia: Cực độc

≥5

≥20

≥10

≥40

Ib: Rất độc

5-50

20-200

10-100

40-400

II: Độc vừa


50-500

200-2.000

100-1.000

400-4.000

III: Độc nhẹ

>500

>2.000

>1.000

>4.000

IV Loại sản phẩm không gây độc cấp khi sử dụng bình thường


Phân loại theo dạng thuốc
Bảng 1.8: Các dạng thuốc BVTV
Dạng
thuốc

Chữ viết tắt

Nhũ dầu


Ghi chú

Tilt
250
ND,
Thuốc ở thể lỏng,
Basudin
40
EC,
trong
suốt.
DC-Trons Plus 98.8
Dễ bắt lửa cháy nổ
EC

Bonanza 100 DD, Hòa tan đều trong
DD, SL, L,
Baythroid
5
SL,nước, không chứa chất
AS
Glyphadex 360 AS
hóa sữa

Dung
dịch

Bột
nước


ND, EC

Ví dụ

Viappla 10 BTN,
BTN, BHN,
Dạng bột mịn, phân
hòa
Vialphos 80 BHN,
WP, DF, WDG,
tán trong nước thành dung
Copper-zinc 85 WP,
SP
dịch huyền phù
Padan 95 SP

Huyền

HP, FL, SC

Appencarb super Lắc đều trước khi sử
50 FL, Carban 50 SC dụng

Hạt

H, G, GR

Basudin 10
Regent 0.3 G


Viên

P

Orthene 97 Pellet, Chủ yếu rãi vào đất,
Deadline 4% Pellet
làm bả mồi.

phù

Thuốc
phun bột

BR, D

Karphos 2 D

H,

Chủ yếu rãi vào đất

Dạng bột mịn, không
tan trong nước, rắc trực
tiếp

Nguồn: Trần Văn Hai, 2013
ND: Nhũ dầu, EC: Emulsifiable Concentrate.
DD: Dung dịch, SL: Solution, L: Liquid, AS: Aqueous Suspension.
BTN: Bột thấm nước, BHN: Bột hòa nước, WP: Wettable Powder,
DF: Dry Flowable, WDG: Water Dispersible Granule, SP: Soluble Powder.



HP: Huyền phù FL: Flowable Liquid, SC: Suspensive Concentrate.
H: hạt, G: granule, GR: granule. P: Pelleted (dạng viên)
BR: Bột rắc, D: Dust.
1.2.2 Phân Loại Phân Bón
Hiện nay, phân bón ngày càng đa dạng và có hiệu quả khác nhau. Theo Bùi
Huy Hiền (2010), Cẩm Hà (2013) và NĐ 202/2013/NĐ-CP có thể phân loại
phân bón như sau:
- Phân loại theo nguồn gốc hình thành
+ Phân bón vô cơ: là loại phân bón được sản xuất từ khoáng thiên nhiên
hoặc từ hóa chất, trong thành phần có chứa một hoặc nhiều chất dinh dưỡng đa
lượng, trung lượng, vi lượng, có các chỉ tiêu chất lượng đạt quy định của quy
chuẩn kỹ thuật quốc gia, trong đó:
Chất dinh dưỡng đa lượng là các chất bao gồm đạm tổng số (N ts), lân hữu
hiệu (P2O5hh), kali hữu hiệu (K2Ohh) ở dạng cây trồng có thể dễ dàng hấp thu
được.
Chất dinh dưỡng trung lượng là các chất bao gồm Canxi (Ca), Magie (Mg),
lưu huỳnh (S), silic hữu hiệu (Si hh) ở dạng cây trồng có thể dễ dàng hấp thu
được.
Chất dinh dưỡng vi lượng là các chất bao gồm bo (B), Côban (Co), đồng
(Cu), sắt (Fe), mangan (Mn), molipđen (Mo), kẽm (Zn) ở dạng cây trồng có thể
dễ dàng hấp thu được.
- Phân vô cơ chủ yếu gồm:
+ Phân khoáng đơn: là loại trong thành phần chỉ chứa một yếu tố dinh
dưỡng đa lượng N hoặc P2O5 hữu hiệu hoặc K2O hữu hiệu như: Phân đạm, phân
lân, phân kali.
+ Phân phức hợp: là loại phân được tạo ra bằng phản ứng hoá học, có chứa
ít nhất hai yếu tố dinh dưỡng đa lượng như: phân NK, phân NP, phân KP, phân
NPK....

+ Phân khoáng trộn: là loại phân được sản xuất bằng cách trộn cơ học từ
hai hoặc ba loại phân khoáng đơn hoặc trộn với phân phức hợp, không dùng
phản ứng hoá học.


