Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

CHỨNG MINH SỰ CẦN THIẾT KHÁCH QUAN CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ KINH TẾ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (257 KB, 25 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA SAU ĐẠI HỌC
.

TIỂU LUẬN:
CHỨNG MINH SỰ CẦN THIẾT KHÁCH QUAN CỦA
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ KINH TẾ

Giảng viên hướng dẫn:
TS. NGUYỄN HẠNH

Học viên thực hiện:
LÊ PHƯƠNG CHI
MSSV: M3417003

Cần Thơ, tháng 11 /2017


Chứng minh sự cần thiết khách quan của quản lý Nhà nước về kinh tế

Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ KINH TÊ
1. Khái niệm quản lý Nhà nước về kinh tê
Quản lý của Nhà nước về kinh tế là sự tác động có tổ chức và bằng
pháp quyền của Nhà nước lên nền kinh tế toàn dân nhằm sử dụng có
hiệu quả nhất các nguồn lực kinh tế trong và ngoài nước, các cơ hội có
thể có, để đạt được các mục tiêu phát triển kinh tế đất nước đã đặt ra,
trong điều kiện hội nhập và mở rộng giao lưu quốc tế. Quản lý kinh tế là
nội dung cốt lỗi của quản lý xã hội nói chung và nó phải gắn chặt với các
hoạt động quản lý khác của xã hội1.
Quản lý nhà nước về kinh tế là một dạng quản lý xã hội của Nhà
nước. Nó rất quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất


nước, nhưng cũng rất phức tạp. Nhà nước quản lý toàn bộ nền kinh tế
quốc dân trên tất cả các ngành. Nhà nước quản lý toàn bộ nền kinh tế
quốc dân không chỉ trên phạm vi quốc gia mà còn cả một số hoạt động
kinh tế đối ngoại diễn ra ở nước ngoài, như các doanh nghiệp có vốn
đầu tư ở nước ngoài, các hàng hóa xuất nhập khẩu từ nước ngoài, thẩm
định các công nghệ thiết bị nhập khẩu.
Quản lý nhà nước về kinh tế là quản lý ở tầm vĩ mô, giải quyết
những quan hệ vĩ mô có liên quan đến toàn bộ nền kinh tế quốc dân,
trong đó kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo. Nhà nước không can
thiệp, không giải quyết những vấn đề quản lý sản xuất kinh doanh của
các chủ thể kinh tế hoạt động trong nền kinh tế thị trường (cá nhân,
doanh nghiệp, các tập đoàn kinh tế...).
Thực chất quản lý Nhà nước về kinh tế là việc tổ chức và sử dụng có
hiệu quả nhất các nguồn lực trong và ngoài nước mà Nhà nước có khả
năng tác động vì mục tiêu xây dựng và phát triển đất nước. Trong đó vấn
đề nắm bắt được con người, tổ chức và tạo động lực lớn nhất cho con
người hoạt động trong xã hội là vấn đề có vai trò then chốt. Bản chất của
quản lý Nhà nước về kinh tế là đặc trưng thể chế chính trị của đất nước,
có chỉ rõ Nhà nước là công của giai cấp chính trị của đất nước, nó chỉ rõ
Nhà nước là công cụ của giai cấp hoặc của lực lượng chính trị, xã hội 2
1 Giáo trình quản lý nhà nước về kinh tế, Trường đại học kinh tế quốc dân, Nxb Đại học kinh tế quốc dân, năm 2008,
sđd, tr.19
2 GS.TS Đỗ Hoàn Toàn, PGS.TS. Mai Văn Bưu, Giáo trình quản lý Nhà nước về kinh tế, Nhà xuất bản lao động và xa
hội, trang 22

2


Chứng minh sự cần thiết khách quan của quản lý Nhà nước về kinh tế


Điều 50, Hiến pháp 2013 quy định: “Nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, phát huy nội lực,
hội nhập, hợp tác quốc tế, gắn kết chặt chẽ với phát triển văn hóa, thực
hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường, thực hiện công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”. Cho thấy nền kinh tế nước ta luôn
có sự quản lý của Nhà nước. Xã hội càng phát triển thì vai trò và chức
năng quản lý của Nhà nứớc càng tăng lên. Trong chiến lược phát triển
kinh tế xã hội 2011-2020 (Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI) đã nêu rõ
tiếp tục phát huy quyền tự do kinh doanh theo pháp luật của mọi công
dân để làm giàu cho bản thân và đóng góp cho xã hội. Mọi thành phần
kinh tế, các chủ thể tham gia thị trường đều được coi trọng, cùng phát
triển lâu dài, hợp tác, cạnh tranh bình đẳng, lành mạnh và văn minh,
trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo.
Trong quản lý nhà nước về kinh tế, Nhà nước sử dụng hệ thống các
công cụ cần thiết để thực hiện chức năng quản lý của mình như công cụ
định hướng (kế hoạch, quy hoạch, chiến lược phát triển kinh tế ...), công
cụ kinh tế, tài chính tiền tệ (chính sách đầu tư, thuế, chi tiêu ngân sách,
hệ thống ngân hàng, lãi suất, tín dụng...), công cụ pháp lý (pháp luật,
các văn bản pháp quy...), các công cụ tổ chức và giáo dục... Trước thời
kỳ đổi mới kinh tế, Nhà nước ta quản lý nền kinh tế bằng cơ chế kế
hoạch hóa tập trung mang nặng tính hành chính, quan liêu, bao cấp. Cơ
chế quản lý kinh tế này dựa vào mệnh lệnh từ trên xuống và dựa vào
quan hệ hành chính tổ chức trực tiếp gắn liền với quan hệ kinh tế cấp
phát - giao nộp. Quản lý nhà nước về kinh tế được thực hiện bằng
phương pháp hành chính đơn thuần thay cho phương pháp kinh tế và
giáo dục. Nhà nước đã bao cấp mọi hoạt động kinh tế bằng ngân sách
của Nhà nước. Cơ chế quản lý này đã đưa đến sự thụ động, trông chờ,
không cần tính toán hiệu quả, phục tùng triệt để những quy định xơ
cứng của cấp trên, thủ tiêu tính chủ động, sáng tạo của cấp dưới, của
các chủ thể kinh tế.

2. Đặc điểm quản lý Nhà nước về kinh tê
Quản lý nhà nước về kinh tế là sự tác động có tổ chức bằng pháp
quyền và thông qua một hệ thống các chính sách, với các công cụ quản
lý kinh tế lên nền kinh tế nhằm đạt được mục tiêu phát triển kinh tế đất
nước đã đặt ra trên cơ sở sử dụng có hiệu quả nhất các nguồn lực kinh tế
3


Chứng minh sự cần thiết khách quan của quản lý Nhà nước về kinh tế

trong nước và ngoài nước trong điều kiện mở cửa và hội nhập kinh tế
quốc tế.
Nhiệm vụ chủ yếu quản lý vĩ mô nền kinh tế là đảm bảo cân đối cơ
bản trên tổng thể nên kinh tế tạo ra môi trường cho chủ thể kinh doanh
trên thị trường, dẫn dắt nền kinh tế quốc dân phát triển liên tục và tốc độ
cao. Chức năng chủ yếu là vạch ra mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế
xã hội và các chính sách kinh tế đồng bộ. Nhà nước vừa điều chỉnh kinh
tế vĩ mô đối với doanh nghiệp vừa phục vụ doanh nghiệp trên nhiều mặt,
thực hiện sự thống nhất giữa vi mô và vĩ mô.
Quản lý nền kinh tế quốc dân của cơ quan lập pháp, hành pháp, tư
pháp của cchhinh1 quyền đối với nền kinh tế quốc dân. Quản lý mang
tính quyền lực Nhà nước có nghĩa lá một mặt, quản lý này lệ thuộc váo
chính trị, xuất phát từ chỗ Nhà nước là bộ phận trung tâm trong hệ thống
chính trị xã hội, là công cụ đặc biệt để thực hiện quyền lực chính trị của
giai cấp thống trị đối với giai cấp khác và xã hội. Mặt khác, quản lý này
mang tính pháp quyền và thực hiện theo nguyên tắc pháp chế.
Xuất phát từ hai đặc điểm trên, mục tiêu đặc ra là quản lý Nhà nước
về kinh tế là kuc5 tiêu kinh tế- xã hội, mục tiêu này được thực hiện tăng
trưởng và phát triển nền kinh tế quốc dân. Hiệu quả kinh tế – xã hội được
xem như mục tiêu chuẩn để dạt được mục tiêu trên.

