HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH
MÔN: QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ XÃ HỘI
CHUYÊN ĐỀ: NHÀ NƯỚC VỚI VAI TRÒ LÀ CHỦ THỂ QUẢN LÝ
CHỦ ĐỀ: SỰ CẦN THIẾT CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ KINH TẾ
VÀ PHÁT TRIỂN NỀN KINH TẾ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN MỚI
GVHD: Trần Trọng Đức
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Trung Hiếu
Tp Hồ Chí Minh ngày 9 tháng 5 năm 2013
LỜI MỞ ĐẦU
Trong xã hội hiện tại phát triển kinh tế là vấn đề triết lý căn bản để phát
triển đất nước ta tiến xã hơn nữa về mọi mặt. Trong xu thế phát triển hiện
nay các nước phát triển trên thế giới đang bước vào thời kì đỉnh cao của
văn minh trí tuệ sự phát triển kinh tế cần có sự can thiệp cuả nhà nước là
rất cần thiết. Về mặt kinh tế Việt Nam vẫn là môt quốc gia kém phát triển
có thể vươn đến trình độ ngang hành với các nước phát triển Việt Nam
cầm tìm cho mình mộ hướng phát triển phù hợp với tình hình xã hội trong
nước mà vẫn đảm bảo xu thế phát triển chung của thế giới.
Chính vì vậy Đảng ta đã xác định việc chuyển đổi nền kinh tế sang kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là rất cần thiết và Đảng cuãng
nhấn mạnh vai trò kinh tế nhà nước là rất quan trọng.
Do đó em xin đề cập đến vấn đề nhà nước với vai trò là chủ thể quản lý
trong phát triển nền kinh tế nước ta.
I. SỰ CẦN THIẾT KHÁCH QUAN CỦA QLNN VỀ KINH TẾ
Từ học thuyết “hai bàn tay” của Samuelson đã khẳng định vai trò của
Nhà nước trong nền KTTT. Nhà nước đóng vai trò quan trọng để hạn chế
những khuyết tật của nền KTTT.
Việt Nam cũng không đứng ngoài, không thể không vận dụng học
thuyết trên của Samuelson. Nhà nước Việt Nam là tổ chức quyền lực chính
trị của nhân dân Việt Nam, đại diện cho nhân dân Việt Nam thực hiện
quản lý thống nhất mọi mặt hoạt động của đời sống xã hội trên các lĩnh
vực kinh tế, chính trị, an ninh, quốc phòng, đối ngoại. QLNN về kinh tế là
nội dung quan trọng và rộng lớn nhất.
QLNN về kinh tế nhằm: phát huy tiềm năng của các thành phần kinh tế,
động viên sức mạnh của toàn dân tộc, điều chỉnh các quan hệ xã hội để các
quan hệ lao động sáng tạo được tiến hành một cách tối ưu, các quan hệ lợi
ích được thực hiện một cách công bằng, văn minh, phát huy các lợi ích
trước mắt và lâu dài; hỗ trợ tập trung cho các công dân có điều kiện đóng
góp vào mục tiêu “dân giàu, nước mạnh” bằng tạo các tiền đề về ý chí,
khát vọng và niềm tin vào con đường làm giàu, về các tri thức và thông tin
có liên quan đến sự nghiệp kinh tế, các hành lang pháp lý, các phương tiện
sản xuất kinh doanh mà công dân không thể tự lực được, như: vốn, hạ tầng
cơ sở, các điều kiện để mở rộng thị trường trong và ngoài nước; bảo vệ và
tăng cường mở rộng môi trường kinh doanh, môi trường thiên nhiên.
II. ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI QLNN VỀ KINH TẾ
Nhà nước quản lý toàn bộ nền kinh tế quốc dân, có nghĩa là:
+ Quản lý kinh tế trên lãnh thổ quốc gia (kể cả các dự án có vốn đầu tư
của nước ngoài) và ngoài lãnh thổ quốc gia (các hoạt động kinh tế của
công dân nước Việt Nam đang diễn ra ở nước ngoài).