- Phân hữu cơ:Phân bón hữu cơ là loại phân bón được sản xuất từ nguồn
nguyên liệu hữu cơ bao gồm phế thải chăn nuôi và thủy sản, phế phụ phẩm
trồng trọt,rác thải hữu cơ, than bùn, chất thải công nghiệp chứa hữu cơ, và các
nguồn hữu cơ khác.
- Phân hữu cơ gồm:
+ Phân hữu cơ truyền thống: là loại phân có nguồn gốc từ chất thải của
người, động vật hoặc từ các phế phụ phẩm trồng trọt, chăn nuôi, chế biến nông,
lâm, thủy sản, phân xanh, rác thải hữu cơ, các loại than bùn được chế biến theo
phương pháp ủ truyền thống.
+ Phân hữu cơ công nghiệp: là một loại phân được chế biến từ các nguồn
hữu cơ khác nhau để tạo thành phân bón tốt hơn so với bón nguyên liệu thô ban
đầu. Hiện nay có thể chia ra 5 loại phân hữu cơ công nghiệp, đó là: phân hữu cơ
chế biến, phân hữu cơ khoáng, phân hữu cơ sinh học, phân vi sinh, phân hữu cơ
vi sinh.
- Phân sinh hoá: Loại phân được sản xuất bằng cả công nghệ sinh học và
hoá học. Phân sinh hoá khi bón ra ruộng không còn sự có mặt của vi sinh vật.
- Phân sinh học:Phân bón sinh học là loại phân bónđược sản xuất bằng công
nghệ sinh học hoặc có nguồn gốc tự nhiên có chứa ít nhất một trong các chất
sau: axít humic, axít fulvic, axít amin, vitamin quy định tại quy chuẩn kỹ thuật
hoặc hoạt chất sinh học khác theo tiêu chuẩn công bố áp dụng của tổ chức, cá
nhân có phân bón. Phân sinh học chỉ có giá trị khi bón ra đồng ruộng các vi sinh
vật trong phân còn sống và phát huy tác dụng.
- Phân bón đất hiếm: là loại phân bón trong thành phần có chứa các
chấtScandium (số thứ tự 21), Yttrium (số thứ tự 39) và các nguyên tố trong dãy
Lanthanides(số thứ tự từ số 57-71: Lanthanum, Cerium, Praseodymium,

Neodymium,Promethium,
Samarium,
Europium,
Gadolinium,
Terbium,Dysprosium, Holmium, Erbium, Thulium, Ytterbium, Lutetium) trong
bảng tuần hoàn Mendêleép.
- Phân loại theo chức năng
+ Phân bón rễ: là các loại phân bón được bón trực tiếp vào đất hoặc vào
nước để cung cấp chất dinh dưỡng cho cây trồng thông qua bộ rễ.
+ Phân bón lá: là các loại phân bón được tưới hoặc phun trực tiếp vào lá
hoặc thân để cung cấp chất dinh dưỡng cho cây trồng thông qua thân lá.


+ Chất cải tạo đất: là chất bón vào đất có tác dụng nâng cao độ phì, cải
thiện đặc điểm lý tính, hoá tính, sinh tính đất, tạo điều kiện cho cây trồng sinh
trưởng, phát triển tốt, cho năng suất cao và chất lượng nông sản tốt.


Chương II ẢNH HƯỞNG CỦA HOÁ CHẤT DÙNG
TRONG NÔNG NGHIỆP ĐẾN MÔI TRƯỜNG
1. Ảnh hưởng của phân bón trong sản xuất nông nghiệp tới môi trường
Theo Bộ nông nghiệp và PTNT (2011), tính toán của các chuyên gia trong
lĩnh vực nông hóa học ở Việt Nam, hiện nay hiệu suất sử dụng phân đạm mới
chỉ đạt từ 30-45%, lân từ 40-45% và kali từ 40-50%, tùy theo chân đất, giống
cây trồng, thời vụ, phương pháp bón, loại phân bón… Như vậy, còn 60-65%
lượng đạm tương đương với 1,77 triệu tấn urê, 55-60% lượng lân tương đương
với 2,07 triệu tấn supe lân và 55-60% lượng kali tương đương với 344 nghìn tấn
Kali Clorua (KCl) được bón vào đất nhưng chưa được cây trồng sử dụng.
Trong số phân bón cây không sử dụng được, một phần còn được giữ lại
trong các keo đất là nguồn dinh dưỡng dự trữ cho vụ sau; một phần bị rửa trôi

theo nước mặt và chảy vào các ao, hồ, sông suối gây ô nhiễm nguồn nước mặt;
một phần bị trực di (thấm rút theo chiều dọc) xuống tầng nước ngầm và một
phần bị bay hơi do tác động của nhiệt độ hay quá trình phản nitrat hóa gây ô
nhiễm không khí… Như vậy gây ô nhiễm môi trường của phân bón trên diện
rộng và lâu dài của phân bón là việc xẩy ra hàng ngày hàng giờ của vùng sản
xuất nông nghiệp.
1.1 Ảnh hưởng tới môi trường đất:
Ảnh hưởng đến tính chất vật lý của đất: Làm mất cấu trúc của đất, làm đất
chai cứng, giảm khả năng giữ nước của đất, giảm tỷ lệ thông khí trong đất.
Ảnh hướng đến tính chất hóa học của đất: Phân vô cơ có khả năng làm mặn
hóa do tích lũy các muối như CaCO 3, NaCl, … Cũng có thể làm chua hóa do
bón quá nhiều phân chua sinh lý như KCl, NH 4Cl, (NH2)2SO4, … do sự có mặt
của các anion Cl-, SO4- hoặc do trong phân có dư lượng axit tự do lớn. Ví dụ bón
nhiều phân (NH2)2SO4 thì làm dư thừa SO4—làm đất bị chua, pH giảm, một số vi
sinh vật bị chết, tăng làm lượng Al, Mn, Fe linh động gây ngộ độc cho cây. Đất
bị kiềm hóa do bón quá nhiều phân sinh lý kiềm như Na(CO3)2, NaNO3, …
Tăng hàm lượng kim loại nặng trong đất. Ví dụ: bón nhiều phân vi lượng sẽ
tích lũy trong đất nhiều kim loại nặng như Cu, Zn, Mn, …nếu bón nhiều phân
lân làm đất tích nhiều Cd.
Ảnh hưởng đến tính chất sinh học của đất: Phân vô cơ sẽ gây hại đến hệ vi
sinh vật trong đất do làm thay đổi tính chất của đất như pH, độ thoáng khí, hàm
lượng kim loại nặng trong đất. Phân bón là một yếu tố ảnh hưởng đến sự sinh
trưởng và phát triển của một số vi sinh vật có khả năng cố định chất dinh