3. Mục đích của quản lý nhà nước về kinh tê
3.1. Vì lợi ích giai cấp trong nền kinh tế và những phát sinh mâu
thuẫn trong quan hệ kinh tế.
Mác-Lênin, cho rằng giai cấp được phân hoá và hình thành trong
lĩnh vực kinh tế. Chỉ khi nào xem xét con người trong quá trình tái sản
xuất xã hội, người ta mới có khái niệm về giai cấp. Giai cấp là một tập
hợp những con người cùng vị trí trong nền kinh tế quốc dân. Vị trí của
con người trong nền kinh tế được xem xét trên ba mặt: vị trí của họ đối
với tư liệu sản xuất (tức TLSX thuộc về ai), vị trí của họ trong quá trình
quản lý nền kinh tế (tức, ai là chủ thể quản lý, ai là đối tượng quản lý) và
vị trí của họ trong quá trình phân chia thành quả lao động (tức, ai là
người có quyền phân chia thành quả lao động và quyết định hưởng thụ).
Vậy, chính trên lĩnh vực kinh tế lúc nào cũng có cuộc đụng độ giai
cấp giữa một bên là giới chủ với một bên là giới thợ. Cuộc đấu tranh này

4


Chứng minh sự cần thiết khách quan của quản lý Nhà nước về kinh tế

đương nhiên là khóc liệt. Trong quan hệ chủ-thợ, luôn có sự bóc lột quá
mức của chủ, sự thiếu sót của chủ trong việc bảo hộ và bảo hiểm lao
động. Ngược lại, giới thợ thuyền cũng đấu tranh với chủ để bảo vệ lợi ích
của mình, trong đó đôi khi cũng xảy ra sự đấu tranh quá mức của thợ
thuyền.
Khi một xã hội cần đến cả hai giai cấp trên, xã hội đó không thể để
cho sự mâu thuẫn trên dẫn đến sự huỷ diệt tính mạng và tài sản của cả
đôi bên.
Cũng theo chủ nghĩa Mác-Lênin, Nhà nước là công cụ của giai cấp,
có chức năng , nhiệm vụ bảo vệ quyền lợi giai cấp. Do đó, Nhà nước phải

can thiệp vàokinh tế mới có thể bảo vệ quyền lợi kinh tế của giai cấp
được.
Nhìn vào nền kinh tế nước ta chúng ta cũng có thể thấy rất rõ lý do
đó. Trước đây, nền kinh tế nước ta chỉ có hai thành phần sở hữu là quốc
doanh và tập thể. Do đó không có bóc lột. Nhưng sau khi thực hiện đa
dạng hoá sở hữu về tư liệu sản xuất và mở cửa ra quốc tế, cho du nhập
tư bản nước ngoài vào nước ta, vấn đề giai cấp lập tức xuất hiện. Trong
hàng loạt doanh nghiệp đã nẩy sinh mâu thuẫn chủ thợ. Nếu trước kia
cần đến quản lý nhà nước về kinh tế là vì những lý do nào khác, thì ngày
nay, ngoài các lý do kia, còn có thêm một lý do mới, thậm chí là lý do
hàng đầu, là vấn đề bảo vệ quyền lợi giai cấp. Sự bảo vệ này của Nhà
nước được hướng vào giai cấp chủ, giai cấp thợ hoặc cả hai. Nhưng dù
trên hình thức, sự bảo vệ được hướng vào cả hai, về bản chất, bao giờ
cũng hướng vào giai cấp mà Nhà nước từ đó sinh ra.
3.2. Các tác động của những điều kiện khách quan và chủ quan
trong hoạt động kinh tế.
Những tác động của những điều kiện khách quan và chủ quan trong
hoạt động kinh tế, đó là:
Thứ nhất, về nguồn nhân lực, trong thời đại ngày nay, con người
được coi là một nguồn lực của sự phát triển kinh tế. Bởi vậy, việc phát
triển con người, phát triển nguồn nhân lực trở thành vấn đề chiếm vị trí
trung tâm trong hệ thống phát triển các nguồn lực. Phát triển nguồn
nhân lực của một quốc gia chính là sự biến đổi về số lượng và chất lượng
nguồn nhân lực trên các mặt thể lực, trí lực, kỹ năng, kiến thức và tinh
thần cùng với quá trình tạo ra những biến đổi tiến bộ về cơ cấu nguồn
5


Chứng minh sự cần thiết khách quan của quản lý Nhà nước về kinh tế


nhân lực.
Nguồn nhân lực chất lượng cao là điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế
ngày càng sâu rộng hơn, rút ngắn khoảng cách tụt hậu, thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế và đẩy nhanh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước nhằm phát triển bền vững. Quá trình hội nhập vào nền kinh tế khu
vực và quốc tế, nguồn nhân lực đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng
cao của Việt Nam đang đứng trước nhiều thách thức lớn.
Thứ hai, về khoa học công nghệ, đội ngũ cán bộ khoa học - công
nghệ nước ta còn nhỏ bé, chất lượng thấp; khả năng về vốn, phương tiện
nghiên cứu ở nước ta cũng còn hạn hẹp. Vì vậy, không thể cùng một lúc
đầu tư để phát triển tất cả các lĩnh vực khoa học - công nghệ mà phải lựa
chọn những lĩnh vực nhất định để đầu tư. Lựa chọn đúng sẽ tạo điều kiện
cho khoa học - công nghệ phát triển và ngược lại. Vì thế , phương hướng
chung cho sự phát triển khoa học - công nghệ ở nước ta là: phát huy
những lợi thế của đất nước, tận dụng mọi khả năng để đạt trình độ công
nghệ tiên tiến, đặc biệt là công nghệ thông tin và công nghệ sinh học,
tranh thủ ứng dụng ngày càng nhiều hơn, ở mức cao hơn và phổ biến hơn
những thành tựu mới về khoa học và công nghệ, từng bước phát triển
kinh tế tri thức. Xác định phương hướng đúng cho sự phát triển khoa học
- công nghệ là cần thiết nhưng khoa học - công nghệ chỉ phát triển khi
được bảo đảm những điều kiện kinh tế - xã hội cần thiết. Những điều kiện
đó là: đội ngũ cán bộ khoa học - công nghệ có số lượng đủ lớn, chất
lượng cao; đầu tư ở mức cần thiết; các chính sách kinh tế-xã hội phù
hợp.
Thứ ba, về chính sách đối ngoại, ngày nay cuộc cách mạng khoa
học và công nghệ cùng với xu thế toàn cầu hoá kinh tế đã và đang tạo ra
mối liên hệ và sự tuỳ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế của các quốc
gia. Do đó, việc mở rộng quan hệ kinh tế giữa nước ta với các nước khác
trở thành một tất yếu kinh tế, tạo ra khả năng và điều kiện để các nước
chậm phát triển tranh thủ vốn, kỹ thuật, công nghệ, kinh nghiệm tổ chức

quản lý... để đẩy nhanh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước. Vì vậy, chúng ta phải cần có một đường lối kinh tế đối ngoại đúng
đắn vừa đạt hiệu quả kinh tế cao, kết hợp được sức mạnh của dân tộc với
sức mạnh của thời đại, giữ vững được độc lập, chủ quyền dân tộc, xây
dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
6


Chứng minh sự cần thiết khách quan của quản lý Nhà nước về kinh tế

3.3. Sự tham gia của Nhà nước vào nền kinh tế quốc dân
Công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá là sự nghiệp của toàn dân,
thế nhưng công nghiệp hoá, hiện đại hoá là sự nghiệp mang tính tự giác,
sự nghiệp đó phải do một Đảng Cộng sản tiên phong, có bề dày kinh
nghiệm chiến đấu, biết tự đổi mới không ngừng lãnh đạo. Tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với công nghiệp hoá, hiện đại
hoá trước hết là phải tiếp tục giữ vững ổn đinh về chính trị, Đảng Cộng
sản Việt Nam phải là người lãnh đạo duy nhất, trực tiếp và toàn diện mọi
hoạt động của xã hội Việt Nam. Điều này có ý nghĩa to lớn trong việc huy
động các nguồn lực của đất nước nhằm đáp ứng yêu cầu của công
nghiệp hoá, hiện đại hoá; phát triển quan hệ kinh tế đối ngoại... Thứ hai,
công nghiệp hoá, hiện đại hoá phải được tiến hành theo đường lối, quan
điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đây là nhân tố trực tiếp bảo đảm
thắng lợi của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta theo
định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhà nước có chức năng quản lý kinh tế - xã
hội, Nhà nước ta có sứ mệnh tổ chức thực hiện đường lối công nghiệp
hoá của Đảng Cộng sản Việt Nam thông qua việc thực thi cơ chế, chính
sách và điều hành các hoạt động kinh tế - xã hội nhằm thực hiện các
mục tiêu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá mà Đảng ta đã đề ra. Có thể
nói, thành công của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá trực tiếp