+ Quản lý một bộ phận cấu thành nền kinh tế quốc dân, gồm: tài nguyên
quốc gia, kết cấu hạ tầng kinh tế, quỹ tiền tệ quốc gia, dự trữ ngoại tệ và
vàng cùng các kim loại quý, hệ thống các doanh nghiệp thuộc mọi loại
hình sở hữu.
+ Quản lý mọi ngành kinh tế hợp thành hệ thống kinh tế quốc dân.
Tất nhiên, QLNN đối với các đối tượng trên, có phạm vi quản lý khác
nhau, như: Đối với tài nguyên quốc gia, Nhà nước quản lý toàn diện và
tuyệt đối; đối với các doanh nghiệp, Nhà nước quản lý các mặt sau: Xác
định hình thức sở hữu của nền kinh tế, của doanh nghiệp, Nhà nước can
thiệp vào cơ chế quản lý tại các doanh nghiệp, Nhà nước can thiệp vào các
mặt của quá trình hình thành lực lượng sản xuất của xã hội,… nhưng nói
chung là sự can thiệp có mức độ nhất định mà chủ yếu các doanh nghiệp
vẫn có quyền tự chủ của mình trong việc quyết định sản xuất gì? Sản xuất
cho ai? Và sản xuất thế nào? Và Nhà nước thực hiện chức năng nhà nước
quản lý vĩ mô nền kinh tế thị trường ở Việt Nam.
III. VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG NỀN KINH TẾ THỊ
TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY .
Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một
trong những vấn đề căn bản của triết lý phát triển ở Việt Nam hiện nay.
Không phải đến khi khủng hoảng tiền tệ xuất phát từ Mỹ năm 2008 gây
ảnh hưởng lan tỏa ra hầu khắp thế giới như hiện nay, cùng những giải pháp
cơ bản mà các nước đang sử dụng với hy vọng ngăn ngừa những kết cục bi
thảm về mặt kinh tế – xã hội do khủng hoảng đó gây ra, chúng ta mới thấy
tính phi lý của cái gọi là “thị trường tự do”, “bàn tay vô hình”. Từ rất sớm,
chúng ta đã khẳng định, nền kinh tế mà chúng ta đang xây dựng phải có sự
quản lý của Nhà nước. Kiên trì tư tưởng đó, tại Đại hội X, Đảng ta nhấn
mạnh sự cần thiết phải “bảo đảm vai trò quản lý, điều tiết nền kinh tế của
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa”.
1. Thực trạng sau 20 năm phát triển kinh tế thị trường.
Thực tiễn phát triển nền kinh tế thị trường hơn 20 năm đổi mới cho thấy,
Nhà nước ta đã có nhiều tác động tích cực trong việc bảo đảm định hướng
xã hội chủ nghĩa trong quá trình phát triển nền kinh tế này. Việc từng bước
hoàn thiện hệ thống chính sách về chế độ sở hữu và cơ cấu thành phần
kinh tế đã góp phần thúc đẩy chuyển dịch theo hướng tạo động lực và điều
kiện thuận lợi hơn cho khai thác các tiềm năng trong và ngoài nước để
phát triển kinh tế- xã hội. Nhờ đó, tốc độ tăng trưởng kinh tế, nhìn chung,
không ngừng được nâng cao: thời kỳ 1986 – 1990, tăng trưởng GDP bình
quân đạt 4,5%/năm; 1996 – 2000: 7%/năm; 2001 – 2005: 7,5%/năm; năm
2007 đạt 8,48%. Năm 2008, dù phải đối mặt với không ít khó khăn, nhưng
Việt Nam vẫn đạt mức tăng trưởng GDP là 6,23%.