dưỡng, ví dụ bón đạm nhiều cho đất có chưa vi khuẩn cố định ni tơ sẽ làm giảm
khả năng này của chúng (Bộ nông nghiệp và PTNN, 2011).
Phân hữu cơ chưa qua xử lý gây ô nhiễm đất nghiêm trọng do trong phân có
chưa một số lượng lớn các vi sinh vật gây bệnh như vi khuẩn E.Coli gây bệnh
đường ruột, các ấu trùng sán lá, thương hàn, ký sinh trùng giun, sán,… các kim

loại nặng còn được lưu giữ trong đất nếu đất dược bón phân hữu cơ có nguồn
gốc từ các bùn thải hố xí, bùn cống, …
1.2 Ảnh hưởng đến môi trường nước:
Một lượng lớn phân bón bị rửa trôi từ đất vào nước làm nước bị ô nhiễm
gây ô nhiễm môi trường nước. Anion NO 3- trong phân bón có tính linh động cao
nên dễ bị rửa trôi xuống các tầng sâu hoặc xuống các thủy vực, ô nhiễm các
mạch nước ngầm, thủy vực. Hàm lượng N, P, K dư thừa khi bị rửa trôi vào môi
trường nước hoặc thấm qua các tầng đất tới các mạch nước ngầm làm làm lưu
vực đó bị phú dưỡng, nước ngầm thì bị ô nhiễm và chứa các kim loại nặng (Bộ
nông nghiệp và PTNN, 2011).
Phân hữu cơ có chứa những ấu trùng gây bệnh, hệ vi sinh vật gây nhiễm
khuẩn cho người và động vật khi bị rửa trôi vào hệ mạch nước ngầm và hệ
thống nước bề măt sẽ khiến nước bị ô nhiễm.
1.3 Ảnh hưởng đến môi trường không khí
Quá trình phân huỷ các chất vô cơ trong phân hóa học, các chất hữu cơ
trong phân hữu cơ tạo ra các khí nhà kính. Các quá trình phân hủy hảo khí tạo ra
CO2, phân hủy kỵ khí tạo ra các khí như CH4, H2S, NOx, SO2, … đều là những
khí nhà kính mạnh.
Quá trình phản ứng nitrat hóa biến NO3- trong đất thành NOx, N2, … hoặc
khi bón phân vào ngày nắng thì NH4- biến thành NH3 bay vào khí quyển gây
mùi hôi thối trong không khí và góp phần giữ nhiệt trên bề mặt trái đất, tham
gia vào sự làm nóng lên trên toàn cầu một cách tích (Bộ nông nghiệp và PTNN,
2011).
1.4 Ảnh hưởng đến con người
Đạm dư thừa bị chuyển thành dạng Nitrat (NO 3-) hoặc Nitrit (NO2-) là
những dạng gây độc trực tiếp cho các động vật thuỷ sinh, gián tiếp cho các động
vật trên cạn do sử dụng nguồn nước (Tabuchi và Hasegawa, 1995). Đặc biệt gây
hại cho sức khoẻ con người thông qua việc sử dụng các nguồn nước hoặc các
sản phẩm trồng trọt, nhất là các loại rau quả ăn tươi có hàm lượng dư thừa
Nitrat. Theo các nghiên cứu gần đây, nếu trong nước và thực phẩm hàm lượng

nitơ và photpho, đặc biệt là nitơ dưới dạng muối nitrit và nitrat cao quá sẽ gây ra


một số bệnh nguy hiểm cho người đặc biệt là trẻ em. Theo Lê Thị Hiền Thảo
(2003) đã xác định, trong những thập niên gần đây, mức NO 3- trong nước uống
tăng lên đáng kể mà nguyên nhân là do sự sử dụng phân đạm vô cơ tăng, gây rò
rỉ NO3- xuống nước ngầm. Hàm lượng NO3- trong nước uống tăng gây ra nguy
cơ về sức khoẻ đối với cộng đồng. Ủy ban châu Âu quy định mức tối đa của
NO3-trong nước uống là 50 mg/l, Mỹ là 45 mg/l, Tổ chức y tế thế giới (WHO) là
100 mg/l. Y học đã xác định NO2- ảnh hưởng đến sức khoẻ với hai khả năng
sau: gây nên chứng máu Methaemoglobin và ung thư tiềm tàng.
Các nghiên cứu về y học gần đây đã xác định, dư thừa Phospho trong các
sản phẩm trồng trọt hoặc nguồn nước làm giảm khả năng hấp thu Canxi vì chất
này lắng đọng với Canxi tạo thành muối triphosphat canxi không hòa tan và tạo
thuận lợi cho quá trình sản xuất para thormon, điều này đã huy động nhiều
Canxi của xương, và nguy cơ gây loãng xương ngày một tăng, đặc biệt ở phụ nữ
(Trương Hợp Tác, 2013).
2. Ảnh hưởng của thuốc BVTV trong sản xuất nông nghiệp tới môi
trường
Một số loại thuốc BVTV có tính năng hóa học ổn định, khó phân hủy, nên
sẽ tích lũy trong môi trường. Sau nhiều lần sử dụng, lựơng tích lũy tăng lên và
gây ảnh hưởng tới môi trường đất, nước, không khí. Đặc biệt, hiện nay, sự lạm
dụng thuốc BVTV càng ngày càng trở nên phổ biến, khó kiểm soát, thì sự ô
nhiễm môi trường do thuốc BVTV càng trở nên nghiêm trọng. Một số công
trình nghiên cứu đã chỉ ra sự tồn lưu thuốc BVTV trong đất, nước, không khí,
hậu quả đã ảnh hưởng xấu đến động vật và cả con người.
2.1 Đối với môi trường khí
Thuốc BVTV có nhiều loại, trong đó, có một số loại có thể bay hơi sau khi
phun. Tuy nhiên có ít bằng chứng về sự tiếp xúc với thuốc BVTV trong không
khí gây ảnh hưởng nghiêm trọng lên sức khỏe con người trừ những nơi mà