phụ thuộc vào vai trò quản lý kinh tế-xã hội của Nhà nước.
4. Vai trò quản lý kinh tế của Nhà nước ta
Khẳng định trước hết bản chất của Nhà nước ta là Nhà nước của dân,
do dân và vì nhân dân. Để quản lý kinh tế, Nhà nước đóng vai trò chủ thể
quản lý, làm cho nền kinh tế tăng trưởng, đi đôi với giải quyết tốt các vấn
đề xã hội, tạo điều kiện để nhân dân sống và làm ăn theo pháp luật; Về
mặt Nhà nước, thì Nhà nước là cơ quan thực thi quyền lực của nhân dân,
bảo vệ lợi ích của quốc gia, chủ sở hữu những tư liệu sản xuất chủ yếu;
vận hành nền kinh tế bằng cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước
theo định hướng XHCN; Nền kinh tế thị trường ở nước ta còn sơ khai, cho
nên vai trò của Nhà nước rất nặng nề và quan trọng:
+Nhà nước phải tạo điều kiện thúc đẩy thị trường ra đời phù hợp với
xu hướng thời đại, đồng thời phải điều tiết thị trường để nền kinh tế ổn
định & phát triển.
+Nhà nước phải kiên quyết đấu tranh khắc phục, hạn chế tối đa
7


Chứng minh sự cần thiết khách quan của quản lý Nhà nước về kinh tế

những khuynh hướng: phân hóa giàu nghèo quá mức và tâm lý sùng bái
đồng tiền, vì đồng tiền mà chà đạp lên nhân phẩm, đạo đức… đồng thời
hạn chế và khắc phục khuyết điểm, yếu kém của bộ máy Nhà nước.
+Nhà nước phải vận hành nền kinh tế bằng cơ chế quản lý mới, định
hướng XHCN phù hợp với bản chất của Nhà nước ta.
Tuy nhiên, khi khẳng định sự cần thiết phải có sự can thiệp của Nhà
nước thì cũng cần cân nhắc kỹ lưỡng tời cái được - cái mất của sự can
thiệp ấy. Cách giải quyết không phải là bỏ mặc thị trường, mà phải là
nâng cao hiệu quả của sự can thiệp đó. Nhà nước có một vai .trò chính
đáng và thường xuyên trong các nền kinh tế hiện đại Vai trò đó của Nhà

nước đặc biệt thể hiện rõ rệt ở việc xác định "các quy tắc trò chơi" để can
thiệp vào những khu vực cần có sự lựa chọn, thể hiện nhưng khuyết tật
của thị trường, để đảm bảo tính chỉnh thể của nền kinh tế và để cung cấp
những dịch vụ phúc lợi. Quả thực, không thể phủ nhận vai trò của Nhà
nước trong các lĩnh vực như: ổn định kinh tế vĩ mô thông qua chính sách
tài chính và tiền tệ, củng cố an ninh quốc phòng, cung cấp hàng hoá
công cộng, chống ô nhiễm môi trường, phát triển giáo dục tăng thu nhập
và nâng cao phúc lợi xã hội, tạo dựng một bộ khung xã hội được sự điều
hành của luật pháp, định hướng cạnh tranh một cách có hiệu quả bằng
cách giảm độc quyền…
a) Vai trò của Nhà nước trong quốc phòng và trong việc sản xuất, tiêu
dùng các hàng hoá công cộng
Quốc phòng là một ví dụ chứng tỏ vai trò tối quan trọng của Nhà nước.
Điều đó được quyết định bởi quốc phòng là một kiểu hàng hoá hoàn toàn
khác hẳn với các loại hàng hoá vật thể khác ở chỗ, người ta không trả
tiền cho mỗi đơn vị sử dụng mà mua nó như một tổng thể nhằm mục
đích bảo vệ an ninh của cả một quốc gia. Ở đây, bảo vệ cho một cá nhân
không có nghĩa là giảm bảo vệ cho người khác, bởi tất cả mọi người tiêu
thụ các dịch vụ quốc phòng một cách đồng thời. Các loại hàng hoá kiểu
như vậy được gọi là hàng hoá công cộng, bởi không một doanh nghiệp tư
nhân nào có thể bán quốc phòng của toàn dân cho các công dân riêng lẻ
và coi đó là nghề kinh doanh thu lãi. Đơn giản là không thể có chuyện
dịch vụ quốc phòng lại được đem rao bán cho những người cần hoặc
không thực hiện bảo vệ an ninh quốc gia, cho những người từ chối chi trả
kinh phí cho quốc phòng. Hơn nữa, hàng hoá công cộng là thứ hàng hoá
8


Chứng minh sự cần thiết khách quan của quản lý Nhà nước về kinh tế


không thể định giá chính xác được, cho nên tư nhân không thể cung cấp.
Đấy là nguyên nhân chính giải thích vì sao quốc phòng phải do Nhà nước
điều hành và chi phí cho quốc phòng phải được lấy từ nguồn tài chính
công, từ ngân sách Nhà nước có được thông qua thuế.
b) Vai trò của Nhà nước trong việc tạo dựng bộ khung xã hội và luật
pháp
Để thực hiện đúng đắn chức năng phân phối của mình, nền kinh tế thị
trường đòi hỏi một loạt thể chế phát triển cao, trong đó có hệ thống pháp
lý để chống lại bạo lực và gian lận bao gồm: hệ thống có liên quan tới
những quyền sở hữu, những điều luật về phá sản và khả năng thanh
toán, hệ thống tài chính với ngân hàng trung ương và các ngân hàng
thương mại để giữ cho việc cung cấp tiền mặt được thực hiện một cách
nghiêm ngặt… Thật vậy, trong các nền kinh tế thị trường không có gì bảo
đảm để không diễn ra bạo lực và gian lận. Đó là lý do tại sao Nhà nước
cần phải có lưu trữ văn bản, hồ sơ, chứng từ về đất đai, nhà ở, đảm bảo
các hợp đồng mua bán tất cả các loại sản phẩm. Cả người mua lẫn người
bán đều muốn là khi cả hai phía đã đồng ý trao đổi thì sự thoả thuận
nhất định phải được thực hiện. Tình hình đó cũng giống như đối với quan
hệ giữa người chủ và người làm công. Người lao động đã với tư cách cá
nhân hay tập thể trong các tổ chức hiệp hội cũng đều có sự thoả thuận
nhất định về điều kiện làm việc, tiền lương với chủ sử dụng lao động. Nếu
như không có sự đảm bảo cho các thoả thuận ấy, nghĩa là không có sự
thực thi của luật pháp thì các giao dịch trên thị trường trở nên khó mà có
thể thực hiện.3
5. Đối tượng, phạm vi quản lý Nhà nước về kinh tê
Nhà nước quản lý toàn bộ nền kinh tế quốc dân là: quản lý trên lãnh
thổ quốc gia, kể cả các dự án có vốn đầu tư nước ngoài, quản lý bộ phần
cấu thành nền kinh tế gồm tài nguyên quốc gia, kết cấu hạ tầng kính tế,
quỹ tiền tệ quốc gia, dự trữ ngoại tệ và vàng cùng các kim loại quý, hệ
thống các doanh nghiệp thuộc mọi loại hình sở hữu, quản lý mọi ngành

nghê kinh tế hợp thành hệ thống kinh tế quốc dân đối với tài nguyên
quốc gia Nhà nước quản lý toàn diện và tuyệt đối , đối với doanh nghiệp
Nhà nước quản lý các mặt định hình hình thức sơ hữu của nền kinh tế,
của doanh nghiệp, Nhà nước can thiệp vào cơ chế quản lý doanh nghiệp
3 />
9


Chứng minh sự cần thiết khách quan của quản lý Nhà nước về kinh tế

của quá trình hình thành lực lượng sản xuất của xã hội, nhưng nói chung
là sự can thiệp có mức độ nhất định mà chủ yếu các doanh nghiệp có
quyền tự chủ của mình trong việc quyết định sản xuất gì, và như thế nào
và Nhà nước thực hiện chức năng quản lý.