Để góp phần giữ vững độc lập tự chủ trong phát triển kinh tế, từ đó có
độc lập tự chủ trên con đường phát triển đất nước nói chung, Nhà nước đã
có nhiều chính sách phát huy vai trò các nhân tố nội lực, coi trọng tích lũy
từ nội bộ nền kinh tế. Trong năng lực nội sinh, chúng ta coi trọng trước hết
nhân tố con người. Do vậy, Nhà nước đã có nhiều chính sách về giáo dục –
đào tạo để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Số lao động tốt nghiệp
phổ thông trung học từ 13,5% năm 1996 tăng lên 19,7% năm 2005. Năm
1996 mới có 12,31% lực lượng lao động được đào tạo, đến nay, tỷ lệ này
đạt 31%. Về nỗ lực nâng cao tích lũy từ nội bộ nền kinh tế: năm 1990, tỷ
lệ tích lũy so với GDP mới đạt 2,9%, năm 2004 là 35,15% và những năm
gần đây đều có xu hướng tăng lên…
Nhà nước cũng có nhiều chính sách khai thác ngoại lực, biến ngoại lực
thành nội lực cho sự phát triển. Biểu hiện rõ nhất là Nhà nước đã hoàn
thiện Luật Đầu tư, thu hút được nhiều vốn ODA, FDI,… Từ năm 1988 đến
hết năm 2006, có hơn 8.000 dự án đầu tư FDI với tổng vốn đăng ký 74 tỉ
USD. Năm 2006, khu vực FDI đóng góp gần 30% cho tăng trưởng kinh tế;
xuất khẩu của khu vực này chiếm khoảng 50% tổng kim ngạch xuất khẩu
của cả nước; cung cấp việc làm cho khoảng 50 vạn người và việc làm gián
tiếp cho 2,5 triệu người; đào tạo được 8.000 cán bộ quản lý, 30.000 cán bộ
kỹ thuật. Năm 2007, nguồn vốn ODA từ các nước, các tổ chức tài chính
quốc tế cấp cho Việt Nam đạt hơn 40 tỉ USD, trong đó, 80% là nguồn vốn
vay ưu đãi. Năm 2008, dù kinh tế thế giới suy thoái, nhưng nguồn đầu tư
nước ngoài vào Việt Nam lại tăng kỷ lục: vốn đăng ký 64 tỉ USD, trong đó
các dự án mới chiếm 60,2 tỉ USD.
Một tiêu chí quan trọng đánh giá tính định hướng xã hội chủ nghĩa của
nền kinh tế là hướng sự phát triển của nó vào việc nâng cao đời sống của
nhân dân. Nhìn lại hơn 20 năm đổi mới, thu nhập của nhân dân đã có bước
cải thiện đáng kể. Năm 1995, GDP bình quân đầu người mới đạt 289
USD; năm 2005: 639 USD; năm 2007: 835 USD. Năm 2008, GDP bình
quân theo đầu người đã đạt trên 1.000 USD. Với mức thu nhập này, Việt
Nam vượt qua ngưỡng nước thu nhập thấp
(2)
…
Vai trò của Nhà nước ta đối với kinh tế càng bộc lộ rõ nét trong ban
hành, thực thi các chính sách khắc phục tình trạng suy giảm kinh tế gần
đây. Trên cơ sở tiên định những diễn biến xấu có thể xảy ra, Nhà nước đã
đưa ra 8 nhóm giải pháp cấp bách, và bằng việc tổ chức thực hiện có hiệu
quả các giải pháp đó, Nhà nước đã góp phần tích cực vào việc kiềm chế
lạm phát, chỉ số giá tiêu dùng không ngừng giảm: tháng 9-2008 tăng
0,18%, tháng 10 giảm 0,19%, tháng 11 giảm 0,76%, tháng 12 giảm 0,68%.
Kinh tế vĩ mô ổn định: thu chi ngân sách được cân đối; tổng thu ngân sách
nhà nước vượt mức dự toán cả năm, tăng 26,3% so với năm 2007. Kim
ngạch xuất khẩu đạt 62,9 tỉ USD, vượt kế hoạch đề ra; kim ngạch nhập
khẩu đạt 80,4 tỉ USD, tăng 28% so với năm 2007. Những thành tựu này có
vai trò to lớn trong việc giữ vững ổn định xã hội, tạo môi trường thuận lợi
cho tăng trưởng kinh tế.
2. Phát triển kinh tế thị trường từ những đặc thù của nền kinh tế
nước ta.
