Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

C0118 TRIETHOC TS BUIXUANTHANH DUMH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (180.75 KB, 12 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐÔNG ĐÔ

CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO
THẠC SĨ QUẢN LÝ KHINH TẾ

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC

Đề tài: TRIẾT LÝ NHÂN SINH PHẬT GIÁO NGUYÊN THỦYNHỮNG GIÁ TRỊ VÀ HẠN CHẾ

Giảng viên: TS. BÙI XUÂN THANH
Học viên: MAI HOÀNG DƯ
Lớp: HDIU.MEM C0118

Cần Thơ, ngày …. tháng …. năm 2018


MỤC LỤC

Triết học

LỜI MỞ ĐẦU
Phật giáo là một trường phái triết học – tôn giáo lớn của nền văn hóa Ấn Độ cổ đại, Phật giáo đã ảnh
hưởng rộng rãi và lâu dài đến đời sống tinh thần của nhiều dân tộc trên thế giới trong đó có Việt
Nam. Tư tưởng nổi bật tạo nên cốt lõi của quan niệm nhân sinh qian của Phật giáo nguyên thủy là
thuyết Tứ diệu đế bởi bốn bộ phận là khổ đế, tập đế, diệt đế và đạo đế. Tứ diệu đế là nội dung của
kinh nghiệm giác ngộ của Phật Thích-ca Mâu-ni, và cũng là nội dung chính của bài kinh đầu tiên,
kinh Kinh Chuyển Pháp Luân. Theo tinh thần Tứ Diệu Đế, mỗi con người tồn tại trong xã hội, nếu luôn
nhận thức được rõ về bản chất cuộc sống, ý nghĩa cuộc sống của mình, biết bằng lòng với những gì
mình có, phấn đấu và không ngừng tu tập, làm lành, lánh dữ sẽ đạt được cuộc sống an lạc và giải
thoát từ trong chính thân tâm và cuộc sống hàng ngày cũng như niềm tin vào sự giải thoát nơi Niết


bàn của Phât giáo. Tứ diệu đế được học, được tiếp thu và hiểu để trở thành những kinh nghiệm cá
nhân giúp ích cho bản thân của mỗi con người.

I. SỰ RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN CỦA PHẬT GIÁO NGUYÊN THỦY
Phật giáo xuất hiện vào khoảng thế kỷ V TCN, do Xítđácta Gôtama sáng lập và
nhanh chóng được truyền bá ở miền Bắc Ấn Độ gắn liền với những biến động lớn về
kinh tế, chính trị, xã hội, tư tưởng làm xuất hiện hai hệ thống triết học. Hệ thống chính
thống thừa nhận uy thế của kinh Vêđa, biện hộ cho giáo lý Bàlamôn, bảo vệ chế độ
đẳng cấp, bằng sáu trường phái: Samkhya, Vêđanta, Nyaya, Vaisesika, Minansa,
Yooga. Hệ thống không chính thống phủ định uy thế kinh Vêđa, phê phán giáo lý
Bàlamôn, lên án chế độ đẳng cấp, gồm ba trường phái: Lôkayata, Phật giáo, đạo Jaina.
Dù cùng được hình thành và phát triển từ trong truyền thống Vêđa, nhưng các trường
phái triết học Ấn Độ lại luôn xung đột lẫn nhau, và sự xung đột này kéo dài cho đến
hết thời trung đại. Thời kỳ sau cổ điển (còn gọi là thời kỳ xâm nhập của Hồi giáo
khoảng thế kỷ VII đến thế kỷ XVIII) gắn liền với cuộc cạnh tranh uy thế giữa đạo
2


Triết học
Phật, đạo Bàlamôn và đạo Hồi diễn ra ngày càng quyết liệt mà kết quả là đạo
Hồi từng bước phát triển làm cho đạo Phật suy yếu còn đạo Bàlamôn đổi mới thành
đạo Hindu.
Theo truyền thuyết, Xítđácta Gôtama (Siddhartha Gautama, 563-483 TCN), con
vua Sutđôđana (Suddhodana), thuộc bộ tộc Thích ca (Shakya) của nước Catìlavệ
(Capilavaxtu) – một nước nhỏ ở miền Đông Bắc Ấn Độ, nằm dưới chân dãy Himalaia,
nay thuộc đất Neepan. Năm 29 tuổi, Thái tử Xítđácta xuất gia đi tu để tìm kiếm con
đường cứu vớt loài người ra khỏi nỗi khổ. Nhưng qua 7 năm, theo các bậc chân tu khổ
hạnh (truyền thống tu luyện Ấn Độ) mà ông vẫn chưa tìm ra chân lý. Cuối cùng, ông
lang thang đến cánh rừng thiêng Uravela (Gaya, thuộc tỉnh Bihar, miền Bắc Ấn Độ)
và ngồi thiền dưới gốc cây bồ đề. Sau 3 ngày đêm suy ngẫm, Người phát hiện ra bản

