Tải bản đầy đủ (.doc) (46 trang)

Ngữ văn tuyển sinh lớp 10

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (397.84 KB, 46 trang )

Kỳ thi tuyển sinh lớp 10 THPT năm học 2007-2008
Đề thi môn Ngữ văn của Sở GD-ĐT TP.HCM
Câu 1 (1 điểm): Chép lại nguyên văn khổ thơ đầu bài Đoàn thuyền đánh cá (Huy
Cận).
Câu 2 (1 điểm): Tìm các thành phần tình thái, cảm thán trong những câu sau:
a. Nhưng còn cái này nữa mà ông sợ, có lẽ còn ghê rợn hơn cả những tiếng kia
nhiều. (Kim Lân, Làng)
b. Chao ôi, bắt gặp một con người như anh ta là một cơ hội hãn hữu cho sáng
tác, nhưng hoàn thành sáng tác còn là một chặng đường dài. (Nguyễn Thành
Long, Lặng lẽ Sa Pa)
Câu 3 (3 điểm): Viết một đoạn văn nghị luận (từ 10 đến 12 câu) nêu suy nghĩ
của em về đạo lý Uống nước nhớ nguồn.
Câu 4 (5 điểm): Cảm nhận của em về đoạn thơ:
…Từ hồi về thành phố
quen ánh điện, cửa gương
vầng trăng đi qua ngõ
như người dưng qua đường
Thình lình đèn điện tắt
phòng buyn-đinh tối om
vội bật tung cửa sổ
đột ngột vầng trăng tròn
Ngửa mặt lên nhìn mặt
có cái gì rưng rưng
như là đồng là bể
như là sông là rừng
Trăng cứ tròn vành vạnh
kể chi người vô tình
ánh trăng im phăng phắc
đủ cho ta giật mình
(Nguyễn Duy, Ánh trăng,
SGK Ngữ văn 9 tập 1 tr.156 NXBGD - 2005)


GỢI Ý GIẢI ĐỀ THI
Câu 1 (1 điểm):
Học sinh cần đảm bảo được yêu cầu:
1
- Chép đúng, đủ bốn câu thơ trong khổ thơ đầu bài Đoàn thuyền đánh cá (Huy
Cận)
- Không sai chính tả.
Câu 2 (2 điểm):
Học sinh cần xác định được thành phần tình thái, cảm thán trong hai trường hợp,
cụ thể là:
a. Sử dụng thành phần tình thái: có lẽ
Nhưng còn cái này nữa mà ông sợ, có lẽ còn ghê rợn hơn cả những tiếng kia
nhiều. (Làng - Kim Lân)
b. Sử dụng thành phần cảm thán: chao ôi
Chao ôi, bắt gặp một con người như anh ta là một cơ hội hãn hữu cho sáng tác,
nhưng hoàn thành sáng tác còn là một chặng đường dài. (Lặng lẽ Sa Pa - Nguyễn
Thành Long)
Câu 3 (3 điểm):
Đề bài yêu cầu học sinh viết đoạn văn từ 10 đến 12 câu, nêu suy nghĩ của bản
thân về đạo lý “Uống nước nhớ nguồn”. Đây là đề bài có tính chất tích hợp trong
việc kiểm tra kỹ năng viết đoạn văn và hiểu biết về một vấn đề xã hội ở học sinh.
Do vậy, học sinh cần bảo đảm được những yêu cầu cơ bản sau:
- Kỹ năng viết đoạn văn: bảo đảm được bố cục của một đoạn văn (tức là có phần
mở, thân và kết đoạn); bảo đảm mối liên kết nội dung và hình thức; viết đúng
chính tả, dùng từ, ngữ pháp.
- Nêu suy nghĩ về đạo lý “Uống nước nhớ nguồn”: học sinh không nhất thiết phải
đi vào giải thích từ ngữ cụ thể nhưng cần khái quát được nội dung câu tục ngữ,
trình bày được suy nghĩ, đánh giá của bản thân về đạo lý tốt đẹp của dân tộc thể
hiện qua câu tục ngữ, chẳng hạn:
+ Câu tục ngữ là lời nhắc nhở, lời khuyên về lòng biết ơn.

+ Biểu hiện của lòng biết ơn: biết ơn ông bà, cha mẹ; biết ơn thầy cô; không
quên ơn những người đã chiến đấu hy sinh để bảo vệ đất nước...
+ Đây là đạo lý truyền thống tốt đẹp của dân tộc, cần được gìn giữ và phát huy.
+ ...
Câu 4 (5 điểm):
Trên cơ sở những hiểu biết khái quát về tác giả Nguyễn Duy, về bài thơ Ánh
2
trăng (đặc biệt chú ý hình tượng vầng trăng - biểu tượng của quá khứ nghĩa tình,
hoàn cảnh sáng tác), học sinh trình bày cảm nhận của mình về nội dung và nghệ
thuật của đoạn thơ. Các em có thể trình bày bài làm của mình theo nhiều cách,
song cần đảm bảo được một số yêu cầu cơ bản sau đây:
1. Cảm nhận về nội dung đoạn thơ: đoạn thơ thể hiện sự trăn trở, suy tư của
nhân vật trữ tình về thái độ sống đối với quá khứ. Điều này được thể hiện qua
các khổ thơ cụ thể:
- Hoàn cảnh sống thay đổi, thành phố với những tiện nghi hiện đại (ánh điện,
cửa gương) dễ làm cho người ta lãng quên quá khứ, dửng dưng với cả vầng trăng
tình nghĩa năm nào (Vầng trăng đi qua ngõ / như người dưng qua đường).
- Vầng trăng đột ngột xuất hiện trong một tình huống bất ngờ; nhân vật trữ tình
đối diện với vầng trăng mà trong lòng ngập tràn bao cảm xúc. Những gian lao,
vất vả và cả nghĩa tình trong quá khứ như ùa về làm nhân vật trữ tình vừa xúc
động, vừa day dứt, vừa thành kính, lặng im (Ngửa mặt lên nhìn mặt / có cái gì
rưng rưng/ như là đồng là bể / như là sông là rừng).
- Nhưng vầng trăng - quá khứ nghĩa tình luôn tròn đầy, bất diệt (Trăng cứ tròn
vành vạnh/ kể chi người vô tình) càng làm cho con người thêm ân hận, day dứt.
Sự im lặng của vầng trăng như một lời nhắc nhở nghiêm khắc về thái độ sống với
quá khứ (Ánh trăng im phăng phắc/ đủ cho ta giật mình).
2. Cảm nhận về nghệ thuật: biện pháp nhân hóa được sử dụng tài tình; hình ảnh
thơ gợi cảm, có tính chất biểu tượng; giọng thơ vừa tâm tình vừa suy tư, trầm
lắng, góp phần tạo nên chiều sâu triết lý cho bài thơ.
3. Đánh giá, nêu suy nghĩ:

- Đoạn thơ kết tinh giá trị tư tưởng, chủ đề của cả bài thơ. Cất lên như một lời
cảnh tỉnh, đoạn thơ chính là cái “giật mình” đầy ý nghĩa của chính nhà thơ, tự
nhắc nhở mình phải sống sao cho trọn vẹn, thủy chung.
- Đoạn thơ cũng như bài thơ không chỉ có ý nghĩa với nhà thơ, với cả một thế hệ
vừa mới đi qua chiến tranh mà còn có ý nghĩa với người đọc ngày nay vì nó đặt ra
vấn đề về thái độ sống với quá khứ. Đó chính là truyền thống đạo lý “Uống nước
nhớ nguồn” đẹp đẽ của dân tộc.
Bếp lửa (Bằng Việt)

Trong cuộc đời, ai cũng có riêng cho mình những kỉ niệm của một thời ấu thơ hồn nhiên, trong sáng.
Những kỉ niệm ấy là những điều thiêng liêng, thân thiết nhất, nó có sức mạnh phi thường nâng đỡ con
người suốt hành trình dài và rộng của cuộc đời. Bằng Việt cũng có riêng ông một kỉ niệm, đó chính là
những tháng năm sống bên bà, cùng bà nhóm lên cái bếp lửa thân thương. Không chỉ thế, điều in đậm
trong tâm trí của Bằng Việt còn là tình cảm sâu đậm của hai bà cháu. Chúng ta có thể cảm nhận điều đó
qua bài thơ “Bếp lửa” của ông.
Bằng Việt thuộc thế hệ nhà thơ trương thành trong kháng chiến chống Mĩ. Bài thơ “ Bếp lưả” được ông
3
sáng tác năm 1963 lúc 19 tuổi và đang đi du học ở Liên Xô. Bài thơ đã gợi lại những kỉ niệm đầy xúc
động về người bà và tình bà cháu, đồng thời thể hiện lòng kính yêu, trân trọng và biết ơn của người
cháu với bà, với gia đình, quê hương, đất nước.
Tình cảm và những kỉ niệm về bà được khơi gợi từ hình ảnh bếp lửa. Ở nơi đất khách quê người, bắt
gặp hình ảnh bếp lửa, tác giả chợt nhớ về người bà:
“ Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa.”
Hình ảnh “chờn vờn” gợi lên những mảnh kí ức hiện về trong tác giả một cách chập chờn như khói
bếp. Bếp lửa được thắp lên, nó hắt ánh sáng lên mọi vật và toả sáng tâm hồn đứa cháu thơ ngây. Bếp
lửa được thắp lên đó cũng là bếp lửa của cuộc đời bà đã trải qua “ biết mấy nắng mưa”. Từ đó, hình ảnh
người bà hiện lên. Dù đã cách xa nữa vòng trái đất nhưng dường như Bằng Việt vẫn cảm nhận được sự
vỗ về, yêu thương, chăm chút từ đôi tay kiên nhẫn và khéo léo của bà. Trong cái khoảnh khắc ấy, trong

lòng nhà thơ lại trào dâng một tình yêu thương bà vô hạn. Tình cảm bà cháu thiêng liêng ấy cứ như một
dòng sông với con thuyền nhỏ chở đầy ắp những kỉ niệm mà suốt cuộc đời này chắc người cháu không
bao giờ quên được vàcung chính t? đó, sức ấm và ánh sáng của tình bà cháu cũng như của bếp lửa lan
toả toàn bài thơ.
Khổ thơ tiếp theo là dòng hồi tưởng cùa tác giả về những kỉ niệm của những năm tháng sống bên
cạnh bà. Lời thơ giản dị như lời kể, như những câu văn xuôi, như thủ thỉ, tâm tình, tác giả như đang kể
lại cho người đọc nghe về câu chuyện cổ tích tuổi thơ mình. Nếu như trong câu chuyện cồ tích của
những bạn cùng lứa khác có bá tiên, có phép màu thí trong câu chuyện của băng Việt có bà và bếp lửa.
Trong những năm đói khổ, người bà đã gắn bó bên tác giả, chính bà là người xua tan bớt đi cái không
khí ghê rợn của nạn đói 1945 trong tâm trí đứa cháu. Cháu lúc nào cũng được bà chở che, bà dẫu có đói
cũng để cháu thiếu bữa ăn nào, bà đi mót từng củ khoai, đào từng củ sắn đểâ cháu ăn cho khỏi đói:
“Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói
Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi
Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy
Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu
Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay!”
Chính “mùi khói” đã xua đi cái mùi tử khí trên khắp các ngõ ngách. Cũng chính cái mùi khói ấy đã quện
lại và bám lấy tâm hồn đứa trẻ. Dù cho tháng năm có trôi qua, những kí ức ấy cũng sẽ để lại ít nhiều ấn
tượng trong lòng đứa cháu để rồi khi nghĩ lại lại thấy “sống mũi còn cay”. Là mùi khói làm cay mắt người
người cháu hay chính là tấm lòng của người bà làm đứa cháu không cầm được nước mắt?
“ Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm bếp
Tu hú kêu trên những cách đồng xa
Khi tu hú kêu bà còn nhớ không bà
Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế
Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế!”
“Cháu cùng bà nhóm lửa”, nhóm lên ngọn lửa củasự sống và của tìng yêu bà cháy bỏng của một cậu
bé hồn nhiên, trong trắng như một trang giấy.Chính hình ảnh bếp lửa quê hương, bếp lửa của tình bà
cháu đó đã gợi nên một liên tưởng khác, một hồi ức khác trong tâm trí thi sĩ thuở nhỏ. Đó là tiếng chim tu
hú kêu. Tiếng tu hú kêu như giục giã lúa mau chín, người nông dân mau thoát khỏi cái đói, và dường
như đó cũng là một chiếc đồng hồ của đứa cháu để nhắc bà rằng: “Bà ơi, đến giờ bà kể chuyện cho