Ở Việt Nam hiện nay, vai trò của Nhà nước đối với kinh tế không chỉ
xuất phát từ yêu cầu phổ biến của quá trình phát triển kinh tế thị trường,
mà còn xuất phát từ tính đặc thù của nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa. Thị trường, kinh tế thị trường là một kiểu quan hệ giữa
người với người trong sản xuất, trao đổi và tiêu dùng, nên mang đậm dấu
ấn của quan hệ xã hội, của thể chế chính trị mà nền kinh tế đó tồn tại. Với
mức độ đáng kể, sự phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay bị
chi phối và nhằm phục vụ cho định hướng xã hội chủ nghĩa. Đương nhiên,
nhân tố sâu xa bảo đảm định hướng chính trị đối với kinh tế là đường lối,
quan điểm, tư tưởng chỉ đạo của Đảng Cộng sản cầm quyền. Song, để
đường lối, quan điểm, tư tưởng chỉ đạo của Đảng biến thành hiện thực vận
động của nền kinh tế, chúng phải được thể chế hóa thành hệ thống pháp
luật, chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội và được triển khai
bằng Nhà nước, thông qua Nhà nước, dưới sự quản lý của Nhà nước do
Đảng lãnh đạo. Xét từ giác độ đó, Nhà nước có tác động trực tiếp nhất tới
việc định hướng sự vận động của kinh tế thị trường. Pháp luật, chương
trình, kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội của Nhà nước chỉ đúng, khi
chúng phản ánh chính xác yêu cầu phát triển khách quan của thị
trường, lấy quy luật thị trường làm cơ sở. Xét ở mặt này, chúng mang tính
khách quan. Nhưng chúng lại là sự thể chế hóa, cụ thể hóa mục tiêu chính
trị của Đảng, nên cũng có mặt chủ quan. Trong quá trình phát triển nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, định hướng chủ quan (ý
chí của Đảng, của Nhà nước và nhân dân ta) là ở chỗ, cùng với việc bảo
đảm lợi ích hợp lý của doanh nhân, thì việc ưu tiên bảo vệ lợi ích hợp
pháp, chính đáng của người lao động là một vấn đề có tính nguyên tắc.
Nhà nước có cơ chế, chính sách để bảo đảm sự ưu tiên đó, thể hiện ở cả ba
lĩnh vực kinh tế cơ bản sau:
Trên lĩnh vực sở hữu: Sự tồn tại của ba chế độ sở hữu (sở hữu toàn
dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân), ba hình thức sở hữu (hình thức sở
hữu nhà nước, hình thức sở hữu tập thể, hình thức sở hữu tư nhân) là một
đòi hỏi khách quan của nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay. Nhà
nước thông qua hệ thống chính sách, pháp luật, đòn bẩy kinh tế để định
hướng, làm cho kinh tế nhà nước từng bước vươn lên nắm vai trò chủ đạo,
kinh tế nhà nước cùng kinh tế tập thể tạo thành nền tảng của nền kinh tế
quốc dân.
Trên lĩnh vực quản lý: Nhà nước xây dựng cơ chế, chính sách… tạo
điều kiện thuận lợi cho người lao động trực tiếp hay thông qua các khâu
trung gian nhất định tham gia quá trình hoạch định, tổ chức, giám sát,
kiểm tra việc thực hiện các kế hoạch phát triển của doanh nghiệp.
Trên lĩnh vực phân phối: Nhà nước vừa thông qua hệ thống chính sách
kinh tế do mình hoạch định, vừa sử dụng các nguồn lực – trực tiếp là bộ
phận kinh tế nhà nước – để định hướng, can thiệp vào lĩnh vực phân phối
và phân phối lại theo hướng ưu tiên phân phối theo lao động và qua phúc
lợi xã hội; kết hợp tăng trưởng kinh tế với thực hiện công bằng xã hội;
hoạch định các chính sách xóa đói, giảm nghèo, đền ơn đáp nghĩa…
Đặc biệt, trong sự phát triển kinh tế thị trường ở nước ta, Nhà nước có
vai trò to lớn trong việc bảo đảm sự ổn định vĩ mô cho phát triển và tăng
trưởng kinh tế. “ổn định” ở đây thể hiện sự cân đối, hài hòa các quan hệ
nhu cầu, lợi ích giữa người và người, tạo ra sự đồng thuận xã hội trong
hành động vì mục tiêu phát triển của đất nước. Tính đúng đắn, hợp lý và
kịp thời của việc hoạch định và năng lực tổ chức thực hiện các chính sách
phát triển vĩ mô do Nhà nước đảm nhiệm là điều kiện tiên quyết nhất hình
thành sự đồng thuận đó. Là những công cụ tạo ra sự đồng thuận xã hội, từ
đó mà có ổn định xã hội cho phát triển và tăng trưởng kinh tế, các chính
sách, pháp luật của Nhà nước, một mặt, phải phản ánh đúng những nhu
cầu chung của xã hội, của mọi chủ thể kinh tế…; mặt khác, phải tôn trọng
tính đa dạng về nhu cầu, lợi ích cụ thể của các chủ thể đó.