tính vô ngã, vô thường của thế giới, tiếp tục ngồi dưới gốc cây bồ đề thêm 49 ngày
nữa để chiêm nghiệm tâm linh và giải thích thấu đáo bản chất của tồn tại, nguồn gốc
của mọi khổ đau. Ông cho rằng, mình đã tìm được con đường cứu vớt chúng sinh. Rồi
từ đó trở đi, người ta gọi ông là Phật ( Buddha-người đã giác ngộ, thấu hiểu chân lý).
Giáo đoàn Phật giáo được ông xây dựng để rao giảng giáo lý của mình; đệ tử tôn xưng
ông là Thích Ca Mâuni ( bậc hiền triết của dòng tộc Thích Ca).
Kinh điển của Phật giáo có khoảng 5.000 quyển, chia thành Tam tạng (Kinh, Luật,
Luận). Tam tạng lại chia làm hai loại là Đại thừa và Tiểu thừa. Tạng Kinh ghi lại
những lời giảng của Phật Thích ca, giúp chúng sinh loại trừ phiền não và đạt đến niết
bàn. Tạng Luật ghi lại những giới luật mà giáo đoàn Phật đề ra đòi hỏi các đệ tử phải
tuân theo để rồi cho thân- tâm thanh tịnh. Tạng Luận ghi lại những lời luận bàn của
các bậc cao tăng, trưởng lão nhằm làm sáng rõ ý nghĩa của những lời kinh, để giúp
người đời phân biệt được phải-trái, chính-tà.
Chữ “thừa” có nghĩa là giáo lý của Phật có công năng như một chiếc xe đưa chúng
sinh từ cõi trần đầy đau khổ, luân hồi đến cõi Niết bàn. Tiểu thừa ví như cỗ xe nhỏ,
con đường cứu vớt hẹp; đại thừa ví như cỗ xe lớn, con đường cứu vớt rộng. Phái tiểu
thừa cho rằng: Chỉ có một Phật duy nhất là Phật Thích Ca, và chỉ có Phật Thích Ca
mới cứu độ chúng sinh được; chỉ có những người xuất gia đi tu mới được Phật Thích
Ca cứu vớt đưa đến Niết bàn – cảnh giới yên tĩnh gắn liền với giác ngộ sáng suốt,
không có phiền não khổ đau. Phái đại thừa cho rằng: Phật Thích Ca là Phật cao nhất,
ngoài ra còn có các Phật khác như Phật A Di Đà – vị Phật hiện đang giáo hóa ở cõi
cực lạc phương Tây, Phật Di Lặc – vị Phật tương lai sẽ nối nghiệp Phật Thích Ca để
giáo hóa cõi đời này (cõi Tabà), Phật Đại Dược Sư- vị Phật hiện đang giáo hóa ở cõi
cực lạc phương Đông (cõi Tĩnh lưu li); Không chỉ có những người tu hành mà cả
những người trần tục quy y Phật pháp cũng có thể được cứu vớt đưa đến niết bàn, tức
trở thành Phật. Đó là các vị Bồ tát như: Văn Thù, Phổ Hiền, Quan Âm, Địa Tạng,…,
3


Triết học

dù đã thành Phật nhưng họ tự nguyện ở lại cõi trần để cứu độ chúng sinh.
Phái đại thừa đề cao tăng ni – tầng lớp trung gian giữa tín đồ và Bồ tát, coi trọng nghi
thức cúng bái và chủ trương thờ tượng Phật.
Ngày nay, sự chia rẽ giáo lý tiểu thừa và đại thừa đã được Phật giáo phát triển
mạnh mẽ, chuyển từ những vấn đề nhân sinh sang những vấn đề bản thể, từ những vấn
đề đời sống hiện thực sang những vấn đề siêu hình rất phức tạp. Chúng ta chỉ tìm hiểu
tư tưởng triết học của Đức Phật Thích Ca, được thể hiện trong tạng Kinh – cơ sở lý
luận của Phật giáo tiểu thừa. Tư tưởng triết học cơ bản của Phật giáo nguyên thủy
(tiểu thừa) được trình bày trong tạng Kinh, chủ yếu nói về thế giới quan và nhân sinh
quan của Xítđácta Gôtama (Phật Thích Ca) – triết lý về cái khổ và con đường diệt khổ
(thuyết tứ diệu đế). Là một trường phái triết học – tôn giáo lớn của nền văn hóa Ấn Độ
cổ đại, Phật giáo đã ảnh hưởng rộng rãi và lâu dài đến đời sống tinh thần của nhiều
dân tộc trên thế giới.
II.

TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CỦA PHẬT GIÁO NGUYÊN THỦY
1. Thế giới quan của phật giáo nguyên thủy
Thế giới quan của phật giáo nguyên thủy mang tính vô thần, nhị nguyên luận
thiên về phía duy tâm chủ quan và có chứa những tư tưởng biện chứng chất phác,
được trình bày trong thuyết duyên khởi thông qua phạm trù vô ngã và vô thuờng.
a. Duyên khởi
Duyên khởi là nói tắt câu “Chư pháp do nhân duyên nhi khởi” có nghĩa là các
pháp đều do nhân duyên mà có. Pháp là tất cả mọi sự vật, bao gồm cả vật chất và tinh
thần, kể cả giáo lý. Còn nhân duyên là nguyên nhân và điều kiện. Duyên giúp cho
nhân biến thành quả. Phật giáo nguyên thủy cho rằng mọi sự vật, hiện tượng đều do
nhân duyên hòa hợp mà thành. Duyên khởi từ tâm mà ra. Tâm là cội nguồn của vạn
vật. Từ đây, Phật giáo nguyên thủy chủ trương vô tạo giả tức không có vị thần linh tối
cao nào tạo ra thế giới. Quan niệm vô tại giả gắn liền với quan niệm vô ngã, vô
thường.
b. Vô ngã

Vô ngã là không có một thực thể tối thượng tồn tại vĩnh hằng nào cả. Trong thế
giới, vạn vật và con người được tạo thành từ sắc, tức vật chất (đất, nước, lửa, gió) và
danh, tức tinh thần (thụ, tưởng, hành, thức) mà không có đại ngã hay tiểu ngã gì cả.
c. Vô thường
Vô thường là không có cái gì trường tồn và vĩnh cửu cả. Trong thế giới, sự xuất
hiện của vạn vật, kể cả con người cũng chỉ là kết quả hội tụ tạm thời giữa sắc và danh,
khi sắc và danh tan ra, chúng sẽ mất đi, điều này có nghĩa là, vạn vật luôn nằm trong
4


Triết học
chu trình sinh- trụ - dị - diệt; chúng luôn bị cuốn vào vòng biến hóa hư ảo vô
cùng theo luật nhân quả. Nhân nhờ duyên mới sinh ra quả, nhân nhờ duyên mà thành
nhân mới, nhân mới lại nhờ duyên mà thành quả mới, cứ như thế, vạn vật biến đổi,
hợp-thành, tan- hợp mà không có nguyên nhân đầu tiên và kết quả cuối cùng nào cả.
2. Nhân sinh quan của phật giáo nguyên thủy
Nhân sinh quan là nội dung chủ yếu của triết lý Phật giáo nguyên thủy, nó mang
tính nhân bản sâu sắc nhưng cũng chứa đầy tính chất duy tâm chủ quan, bi quan yếm
thế, không tưởng về đời sống xã hội và thần bí về đời sống con người, được thể hiện
cô đọng trong câu nói của Phật Thích Ca: “Hỡi chúng sinh, ta chỉ dạy cho các người
chỉ có một điều, đó là điều khổ và diệt khổ; Nếu nước biển có một vị là vị mặn thì học
thuyết của ta cũng có một vị là vị giải thoát”. Nhân sinh quan của phật giáo nguyên
thủy tiếp tục kế thừa những tư tưởng truyền thống được hình thành từ trong thời kỳ
Vêđa như tư tưởng nhân quả, nghiệp báo, tái sinh – luân hồi, … Tuy nhiên, tư tưởng
nổi bật tạo nên cốt lõi của quan niệm nhân sinh qian của Phật giáo nguyên thủy là
thuyết Tứ diệu đế bởi bốn bộ phận là khổ đế, tập đế, diệt đế và đạo đế.
a. Khổ đế
Khổ đế là lý luận về những nỗi khổ rõ ràng ở thế gian. Theo Phật có 8 nỗi khổ (bát
khổ) trầm luân bát tận mà bất cứ ai cũng phải gánh chịu là: sinh khổ, lão khổ, bệnh
khổ, tử khổ, ái biệt ly khổ (yêu thương mà phải chia ly), sở cầu bất đắc khổ (muốn mà

không được), oán tăng hội khổ (ghét nhau mà phải sống với nhau), ngũ uẩn khổ (sự
hội tụ và xung đột của ngũ uẩn-sắc, thụ, tưởng, hành, thức).
b. Nhân đế
Nhân đế là lý luận về những nguyên nhân dẫn đến nỗi khổ mọi cuộc sống con
người, Phật giáo cho rằng con người còn chìm đắm trong bể khổ khi không thoát khỏi
dòng sông luân hồi. Mà luân hồi là do nghiệp tạo ra. Sở dĩ có nghiệp là do lòng ham
muốn, tham lam( ham sống, ham lạc thú, ham giàu sang…), do sự ngu dốt và si mê,
nói ngắn gọn là do Tam độc (tham, sân, si) gây ra. Ngoài ra, nhân đế được diễn giả
một cách lôgích và cụ thể trong thuyết Thập nhị nhân duyên (12 nguyên nhân dẫn đến
bể khổ): vô minh, hành, thức, danh-sắc, lục nhập, xúc, thụ, ái, thủ, hữu, sinh, lão-tử.
Trong 12 nguyên nhân ấy thì vô minh là nguyên nhân thâu tóm tất cả, vì vậy, diệt trừ
vô minh là diệt trừ tận gốc sự đau khổ nhân sinh.
c. Diệt đế
Diệt đế là lý luận về khả năng tiêu diệt được nỗi khổ nơi cuộc sống thế gian để đạt
tới niết bàn. Khi vô minh được khắc phục thì tam độc sẽ biến mất, luân hồi sẽ chấm
dứt…, tâm sẽ thanh thản, thần sẽ minh mẫn, niết bàn sẽ xuất hiện. Diệt đế bộc lộ tinh
5