cháu nghe rồi đấy!”. Từ “tu hú” được điệp lại ba lấn làm cho âm điệu cấu thơ thêm bồi hồi tha thiết, làm
cho người đọc cảm thấy như tiếng tu hú đang từ xa vọng về trong tiềm thức của tác giả.Tiếng “tu hú” lúc
mơ hà, lúc văng vẳng từ nững cánh đồng xa lâng lâng lòng người cháu xa xứ. Tiiếng chim tu hú khắc
khoải làm cho dòng kỉ niệm của đứa cháu trải dài hơ, rộng hơn trong cái không gian xa thẳng của nỗi
nhớ thương.
Nếu như trong những năm đói kém của nạn đói 1945, bà là người gắn bó với tác giả nhất, yêu thương
tác giả nhất thì trong tám năm ròng của cuộc kháng chiến chống Mĩ, tình cảm bà cháu ấy lại càng sâu
đậm:
“Mẹ cùng cha bận công tác không về
Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe
4
Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học.
Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc
Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà
Kêu chi hoài trên những cách đồng xa”
Trong tám năm ấy, đất nước có chiến tranh, hai bà cháu phải rời làng đi tản cư, bố mẹ phải đi công
tác, cháu vì thế phải ở cùng bà trong quãng thời gian ấy, nhưng dường như đối với đứa cháu như thế lại
là một niềm hạnh phúc vô bờ.? cùng bà, ngày nào cháu cũng cùng bà nhóm bếp. Và trong cái khói bếp
chập chờn, mờ mờ ảo ảo ấy, người bà như một bà tiên hiện ra trong câu truyện cổ huyền ảo của cháu.
Nếu như đối với mỗi chúng ta, cha sẽ là cánh chim để nâng ước mơ của con vào một khung trời mới,
mẹ sẽ là cành hoa tươi thắm nhất để con cài lên ngực áo thì đoiá với Bằng Việt, người bà vừa là cha,
vừalà mẹ, vừa là cách chim, là một cành hoa của riêng ông. Cho nên, tình bà cháu là vô cùng thiêng
liêng và quý giá đối với ông. Trong những tháng năm sống bên cạnh bà, bà không chỉ chăm lo cho cháu
từng miếng ăn, giấc ngủ mà còn là người thầy đầu tiên của cháu. Bà dạy cho cháu những chữ cái,
những phép tính đầu tiên. Không chỉ thế, bà còn dạy cháu những bài học quý giá về cách sống, đạo làm
người. Nững bài học đó sẽ là hành trang mang theo suốt quãng đời còn lại của cháu. Người bà và tình
cảm mà bà dành cho cháu đã thất sự một chỗ dựa vững chắc về cả vật chất lẫn tinh thần cho đứa cháu
be ùbỏng. Cho nên khi bây giờ nghĩ về bà, nhà thơ càng thương bà hơn vì cháu đã đi rồi, bà sẽ ở với ai,
ai sẽ người cùng bà nhóm lửa, ai sẽ cùng bà chia sẻ những câu chuyện những ngày ở Huế,... Thi sĩ
bổng tự hỏi lòng mình: “Tu hú ơi, chẳng đến ở cùng bà?”. Một lời than thở thể hiện nỗi nhớ mong bà sâu

sắc của đứa cháu nơi xứ ngươi. Chỉ trong một khổ thơ mà hai từ “bà”, “cháu” đã được nhắc đi nhắc lại
nhiều lấn gợi lên hình ảnh hai bà cháu sóng đôi, gắn bó, quấn qúit không rời.
Chiến tranh, một danh từ bình thườnh nhưng sức lột tả của nó thì khốc liệt vô cùng, nó đã gây ra đau
khổ cho bao người, bao nhà. Và hai bà cháu trong bài thơ cũng trở thành một nạn nhân của chiến tranh:
gia đình bị chia cắt, nhà bị giặc đốt cháy rụi...
“Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi
Hàng xóm bốn bên trở vế lầm lụi
Đỡ đần bà dựng lại túp lếu tranh
Vẫng vững lòng bà dặn cháu đinh ninh:
“ Bố ở chiến khu bố còn việc bố
Mày viết thư chớ kể này kể nọ
Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!’
Cuộc sống càng khó khăn, cảnh ngộ càng ngặt ngèo, nghị lứccủa bà càng bền vững, tấm lòng ủa bà
càng mênh mông. Qua đó, ta thấy hiện lên một người bà cần cù, nhẫn nại và giàu đức hi sinh. Dù cho
ngôi nhà, túp lều tranh của hai bà cháu đã bị đốt nhẵn, nơi nương thân của hai bà cháu nay đã khong
còn, bà dù có đau khổ thế nào cũng không dám nói ra vì sợ làm đứa cháu bé bong của mình lo buồn. Bà
cứng rắn, dắt cháu vượt qua mọi khó khăn, bà không đứa con đang bận việc nước phải lo lắng chuyện
nhà. Điều đó ta có thể thấy rõ qua lới dặn của bà: “Mày có viết thư chớ kể này kể nọ / Cứ bảo nhà vẫn
đươc bình yên!”. Lới dăn của bà nôm na giản dị nhưng chất chứa biết bao tình. Gian khổ, thiếu thốn, bao
nỗi nhớ thương con bà đều phải nén vào trong lòng để yên lòng người nơi tiền tuyến. Hình ảnh người bà
không chỉ còn là người bà của riêng cháu mà còn là một biểu tượng rõ nét cho nhữnh người phụ nữa
Việt Nam giàu đức hi sinh, thương con qúy cháu.
Kết thúc khổ thơ, Bằng Việt đã nâng hình ảnh bếp lửa trở thành hình ảnh ngọn, một ngọn lửa:
“Một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵn,
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng”.
Hình ảnh ngọn lửa toả sáng trong câu thơ, nó có sức truyền cảm mạnh mẽ. Ngọn lửa của tình yên
thương, ngọn lửa của niềm tin, ngọn lửa ấm nồng như tình bà cháu, ngọn lửa đỏ hồng si sáng cho con
đường đứa cháu. Bà luôn nhắc cháu rằng: nơi nào có ngọn lửa, nơi đó có bà, bà sẽ luôn ở cạnh cháu.
Những dòng thơ cuối bài cũng chính là những suy ngẫm về bà và bếp lửa mà nhà thớ muốn gởi tới bạn
đọc, qua đó cũng là nh74ngbài học sâu sắc từ công việc nhó, lửa tưởng chừng đơn giản:

“ Nhóm bếp lửa ấp iu, nồng đượm”
Một lấn nữa, hình ảnh bếp lửa “ ấp iu”, “nồng đượm” đã được nhắc lại ở cuối bài thơ như một lần nữa
khẳng định lại cái tình cảm sâu sắc của hai bà cháu.
“Nhóm niềm yêu thương khoai sắn ngọt bùi”
5
Nhóm lên bếp lửa ấy, người bà đã truyền cho đứa cháu một tình yêu thương những người ruột thịt và
nhắc cháu rằng không bao giờ được quên đi những năm tháng nghĩ tình, những năm tháng khó khăn mà
hai bà cháu đã sống vơi nhau, những năm tháng mà hai bà cháu mình cùng chia nhau từng củ sắn, củ
mì.
“Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui”
“Nồi xôi gạo mới sẻ chung vui” của bà hay là lời răng dạy cháu luôn phải mở lòng ra với mọi người xung
quanh, phải gắn bó với xóm làng, đừng bao giờ có một lối sống ích kỉ.
“Nhóm dậy cả những tâm tinh tuổi nhỏ”.
Bà không chỉ là người chăm lo cho cháu đấy đủ về vật chất mà c2n là người làm cho tuổi thơ của cháu
thêm đẹp. th6m huyền ảo như trong truyện. Người bà có trái tim nhân hậu, người bà kì diệu đã nhóm
dậy, khơi dậy, giáo dục và thức tỉnh tâm hồn đứa cháu để mai này cháu khôn lớn thành người. Người bà
kì diệu như vậy ấy, rất giản dị nhưng có một sức mạnh kì diệu tứ trái tim, ta có thể bắt gặp người bà như
vậy trong “Tiếng gà trưa” của Xuân Quỳnh:
“Tiếng gà trưa
Mang bao nhiêu hạnh phúc
Đêm cháu về nằm mơ
Giấc ngủ hồng sắc trứng.”
Suốt dọc bài thơ, mười lấn xuất hiện hình ảnh bếp lửa là mười lần tác giả nhắc tới bà.Âm điệu những
dòng thơ nhanh mạnh như tình cảm dâng trào lớp lớp sóng vỗ vao bãi biễn xanh thẳm lòng bà. Người
bà đã là, đang là và sẽ mãi mãi là người quan trọng nhất đối với cháu dù ở bất kì phương trời nào. Bà đã
trờ thành một người không thể thiếu trong trái tim cháu.
Giờ đây, khi đang ở xa bà nửa vòng trái đất, Bằng Việt vẫn luôn hướng lòng mình về bà:
“Giờ cháu đã đi xa. Có ngọn khói trăm tàu
Có lưả trăm nhà, niềm vui trăm ngả
Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở

Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?”
Xa vòng tay chăm chút cuả bà để đến vơí chân trơì mới, chính tình cảm cuả hai bà chaú đã sươỉ ấm
lòng tác giả trong cái muà đông lạnh giá cuả nước Nga. Đứa cháu nhỏ cuả bà ngàu xưa giờ đã trưởng
thành nhưng trong lòng vần luôn đinh ninh nhớ về góc bếp, nới nắng mưa hai bà cháu có nhau. Đưá
cháu sẽ không bao giờ quên và chẳng thể nào quên được vì đó chính là nguồn cội, là nơi mà tuổi thơ
cuả đưá chaú đã được nuôi dưỡng để lớn lên từ đó.
“ Đọc xong bài thơ, nhắm mắt laị tưởng tưởng, bạn sẽ hình dung thấy ngay hình ảnh bếp lưả hồng và
dáng ngươì bà lặng lẽ ngồi bê. Hình ảnh có tính sóng đôi này hiện lên thật sống động, rõ ràng như thể
nét khắc, nét chạm vậy...” (Văn Giá). Bài thơ Bếp lưả sẽ sống maĩ trong lòng bạn đọc nhờ sưc truyền
cảm sâu sắc cuả nó. Bài thơ đã khơi dạy trong lòng chúng ta một tình cảm cao đẹp đối với gia đình, với
những ngươì đã tô màu lên tuổi thơ trong sáng cuả ta /./
Cảm nhận về Ánh trăng (Nguyễn Duy)
Trăng- hình ảnh giản dị mà quen thuộc, trong sáng và trữ tình. Trăng đã trở thành đề tài thường xuyên
xuất hiện trên những trang thơ của các thi sĩ qua bao thời đại. Nếu như “ Tĩnh dạ tứ” cũa Lí Bạch tả cảnh
đêm trăng sáng tuyệt đẹp gợi lên nỗi niềm nhớ quê hương, “ Vọng nguyệt” của Hồ Chí Minh thể hiện tâm
hồn lạc quan, phong thái ung dung và lòng yêu thiên nhiên tha thiết của Bác thì đến với bài thớ “Ánh
trăng” của Nguyễn Duy, chúng ta bắt gặp hình ảnh vầng trăng mang ý nghĩa triết lí sâu sắc.Đó chính là
đạo lí “uống nước nhớ nguồn”.
Trăng- hình ảnh giản dị mà quen thuộc, trong sáng và trữ tình. Trăng đã trở thành đề tài thường xuyên
xuất hiện trên những trang thơ của các thi sĩ qua bao thời đại. Nếu như “ Tĩnh dạ tứ” cũa Lí Bạch tả cảnh
đêm trăng sáng tuyệt đẹp gợi lên nỗi niềm nhớ quê hương, “ Vọng nguyệt” của Hồ Chí Minh thể hiện tâm
hồn lạc quan, phong thái ung dung và lòng yêu thiên nhiên tha thiết của Bác thì đến với bài thớ “Ánh
trăng” của Nguyễn Duy, chúng ta bắt gặp hình ảnh vầng trăng mang ý nghĩa triết lí sâu sắc.Đó chính là
6
đạo lí “uống nước nhớ nguồn”.
Những sáng tác thơ của Nguyễn Duy sâu lắng và thấn đẫm cái hồn của ca dao, dân ca Việt Nam . Thơ
ông không cố tìm ra cái mới mà lại khai thác, đi sâu vào cái nghĩa tình muôn đời của người Việt. “Ánh
trăng” là một bài thơ như vậy.Trăng đối với nhà thơ có ý nghĩa đặïc biệt: đó là vầng trăng tri kỉ, vầng
trăng tình nghĩa và vầng trăng thức tỉnh. Nó như một hồi chuông cảng tỉnh cho mỗi con người có lối sống
quên đi quá khứ.