thuốc BVTV được sử dụng trong những khu vực quây kín, thông khí không
được thông thoáng.
2.2 Đối với môi trường đất
Trong đất có tới 50% lượng thuốc BVTV được phun để bảo vệ mùa màng
hoặc được sử dụng diệt cỏ đã phun không đúng vị trí và dải trên mặt đất. Mặc
dù một lựợng lớn đã bay hơi nhưng một vài thuốc BVTV như clo hữu cơ có thể
tồn tại trong đất nhiều năm. Khi vào trong đất một phần thuốc được cây hấp thụ,
phần còn lại được keo đất giữ lại. Thuốc tồn tại trong đất dần dần được phân
giải qua hoạt động sinh học của đất và qua tác động của các yếu tố hóa lý. Tuy


nhiên tốc độ phân giải chậm nếu thuốc tồn tại trong môi trường đất với lượng
lớn, nhất là trong đất có hoạt tính sinh học kém (Lê Văn Khoa, 2001).
2.3 Đối với môi trường nước
Môi trường nước xung quanh vẫn có thể bị nhiễm hóa chất khi nông dân đổ
thuốc thừa hoặc tráng rửa bình phun xuống ao, kênh mương. Hoặc phun thuốc
BVTV cho cây trồng gần mép nước. Hoặc cũng có thể từ môi trường đất qua
quá trình rò rỉ, xói mòn, rửa trôi. Hoặc từ không khí bị ô nhiễm qua hiện tượng
mưa và sương mù. Hoặc trực tiếp sử dụng thuốc BVTV để giết cá. Nguyễn
Đình Mạnh (2000) cho rằng tính di động của nó chịu ảnh hưởng lớn nhất của
nước và lực dòng chảy của nước, khả năng di động của nó được quyết định bởi
độ tan, độ hấp phụ trong keo đất, cường độ hấp phụ, vận tốc hấp phụ của đất với
nhóm thuốc BVTV. Khả năng thấm sâu của thuốc BVTV phụ thuộc vào nước,
lực thấm sâu của dòng nước, tính linh động của thuốc BVTV.
2.4 Ảnh hưởng đến sức khỏe con người
Sử dụng thuốc BVTV với nồng độ cao, số lượng lớn, thời gian cách ly
không đảm bảo làm cho dư lượng thuốc trong sản phẩm lớn, gây ảnh hưởng tới
sức khỏe người tiêu dùng. Theo Trung tâm Khuyến nông Việt Nam (2013) chỉ
tính riêng trong năm 2009 trong cả nước đã có 4.515 người bị nhiễm độc thuốc
BVTV với 138 trường hợp tử vong. Nhiễm độc cấp thường là các vụ tự tử, các

vụ nhiễm độc hàng loạt do thức ăn bị nhiễm thuốc BVTV, sự tiếp xúc nghề
nghiệp trong nông nghiệp,...
Đây là nguyên nhân của phần lớn các vấn đề sức khỏe nghiêm trọng có liên
quan đến thuốc BVTV. Các ảnh hưởng mãn tính do sự tiếp xúc với thuốc BVTV
trong thời gian dài với liều lượng nhỏ có liên quan đến nhiều rối loạn và các
bệnh khác nhau. Các nhà khoa học đã tìm thấy bằng chứng về mối liên quan
giữa thuốc BVTV với các bệnh ung thư, các hậu quả sinh sản như đẻ non, vô
sinh, thai dị dạng, chất lượng tinh dịch, rối loạn thần kinh thực vật, rối loạn
hành vi, tổn thương chức năng miễn dịch và dị ứng, tăng cảm giác da, ...
Thủy ngân ở một hàm lượng nào đó sẽ không ảnh hưởng đến người mẹ
nhưng gây hại cho não của bào thai, dư lượng thuốc BVTV đã được tìm thấy
trong sữa các bà mẹ đang cho con bú khi thường xuyên tiếp xúc với thuốc
BVTV, đây cũng là nguyên nhân của nhiều trường hợp sảy thai, đẻ non,... rất
nguy hiểm.
2.5 Ảnh hưởng đến hệ sinh thái
Thuốc BVTV làm đảo lộn hệ sinh thái nông nghiệp là nguyên nhân chủ yếu
gây lên những đợt dịch sâu bệnh trầm trọng trên cây trồng những năm sau.


Khi phun thuốc BVTV trên đồng ruộng không chỉ tiêu diệt các loài sâu,
bệnh, cỏ dại... gây hại cây trồng mà còn tiêu diệt các loài thiên địch có ích (thiên
địch là những côn trùng hoặc nhện... lấy sâu hại làm thức ăn hoặc ký sinh sâu
hại như các loài ong mắt đỏ, ong đen kén trắng ký sinh trứng và sâu non của
một số loài sâu hại, bọ cánh cứng 3 khoang ăn các loài sâu hại, bọ xít nước ăn
rầy nâu, nhện lưới bắt sâu...); đa số các loài thiên địch bị tiêu diệt trước và chết
nhiều hơn do chúng dễ mẫn cảm với thuốc BVTV hơn nhiều so với các loài sâu
hại. Bên cạnh đó, các loài sâu hại sau khi bị phun thuốc, những cá thể còn sống
sẽ phục hồi quần thể nhanh hơn nhiều so với các loài thiên địch vì các loại thuốc
BVTV hiện nay không thể tiêu diệt được hết các loài sâu, bệnh khi phun trên
đồng ruộng (hiệu quả của thuốc BVTV chỉ đạt từ 80 – 85%). Vì vậy, ở những

nơi nào người dân dùng nhiều thuốc để phòng trừ các đối tượng sâu bệnh hại
lúa hoặc các cây rau mầu khác... thì ở chính những nơi đó sẽ thường xuyên
bùng phát dịch sâu bệnh vào những vụ và năm sau do thiên địch chưa kịp hồi
phục để đủ sức khống chế sâu hại. Ngoài ra, khi sử dụng thuốc BVTV không
đúng kỹ thuật sẽ gây hiện tượng sâu hại quen thuốc dẫn đến kháng thuốc và
chống thuốc (Phạm Văn Phú, 2011).