Nhà nước ta cũng có vai trò to lớn trong việc bảo đảm gia tăng phúc lợi
xã hội, bởi mục tiêu căn bản của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam là góp phần thực hiện “dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh”. Có chính sách xã hội hợp lý; bảo đảm
phúc lợi ngày một gia tăng nhờ hiệu quả tác động của chính sách kinh tế
tiến bộ do Nhà nước hoạch định và tổ chức thực hiện bằng những nỗ lực
của nhiều chủ thể kinh tế khác nhau… là nhân tố có vai trò quyết định
trong vấn đề này.
Công bằng xã hội là một động lực của sự phát triển xã hội nói chung,
của sự phát triển và tăng trưởng kinh tế bền vững nói riêng. Một trong
những mục tiêu của quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa mà Nhà nước hướng tới là xóa bỏ tình trạng vi phạm
công bằng xã hội. Đây là một nhiệm vụ lâu dài. Ở nước ta hiện nay, công
bằng xã hội trên lĩnh vực kinh tế được biểu hiện không chỉ ở chỗ lao động
ngang nhau thì được hưởng thụ ngang nhau, mà còn ở chỗ cống hiến –
đóng góp cả về vật chất lẫn tinh thần trong quá khứ cũng như trong hiện
tại – ngang nhau cho sự phát triển đất nước thì được hưởng ngang nhau.
Từ đó, việc bảo đảm yêu cầu thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội được thể
hiện đầy đủ ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển kinh tế là
một nhiệm vụ cơ bản của Nhà nước ta trong việc thực hiện chức năng phát
triển, tăng trưởng kinh tế trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa.
Nhà nước chủ động tham gia kinh tế thị trường nhằm bảo hộ cho hình
thức tổ chức sản xuất chứa đựng các yếu tố của quan hệ sản xuất xã hội
chủ nghĩa và tạo điều kiện cho chúng phát huy ưu thế của mình; tạo vị thế
cho kinh tế nhà nước có sức mạnh định hướng xây dựng mô hình kinh tế
cho phép giải phóng con người; ngăn chặn các xu hướng phát triển kinh tế
không có lợi cho quảng đại người lao động.
Để thực hiện các mục tiêu đó, điều quan trọng nhất là Nhà nước tạo lập
khung khổ pháp lý cho hoạt động sản xuất kinh doanh diễn ra hiệu
quả. Chỉ duy nhất nhà nước có được chức năng này. Hệ chuẩn pháp luật
kinh tế của nhà nước càng được xây dựng đồng bộ, đúng đắn, nhất quán và
kịp thời bao nhiêu, càng có tác động tích cực tới sự vận hành của nền kinh
tế bấy nhiêu. Song, tự nó, pháp luật kinh tế không gây ra những biến đổi
trong hiện thực kinh tế. Để cho các luật kinh tế trở thành tác nhân kích
thích phát triển kinh tế, chúng phải được đưa vào vận hành. Nhà nước
chính là thiết chế chủ yếu đảm đương nhiệm vụ này. Năng lực điều hành
kinh tế bằng pháp luật là một thước đo đánh giá sự trưởng thành và vai trò
của nhà nước trong kinh tế.