Chương 2: SỰ CẦN THIÊT KHÁCH QUAN CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
VỀ KINH TÊ
1. Nhà nước
1.1. Sự ra đời của Nhà nước
Ngay từ khi con người xuất hiện trong tiến trình lịch sử, cuộc sống
cộng đồng đã hình thành, lúc đầu chỉ diễn ra trên quy mô nhỏ hẹp (nhóm
nhỏ, bầy,đàn ...) rồi mới phát triển thành các cộng đồng quy mọ lớn hơn.
Trong cuộc sống cộng đồng, giữa các con người nay sinh các va vấp,
xung đột đòi hỏi phải có một cơ chế và tổ chức xử lý các va vấp, xung đột
này, dần dần hình thành nên quy tắc xử sự chung được tuyệt đại đa số
trong cộng đồng chấp thuận và tuân thủ. Trong xã hội công sản nguyên
thủy, khi lực lượng sản xuất còn kém phát triển, xã hội chưa có của cải
dư thừa, chưa có tư hữu và xã hội chưa phân chia thành giai cấp, chưa có
sự đối lập về lợi ích kinh tế giữa các tập đoàn người thì những quy tắc xử
sự chung của toàn xã hội, mà hỉnh thức biểu hiện của nó là các phong

tục, tập quán, các quy tắc lễ nghi, tôn giáo được thực hiện bằng sự tự

10


Chứng minh sự cần thiết khách quan của quản lý Nhà nước về kinh tế

giác của mỗi người trong xã hội và bằng uy tính của các thủ lĩnh, của các
lãnh tụ trong cộng đồng.4
Trong các đặc trưng về bản chất, đặc trung về mặt kinh tế bao gồm
vấn đề sản xuất và vấn đề lợi ích kinh tế là quan trọng nhất, bởi các hoạt
động kinh tế ngày càng trở thành một trong những hoạt động cốt lỗi của
xã hội. Các Nhà nước trước chủ nghĩa tư bản về cơ bản là đại diện cho
quyền lợi thiểu số giai cấp thống trị giàu có nhằm bốc lột, nô dịch đại đa
số nhân dân lao động trong và ngoài nước. Đặc biệt là Nhà nước tư sản,
thông qua pháp luật, chính sách và các công cụ quản lý khác để chi phối
các hoạt động kinh tế và xã hội, duy trì và phát triển lợi ích của các nhà
tư bản. Dù dưới nhiều hình vẻ khác nhau, các nhà lý luận bênh vực cho
các nhà tư sản đã không phủ nhận bản chất giai cấp của Nhà nước. 5
1.2. Nhà nước với vấn đề kinh tê
Nhà nước vừa là một thiết chế xã hội vừa là một tổ chức xã hội. Là
một thiết chế xã hội nên Nhà nước là công cụ của giai cấp thống trị. Là
một tổ chức xã hội, Nhà nước đồng thời là bộ máy công quyền của xã hội,
được sử dụng để duy trì trật tự xã hội vì lợi ích của giai cấp thống trị và
của xã hội. Xã hội ngày càng phát triển thì vai trò và chức năng quản lý
của Nhà nước càng tăng lên. Chức năng đối nội của Nhà nước là quản lý
hành chính bao gồm việc quản lý trật tự xã hội, sắp xếp và giải quyết mối
quan hệ giữa các cá nhân, các giai cấp, các tầng lớp dân cư, các cộng
đồng dân tộc và chức năng đối ngoại là quản lý lãnh thổ quốc gia, thiết
lập bang giao với các nước. Để thực hiện hai chức năng này, tất cả các

Nhà nước đều phải có cơ sở kinh tế nhất định. Như vậy, Nhà nước với tư
cách là công cụ thống trị của giái cấp, là một thể chế chính trị phải nắm
lấy kinh tế , làm chức năng kinh tế để quản lý xã hội nhằm phục vụ cho
giai cấp thống trị. Hơn nữa kinh tế là nền tảng của đời sống xã hội, là cơ
sở của hệ thống chính trị , cho nên Nhà nước càng phải làm chức năng
kinh tế và quản lý kinh tế. Trong các Nhà nước ngày nay không có Nhà
nước nào đứng trên ngoài kinh tế.

4 GS.TS Đỗ Hoàn Toàn, PGS.TS. Mai Văn Bưu, Giáo trình quản lý Nhà nước về kinh tế, Nhà xuất bản lao động và xa
hội, trang 6
5 GS.TS Đỗ Hoàn Toàn, PGS.TS. Mai Văn Bưu, Giáo trình quản lý Nhà nước về kinh tế, Nhà xuất bản lao động và xa
hội, trang 7

11


Chứng minh sự cần thiết khách quan của quản lý Nhà nước về kinh tế

2. Tính khách quan của quản lý Nhà nước về kinh tê 6
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt nam là nền
kinh tế thị trường có điều tiết, có sự quản lý vĩ mô của nhà nước. Điều đó
có nghĩa là nền kinh tế nước ta vừa chịu sự điều tiết của thị trường vừa
chịu sự điều tiết của nhà nước (quản lý của nhà nước). Nói cách khác,
quản lý nhà nước đối với nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam là cần thiết khách quan, vì những lý do sau đây:
2.1. Khắc phục những hạn chê của thị trường, bảo đảm thực hiện
mục tiêu phát triển kinh tê xã hội đã đề ra.
Sự điều tiết của thị trường đối với phát triển kinh tế thật kỳ diệu
nhưng vẫn có những hạn chế cục bộ. Ví dụ về mặt phát triển hài hoà xã
hội; nó bộc lộ hạn chế của điều tiết của thị trường. Kinh tế thị trường khó

có thể đạt được sự hài hoà trong việc phân phối thu nhập xã hội, nâng
cao chất lượng cuộc sống xã hội, phát triển cân đối kinh tế xã hội giữa
các vùng… Thị trường cũng không thể khắc phục những khuyết tật của
nền kinh tế thị trường và những mặt trái đã nêu ở trên. Điều đó sẽ không
phù hợp và cản trở việc thực hiện đầy đủ những mục tiêu phát triển kinh
tế – xã hội đã đề ra. Vì thế Quản lý nhà nước đối với kinh tế thị trường
theo định hướng xã hội chủ nghĩa là cần thiết để khắc phục những hạn
chế, bổ sung chỗ hổng của sự điều tiết của thị trường đảm bảo mục tiêu
phát triển kinh tế xã hội. Đó cũng là thực hiện nhiệm vụ hàng đầu của
quản lý nhà nước về kinh tế.
2.2. Bằng quyền lực, chính sách và sức mạnh kinh tê của mình,
Nhà nước phải giải quyêt những mâu thuẫn lợi ích kinh tê phổ
biên, thường xuyên và cơ bản trong nền kinh tê quốc dân.
Trong quá trình hoạt động kinh tế, con người có mối quan hệ với
nhau. Lợi ích kinh tế là biểu hiện cụ thể của mối quan hệ đó vì mọi thứ
mà con người phấn đấu đều liên quan đến lợi ích của mình. Trong nền
kinh tế thị trường, mọi đối tác đều hướng tới lợi ích kinh tế riêng của
mình. Nhưng khối lượng kinh tế lại có hạn và không thể chia đều cho mọi
người, nên xảy ra sự tranh giành về lợi ích và từ đó phát sinh ra những
mâu thuẫn về lợi ích. Trong nền kinh tế thị trường có những loại mẫu
thuẫn cơ bản sau đây:
6 Tài liệu ôn tập những vấn đề quản lý Nhà nước về kinh tế, Học viện hành chính quốc gia, thành phố Hồ Chí Minh,
2006, trang 5,6,7