Triết học
thần lạc quan của Phật giáo ở chỗ nó vạch ra cho mọi người thấy cái hiện
hiện tại đen tối xấu xa của mình, để cải đổi, kiến tạo lại nó thành một cuộc sống xán
lạn tốt đẹp hơn. Phật giáo thể hiện khát vọng nhân bản, muốn hướng con người đến
cõi hạnh phúc “tuyệt đối”, muốn hướng khát vọng chân chính của con người tới chân thiện - mỹ.
d. Đạo đế
Đạo đế là lý luận về con đường diệt khổ, giải thoát. Nội dung cơ bản của nó thể
hiện trong thuyết Bát chính dạo (tám con đường đúng đắn) đưa chúng sinh đến niết
bàn, đó là: chính kiến (hiểu biết đúng), chính tư duy (suy nghĩ đúng), chính ngữ (lời
nói chân thật), chính nghiệp (hành động đúng dắn), chính mệnh (sống một cách chân
chính), chính tinh tấn (thẳng tiến mục đích đã chọn), chính niệm (ghi nhớ những điều

hay lẽ phải), chính định (tập trung tư tưởng vào một điều chính đáng). Chung quy, bát
chính đạo là suy nghĩ, nói năng, hành động đúng đắn... , nhưng về thực chất, thực
hành bát chính đạo là khắc phục tam độc bằng cách thực hiện tam học (giới, định,
tuệ). Trong đó, tham được khắc phục bằng giới (chính ngữ, chính nghiệp, chính
mệnh), sân được khắc phục bằng định (chính tinh tấn, chính niệm, chính định), si
được khắc phục bằng tuệ (chính kiến, chính tư duy).
Bên cạnh đó, Phật giáo còn khuyên chúng sinh thực hành: Ngũ giới (không sát
sinh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không ẩm tửu), Lục độ (bố thí, trì
giới, tinh tấn, nhẫn nhục, thiền định, trí tuệ); rèn luyện Tứ đẳng (từ, bi, hỉ, xả)… Phật
giáo phản đối chế độ đẳng cấp, tố cáo xã hội bất công, đòi bình đẳng công bằng xã
hội, khuyên chúng sinh luôn suy nghĩ về điều thiện và làm điều thiện.
Tứ diệu đế thể hiện định hướng cơ bản của Phật giáo: chấp thủ và ái dục tuy có
thể cho hạnh phúc tạm thời nhưng cuối cùng không bao giờ thỏa mãn được con người
và dẫn tới đau khổ. Cứ thế, con người và sinh vật tái sinh lặp đi lặp lại, kiếp này qua
kiếp khác. Bằng cách học theo con đường Phật giáo, tham ái và chấp thủ có thể được
hạn chế, có thể đạt được sự an lạc, thoát khỏi vòng luân hồi.
Sự thật của Khổ, là không có khả năng đáp ứng, là đau đớn, là sự thấu hiểu cơ bản
rằng cuộc sống này chỉ là "thế giới trần tục", là tạm bợ. Sự cố chấp và tham ái của
mình với những thứ vô thường là Khổ. Chúng ta mong đợi hạnh phúc từ tâm trạng vô
thường, và trông đợi những thứ vô thường, vì không bao giờ có cái gì là vĩnh hằng
nên kết quả của sự trông đợi vô vọng ấy chỉ có thể là đau khổ, không thể đạt được
hạnh phúc thực sự.
Khổ phát sinh khi chúng ta khao khát và bám víu vào những thứ thay đổi. Sự khao
khát cố chấp và ái dục tạo nên nghiệp, trói buộc chúng ta vào vòng luân hồi, vòng của
cái chết và sự tái sinh.
6