Vai trò của nhà nước đối với sự phát triển kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa cũng thể hiện ở việc nhà nước góp phần đắc lực vào việc
tạo môi trường cho thị trường phát triển, như tạo lập kết cấu hạ tầng kinh
tế cho sản xuất, lưu thông hàng hóa; tạo lập sự phân công lao động theo
ngành, nghề, vùng kinh tế qua việc nhà nước tiến hành quy hoạch phát
triển kinh tế theo lợi thế từng vùng, ngành và nhu cầu chung của xã hội…
Là chủ thể trực tiếp sở hữu hoặc quản lý, khai thác những cơ quan truyền
thông mạnh nhất của quốc gia, nhà nước góp phần cung cấp thông tin thị
trường cho các chủ thể kinh tế để các chủ thể này chủ động lựa chọn
phương án sản xuất kinh doanh, đối tác kinh tế, thời điểm thực hiện các
giao dịch kinh tế, cách thức sản xuất kinh doanh có hiệu quả nhất trong
điều kiện cụ thể của mình…
Muốn sản xuất phải có an toàn về môi trường xã hội, môi trường kinh
doanh, môi trường an ninh – trật tự, an toàn trong quan hệ giữa người và
người, giữa doanh nghiệp và các cơ quan công quyền… Ngoài những nỗ
lực của nhà nước trong sự đồng tình của nhân dân, không lực lượng nào
khác có thể tạo lập được những yêu cầu an toàn như vậy.
Trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay, sự giao lưu kinh tế, hội nhập kinh tế
quốc tế của mọi quốc gia chỉ có hiệu quả cao, khi có tác nhân khởi thủy từ
phía nhà nước, được hỗ trợ đắc lực từ phía nhà nước. Bằng chính sách hội
nhập đúng đắn và năng lực tổ chức thực hiện có hiệu quả chính sách đó,
nhà nước góp phần khởi đầu và có tác động tích cực vào quá trình thiết lập
quan hệ quốc tế. Đại diện cho đất nước tham gia vào các quá trình soạn
thảo và thông qua chuẩn mực luật pháp kinh tế, các hiệp định kinh tế, các
nghị định thư…, Nhà nước ta góp phần tạo cho chủ thể kinh tế của đất
nước vị trí có lợi trong quan hệ kinh tế quốc tế. Sự kiện đàm phán gia nhập
Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) thành công là chứng minh rõ rệt cho
điều này.
Nhà nước ta là chủ thể chính của nền giáo dục – đào tạo. Bằng hệ thống
chính sách giáo dục, đào tạo của mình, được thực hiện qua hệ thống giáo
dục – đào tạo do Nhà nước thống nhất quản lý, dù tồn tại dưới nhiều loại
hình khác nhau (công lập, ngoài công lập, liên doanh, liên kết trong nước
và với nước ngoài…), Nhà nước cung cấp nguồn lao động chính, có chất
lượng cho sản xuất kinh doanh, cung cấp cán bộ quản trị doanh nghiệp cho
mọi thành phần, mọi loại hình kinh tế. Qua đó, Nhà nước ta có tác động rất
mạnh và trực tiếp tới việc nâng cao năng lực sản xuất, nâng cao hiệu quả
quản lý nền kinh tế, nâng cao hiệu quả của kinh tế thị trường nói chung.
Cùng với tác động của hệ thống luật kinh tế và sự đầu tư trực tiếp vào
kinh tế, Nhà nước còn định hướng nền kinh tế qua các công cụ gián tiếp là
chính sách kinh tế, như chính sách tài chính – tiền tệ, chính sách đầu tư,
chính sách thu nhập và việc làm…
Việc nhấn mạnh vai trò của Nhà nước trong việc định hướng sự phát
triển của nền kinh tế thị trường ở nước ta không mâu thuẫn với vấn đề có
tính nguyên tắc: sự vận hành của nền kinh tế thị trường nào cũng trước hết
và chủ yếu do các quy luật thị trường quyết định. Song, quy luật kinh tế thị
trường lại thuộc lĩnh vực quy luật xã hội. Tính khách quan của nó được thể
hiện và thực hiện thông qua hoạt động có ý thức của con người. Dựa trên
việc nhận thức đúng đắn những yêu cầu của các quy luật trong nền kinh tế
thị trường, Nhà nước cụ thể hóa những yêu cầu đó thành luật, chính sách,
kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội, xác định đúng bước đi để hiện thực
hóa chúng. Đây là nhân tố có tác động trực tiếp thúc đẩy nền kinh tế thị
trường vận động phù hợp với quy luật nội tại của nó. Ở đây có sự thống
nhất giữa khách quan và chủ quan. Song, sự thống nhất đó chỉ có được,
khi lợi ích chân chính mà nhà nước theo đuổi phù hợp với quy luật phát
triển khách quan của xã hội nói chung, của kinh tế thị trường nói riêng;
chủ thể nhà nước có năng lực trí tuệ đủ tầm để nắm bắt, vận dụng yêu cầu
của các quy luật kinh tế vào việc hoạch định các chính sách phát triển.