12


Chứng minh sự cần thiết khách quan của quản lý Nhà nước về kinh tế

- Mâu thuẫn giữa các doanh nhân với nhau trên thương trường

- Mâu thuẫn giữa chủ và thợ trong các doanh nghiệp
- Mâu thuẫn giữa giới sản xuất kinh doanh với toàn thể cộng đồng
trong việc sử dụng tài nguyên và môi trường không tính đến lợi ích chung
trong việc họ cung ứng những hàng hoá và dịch vụ kém chất lượng đe
doạ sức khoẻ cộng đồng; trong việc xâm hại trật tự, an toàn xã hội, đe
doạ an ninh quốc gia để phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh của
mình.
Ngoài ra, còn nhiều mâu thuẫn khác nữa như mâu thuẫn về lợi ích
kinh tế giữa cá nhân, công dân với nhà nước, giữa các địa phương với
nhau, giữa các ngành, các cấp với nhau trong quá trình hoạt động kinh tế
của đất nước. Những mâu thuẫn này có tính phổ biến, thường xuyên và
có tính căn bản vì liên quan đến quyền lợi “về sống - chết của con
người”, đến sự ổn định kinh tế – xã hội. Chỉ có Nhà nước mới có thể giải
quyết được các mâu thuẫn đó, điều hoà lợi ích của các bên.
2.3. Tính khó khăn phức tạp của sự nghiệp kinh tê
Để thực hiện bất kỳ một hoạt động nào cũng phải giải đáp ba câu
hỏi: Có muốn làm không? Có biết làm không? Có phương tiện để thực
hiện không? Có hoàn cảnh để làm không? Nghĩa là, cần có những điều
kiện chủ quan và khách quan tương ứng. Để làm kinh tế (làm giàu) phải
có ít nhất các điều kiện : ý chí làm giàu, tri thức làm giàu, phương tiện
sản xuất kinh doanh và môi trường kinh doanh.
Ý chí làm giàu : Làm giàu cũng cần có chí, chí làm giàu bắt đầu từ
khát vọng. Sau đó là niềm tin, khát vọng giàu có phụ thuộc vào nhận
thức về cuộc sống giàu sang, sự hiểu biết về cuộc sống. Niềm tin vào
hoạt động làm giàu phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó có niềm tin vào
chế độ kinh tế, chính trị, vào tính đúng đắn của sự lựa chọn đầu tư, lựa
chọn giải pháp.v.v… Những cái đó, phụ thuộc rất lớn vào Nhà nước, vào
chế độ xã hội.
Tri thức làm giàu: hai nhóm tri thức cơ bản cần cho người làm kinh tế
Tri thức về sản xuất kinh doanh, kiến thức khoa học kỹ thuật công

nghệ sản xuất thuộc lĩnh vực kinh doanh và kiến thức kinh tế học, quản
trị, tài chính, kế toán, thống kê v.v… Những kiến thức này có thể học
được từ trường lớp, thực tiễn
13


Chứng minh sự cần thiết khách quan của quản lý Nhà nước về kinh tế

Thông tin thị trường, Nhà nước là nguồn quan trọng cung cấp các
thông tin này.
Phương tiện sản xuất kinh doanh: Phương tiện đầu tiên là vốn, doanh
nhân có thể có nhiều cách để có phương tiện này mà không nhất thiết
phải nhờ Nhà nước như vay các ngân hàng thương mại tư doanh. Tuy thế,
nhiều doanh nhân vẫn cần vay vốn của Nhà nước do không tin tưởng các
nguồn vốn khác. Bên cạnh đó, hệ thống kết cấu hạ tầng, nhà nước đóng
vai trò quan trọng; hệ thống chợ.
Môi trường kinh doanh: Bao gồm hai mặt: môi trường bè bạn và môi
trường an toàn cho sản xuất kinh doanh.
Doanh nhân nào cũng cần có đối tác, đối tác trong kinh tế vừa là bạn
vừa là đối thủ. Đối với các công ty xuyên quốc gia, việc tìm đối tác là khó
khăn vì các cản trở về không gian, ngôn ngữ, luật pháp, phong tục, chính
trị. Nhà nước là một chỗ dựa quan trọng cho doanh nhân trong việc này.
Môi trường còn có nghĩa là sự an toàn cho tính mạng tài sản của doanh
nhân. Đối với doanh nhân, việc bảo vệ tài sản của mình không đơn giản.
Nhà nước cung cấp dịch vụ này. Môi trường an toàn là môi trường không
có chiến tranh, không có tội phạm hình sự, ngăn ngừa được thiên tai
hoặc dự báo để phòng tránh thiên tai. Sự an toàn đó, phi Nhà nước,
không ai tạo ra được cho doanh nhân. Không phải công dân nào cũng có
đủ các điều kiện trên để tiến hành làm kinh tế, làm giàu. Sự can thiệp
của Nhà nước rất cần thiết trong việc hỗ trợ công dân có những điều kiện

cần thiết thực hiện sự nghiệp kinh tế.
2.4. Tính giai cấp trong kinh tê và bản chất giai cấp của Nhà
nước.
Nhà nước hình thành từ khi xã hội có giai cấp. Nhà nước bao giờ cũng
đại diện lợi ích của giai cấp thống trị nhất định, trong đó có lợi ích kinh tế.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam đại diện cho lợi ích dân tộc và nhân
dân. Nhà nước của ta là nhà nước của dân, do dân và vì dân. Mục tiêu
phát triển kinh tế – xã hội do Nhà nước ta xác định và quản lý chỉ đạo là
nhằm cuối cùng đem lại lợi ích vật chất và tinh thần cho nhân dân. Tuy
vậy, trong nền kinh tế nhiều thành phần, mở cửa với nước ngoài, không
phải lúc nào lợi ích kinh tế của các bên cũng luôn luôn nhất trí. Vì vậy,
xuất hiện xu hướng vừa hợp tác vừa đấu tranh trong quá trình hoạt động
kinh tế trên các mặt quan hệ sở hữu, quan hệ quản lý, quan hệ phân
14


Chứng minh sự cần thiết khách quan của quản lý Nhà nước về kinh tế

phối. Trong cuộc đấu tranh trên mặt trận kinh tế, Nhà nước ta phải thể
hiện bản chất giai cấp của mình để bảo vệ lợi ích của dân tộc và của
nhân dân ta. Chỉ có Nhà nước mới có thể làm được điều đó. Như vậy là,
trong quá trình phát triển kinh tế, Nhà nước ta đã thể hiện bản chất giai
cấp của mình. Bốn lý do chủ yếu trên đây chính là sự cần thiết khách
quan của nhà nước đối với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam.
3. Sự cần thiêt khách quan của quản lý Nhà nước đối với nền kinh


7


Trong quá trình phát triển của xã hội. Nhà nước là một hiện tượng
chính trị - xã hội , một hiện tượng lịch sử. Xã hội loài người đã trải qua
giai đoạn phát triển, giai đoạn của chế độ cộng sản nguyên thủy và giai
đoạn xã hội bị phân chia bỡi sự hình thành giai cấp và đấu tranh giai cấp.
Nguyên nhân của sự tan rã chế độ công sản nguyên thủy và sự xuất
hiện Nhà nước mà trước hết là do năng suất lao động ngày một tăng, làm
cho sản phẩm trong xã hội trở thành thặng dư. Từ đó, xuất hiện chiếm
hữu và sỡ hữu tư nhân với sản phẩm thặng dư, xuất hiện sự bất bình
đẳng trong xã hội, xuất hiện chế độ chiếm hữu chiếm hữu tư hữu tài sản,
xuất hiện các giai cấp đối kháng - giai cấp thống trị và giai cấp bị trị.
Chính điều này đã tạo tiền đề cho sự xuất hiện của Nhà nước.
Nhà nước là một phạm trù lịch sử ra đời trong điều kiện xã hội có
phân chia giai cấp và đấu tranh giai cấp, Nhà nước trở thành công cụ
quyền lực của giai cấp thống trị nhằm mục dích để quản lý xã hội và
phục vụ lợi ích giai cấp thống trị . Trong quá trình hình thành và phát
triển Nhà nước luôn giữ vai trò và thực hiện chức năng quản lý các lĩnh
vực của xã hội, trong đó có lĩnh vực kinh tế, do điều kiện kinh tế quyết
định. Nhà nước là một hiện tượng kiến trci1 thượng tầng trên một cơ sở
kinh tế nhất định, sự phát triển của cơ sở hạ tầng quyết định sự phát
triển của Nhà nước. Từ sự xuất hiện của Nhà nước, bản chất, chức năng,
hình thức, bộ máy Nhà nước đều phụ thuộc vào đòi hỏi khách quan của
cơ sở kinh tế.
Nhà nước là bộ máy quản lý con người, quản lý xã hội, quản lý kinh
tế, Nhà nước cùng các bộ phận khác của kinh tế tác động tích cực đến sự
7 />
15