Tác giả đã mở đầu bài thơ với hình ảnh trăng trong kí ức thuổi thơ của nhà thơ và trong chiến tranh:
“Hồi nhỏ sống với đồng
với sông rồi với bể
hồi chiến tranh ở rừng
vầng trăng thành tri kỉ”
Hình ảnh vầng trăng đang được trải rộng ra trong cái không gian êm đềm và trong sáng của thuổi thơ.
Hai câu thơ với vỏn vẹn mười chữ nhưng dường như đã diễn tả một cách khái quát về sự vận động cả
cuộc sống con người. Mỗi con người sinh ra và lớn lên có nhiều thứ để gắn bó và liên kết. Cánh đồng,
sông và bể là nhưng nơi chốn cất giữ bao kỉ niệm của một thời ấâu thơ mà khó có thể quên được. Cũng
chính nới đó, ta bắt gặp hình ảnh vầng trăng. Với cách gieo vần lưng “đồng”, “sông” và điệp từ “ với” đã
diễn tả tuổi thơ được đi nhiều, tiếp xúc nhiều và được hưởng hạnh phúc ngắm những cảnh đẹp của bãi
bồi thiên nhiên cũa tác giả.Tuổi thơ như thế không phải ai cũng có được ! Khi lớn lên, vầng trăng đã tho
tác giả vào chiến trường để “chờ giặc tới’.Trăng luôn sát cách bên người lính, cùng họ trải nghiệm
sương gió, vượt qua những đau thương và khốc liệt của bom đạn kẻ thù. Người lính hành quân dưới
ánh trăng dát vàng con đường, ngủ dưới ánh trăng, và cũng dưới ánh trăng sáng đù, tâm sự của những
người lính lại mở ra để vơi đi bớt nỗi cô đơn, nỗi nhớ nhà. Trăng đã thật sự trởø thành “tri kỉ” của người
lính trong nhưng năm tháng máu lửa.
Khổ thơ thứ hai như một lời nhắc nhở về những năm tháng đã qua của cuộc đời người lính gắn bó với
thiên nhiên, đất nước hiền hậu, bình dị. Vầng trăng đù, người bạn tri kỉ đó, ngỡ như sẽ không bao giờ
quên được:
“Trần trụi với thiên nhiên
hồn nhiên như cây cỏ
ngỡ không bao giờ quên
cái vầng trăng tình nghĩa”
Vần lưng một lần nữa lại xuất hiện: “trần trụi”, “hồn nhiên”, “thiên nhiên” làm cho âm điệu câu thơ thêm
liền mạch, dường như nguồn cảm xúc cũa tác giả vẫng đang tràn đầy. Chính cái hình ảnh so sánh ẩn dụ
đã tô đâm lên cái chất trần trụi, cái chất hồn nhiên của người lính trong nhữnh năm tháng ở rừng. Cái
vầng trăng mộc mạc và giản dị đó là tâm hồn của những người nhà quê, của đồng, của sông. của bể và
của những người lính hồn nhiên, chân chất ấy. Thế rồi cái tâm hồn - vầng trăng ấy sẽ phài làm quen với
môt hoàn cảnh sống hoàn toàn mới mẻ:

“Từ hồi về thành phá
quen ánh điện, cửa gương
vầng trăng đi qua ngõ
như người dưng qua đường”
Thời gian trôi qua cuốn theo mọi thứ như một cơn lốc, chỉ có tình cảm là còn ở lại trong tâm hồn mỗi con
người như một ánh dương chói loà. Thế nhưng con người không thể kháng cự lại sự thay đổi đó.Người
lính năm xưa nay cũng làm quen dần với những thứ xa hoa nơi “ánh điện, cửa gương”. VàØ rồi trong
chính sự xa hoa đó, người lính đã quên đi người bạn tri kỉ của mình, người bạn mà tưởng chừng chẳng
thể quên được, “người tri kỉ ấy” đi qua ngõ nhà mình nhưng mình lại xem như không quen không biết.
Phép nhân hoá vầng trăng trong câu thơ thật sự có cái gì đó làm rung động lòng người đoc bởi vì vầng
trăng ấy chính là một con người. Cũng chính phép nhân hoá đó làm cho người đọc cảm thương cho một
“người bạn” bị chính người bạn thân một thời của mình lãng quên. Sự ồn ã của phố phường, những
công việc mưu sinh và những nhu cầu vật chất thường nhật khác đã lôi kéo con gười ra khỏi những giá
trị tinh thần ấy, một phần vô tâm của con người đã lấn át lí trí của người lính, khiến họ trở thành kẻ quay
lưng với quá khứ. Con người khi được sống đầy đủ về mặt vật chất thì thường hay quên đi những giá trị
tinh thần, quên đi cái nền tảng cơ bản củacuộc sống, đó chình là tình cảm con người. Nhưng rồi một tình
huống bất ngờ xảy ra buộc ngươiø lính phải đối mặt:
7
“Thình lình đèn điện tắt
phòng buyn -đinh tối om
vội bật tung cửa sổ
đột ngột vầng trăng tròn”
Khi đèn điện tắt, cũng là khi không còn được sống trong cái xa hoa, đầy đủ về vật chất, người lính bỗng
phải đối diện với cái thực tại tối tăm. Trong cái “thình lình”, “đột ngột” ấy, người lính vôi bật tung cửa sổ
và bất ngờ nhận ra một cái gì đó. Đó chẳng phải ai xa lạ mà chính là người bạn tri kỉ năm xưa của mình
đây hay sao? Con người ấy không hề biết được rằng cái người bạn tri kỉ, tình nghĩa, người bạn đã bị
anh ta lãng quên luôn ở ngoài kia để chờ đợi anh ta. “Người bạn ấy” không bao giờ bỏ rơi con người,
không bao giờ oán giận hay trách móc con người vì họ đã quên đi mình. Vầng trăng ấy vẫn rất vị tha và
khoan dung, nó cũng sẵn sàng đón nhận tấm lòng của một con người biết sám hối, biết vươn lên hoàn
thiện mình. Cuộc đời mỗi con người không ai có thể đóan biết trước được. Không ai mãi sống trong một