Chương III Hiện Trạng Sử Dụng Trong Nền Nông
Nghiệp Ở Việt Nam
1. Phân bón
Theo Báo cáo Hiện trạng môi trường quốc gia 2005: Ô nhiễm do sử dụng
phân hóa học: sử dụng phân bón không đúng kỹ thuật trong canh tác nông
nghiệp nên hiệu lực phân bón thấp, có trên 50% lượng đạm, 50% lượng kali và
xấp xỉ 80% lượng lân dư thừa trực tiếp hay gián tiếp gây ô nhiễm môi trường
đất.
Bảng 1.2: Lượng và tỷ lệ các chất dinh dưỡng chính trong phân bón tiêu thụ
ở Việt Nam
Lượng tiêu thụ (1.000 tấn)

Tỷ lệ tiêu thụ

Năm
N

P2O5

K2O

Tổng


N: P2O5: K2O

1991

717,17

134,76

13,00

864,93

1: 0,188: 0,018

1992

466,34

173,78

40,96

681,08

1: 0,373: 0,088

1993

558,71


139,14

17,00

714,85

1: 0,249: 0,030


1994

727,40

239,40

68,00

1034,8

1: 0,329: 0,093

1995

744,14

319,44

87,80

1151,38


1: 0,429: 0,118

1996

923,36

402,64

138,00

1464,0

1: 0,436: 0,149

1997

861,92

325,08

149,00

1336,0

1: 0,377: 0,173

1998

1042,6


347,31

239,28

1629,19

1: 0,333: 0,229

1999

852,00

317,35

194,00

1363,35

1: 0,372: 0,228

2000

946,00

365,50

210,00

1521,5


1: 0,386: 0,222

Nguồn:Nguyễn Xuân Trường, 2000
Tính từ năm 1985 tới 2009, diện tích gieo trồng ở nước ta chỉ tăng 57,7%,
nhưng lượng phân bón sử dụng tăng tới 517%. Theo tính toán, lượng phân vô cơ
sử dụng tăng mạnh trong vòng 20 năm qua, tổng các yếu tố dinh dưỡng đa
lượng N+P2O5+K2O năm 2007 đạt trên 2,4 triệu tấn, tăng gấp hơn 5 lần so với
lượng sử dụng của năm 1985. Ngoài phân vô cơ, hàng năm nước ta còn sử dụng
khoảng 1 triệu tấn phân hữu cơ, hữu cơ sinh học, hữu cơ vi sinh các loại (Trung
tâm KNVN, 2013).
Bảng 1.5: Nhu cầu phân bón thương phẩm ở Việt Nam đến năm 2020
Đơn vị: nghìn tấn
Năm
Loại phân bón
2015

2020

Ure

2.000

2.100

DAP

700

700


SA

400

600

Supephotphat và lân nung chảy

1.700

1.700

KCl

900

1.000


NPK phối trộn

4.200

4.500

Nguồn: Nguyễn Như Hà và Nguyễn Văn Bộ, 2013
Bảng 1.6: Lượng phân bón vô cơ sử dụng ở Việt Nam qua các năm
(ĐVT: 1000 tấn N, P2O5, K2O)
Năm


N P2O5

K2O

NPK

N+P2O5+K2O

1985

342,3

91,0

35,9

54,8

469,2

1990

425,4

105,7

29,2

62,3


560,3

1995

831,7

322,0

88,0

116,6

1223,7

2000

1332,0

501,0

450,0

180,0

2283,0

2005

1155,1


554,1

354,4

115,9

2063,6

2007

1357,5

551,2

516,5

179,7

2425,2

(Nguồn: Trương Hợp Tác, 2009).
Theo tính toán, lượng phân vô cơ sử dụng tăng mạnh trong vòng 20 năm
qua, tổng các yếu tố dinh dưỡng đa lượng N+P 2O5+K2O năm 2007 đạt trên 2,4
triệu tấn, tăng gấp hơn 5 lần so với lượng sử dụng của năm 1985. Ngoài phân
bón vô cơ, hàng năm nước ta còn sử dụng khoảng 1 triệu tấn phân hữu cơ, hữu
cơ sinh học, hữu cơ vi sinh các loại.
Xét về tỷ lệ sử dụng phân bón cho các nhóm cây trồng khác nhau cho thấy
tỷ lệ phân bón sử dụng cho lúa chiếm cao nhất đạt trên 65%, các cây công
nghiệp lâu năm chiếm gần 15%, ngô khoảng 9% phần còn lại là các cây trồng

khác. Tuy nhiên so với các nước trong khu vực và trên thế giới, lượng phân bón
sử dụng trên một đơn vị diện tích gieo trồng ở nước ta vẫn còn thấp, năm cao
nhất mới chỉ đạt khoảng 195 kg NPK (Trương Hợp Tác, 2009).
2. Thuốc BVTV
Trong sản xuất nông nghiệp, ở Việt Nam thuốc BVTV đã được sử dụng lần
đầu tiên ở miền Bắc nhằm trừ sâu gai, sâu cuốn lá lớn bùng phát ở Hưng Yên
(vụ Đông Xuân 1956-1957). Vào giai đoạn năm 1957-1990 lượng thuốc BVTV