Chứng minh sự cần thiết khách quan của quản lý Nhà nước về kinh tế


phát triển kinh tế, thúc đẩy phát triển nhanh, thông qua các chính sách
kinh tế có căn cứ khoa học và phù hợp với quy định tiến hóa của nhân
loại trong chừng mực nó phù hợp với lợi ích giai cấp thống trị. Cũng như
mọi Nhà nước trên thế giới , Nhà nước ta cũng phải can thiệp vào đời
sống kinh tế , sự can thiệp này là cần thiết khách quan vì lý do cơ bản
sau đây8:
3.1. Tính giai cấp trong kinh tê và bản chất giai cấp của Nhà
nước
Nhà nước là một sản phẩm của xã hội có phân chia và đối kháng
giai cấp, nó được giai cấp thống trị về kinh tế sinh ra để bảo vệ quyền lợi
kinh tế của giai cấp thống trị đó. Nói cách khác, nhà nước có sứ mạng và
nhiệm vụ bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị về kinh tế. Tính giai cấp
trong kinh tế thể hiện ở vị thế của giai cấp đó đối với tư liệu sản xuất, vị
thế trong quản lý sản xuất, cơ sở vật chất, vị thế trong phân chia lợi ích
kinh tế. Theo đó, trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, giai cấp công nhân
là những người làm công, không có tư liệu sản xuất, ở vị trí bị quản lý và
bị bốc lột; và giai cấp tư sản, những chủ sở hữu về tư liệu sản xuất, quản
lý, phân phối lợi nhuận và bốc lột, Vậy giai cấp chỉ hình thành trong kinh
tế và cuộc đấu tranh giai cấp là cuộc đấu tranh giành 3 vị thé trong nên
kinh tế.
Kết hợp hai vấn đề, ta thấy trong nền kinh tế có đấu tranh giai cấp,
Nhà nước là 1 công cụ của giai cấp, Nhà nước không thể đứng ngoài cuộc
đấu tranh giai cấp mà phải tham gia vào mới thể hiện hết vai trò, công
cụ của mình.
3.2. Tính khó khăn phức tạp của sự nghiệp kinh tê
Hoạt động kinh tế cần nhiều điều kiện chủ quan, đó chính là phải có
ý chí làm giàu, muốn làm giàu phải có ý chí, tuy nhiên hoạt động làm
giàu còn tùy thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó có sự tin tưởng vào chế độ
kinh tế, chính trị, vào tính đúng đắn của sự lựa chọn đầu tư, lựa chọn giải
pháp..., những điều này phụ thuộc rất lớn vào nhà nước, vào chế độ xã

hội. Môi trường an toàn là an toàn cho tính mạng và tài sản của doanh
nhân, chỉ có nhà nước mới là người bảo vệ tốt nhất. Hơn nữa môi trường
an toàn là môi trường không có chiến tranh, không có tội phạm hình sự,
8 Nguyễn Hạnh, Bài giảng quản lý Nhà nước về kinh tế.

16


Chứng minh sự cần thiết khách quan của quản lý Nhà nước về kinh tế

ngăn ngừa được thiên tai hay dự báo để phòng tránh thiên tai. Sự an toàn
này trừ nhà nước không ai tạo ra được cho doanh nhân.
Phải có tri thức làm giàu, người làm kinh doanh cần phải có 2 nhóm
tri thức cơ bản, đó là tri thức về sản xuất kinh doanh và thông tin toàn
diện trong và ngoài nước có liên quan đến việc làm kinh tế. Tri thức về
sản xuất kinh doanh bao gồm những kiến thức khoa học kỹ thuật, công
nghệ sản xuất có thể học được từ trường lớp, sách vở và thực tiễn. Còn
nhóm thứ 2 bao gồm nhiều thông tin như kinh tế kỹ thuật, chính trị, quân
sự trong và ngoài nước, giá cả, quy hoạch..., chỉ có nhà nước mới có. Do
đó, nếu không có nhà nước chắc chắn các nhà doanh nghiệp không đủ
tầm nhìn thấy tương lai.
Phải có phương tiện sản xuất kinh doanh, trước tiên là vốn, nhà
doanh nghiệp có thể huy động vốn từ nhiều nguồn, có khi không nhất
thiết phải vay vốn của nhà nước nhưng doanh nhân vẫn cần vay vốn của
nhà nước do không tin tưởng các nguồn khác. Ngoài nguồn vốn ra, phải
cần có hệ thống kết cấu hạ tầng trong đó sát với người làm kinh tế thị
trường, nhất là hệ thống chợ, điều này chỉ có nhà nước mới tạo ra được,
chỉ có nhà nước quản lý chợ mới có thể làm cho mọi người yên tâm khi
tham gia thị trường. Hoạt động của chợ rất phức tạp, khó bảo vệ, bất an
nhất nên các loại chợ đều cần có sự bảo hộ của nhà nước.

Phải có môi trường kinh doanh, đó là môi trường bè bạn và môi
trường an toàn cho sản xuất kinh doanh. Trong kinh doanh cần phải có
đối tác, để tìm được đối tác như ý ở trong hay ngoài nước, tự thân nhà
doanh nghiệp không dể tìm, do vậy nhà nước là 1 chỗ dựa quan trọng
cho các nhà doanh nghiệp.
3.3. Sự có mặt của kinh tê Nhà nước trong kinh tê quốc dân, đây
là lý do trực tiêp nhất khiên Nhà nước phải can thiệp vào nền
kinh tê quốc dân.
Kinh tế nhà nước bao gồm tài nguyên quốc gia, dự trữ quốc gia về tiền,
vàng bạc, đá quý và vật tư, kết cấu hạ tầng, toàn bộ vốn nằm trong các
doanh nghiệp. Nhà nước cần có kinh tế riêng của mình để thực hiện kích
thích hay cưỡng chế kinh tế, nhà nước cần có lực lượng kinh tế làm công
cụ quản lý xã hội khi các công cụ khác tỏ ra bất cập trong 1 số trường
hợp nhất định. Nhà nước cần có lực lượng kinh tế riêng, cụ thể là các
doanh nghiệp nhà nước để sản xuất và cung ứng những hàng hóa, dịch
17


Chứng minh sự cần thiết khách quan của quản lý Nhà nước về kinh tế

vụ mà khu vực tư nhân không làm được. Hơn nữa nhà nước cần có thực
lực kinh tế để thực hiện chính sách xã hội.
Kinh tế nhà nước là những vật cụ thể phải cần có con người cụ thể
đứng ra quản lý, vì nhà nước là 1 phạm trù trừu tượng. Mà khi giao cho
những nhóm người cụ thể quản lý sẽ dẫn đến 2 nguy cơ là: công sản có
thể bị lợi dụng để mưu lợi tư, bị tham ô lãng phí, người được nhà nước ủy
thác quản lý có thể không đủ khả năng làm cho đơn vị của mình thực
hiện đúng vai trò, chức năng, nhiệm vụ mà nhà nước đặt ra cho kinh tế
nhà nước. Xuất phát từ những lý do đó mà nhà nước phải quản lý đối với
kinh tế.

3.4. Tính chất của mâu thuẫn trong nền kinh tê
Tính chất đặc biệt của các mâu thuẫn trên trong lĩnh vực kinh tế
là phổ biến, thường xuyên và căn bản. Phổ biến vì chúng diễn ra khắp
nơi, động chạm đến tuyệt đại bộ phận dân chúng. Thường xuyên vì
chúng diễn ra liên tục, bất kế lúc nào. Căn bản vì nó động chạm đến
cái gốc của sự sống con người, vật chất. Hơn nữa, với nền kinh tế thị
trường và đặc biệt trong giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế như hiện
nay, mọi hoạt động của nền kinh tế thị trường diễn ra rất đa dạng và
phức tạp, các thành phần kinh tế vừa hỗ trợ hợp tác, vừa cạnh tranh,
mâu thuẫn rất chi là phức tạp. Thậm chí vì chạy theo lợi nhuận các
hoạt động sản xuất kinh doanh có bất chấp mọi hiểm họa cho môi
trường, tác hại đến nguồn tài nguyên thiên nhiên, nạn gian lận thương
mại…Vì vậy, NN không thể buông lõng sự quản lý của NN mà phải
quản lý nhằm điều hòa các mâu thuẫn, ỗn định thị trường để nền kinh
tế phát triển theo định hướng chứ không thể để nó tự phát được.
Trong nền kinh tế thị trường chứa đựng những mâu thuẫn cơ bản,
đó là những mâu thuẫn giữa các doanh nhân với nhau, mâu thuẫn giữa
chủ với thợ trong các doanh nghiệp có bóc lột lao động và mâu thuẫn
giữa giới sản xuất kinh doanh với toàn thể cộng đồng. Những mâu thuẫn
cơ bản này có tính phổ biến, thường xuyên vì nó động chạm đến tất cả
mọi người không trừ một ai, vì khi tham gia vào kinh doanh, từ doanh
nhân đến người lao động, người tiêu dùng đều có va chạm với nhau về
kinh tế. Hơn nữa những mâu thuẫn đó còn mang tính căn bản, vì là mâu
18