Triết học
Khổ có thể được diệt hoặc được hạn chế khi tham ái và chấp thủ ngừng

lại.. Điều này cũng có nghĩa là không tạo thêm nghiệp nào nữa. Diệt khổ là niết bàn,
buông bỏ, và an lạc.
Phật giáo Nguyên Thủy coi cái nhìn sâu sắc vào bốn chân lý như giải phóng chính
bản thân mình.
III. NHỮNG GIÁ TRỊ VÀ HẠN CHẾ CỦA TRIẾT LÝ NHÂN SINH PHẬT GIÁO
NGUYÊN THỦY
1. Những giá trị của triết lý nhân sinh Phật giáo nguyên thủy
Tư tưởng nổi bật tạo nên cốt lõi của quan niệm nhân sinh qian của Phật giáo
nguyên thủy là thuyết Tứ diệu đế bởi bốn bộ phận là khổ đế, tập đế, diệt đế và đạo đế.
Thông qua các phạm trù trên đây, có thể thấy được Đức Phật chỉ rõ quan niệm về cuộc
đời con người là khổ và những nỗi khổ cơ bản của con người qua phạm trù Khổ đồng
thời chỉ ra nguyên nhân, khẳng định những nỗi khổ đó hoàn toàn có thể diệt trừ được
thông qua phạm trù Đạo Đế. Theo tinh thần Tứ Diệu Đế, mỗi con người tồn tại trong
xã hội, nếu luôn nhận thức được rõ về bản chất cuộc sống, ý nghĩa cuộc sống của
mình, biết bằng lòng với những gì mình có, phấn đấu và không ngừng tu tập, làm
lành, lánh dữ sẽ đạt được cuộc sống an lạc và giải thoát từ trong chính thân tâm và
cuộc sống hàng ngày cũng như niềm tin vào sự giải thoát nơi Niết bàn của Phật giáo.
Tứ Diệu Đế là những chân lý diệu kỳ hàm chứa toàn bộ giáo lý Phật Giáo.
Tứ Diệu Đế mà đức Phật khái quát nên, một mặt giúp con người biết rằng mình
phải chịu khổ đau, mặt khác chỉ ra khổ đau không phải tự nhiên mà có, nó là kết quả
của các nguyên nhân và điều kiện chủ quan, khách quan hợp thành. Dưới góc nhìn Tứ
diệu đế, chúng ta có thể thấy được nguồn gốc của nỗi khổ con người ngày nay vẫn là
vô minh, tham, sân, si.
Sự ra đời của Tứ Diệu Đế gắn liền với bối cảnh lịch sử, kinh tế, chính trị - xã hội
của Ấn Độ đương thời. Đây là thời kỳ xã hội Ấn Độ trải qua sự phân biệt đẳng cấp
khắc nghiệp và nhà nước quân chủ chuyên chế trung ương tập quyền là sở hữu tối cao
về ruộng đất và thần dân. Mâu thuẫn giữa tầng lớp trên và tầng lớp dưới của xã hội
ngày càng diễn ra khắc nghiệt, dẫn đến sự phản kháng của quần chúng lao động nhằm
đòi tự do, công bằng, bình đẳng. Do đó, Phật giáo ra đời cùng với cốt lõi là Tứ Diệu
Đế đã đáp ứng nhu cầu tinh thần của nhân dân, phản ánh nỗi đau khổ của con người,

chống lại chế độ phân biệt đẳng cấp. Đồng thời, Tứ Diệu Đế với chủ trương bác bỏ uy
quyền thần thánh, xây dựng niềm tin vào con người đã chống lại sự thống trị của giáo
lý kinh Veda và đạo Bà la môn.
Thứ nhất là Khổ đế (Duhkha-satya), Đức Phật cho ta thấy hiện trạng thực tế của
đời sống con người bao gồm hai loại khổ đau: loại khổ đau thuộc về tự nhiên và loại
7


Triết học
khổ đau thuộc về tinh thần. Những loại khổ đau thuộc về tự nhiên như là sự
đói khát, nóng lạnh, bệnh tật, … Loại khổ thuộc về tâm lý là những trạng thái khổ đau
xuất phát từ tâm lý, chẳng hạn như yêu thương mà phải chia ly (ái biệt ly khổ), muốn
mà không được (sở cầu bất đắc khổ), ghét nhau mà phải sống với nhau (oán tăng hội
khổ). Thứ hai là Tập đế (Samudaya-satya) là những nguyên nhân gây ra khổ đau cho
con người. Đó chính là vô minh. Thứ ba là Diệt đế (Nirodha-satya), là trạng thái an lạc
và hạnh phúc, khi con người chấm dứt tham sân si. Trạng thái này còn được gọi là
Niết bàn. Thứ tư là Đạo đế (Màrga-satya), là con đường hay phương pháp diệt trừ
phiền não, tức là con đường bát chánh đạo.
Tóm lại, triết lý Tứ Diệu Đế bao quát toàn bộ tư tưởng triết học Phật giáo và nhất
quán với bản thể luận và nhận thức luận, thế giới quan và nhân sinh quan của triết học
Phật giáo. Trong đó, Khổ đế và Tập đế nói lên cuộc sống của con người về bản chất là
khổ đau và nguyên nhân sinh ra khổ đau. Diệt đế và Đạo đế phản ánh mặt thanh tịnh
của cuộc sống. Nếu như con người biết sống, chính cuộc sống này cũng cho ta cuộc
sống hạnh phúc và an lạc, ở ngay cuộc đời này.
Từ ý nghĩa này có thể thấy Phật giáo không phải là một tôn giáo tiêu cực mà là
một tôn giáo tích cực, không phải là tôn giáo bi quan mà là một tôn giáo lạc quan,
không phải là một tôn giáo chỉ đề cập đến xuất thế mà còn đề cập đến tinh thần nhập
thế.Tứ diệu đế không chỉ là tư duy lý luận triết học đơn thuần mà con là triết học
hành động, triết học thực tiễn, chỉ ra cho con người những chân lý tối thượng. Đó là
bản chất con người khi sinh ra đã là khổ, các nỗi khổ và cách thức diệt khổ để đạt tới