dùng không nhiều, khoảng 15000 tấn thành phẩm/ năm với khoảng 20 chủng
loại thuốc trừ sâu (chủ yếu) và thuốc trừ bệnh. Đa phần là các thuốc có độ tồn
lưu lâu trong môi trường và có độ độc cao.
Theo số liệu của cục BVTV trong giai đoạn 1981 - 1986 số lượng thuốc sử
dụng là 6,5 - 9,0 ngàn tấn thương phẩm, tăng lên 20 - 30 ngàn tấn trong giai
đoạn 1991 - 2000 và từ 36 - 75,8 ngàn tấn trong giai đoạn 2001 - 2010. Lượng
hoạt chất tính theo đầu diện tích canh tác (kg/ha) cũng tăng từ 0,3kg (1981 1986) lên 1,24 - 2,54kg (2001 - 2010). Giá trị nhập khẩu thuốc BVTV cũng tăng
nhanh, năm 2008 là 472 triệu USD, năm 2010 là 537 triệu USD. Trong vòng 10
năm gần đây (2000 - 2011) số lượng thuốc BVTV sử dụng tăng 2,5 lần, số loại
thuốc nhập khẩu tăng khoảng 3,5 lần. Đáng chú ý là trong giai đoạn 1995-2000
diện tích gieo trồng hàng năm ở nước ta tăng cao nhất là 1,18 lần, còn khối
lượng thuốc nhập khảu và sử dụng tăng cao nhất là 2,85 – 3,37 lần. Như vậy chỉ
số gia tăng về thuốc bảo vệ thực vật cao hơn chỉ số gia tăng về diện tích gieo
trồng là 2,4-2,85 lần ( Theo Phạm Văn Lầm, 2002).
Hiện nay, theo thông tư số 03/2015/TT-BNNPTNT, nhà nước cho phép sử
dụng trong Nông nghiệp 769 hoạt chất thuốc trừ sâu với 1.690 tên thương
phẩm; 607 hoạt chất thuốc trừ bệnh với 1.295 tên thương phẩm; 223 hoạt chất
thuốc trừ cỏ với 678 tên thương phẩm... so với năm 2010 đã tăng lên gấp 1,1
lần.
Theo đánh giá của các chuyên gia quốc tế, có tới 80% thuốc BVTV tại VN
đang được sử dụng không đúng cách, không cần thiết và rất lãng phí.

Theo Phạm Văn Lầm - 2000, số lần phun thuốc bảo vệ thực vật cho chè ở
Thái Nguyên từ 6,2 đến 29,7 lần/năm, số hộ phun trên 25 lần là 15,2%. Số lần
phun cho lúa ở Đồng bằng Sông Cửu Long từ 1 - 5 lần/vụ, chủ yếu trên 3 lần
(69,6% hộ). Số lần phun cho lúa ở Đồng bằng Sông Cứu Long từ 2-6 lần/vụ,
trên 6 lần có 35,6% hộ. Số lần phun cho rau từ 7-10 lần/vụ ở ĐBSH, ở Thành
phố Hồ Chí Minh có 70,2% số hộ phun rau trên 20-30 lần.
Theo Đào Trọng Ánh – 2002, chỉ có 52,2% cán bộ kỹ thuật nông nghiệp khuyến nông cơ sở hiểu đúng kỹ thuật sử dụng thuốc bảo vệ thực vật, tỷ lệ này
ở người bán thuốc là 33%. Chỉ có 22,1-48% nông dân sử dụng đúng nồng độ
liều lượng thuốc trên lúa, 0-26,7% trên rau và 23,5-34,1% trên chè, trong khi đó
có nhiều nông dân tăng liều lượng lên gấp 3 -5 lần, có tới 100% nông dân tăng
liêu lượng khi dùng sherpa gấp 5 lần (trên rau). Vùng rau quả, vùng thường
xuyên có dịch rầy nâu, vùng chè… có tới 35-60% nông dân chỉ thực hiện thời
gian cách ly từ 1-3 ngày, 25-43,3% thực hiện cách ly 4-6 ngày trong khi phần
lớn các loại thuốc có yêu cầu cách ly từ 7-14 ngày hoặc hơn.


Theo kết quả điều tra của Nguyễn Hữu Huân về việc các hộ nông dân sử
dụng thuốc ở phía Nam năm 2000 chỉ ra rằng: Có 49,6% hộ dân sử dụng thuốc
đúng khuyến cáo của nhãn thuốc, 38,6% dùng liều lượng cao hơn, 29,7% tự hỗn
hợp các loại thuốc và 75,8% cho rằng dùng thuốc BVTV là biện pháp chủ yếu
nhất trong phòng trừ sâu bệnh.
Trình độ chuyên môn người bán thuốc ở các cửa hàng đại lý chỉ có 1,1% là
đại học, 6,7% là Trung cấp và 90% không bằng cấp trong khi có tới 55-63%
nông dân mua và sử dụng thuốc theo khuyến cáo và chỉ dẫn của người bán
thuốc.Một kết quả điều tra nông dân sau học IPM trong năm 2002 cho thấy, có
35,7% số hộ hiểu biết khá về bảo vệ thực vật và sử dụng thuốc bảo vệ thực vật,
41,2% có áp dụng IPM do vậy giảm sử dụng thuốc, 31% biết sử dụng thuốc
sinh học(Theo Trương Quốc Tùng - 2002).
Kết quả điều tra của Cục bảo vệ thực vật trong năm 2010 trên diện rộng còn
tới 10,22% nông dân không đảm bảo thời gian cách ly. Đây là nguyên nhân gần