Chứng minh sự cần thiết khách quan của quản lý Nhà nước về kinh tế

thuẫn sinh tồn liên quan đến sự sống chết của con người. Do tính chất
của mâu thuẫn như trên việc hoà giải các mâu thuẫn này phải do nhà

nước chứ không ai khác, và phải giải quyết triệt để, nếu không sẽ có tác
dụng ngược lại, chỉ có nhà nước mới làm được điều đó vì nhà nước có sức
mạnh, có những quyền lực đặc biệt, được tạo ra bởi thể chế đặc biệt. Nhà
nước cộng hòa dân chủ là sức mạnh của toàn dân, có những quyền mà
nhân dân trao cho, chỉ có nhà nước can thiệp vào giải quyết mâu thuẫn
thì trật tự kinh tế mới cơ bản được thiết lập. Có nhiều mâu thuẫn cụ thể,
xảy ra trong lĩnh vực này. Tuy nhiên, nhìn tổng quát có 3 nhóm chính sau
đây, mỗi nhóm có nộ dung đặc thù của nó 9:
Nhóm mâu thuẫn giữa những người làm kinh tế với nhau mà điển
hình là giữa các doanh nhân. Nội dung quan hệ chính của nhóm này là
quan hệ hàng – tền. Biểu hiện mâu thuẫn giữa họ là sự không ngang
bằng hàng – tiền. Ngoài ra, trong nội bộ doanh giới còn có nhiều mâu
thuẫn cụ thể khác, như tranh chấp thị trường, cạnh tranh không lành
mạnh, xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp.
Nhóm các mâu thuẫn giữa người sử dụng lao động và người lao
động. Về bản chất đây là quan hệ hàng tiền , tróng đó hàng là sức lao
động, tiền là tiền công, tiền lương. Mâu thuẫn thể hiện sự không ngang
bằng công sức – tiền lương. Cả hai bên đều vụ lợi cho bản thân: thợ thì
đòi tăng lương, giảm giờ làm và cường độ lao động; chủ thì dùng mọi
biện pháp để thực hiện ngược lại.
Nhóm các mâu thuẫn giữa doanh giới và toàn xã hội. Mâu thuẫn
này xảy ra trên nhiều phương diện, trong đó điển hình là các hành vi của
doanh nhân trong việc sử dụng công sản , môi trường, tác động vào chất
lượng sản phẩm, vào trật tự, an ninh xã hội, vào bí mật quốc gia về kinh
tế – khoa học – công nghệ - tài nguyên ....
3.5. Nhà nước phải can thiệp vào nền kinh tê bởi các lý do 10:
Thứ nhất, Nhà nước quản lý về kinh tế là để khắc phục nhược
điểm, khuyết tật, kiểm soát các quy luật của nền kinh tế thị trường:
Quản lý nhà nước trong điều kiện nền kinh tế thị trường là cần thiết
nhằn ngăn ngừa, hạn chế những mặt trái, các tiêu cực của nền kinh tế thị

9 Nguyễn Hạnh, Bài giảng Quản lý Nhà nước về kinh tế, trang 3
10 />
19


Chứng minh sự cần thiết khách quan của quản lý Nhà nước về kinh tế

trường. Bên cạnh những ưu thế mà nền kinh tế thị trường đem lại, chúng
ta không thể bỏ qua các khuyết tật mà ta thường thấy như:
+ Một thị trường cạnh tranh không hoàn hảo
+ Thông tin không đầy đủ
+ Lạm pháp, thất nghiệp, khủng hoảng kinh tế
+ Huỷ hoại môi trường sinh thái
+ Mất ổn định , nhiều vấn đề kinh tế xã hội khác ...
Như vậy cần thông qua các cơ chế của nhà nước để can thiệp vào
các lỗ hổng này nếu không nó sẽ làm cho nền kinh tế kém phát triển ,
đẩy lùi sự tiến bộ xã hội. Thêm vào đó, Việt Nam lại có những đặc thù
riêng càng cần có sự quản lý của nhà nước đối với nền kinh tế:
+ Nền kinh tế nước ta xuất phát điểm thấp, trải qua những cuộc
chiến tranh kéo dài, nền kinh tế nước ta phát triển trong diều kiện nền
kinh tế đầy rẫy sự biến động.
+ Mục tiêu các mạng đề ra trong sự nghiệp xây dựng đất nước ta là
phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần , vận hành theo cơ chế
thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Để kích thích sản xuất phát triển, khắc phục những tiêu cực trong
nền kinh tế thị trường, đảm bảo công cuộc đổi mới đi đúng hướng và phát
huy bản chất tốt đẹp của xã hội, xã hội chủ nghĩa, nhà nước phải thực
hiện tốt vai trò quản lý kinh tế – xã hội, đó chẳng những là một tất yếu
mà còn đóng vai trò cực kỳ quan trọng. Thông qua kế hoạch, định hướng,
hoạch định, ban hành một khuôn khổ pháp luật và thực hiện các chính

sách, khuyến khích hỗ trợ, kiểm soát , trọng tài,... đối với các thành phần
kinh tế, vai trò quản lý của nhà nước đối với nền kinh tế được thể hiện rõ
nét ở các điểm chính như:
+ Thực hiện được mục tiêu kinh tế- xã hội của đất nước
+ Bảo vệ lợi ích chính đáng của các bên tham gia thị trường
20


Chứng minh sự cần thiết khách quan của quản lý Nhà nước về kinh tế

+ Hỗ trợ công dân trong làm ăn kinh tế
+ Bảo vệ môi trường sinh thái
+ Bổ sung vào những lỗ hổng của thị trường
Hiện nay, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là một
quá trình khách quan, hợp quy luật và là một nội dung cơ bản của công
cuộc đổi mới ở nước ta. Đây là một quá trình khó khăn và phức tạp vì
phải đổi mới cả cơ cấu kinh tế, cơ chế quản lý, tổ chức bộ máy quản lý và
con người, đổi mới tư duy, phong cách, và lối sống cũ đã ăn sâu vào từng
con người. Do đó, đổi mới thành công hay không lại phụ thuộc vào sự
lãnh đạo của Đảng và quản lý của nhà nước. Như vậy, trong quá trình
chuyển đổi sang cơ chế thị trường cũng như khi cơ chế thị trường đã được
xây dựng đồng bộ, vai trò quản lý kinh tế của nhà nước không hề suy
giảm mà còn tăng lên. Điều đó, không có nghĩa là nhà nước nắm tất cả,
can thiệp vào tất cả mọi hoạt động kinh tế của toàn xã hội, mà trái lại
nhà nước chỉ nắm những lĩnh vực, những khâu then chốt, thực hiện
những công việc quan trọng nhất mà thị trường và nhân dân không làm
được, biết sử dụng cơ chế thị trường một cách khôn khéo để phục vụ cho
mục tiêu quản lý của mình, biết phát huy những mặt tích cực của cơ chế
thị trường và hạn chế mặt tiêu cực của cơ chế đó, phát huy động lực của
sự phát triển kinh tế, xử lý những bất trắc và tình huống mới nảy sinh,

đảm bảo cho cơ chế thị trường ra đời đồng bộ và vận hành thông suốt,
thúc đẩy kinh tế phát triển.
Như vậy, vai trò của nhà nước trong bước chuyển đổi sang cơ chế
thị trường hết sức quan trọng và nặng nề, vừa phải tiến hành đổi mới,
cách thức điều hành từ chỗ trước đây vốn quen với cơ chế cũ sang cách
thức điều hành, quản lý theo cơ chế mới, nguyên tắc mới nhằm thiết lập
mối quan hệ hợp lý giữa nhà nước - thị trường - doanh nghiệp, vừa phải
liên tục hoàn thiện phương pháp, công cụ và kỹ thuật điều hành trong
điều kiện vừa chuyển đổi, vừa hội nhập, vừa phát triển theo hướng công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Nhà nước phải thực hiện vai trò là
người đại diện cho nhân dân để quản lý nền kinh tế vì lợi ích của đất
nước và nhân dân nhằm thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh. thiết khách quan của quản lý Nhà nước về
21