sự giải thoát. Cách thức để đạt tới sự giải thoát mà triết học Phật giáo đưa ra thông qua
Tứ Diệu đế hoàn toàn khác xa so với các trường phái triết học vào thời đó. Phật giáo
không đồng tình với cách tu khổ hạnh, ép xác để đạt tới sự thanh tịnh của tâm hồn mà
hòa nhập vào bản thể tuyệt đối, Phật giáo cũng không chủ trương chấp nhận cuộc sống
hiện thực với tất cả những niềm vui và nỗi khổ của cuộc sống. Thông qua Tứ Diệu Đế
cho thấy Phật giáo đề cao con đường, cách thức tu luyện đời sống và tu luyện trí tuệ
thiền định. Để đạt tới trạng thái giải thoát, trong “đế thứ tư: Đạo Đế”, Phật giáo đề ra
chủ trương giải thoát dần dần, qua từng giai đoạn; Từ giai đoạn tu hành, học tập trong
cuộc sống thời niên thiếu, đến giai đoạn trưởng thành, rồi đến giai đoạn sống như một
tu sĩ ẩn dật, và cuối cùng là giai đoạn thực sự thoát tục, giác ngộ, minh triết tiến tới cõi
Niết bàn.
2. Bản thể luận trong triết học Phật giáo:
a. Thuyết Thực hữu:
Thuyết thực hữu: Bản thể luận của Phật giáo nguyên thủy chứa đựng những yếu tố
duy vật vô thần và biện chứng chất phác thông qua các tư tưởng vô ngã, vô thường và
8


Triết học
triết lý nhân quả. Với phạm trù vô ngã, cho thấy Thích Ca Mâu Ni không
quan tâm đến cái tôi (ngã) với tư cách là một thực thể có tồn tại hay không. Ông chủ
trương vô ngã nhằm giải thoát cho con người từ trong quan niệm về cái tôi và tu tập
đạo đức tôn giáo. Trong Phật giáo thời kì bộ phái, xuất hiện nhiều lý thuyết bản thể
luận khác nhau, trong đó nổi bật nhất là lý thuyết ngã không pháp hữu (cái ta là không
còn vạn pháp là có) của phái Nhất thiết hữu bộ cho rằng con người cũng do năm yếu
tố (ngũ uẩn) hợp thành là: sắc (vật chất), thụ ( cảm giác), tưởng (ấn tượng), hành (suy
lý), và thức (ý thức). Do đó, hoàn toàn không có bản chất thực tại chân chính. Phái
này cho rằng mọi tồn tại đều có thể phân chia thành hai phương diện là bản thể và
hiện tượng. Bản thể vĩnh hằng bất biến với tư cách là yếu tố đa dạng khi phát sinh tác
ụng là quá khứ pháp, đang phát sinh tác dụng là hiện tại pháp, sẽ phát sinh tác dụng là

vị lai pháp.
b. Thuyết Tính không
Thuyết Tính không: Phái Trung quán thuộc Phật giáo Đại thừa cho rằng tất cả đều
là không, con người là không và vạn pháp cũng là không. Điều này có nghĩa là tất cả
mọi tồn tại đều do nhân duyên hòa hợp mà sinh ra, không có bản chất cố định của
mình. Tuy nhiên, phái Trung quán không bài trừ cái hữu (tồn tại), mà lấy không làm
có, không và có gắn liền với nhau. Thuyết Tính không của phái Trung quán một mặt
phủ định học thuyết “thực hữu” của phái Nhất thiết hữu bộ; mặt khác lại kế thừa tư
tưởng pháp vô thực thể của Phật giáo nguyên thủy, là một học thuyết bản thể luận đặc
sắc. Tính không không phải là phủ định sự tồn tại của bản thể hay chủ trương bản thế
luận vô bản thể. Theo thuyết này, Không hay Tính không là phạm trù triết học về bản
chất thế giới, có nội dung đặc biệt và ý nghĩa phong phú, chứ không phải là “không”
theo nghĩa thông thường, trống rỗng.
c. Thuyết Tâm thức
Thuyết Tâm thức: Đây là thuyết tìm hiểu mối quan hệ giữa chủ thể và bản thể,
đưa bản thể vào trong chủ thể, thậm chí quy về chủ thể. Thuyết này bao gồm hai phái:
Một là, phái Như Lai chú trọng tìm hiểu bản tính của tâm. Phái này coi Phật tính là
tính không, coi Phật tính không chỉ là căn nguyên để chúng sinh thành Phật mà còn là
bản tính của vạn vật. Hai là, phái Duy thức chú trọng phát triển hoạt động tâm thức.
Phái Duy thức coi “Vạn pháp duy thức” (tất cả các sự vật chỉ là tâm thức/không tách
rời ý thức). Theo quan điểm này, vạn vật do tâm thức sinh ra, đều là sự thể hiện của
tâm thức. Ngoài tâm thức ra thì không có bất cứ tính thực tại nào. Như vậy, cả phái
Như Lai và phái Duy thức đều coi thế giới là biểu tượng, quy tồn tại thành nhận thức,
coi tâm thức là căn nguyên, là bản thể của vạn vật trong đó có chúng sinh. Điều này