cuộc sống yên bình mà không có khó khăn, thử thách. Cũng như một dòng sông, đời người là một chuỗi
dài với những qunh co, uốn khúc . Và chính trong những khúc quanh ấy, những biến cố ấy, con người
mới thật sự hiểu được cái gì là quan trọng, cái gì sẽ gắn bó với họ trong suốt hành trình dài và rộng của
cuộc đới. Dường như người lính trong bài thơ đã hiểu được điều đó!
“Ngửa mặt lên nhìn mặt
có cái gì rưng rưng
như là đồng là bể
như là sông là rừng”
Khi người đối mặt với trăng, có cái gì đókhiến cho người lính áy náydù cho không bị quở trách một lời
nào. Hai từ “mặt” trong cùng một dòng thô: mặt trăng và mặt người đang cùng nhau trò chuyện . Người
lính cảm thấy có cái gì “rưng rưng” tự trong tận đáy lòng và dường như nước mắt đang muốn trào ra vì
xúc động trước lòng vị tha của người bạn “tri kỉ” của mình . Đối mặt với vầng trăng, bỗng người lính cảm
thấy như đang xem một thước phim quay chậm về tuổi thơ của mình ngày nào, nới có “sông” và có
“bể” .Chính những thước phim quay chậm ấy làm người lính trào dâng nhưng nỗi niềm và ngững giọt
nước mắt tuôn ra tự nhiên, không chút gượng ép nào! Những giọt nước mắt ấy đã phần nào làm cho
người lính trở nên thanh thản hơn, làm tâm hồn anh trong sáng lại. Một lần nữa những hình tượng trong
tuổi thơ và chiến tranh được láy lại làm sáng tỏ những điều mà con người cảm nhận được. Cái tâm hồn
ấy, cái vẻ đẹp mộc mạc ấy không bao giờ bị mất đi, nó luôn lặng lẽ sống trong tâm hồn mỗi con người và
nó sẽ lên tiếng khi con người bị tổn thương. Đoạn thơ hay ở chất thơ mộc mạc, chân thành, ngôn ngữ
bình dị mà thấm thía, những hình ảnh đi vào lòng người.
Vầng trăng trong khổ thớ thứ ba đã thực sự thức tỉnh con người:
“Trăng cứ tròn vành vạnh
kề chi người vô tình
ánh trăng im phăng phắc
đủ cho ta giật mình”
Khổ thơ cuối cùnh mang tính hàm súc độc đáo và đạt tới chiều sâu tư tưởng và triết lí. “Trăng tròn vành
vạnh” là vẻ đẹp của trăng vẫn viên mãn, tròn đầy và không hề bị suy suyển dù cho trải qua biết bao
thăng trầm. Trăng chỉ im lặng phăng phắc, trăng không nói gì cả, trăng chỉ nhìn, nhưng cái nhìn đó đủù
khiến cho con người giật mình. Ánh trăng như một tấm gương để cho con người soi mình qua đó, để
con người nhận ra mình để thức tỉnh lương tri. Con người có thể chối bỏ, có thể lãng quên bất cứ điều gì

trong tâm hồn anh ta . Nhưng dù gì đi nũa thì những giá trị văn hoá tinh thần của dân tộc cũng luôn vậy
bọc và che chởù cho con người.
“Ánh trăng” đã đi vào lòng người đọc bao thế hệ như một lời nhắc nhở đối với mỗi người: Nếu ai đã lỡ
quên đi, đã lỡ đánh mất những giá trị tinh thần qúy giá thì hãy thức tỉnh và tìmlại những giá trị đó. còn ai
chưa biết coi trọng những giá trị ấy thì hãy nâng niu những kí ức quý giá của mình ngay từ bây giờ,
đừng để quá muộn. Bài thơ không chỉ hay về mắt nội dung mà cón có những nét đột phá trong nghệ
thuật. Thể thơ năm chữ được vận dụng sáng tạo, các chữ đầu dòng thơ không viết hoa thể hiện những
cảm xúc liền mạch của nhà thơ. Nhịp thơ biến ảo rất nhanh, giọng điệu tâmtình dã gấy ấn tượng mạnh
trong lòng người đọc/./
8
Lục Vân Tiên cứu Nguyệt Nga
GIÚP CÁC EM ÔN THI THPT MÔN NGỮ VĂN.
Đoạn trích thuộc phần đầu tác phẩm. Trên đường đi thi, Lục Vân Tiên thấy dân khóc than bỏ chạy. hỏi
thăm mới biết bọn cướp đã hoành hành, bắt đi hai người con gái . Thấy cảnh bất bình, Vân Tiên nổi giận
liền ra tay dẹp bọn cướp cứu người bị nạn
III/Vị trí đoạn trích :
Đoạn trích thuộc phần đầu tác phẩm. Trên đường đi thi, Lục Vân Tiên thấy dân khóc than bỏ chạy. hỏi
thăm mới biết bọn cướp đã hoành hành, bắt đi hai người con gái . Thấy cảnh bất bình, Vân Tiên nổi giận
liền ra tay dẹp bọn cướp cứu người bị nạn. Hai người con gái ấy là Kiều Nguyệt Nga và tì tất Kim Liên
IV/Đọc và hiểu văn bản:
1/Về tính chất tự truyện của tác phẩm:
Đọc tiểu sử tác giả Nguyễn đình Chiểu và Truyện Lục Vân Tiên ta thấy có những yếu tố giống và khác
nhau giữa cuộc đời tác giả và nhân vật Lục Vân Tiên.
Trước hết là những chi tiết trùng hợp:
-NĐC cũng chẳng khác chi LVT lúc vào đời thật hăm hở và đầy khát vọng, cũng đều lên kinh ứng thí :
“Chí lăm bắn nhạn ven mây,
Danh tôi đặng rạng, tiếng thầy bay xa”
“Làm trai trong cõi người ta,
Trước lo báo bổ sau là hiển vang”
Nhưng cả hai đếu bất hạnh đến khắc nghiệt : Mẹ mất phải bỏ thi về chịu tang, bị đau mắt và sau đó bị