Trong điều kiện cụ thể ở Việt Nam hiện nay, xét về bản chất, Nhà nước ta
là nhà nước của dân, do dân, vì dân, lấy lợi ích của dân tộc đáp ứng đúng
nhu cầu phát triển khách quan của xã hội làm mục tiêu hoạt động của
mình. Nhà nước ta lấy hệ tư tưởng cách mạng và khoa học (chủ nghĩa Mác
– Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh) làm một trong những cơ sở xuất phát
quan trọng để hoạch định chiến lược phát triển kinh tế. Đó là hai nhân tố
bảo đảm có sự thống nhất giữa tính khách quan của quá trình phát triển
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và việc phát huy vai trò của
nhà nước xã hội chủ nghĩa với tư cách là một nhân tố chủ quan tác động
tích cực tới sự phát triển của nền kinh tế đó.
Tuy nhiên, việc phát huy vai trò của Nhà nước đối với sự phát triển nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay cũng
còn những hạn chế đáng kể: thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa còn chưa được xây dựng đồng bộ, vận hành suôn sẻ; quản lý
nhà nước về kinh tế còn nhiều bất cập; chưa có giải pháp mang tầm đột
phá để kinh tế nhà nước thực sự hoàn thành tốt chức năng chủ đạo trong
nền kinh tế; kinh tế tập thể còn rất yếu kém; năng lực cạnh tranh của nền
kinh tế thấp; chưa giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và
bảo vệ môi trường…
Để nâng cao hơn nữa hiệu quả, hiệu lực tác động của Nhà nước tới phát
triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện
nay, Nhà nước cần sớm hoàn thiện thể chế của nền kinh tế thị trường, đặc
biệt là hoàn thiện hệ thống pháp luật về sở hữu. Hệ thống luật này phải
khẳng định và bảo vệ sự tồn tại khách quan, lâu dài tính đa dạng của các
hình thức sở hữu; bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ sở
hữu. Cần xác định rõ, nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của Nhà nước ta là
cung cấp môi trường pháp lý tin cậy cho các chủ thể kinh tế phát huy tối
đa năng lực của họ.
Cùng với vấn đề then chốt trên, cần tiếp tục phân định rạch ròi chức
năng quản lý hành chính nhà nước đối với kinh tế và quản lý sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp; Nhà nước cần làm tốt chức năng hỗ trợ cho toàn
xã hội sản xuất hàng hóa công cũng như tư; đặc biệt là kết cấu hạ tầng
kinh tế và xã hội…
Để nâng cao năng lực của bộ máy quản lý nhà nước về kinh tế, cần cải
cách thể chế xây dựng chính sách, tích cực đấu tranh chống các hành vi
độc đoán, chuyên quyền, tệ quan liêu, tham nhũng trong bộ máy nhà nước.
Việc giải quyết có hiệu quả những vấn đề vừa có tính cấp bách, vừa có
tính lâu dài đó sẽ nâng cao hơn nữa hiệu quả tác động của Nhà nước tới sự
phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta
trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập toàn cầu
hiện nay.
IV. KẾT LUẬN
Phát triển kinh tế là một trong những nhân tố quan trong để phát triển
đất nước ta. Trong thời kì hội nhập phát triển kinh tế như hiện nay việc
quản lý và phát triển nền kinh tế phù hợp với định hướng xã hội chủ nghĩa
là rất quan trọng. Để làm đước điều đó Đảng và Nhà nước cần phải có
những chính sách phù hợp với từng điều kiện thực tiễn khác nhau. Nâng
cao vai trò và năng lức quản lý của các cấp về kinh tế là yếu tố quyết định
đến sự phát triển kinh tế nước ta với vai trò kinh tế chủ đạo.