9


Triết học
có nghĩa, tất cả thế giới đều là các biểu tượng được hình thành từ tâm thức

chứ không phải thực tại.
3. Triết lý nhân sinh Phật giáo tại Việt Nam
Phật giáo được du nhập vào Việt Nam từ rất sớm và phát triển hưng thịnh vào đời
nhà Lý, Trần. Trong các lĩnh vực xã hội, văn hóa chính trị đặt biệt là xét trên khía
cạnh hệ thống tư tưởng, thì Đạo Phật đã trực tiếp hoặc gián tiếp góp phần hình thành
một quan niệm sống và sinh hoạt cho con người Việt Nam. Phật giáo góp phần hướng
thiện cho con người, cân bằng cuộc sống với nhịp độ ngày càng cao.
Thông qua Phật giáo chúng ta có thể tìm thấy nhiều nội dung tư tưởng mang tính
giáo dục sâu sắc. Mục tiêu giáo dục của đạo Phật là con người giác ngộ, con người có
năng lực tự giải thoát để đạt tới hạnh phúc. Có thể nói, Phật giáo đã mang đến một
quan niệm tiến bộ, bình đẳng và đề cao vai trò của con người trong hoạt động thực
tiễn. Tuy nhiên, cũng theo Phật giáo, trong quá trình vươn lên hoàn thiện mình, con
người cần phải nắm vững quy luật khách quan, phải có những phương thức hành dộng
đúng đắn, hợp quy luật hay còn gọi là gắn liền với đạo đức. Ngũ giới của đạo Phật:
Không sát sinh, không trộm cắp, không gian dâm, không nói dối, không uống rượu là
phương tiện dẫn dắt con người vượt khỏi song mê, bể khổ, luân hồi, tới chốn an lạc,
giải thoát. Không chỉ vậy, giới còn là điều kiện tối quan trọng trong việc tu tập thiền
định. Do vậy, giữ giới cũng đồng nghĩa với việc con người tự rèn luyện, trau dồi đạo
đức. Nghiên cứu Ngũ giới, chúng ta thấy đấy là những nguyên tắc đạo đức cơ bản mà
Phật đặt ra cho các Phật tử thực hành. Ngũ giới góp phần hướng tới con người đi đến
sự hoàn thiện trong tư tưởng, hành vi, bồi dưỡng nhân cách theo nhân sinh quan Phật
giáo.
Về giáo lý nghiệp báo hay nghiệp nhân quả báo của Đạo Phật đã được truyền vào
nước ta rất sớm. Giáo lý này đương nhiên đã trở thành nếp sống tín ngưỡng hết sức
sáng tỏ đối với người Việt Nam có hiểu biết, có suy nghĩ. Người ta biết lựa chọn ăn ở
hiền lành, dù tối thiểu thì đó cũng là kết quả tự nhiên âm thầm của lý nghiệp báo, nó
chẳng những thích hợp với giới bình dân mà còn ảnh huởng đến giới trí thức. Có thể
nói mọi người dân Việt điều ảnh hưởng ít nhiều qua giáo lý này. Vì thế, lý nghiệp báo
luân hồi đã in dấu đậm nét trong văn chương bình dân, trong văn học chữ nôm, chữ
hán, từ xưa cho đến nay để dẫn dắt từng thế hệ con người biết soi sáng tâm trí mình

vào lý nhân quả nghiệp báo mà hành động sao cho tốt đẹp đem lại hòa bình an vui cho
con người. Thậm chí trẻ con mười tuổi cũng tự nhiên biết câu: "ác giả ác báo". Chúng
phát biểu câu rất đúng hoàn cảnh sự việc xảy ra cho đối phương, hay "chạy trời không
khỏi nắng". Mặt khác họ hiểu rằng nghiệp nhân không phải là định nghiệp mà có thể
làm thay đổi, do đó họ tự biết sửa chữa, tu tập cải ác tùng thiện. Sống ở đời, đột nhiên
10


Triết học
những tai họa, biến cố xảy ra cho họ, thì họ nghĩ rằng kiếp trước mình vụng
đường tu nên mới gặp khổ nạn này. Không than trời trách đất, cam chịu và tự cố gắng
tu tỉnh để chuyển hóa dần ác nghiệp kia.
Những triết lý Phật Giáo về vô thường, vô ngã, thập nhị nhân duyên, tứ diệu đế,
nghiệp báo, luân hồi …dường như hướng con người đến điều thiện và tin rằng: sống
có đạo đức thì sẽ gặt hái được những điều thiện, điều tốt; sống vô đạo đức, trái luân
thường đạo lý, ắt sẽ bị quả báo.
KẾT LUẬN:
Tư tưởng nổi bật tạo nên cốt lõi của quan niệm nhân sinh qian của Phật giáo
nguyên thủy là thuyết Tứ diệu đế bởi bốn bộ phận là khổ đế, tập đế, diệt đế và đạo đế.
Bốn chân lý giải thích bản chất của sự khổ trong luân hồi, nguyên nhân của sự khổ, và
làm thế nào để giải trừ đau khổ. Nếu như có một ngọn lửa tự cháy giữa hư không, vô
nhân, vô duyên, vậy thì khi muốn dập tắt ngọn lửa ấy là điều không thể nào, thế
nhưng ngược lại, trong thực tế ngọn lửa nào cháy lên cũng có nhân, có duyên của:
chất đốt, không khí, v.v.. Khi chúng ta loại bỏ các điều kiện đó thì ngọn lửa cũng tắt,
tương tự như vậy, Đức Phật dạy Ở đời thực có khổ đau (Khổ đế), khổ đau cũng có
nguyên nhân (Tập đế), khổ đau có thể dập tắt (Diệt đế) và Bát chánh đạo - Trung đạo
là con đường đưa đến khổ diệt (Đạo đế).
Mô hình Tứ diệu đế có thể là một sự tương quan với y học cổ điển Ấn Độ, trong
đó Tứ diệu đế có chức năng như một sự chẩn đoán, và Đức Phật được biết đến như
một bác sĩ:

1. Sự thật của Khổ: xác định bệnh và tính chất của bệnh (chẩn đoán).
2. Sự thật của Tập: xác định các nguyên nhân của bệnh tật (nguyên nhân).
3. Sự thật của Diệt: xác định một cách chữa bệnh (tiên lượng).
4. Sự thật của Đạo: đề xuất một cách điều trị cho các bệnh (toa thuốc).

Sự tương quan này được cho là để nhấn mạnh lòng từ bi của Đức Phật mong
muốn chúng sinh có thể tự chấm dứt đau khổ, nhận sự an lạc vĩnh hằng.
Phật giáo trong suốt quá trình lịch sử đã ngày càng khẳng định vai trò quan trọng
đối với vấn đề giáo dục đạo đức xã hội. Quan diểm nhân quả, nghiệp báo, luân hồi của
nhà Phật, hàm chứa nội dung giáo dục rất lớn. Con người theo quan niệm đạo Phật
nếu gieo nhân lành sẽ được quả lành, gieo nhân ác sẽ được quả ác. Do đó, nó góp
phần nâng cao trách nhiệm của mỗi cá nhân tồn tại trong xã hội. Giáo lý Phật giáo có
tác dụng điều chỉnh ý thức và hành vi đạo đức cho con người, nâng đỡ, khơi dậy tình
thương yêu, đức vị tha, làm điều thiện, trách điều ác…Không chỉ áp dụng trong giới
11


Triết học
Phật tử mà những nội dung mang tính đạo đức của Phật giáo còn có ảnh
hưởng mạnh mẽ đối với xã hội. Luật nhân quả nhấn mạnh vào trách nhiệm của từng
cá nhân đối với các hành vi đạo đức, con người vì sợ quả báo, sợ bị đầy xuống địa
ngục nên họ cố gắng làm thiện, tránh ác, tu nhân tích đức. Điều này góp phần hoàn
thiện đạo đức cho từng cá nhân cũng như có lợi cho việc xây dựng một nền đạo đức
tốt đẹp trong xã hội. Không chỉ vậy, luận thuyết của nhà Phật về đạo đức còn chỉ ra
cho con người thấy rằng: con người phải chịu trách nhiệm về hành động của mình kể
cả sau khi chết, vì chết theo quan niệm của đạo Phật mới chỉ là chấm dứt một kiếp
sống mà thôi. Quan niệm này sẽ có tác dụng hạn chế được lối sống buông thả, ích kỷ,
đề cao cá nhân, dẫn đến tham lam, tàn bạo, bất chấp đạo lý để thỏa mãn dục vọng cá
nhân.
Nội dung giáo lý Phật giáo thể hiện một triết lý về sự công bằng, giáo dục con người

phải biết sống lành mạnh, khuyến khích con người làm nhiều việc tốt, việc thiện, lánh
xa điều ác, tránh làm những việc bất nhân phi nghĩa để xây dựng một cuộc sống tốt
đẹp nơi trần thế. Chính những giá trị đạo đức trên mà Phật giáo ngày càng có vị trí
vững chắc trong tâm thức mỗi người dân Việt Nam, khẳng định sức sống lâu bền của
nó đối với dân tộc Việt Nam.
Danh mục tài liệu tham khảo
1. Triết học - Các slide bài giảng của TS. Bùi Xuân Thanh.
2. Tài liệu học tập Triết học - Khoa Lý luận chính trị Trường Đại học kinh tế
TP.HCM - NXB ĐHQG-HCM và các tác giả.
3. Lịch sử Triết học - Khoa Lý luận chính trị Trường Đại học kinh tế TP.HCM NXB ĐHQG-HCM và các tác giả.
4. Từ điển wikipedia.org về Phậtgiáo, về Tứ diệu đế.
5. Ảnh hưởng của Phật giáo đến các giá trị đạo đức Xã Hội của người Việt-Trang
Phật pháp ứng dụng.
6. Ảnh hưởng Phật Giáo trong đời sống người Việt- Nhiều tác giả-Trang Tu viện
Quảng Đức.
7. Triết học Phật giáo qua Tứ diệu đế và ý nghĩa của nó-Tác giả Phan Thị Hội.
8. Luận văn nhân sinh quan phật giáo và sự thể hiện của nó ở một số tín đồ đạo
phật hiện nay.

12



×