mù. Vì thế đã bị bội hôn . Nhưng sau đó, họ đều được một cuộc hôn nhân tốt đẹp. Nếu Lục Vân Tiên
cưới được Kiều Nguyệt Nga thì Nguyễn Đình Chiểu cũng cưới được cô Năm Điền. Chính vì thế mà
nhiều ý kiến cho rằng LVT là một tự truyện.
Tuy nhiên cuộc đời của tác giả và nhân vật cũng có những điểm khác nhau. Đó là Vân Tiên được tiên
ông cứu cho sáng mắt để sau đó lại tiếp tục đi thi đỗ Trạng nguyện, được vua cử đi dẹp giặc Ô Qua
thắng lợi. còn cụ Đồ Chiểu thì không như thế. Với cụ vĩnh viễn là bóng tối. Sự khác biệt đó thể hiện ước
mơ và khát vọng của tác giả.
2/Về nhân vật Lục Vân Tiên :
Đây là nhân vật lý tưởng của tác phẩm được khắc họa qua một kiểu thức khuôn mẫu thường gặp trong
truyện Nôm truyền thống. Hình ảnh này cũng giống như hình ảnh Thạch Sanh đánh đại bàng cứu công
chúa trong truyện cổ.
Hành động đánh giặc cướp cứu người của Lục Vân Tiên cho ta thấy tính cách của chàng. Một chàng trai
anh hùng, tài năng và giàu nghĩa khí. Chỉ một mình, lại không có vũ khí chàng đã dám bẻ gậy xông vào
bọn cướp đông người giáo gươm đầy đủ. Hình ảnh Lục Vân Tiên xông xáo tung hoành được nhả thơ
miêu tả thật đẹp sánh ngang với hình ảnh Triệu Tử Long – một dũng tướng thời Tam Quốc.
“Vân Tiên tả đột hữu xung,
Khác nào Triệu Tử giữa vòng Đương Vương”
Với võ nghệ cao cường, LVT đã đánh tan bọn cướp và diệt tên đầu đảng Phong Lai. Hành động của
chàng còn tỏ rõ đức độ của người nghĩa hiệp : “Giữa đường thấy sự bất bình chẳng tha”. Không sợ nguy
hiểm Vân Tiên sẵn sàng vì nghĩa trừ hại cho dân .
Đánh xong bọn cướp thấy hai cô gái còn chưa hết hãi hùng Vân Tiên đã ân cần hỏi han, an ủi họ. Hành
động của chàng thật đàng hoàng, chững chạc. Tuy có phần câu nệ nhưng vẫn là phong độ giữ lễ của
một con người có văn hoá trong khi ứng xử với hai người con gái : “ Khoan khoan ngồi đó chớ ra . Nàng
là phận gái ta là phận trai”. Vân Tiên đã từ chối cái lạy trả ơn, từ chối lời mời đền đáp, không nhận trâm
9
vàng trao tặng mà chỉ nhận lời cùng Nguyệt Nga làm thơ xướng hoạ. Câu trả lời “Làm ơn há dễ trông
người trả ơn” và đặc biệt là câu nói của Vân Tiên “Nhớ câu kiến ngãi bất vi. Làm người thế ấy cũng phi
anh hùng” cho thấy chàng là một người trọng nghĩa khinh tài đáng quý.
3/Nhân vật Nguyệt Nga:
Đoạn truyện ngoài việc giới thiệu Lục Vân Tiên còn cho ta biết về Kiều Nguyệt Nga biểu hiện qua những

lời giải bày của nàng với ân nhân. Đó là lời lẽ của một cô gái có giáo dục, có học thức. Cách nói năng
của nàng dịu dàng, mực thước và chân thành:
“Trước xe quân tử tạm ngồi,
Xin cho tiện thiếp lậy rồi sẽ thưa.
Chút tôi liễu yếu đào thơ,
Giữa đường gặp phải bụi dơ đã phần.
Hà Khê qua đó cũng gần,
Xin theo cùng thiếp đền ân cho chàng”
Là một cô gái rất mực đằm thắm ân tình, Nguyệt Nga nhớ ơn và mong muốn đền ơn người đã cứu giúp
mình giữ được tiết hạnh: “Lâm nguy chẳng kịp giải nguy. Tiết trăm năm cũng bỏ đi một hồi”
Nhất là cuối cùng, nàng đã tự nguyện gắn bó cuộc đời mình với cuộc đời chàng trai nghĩa khí ấy và sẵn
sàng liều chết để giữ trọn ân tình chung thủy với người yêu.
Suy cho cùng nhân vật Lục Vân Tiên và Kiều Nguyệt Nga chính là hai mặt của một cách sống. Một là
làm ơn không cần người khác đền ơn. Hai là chịu ơn thì phải nhớ ơn. Đó cũng là tính cách sống có tính
truyền thồng tốt đẹp của người Việt Nam chúng ta. Một cách sống cần được giữ gìn và phát huy.
4/ Phương thức miêu tả nhân vật trong đoạn truyện :
Trong đoạn truyện này nhân vật được miêu tả chủ yếu qua hành động, cử chỉ, lời nói. Do bị mù nên
Truyện LVT sáng tác là để đọc truyền miệng. Dù các học trò và mọi người có ghi chép lại nhưng nói
chung đã lưu truếyn trong nhân gian chủ yếu qua các hình thức nói thơ, kể thơ. Cũng vì thế nên khi mô
tả nhân vật tác giả ít chú ý khắc hoạ ngoại hình, cũng ít đi sâu phân tích nội tâm nhân vật. Nhân vật
trong LVT thường đặt trong những mối quan hệ xã hội, những xung đột của đời sống rồi bằng hành
động, cử chỉ, lời nói của mình mà tự bộc lộ tính cách ra.
Ngoài ra tác giả cũng tỏ thái độ của mình trong việc ca ngợi hay phê phán nhân vật đó.
5/ Ngôn ngữ của tác phẩm qua đoạn trích :
Lời thơ mộc mạc giản dị gần gũi với lời ăn tiếng nói thường ngày và mang đậm sắc thái địa phương
Nam bộ. Ngôn ngữ thơ là ngôn ngữ kể chuyện tự nhiên ít trau chuốt uyển chuyển nhưng lại dễ đi sâu
vào tâm hồn quần chúng nhân dân.
Trong đoạn trích này, sắc thái ngôn ngữ đa dạng. Lời thơ bình dị chất pghác nhất là trong đoạn đầu,
đoạn kế tiếp lời Vân Tiên bất bình, phẩn nộ cùng với lời tên cướp tự phụ hống hách và đoạn đối thoại
giữa Lục Vân Tiên và Kiều Nguyệt Nga thì lời thơ mềm mỏng, xúc động chân thành.