như chủ yếu dân đến tình trạng tồn dư thuốc bảo vệ thực vật trên nông sản quá
mức cho phép.
Điều tra những năm 2000-2002 (tức là đã có chương trình IPM, điều lệ quản
lý – sử dụng thuốc bảo vệ thực vật, đã ban hành danh mục thuốc bảo vệ thực
vật…) tại Vĩnh Phúc, Hà Nội, Hà Tây… có tới 20 – 88,8% số nông dân vẫn
dùng thuốc cấm, thuốc ngoài danh mục, 60-78% nông dân không thực hiện thời
gian cách ly quy định. Ngay năm 2010, số liệu của Cục Bảo vệ thực vật cho biết
còn 5,19% số hộ dùng thuốc cấm, ngoài danh mục, 10,22% không đúng thời
gian cách ly.
Điều tra ở các tỉnh phía Nam và phía Bắc, chỉ có từ 35-45% số nông dân đã
được học IPM (tức là có hiểu biết về sử dụng thuốc bảo vệ thực vật) áp dụng
IPM (trong đó có sử dụng thuốc hạn chế, an toàn), 83,5% nông dân có được đọc
và hiểu các nội dung nhãn thuốc nhưng có tới 51% không thực hiện theo
khuyến cáo của nhãn.
Theo Viện Môi trường nông nghiệp Việt Nam, lượng thuốc BVTV còn bám
lại trên vỏ bao bì bình quân chiếm 1,85% tỷ trọng bao bì. Trong khi đó, người
dân hoàn toàn không có ý thức xử lý lượng thuốc BVTV còn tồn lại trên vỏ bao
bì. Có tới hơn 65% những người dân được hỏi khẳng định họ vứt vỏ bao bì tại
nơi pha thuốc
Mạng lưới sản xuất, kinh doanh thuốc BVTV tăng nhanh và khó kiểm soát.
Ðến năm 2010 cả nước có hơn 200 công ty sản xuất, kinh doanh thuốc BVTV,
93 nhà máy, cơ sở sản xuất thuốc và 28.750 cửa hàng, đại lý buôn bán thuốc
BVTV. Trong khi đó, hệ thống thanh tra BVTV mỏng, yếu, cơ chế hoạt động
khó khăn (Trương Quốc Tùng, 2013).


Bên cạnh đó, tình trạng thuốc giả, nhái và thuốc nhập lậu tràn lan trên thị
trường cũng là một vấn đề “nhức nhối” trong vấn đề quản lý và sử dụng thuốc
BVTV.



Chương IV Giải Pháp Và Kết Luận
1. Giải Pháp
1.1 Giải pháp chung
Các giải pháp về chính sách, công tác quản lý
Xã Hương Long cần quan tâm nhiều hơn đến việc sử dụng phân bón và
thuốc BVTV của người dân. Tăng cường kiểm tra, thanh tra các cơ sở kinh
doanh phân bón, thuốc BVTV trên địa bàn nhằm ngăn chặncác trường hợp kinh
doanh phân bón, thuốc BVTV giả, kém chất lượng, hoặc ngoài danh mục nhà
nước cho phép. Nếu phát hiện được cần xử lý nghiêm.
Ngoài ra xã cần có các chính sách thiết thực nhằm hỗ trợ người dân trong
việc sử dụng phân bón và thuốc BVTV hợp lý. Nghiên cứu đánh giá thực trạng
môi trường sản xuất nông nghiệp tại xã để có hướng giải quyết hợp lý nhất.
Tập huấn, tuyên truyền
Hiện nay mới chỉ có 37,7% hộ dân tham gia tập huấn. Cần nâng cao tỷ lệ
này, vì người dân có đi tập huấn mới biết được mức độ sử dụng và cách bón
phân, phun thuốc có hiệu quả,nâng cao được ý thức người dân thực hiện theo
khuyến cáo của CBKN xã. Tổ chức các buổi tập huấn lớn hơn 2 lần/năm và vận
động người dân tham gia đầy đủ. Nội dung của buổi tập huấn cần vận dụng
vàothực tế,chú trọng vào các lỗi nhân dân hay mắc phải khi sử dụng phân bón,
thuốc BVTV, đồng thời hướng dẫn kĩ thuật sử dụng thuốc BVTV an toàn, hiệu
quả, giới thiệu thuốc BVTV mới, ít độc, nhanh phân giải, có hiệu quả cao cùng
với đó hướng dẫn cách ủ phân đúng cách, kĩ thuật bón phân, và giới thiệu một
số loại phân mới có hiệu quả mà ít tác động tới môi trường.
Nâng cao trình độ, vai trò của CBKN, người kinh doanh phân bón, thuốc
BVTV
- CBKN: cần tự nâng cao trình độ của mình. Cần nhiệt tình, năng động, tích
cực thăm đồng nhằm phát hiện sâu bệnh, cỏ dại để kịp thời phòng trừ, phát hiện
các hiện tượng thiếu thừa chất dinh dưỡng trên các laoij cây trồng để có biện
pháp khắc phục, khuyến cáo người dân. CBKN cần tạo niềm tin cho người nông

dân, vì hiện nay tỷ lệ người dân tham khảo ý kiến của CBKN thấp.
- Người kinh doanh: Cần nâng cao mức hiểu biết về phân bón, thuốc BVTV
để tư vấn cho khách hàng sử dụng sản phẩm hiệu quả nhất. Cần có tâm với
nghề, kinh doanh có uy tín, chất lượng.