Chứng minh sự cần thiết khách quan của quản lý Nhà nước về kinh tế

kinh tế, từ thực tế chứng minh vai trò của nhà nước ngày càng quan
trong trong quá trình chuyển đổi từ nên kinh tế hoạch hóa tập trung sang
nền kinh tế thị trường đính hướng XHCN.
Thứ 2: Nhà nước quản lý về kinh tế nhằm để điều hòa mâu
thuẫn về mặt lợi ích:
Do xuất phát từ yêu cầu của bản thân các doanh nghiệp hoạt động
trong nền kinh tế thị trường , một mình doanh nghiệp không tự giải quyết
được nhiều vấn đề nảy sinh do vậy cần Nhà Nước tác động vào nhằm điều
chỉnh, giải quyết những ách tắc, trở ngại trong những hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp. Đó là một vài vấn đề chủ yếu sau:
+ Về hợp đồng và giải quyết các hợp đồng
+ Môi trường kinh doanh: nhà nước lập khung phap lý để các doanh

nghiệp hoạt động không xâm hại lẫn nhau, không ảnh hưởng đến đời sống
người dân xung quanh. Nhà nước cần lập ra một môi trường pháp lý thuận
lợi, thích hợp cho hoạt động kinh doanh. Nhà nước vừa nâng cao hiệu lực
quản lý vĩ mô nền kinh tễ quốc dân, vừa phát huy vai trò tự chủ, năng
động của các thành phần kinh tế trong sản xuất kinh doanh, tạo môi
trường kinh tế thuận lợi và hành lang pháp luật an toàn cho mọi thành
phần kinh tế tham gia vào hoạt động kinh doanh. Các doanh nghiệp đóng
vai trò quan trọng quyết định tốc độ tăng trưởng và phát triển của nền
kinh tế quốc dân vì thế hiệu quả hoạt động kinh doanh của các doanh
nghiệp là thước đo của quản lý kinh tế vĩ mô của nhà nước.
Lĩnh vực kinh tế là nơi tìm kiếm được rất nhiều lợi ích và cũng là
một môi trường chứa đựng nhiều mâu thuẫn nhất nhưng chung quy
lại bao gồm 3 loại chính sau:
+ Một là, mâu thuẫn giữa các doanh nhân trên thương trường:
như trao đổi hàng hóa ko sòng phẳng, một bên xâm phạm lợi ích bên
kia như xâm phạm vốn, hàng hóa, trí tuệ, kiểu dáng…
+ Hai là, mâu thuẫn giữa chủ và thợ: Đây là mâu thuẫn của
quan hệ lao động tiền lương ko công bằng và ngược đãi người làm.

22


Chứng minh sự cần thiết khách quan của quản lý Nhà nước về kinh tế

+ Ba là, mâu thuẫn giữa doanh nhân với cộng đồng: trốn tránh
trách nhiệm với cộng đồng, với Nhà nước của các doanh nhân.
Thứ 3, Nhà nước quản lý về kinh tế nhằm hỗ trợ, đảm bảo, tạo
điều kiện thuận lợi cho các thành phần kinh tế phát triển đồng điều.
Kinh tế thị trường chủ yếu chỉ chú trọng đến những nhu cầu có
khả năng thanh toán, không chú ý những nhu cầu cơ bản của xã hội.

Mục đích chủ yếu là đặt lợi nhuận lên hàng đầu, cái gì có lãi thì làm,
không có lãi thì thôi nên nó không giải quyết được cái gọi là hàng hóa
công cộng như đường xá, công trình văn hóa, y tế, giáo dục…Do vậy,
cần phải có sự hỗ trợ của NN như tạo lập đồng bộ các loại thị trường,
quản lý, điều tiết nhịp nhàng, có hiệu lực, tạo nhiều cơ chế, chính
sách, hỗ trợ tài chính để cho các thành phần kinh tế phát triển
Quản lý cung cầu, Quản lý giá trị, Quản lý lưu thông tiền tệ.
Quản lý trên điều chỉnh nền kinh tế thị trường – dẫn đến lý thuyết
kinh tế thị trường tự do. Như vậy, nếu theo quy luật cung cầu thì nền
kinh tế thị trường tự do cạnh tranh có khả năng tự cân bằng cung
cầu và thị trường lao động, vốn, đất đai …thì vận hành theo đúng
quy luật giá trị mà không cần có sự quản lý của Nhà nước. Nhưng
thực tế đã chứng minh, nền kinh tế thị trường không thể phát triển
một cách tự phát nếu thiếu sự can thiệp và hỗ trợ của Nhà nước. Nhà
nước với vai trò quản lý và điều hòa phúc lợi, khắc phục những nhược
điểm của nền kinh tế thị trường từ việc khủng hoảng thừa hoặc thiếu,
sự cạnh tranh và độc quyền, môi trường tự do…làm ảnh hưởng rất
lớn đến thị trường, giá cả nhày múa không ổn định. Chính vì thế mà
cần phải có sự quản lý của Nhà nước
Thứ 4, Nhà nước quản lý về kinh tế tế vì trong nền kinh tế quốc
dân có một phần kinh tế NN: Đây là lý do trực tiếp nhất, khiến NN
phải can thiệp vào nền kinh tế quốc dân.
Kinh tế Nhà nước bao gồm tài nguyên quốc gia, dự trữ quốc gia
về tiền, vàng, bạc, đá quý và vật tư, kết cấu hạ tầng, toàn bộ vốn
nằm trong doanh nghiệp. Nhà nước cần có kinh tế riêng của mình để
thực hiện kích thích hay cưỡng chế kinh tế, Nhà nước cần có lực
23


Chứng minh sự cần thiết khách quan của quản lý Nhà nước về kinh tế


lượng kinh tế riêng, cụ thể là doanh nghiệp Nhà nước để sản xuất và
cung ứng những hàng hóa, dịch vụ mà khu vực tư nhân không làm
được. Hơn nữa, Nhà nước cần có thực lực kinh tế để thực hiện chính
sách xã hội. Kinh tế Nhà nước là những vật cụ thể phải cần có con
người cụ thể đứng ra quản lý. Sở dĩ NN phải xây dựng lực lượng kinh
tế NN vì NN cần có một loại công cụ đặc biệt để điều chỉnh nền kinh
tế quốc dân nói riêng, các quan hệ xã hội nói chung, việc mà các
công cụ quản lý khác không thích hợp.
4. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý Nhà
nước về kinh tê
Xây dựng chiến lược, chương trình để định hướng cho sự phát triển
của nền kinh tế. Nâng cao chất lượng công tác xây dựng và quản lý theo
quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và đô thị, phát triển hạ
tầng kỹ thuật. Chiến lược phát triển kinh tế được xem là lựa chọn có khoa
học của các mục tiêu dài hạn và cơ bản của quá trình phát triển kinh tế
gắn với chọn lọc các phương tiện, biện pháp chủ yếu để dạt được mục
tiêu. Cụ thể hóa chiến lược thành chương trình, kế hoạch phát triển trong
từng thời điểm.
Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật vì nó là cơ sở pháp lý
cho hoạt động đầu tư , kinh doanh trong cơ chế thị trường, duy trì trật tự,
kỷ cương, điều chỉnh hành vi trong kinh tế. Do đó cần phải đổi mới việc
xây dựng ban hành thực thi pháp luật theo đúng yêu cầu của việc tổ
chức quản lý kinh tế – xã hội trong cơ chế thị trường, đảm bảo tính đồng
bộ, hệ thống luật pháp và thông lệ quốc tế, tăng cường pháp chế, nâng
cao hiệu quả công cụ pháp luật. Hiện nay pháp luật về hoạt động kinh tế
ngày càng hoàn thiện nhưng còn có sự chồng chéo, quy đinh chung
chung dẫn đến quá trình áp dụng có nhiều bất cập.
Hoàn thiện và cải cách môi trường trong hoạt động kinh doanh,
tách chức năng quản lý Nhà nước về kinh tế với chức năng quản lý sản

xuất – kinh doanh, chức năng hành chính với chức năng dịch vụ công,
xây dựng nền hành chính hiện đại, hiệu quả và minh bạch. Tăng cường
phân cấp quản lý kinh tế, đảm bảo chính sách kinh tế thống nhất, vừa đa

24


Chứng minh sự cần thiết khách quan của quản lý Nhà nước về kinh tế

dạng hóa, tăng cường cải cách hành chính từ trên xuống theo yêu cầu
thực tế và nhiệm vụ quản lý Nhà nước11

KÊT LUẬN
Tóm lại, trong giai đoạn hiện nay, Nhà nước ta đang thực hiện
nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, theo cơ chế thị trường định
hướng xhcn. Song song với những ưu điểm vẫn còn tồn tại nhiều mặt
hạn chế hay còn gọi là mặt trái của cơ chế thị trường tác động tiêu
cực đến bản chất XHCN như xu hướng phân hóa giàu nghèo quá mức,
11 Thạc sĩ Nguyễn Khắc Kinh, một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước về kinh tế trong giai đoạn
hiện nay, Tạp chí quản lý Nhà nước số 224 (9/2014)

25


×