1.2 Đối với phân bón
Áp dụng bón phân đúng kĩ thuật theo 5 đúng (đúng chủng loại, đúng nhu
cầu sinh lí, đúng nhu cầu sinh thái, đúng vụ thời tiết, đúng phương pháp).
Sử dụng tích cực các biện pháp canh tác:
- Với cây lúa là làm đất, cày ải, vệ sinh đồng ruộng; Với ngô, lạc, đậu thì
xới xáo, cày bừa làm đất tơi xốp, sạch cỏ dại trước khi gieo trồng.
- Luân phiên lạc, đậu, ngô trên một đơn vị diện tích:
- Sử dụng các giống lúa, ngô, lạc, đậu có khả năng phát triển tốt.
1.3 Đối với thuốc BVTV
Theo kết quả điều tra, người dân thường xuyên gặp phải sâu, cỏ dại phá
hoại. Lượng thuốc BVTV được người dân sử dụng đều cao hơn khuyến cáo,
nồng độ đậm hơn mức cần thiết. Do vậy, Trạm BVTV của huyện kết hợp với
hội khuyến nông xã chỉ đạo công tác tập huấn cho CBKN và người nông dân về
dịch hại và biện pháp phòng trừ. CBKN cần chú ý tới tình hình dịch hại ở địa
bàn xã để có phát hiện bệnh sớm, phòng trừ có hiệu quả. Thực hiện nguyên tắc
4 đúng (đúng thuốc, đúng lúc, đúng liều lượng, đúng cách).
Chọn giống cây trồng khỏe, chống chịu tốt với sâu bệnh, đa dạng hóa cây
trồng, thực hiện luân canh các loại cây trên địa bàn, cho đất nghỉ một thời gian
cũng giúp giảm tỷ lệ sâu bệnh gặp phải.
Khi phun, mặc đầy đủ đồ bảo hộ
Phương pháp xử lý bao bì phân bón, thuốc BVTV
- Phân bón: Những bao bì lớn có thể rửa sạch, sử dụng lại. Những bao bì
nhỏ có thể đốt. Cách đốt: Thu gom bao bì phân bón lại một chỗ, sau đó mang
đến vị trí cách xa nguồn nước và ruộng. Rồi tiến hành đốt, khi đốt nên tránh xa

đống đốt để tránh ảnh hưởng đến sức khỏe. Do lượng phát thải bao bì phân bón
không nhiều nên có thể áp dụng phương pháp này.
- Thuốc BVTV: 100% người dân vứt vỏ bao bì, thuốc BVTV ngay tại kênh
mương, ruộng. Điều này rất nguy hiểm, do vỏ, bao bì thuốc BVTV là rác thải
nguy hại, cần có biện pháp xử lý riêng biệt, nhất là với các loại thuốc BVTV có
độ độc cao. Tuy nhiên, điều kiện kinh tế tại xã chưa đáp ứng được yêu cầu đó vì
hiện nay rác thải sinh hoạt cũng chưa có khu xử lý, chủ yếu là đốt. Do vậygiải
pháp người dân có thể áp dụng là:


+ Khi hòa thuốc nên tráng lại vỏ, bao bì thuốc 2-3 lần. Theo nghiên cứu, khi
làm như vậy nồng độ thuốc BVTV còn dư trong vở, bao bì giảm xuống còn
0,001 lần, khi đó vỏ, bao bì thuốc BVTV trở thành rác thải bình thường, có thể
chôn lấp
+ Lượng thuốc thừa có thể hòa loãng rồi phun tiếp lên cây trồng, không đỏ
rực tiệp ra nguồn nước, kênh mương
+ Thu gom, tập kết vỏ, bao bì lại một chỗ. Xã có thể, cắt cử người mang đi
chôn lấp tại khu vực cao hơn bề mặt mương nước, khu vực xa ít người sinh
sống
2. Kết Luận
Trong sản xuất nông nghiệp ở Việt Nam các loại thuốc BVTV đã được sử
dụng từ nhiều năm trước đây. Tuy nhiên thời kỳ đó, do tình hình phát sinh, phát
triển của sâu hại, dịch bệnh diễn biến chưa phức tạp nên số lượng và chủng loại
thuốc BVTV chưa nhiều. Thời gian đó do thiếu thông tin và do chủng loại thuốc
BVTV còn nghèo nàn nên người nông dân đã sử dụng nhiều loại thuốc BVTV
có độc tính cao, tồn lưu lâu trong môi trường, thuốc trừ sâu, không chỉ có tác
dụng tích cực bảo vệ mùa màng, mà còn gây nên nhiều hệ quả môi trường
nghiêm trọng, ảnh hưởng tới hệ sinh thái và con người. Do vậy cần phải thận
trọng khi dùng thuốc và phải dùng đúng liều, đúng loại, đúng lúc theo chỉ dẫn
của cán bộ kỹ thuật.Trong các cây thực phẩm thì nhóm các loại cây ăn lá, củ,

quả chủ yếu là: cà, đậu, dưa, rau xanh các loại, rau gia vị… dễ bị ảnh hưởng các
yếu tố không an toàn chiếm tới gần 70% diện tích. Những loại rau này được
trồng chủ yếu ở các vùng có truyền thống sản xuất rau. Hầu hết các hộ sản xuất
chỉ quan tâm đến năng suất và sản lượng mà ít quan tâm đến chất lượng vệ sinh
an toàn thực phẩm nên tình trạng sử dụng phân bón, thuốc bảo vệ thực vật
không đúng lúc, đúng cách vẫn thường xuyên xảy ra như: bón quá nhiều đạm,
bón phân muộn, sử dụng thuốc bảo vệ thực vật ngoài danh mục trên các loại rau
ăn lá và không bảo đảm thời gian cách ly gây ảnh hưởng trực tiếp đến sức khoẻ
người tiêu dùng.
Từ một số nghiên cứu phân tích trên, bản thân có một số kiến nghị nhằm
hạn chế và giảm thiểu tối đa tác hại của thuốc BVTV đối với môi trường cũng
như sức khỏe con người:
Về phía nhà nước:
- Cần có những biện pháp thắt chặt quản lý đối với các loại thuốc BVTV nói
chung và các sản phẩm hóa học nói riêng dùng trong nông nghiệp.
- Đưa ra các tiêu chuẩn vùng, quốc gia, quốc tế, đồng thời giám sát việc
thực thi của các đối tượng sản xuất, buôn bán và sử dụng thuốc BVTV, đặc biệt


×