Ghi nhớ : LVT là một trong những truyện xuất sắc nhất của nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu, được lưu truyền
trong dân gian. Đoạn thơ trích thể hiện khát vọng hành động hành đạo giúp đời của tác giả và khắc hoạ
những phẩm chất tốt đẹp của hai nhân vật chính : Lục Vân Tiên tài ba, dũng cảm, trong nghĩa khinh tài;
Kiều Nguyệt Nga hiền hậu, nết na, ân tình chung thủy.
Lục Vân Tiên gặp nạn
GIÚP CÁC EM ÔN THI THPT MÔN NGỮ VĂN.
Đoạn trích ở phần giữa truyện. Nghe tin mẹ mất, Vân Tiên bỏ thi trở về quê chịu tang cùng với tiểu đồng.
Quá đau đớn chàg đã nhuốm bệnh, bị mù. Thi xong, trên đường về, Trịnh Hâm đã gặp thầy trò Vân Tiên.
10
Tên phản bạn này đã dụ trói tiểu đồng vào một gốc cây trong rừng, sau đó hắn xô Vân Tiên xuống sông
hòng hại chết chàng.
I/VỊ TRÍ ĐOẠN TRÍCH:
Đoạn trích ở phần giữa truyện. Nghe tin mẹ mất, Vân Tiên bỏ thi trở về quê chịu tang cùng với tiểu đồng.
Quá đau đớn chàg đã nhuốm bệnh, bị mù. Thi xong, trên đường về, Trịnh Hâm đã gặp thầy trò Vân Tiên.
Tên phản bạn này đã dụ trói tiểu đồng vào một gốc cây trong rừng, sau đó hắn xô Vân Tiên xuống sông
hòng hại chết chàng.
II/ĐỌC VÀ HIỂU VĂN BẢN
1/Ý chính của đoạn thơ này là sự đối nghịch giữa cái thiện và cái ác. Tám câu đầu là hành động tội ác
tàn bạo thể hiện tâm địa độc ác của Trịnh Hâm đối với bạn mình là Lục Vân Tiên. Đoạn sau miêu tả việc
làm nhân đức của Ngư ông cùng gia đình đã vớt Lục Vân Tiên và chạy chữa cho chàng đồng thời miêu
tả cuộc sống lao động trong sạch và nhân cách cao cả đáng kính của ông Ngư.
2/Hành động tội ác của Trịnh Hâm:
Tám câu đấu :
Chỉ trong tám câu thơ tác giả đã nêu ra tâm địa độc ác của Trịnh Hâm. Trước cảnh mù loà của Lục Vân
Tiên, hắn đã không hề có một chút thương cảm. Từng là bạn bè với nhau khi cùng đến trướng thi. Giờ
gặp lại bạn trong lúc khó khăn, bệnh hoạn lại hết lòng tin cậy : “Tình trước ngãi sau. Có thương xin khá
giúp nhau phen này” và chính miệng hắn cũng đã khăng khăng : “ Đương cơn hoạn nạn gặp nhau.
Người lành nỡ bỏ người đau sao đành” . Vậy nhưng hắn lại làm ngược lại. Một kẻ bất nhân bất nghĩa.
Hắn đã lừa tiểu đồng vào rừng sâu và trói vào gốc cây bỏ cho thú dữ ăn thịt. Hơn thế nữa,, Trịnh Hâm là
một kẻ xảo trá. Hành động tội ác của hắn không phải là vô tình mà là một âm mưu khá tinh vi đã được

hắn hoạch định trước: Đưa Vân Tiên xuống thuyền với lời hứa sẽ đưa về tận nhà, đợi khi tối trời đẩy
Vân Tiên xuống sông cho nước cuốn trôi rồi lại giả tiếng kêu trời nhắm lừa mọi người hòng che giấu tội
ác của mình. Trịnh Hâm là mẫu người tiêu biểu cho cái xấu, cái ác của xã hội lúc đó.
Động cơ thủ ác của hắn là gì ? Chẳng quen biết, thù hằn gì, chỉ gắp nhau trên đường đi thi, trong lần
uống rượu làm thơ trong quán nhưng chỉ vì thấy Vân tiên đức cao tài giỏi đã sinh lòng đố kỵ, ganh ghét :
“Kiệm, Hâm là đứa so đo,
Thấy Tiên dường ấy âu lo trong lòng.
Khoa này Tiên ắt đấu công,
Hâm dầu có đậu cũng không xong rồi”
Chỉ vì dục vọng thấp hèn mà hắn trở nên tàn bạo như thế. Nhưng cái ác hiện hình đó không hề làm mất
lòng tin nơi con người của nhà thơ. Bằng chứng là phần chủ yếu của đoạn trích tác giả đã miêu tả và ca
ngợi tấm lòng nhân hậu và cao thượng đầy chân tình của ông Ngư khi cứu vớt và tận tình chăm sóc Vân
Tiên.
3/Hình ảnh ông Ngư :
Hình ảnh miêu tả cho thấy gia đình ông Ngư thật đẹp, đẹp từ quan niệm sống đến việc làm nhân đức.
Thấy người bị nạn ông đã lập tức cứu giúp và cả nhà ông cùng tận tình cứu sống người bị nạn dù không
hề biết họ là ai:
“Ông chài xem thấy vớt ngay lên bờ.
Hối con vầy lửa một giờ,
Ông hơ bụng dạ, mụ hơ mặt mày”
Các câu thơ bình dị, tự nhiên trên không những đã kể lại một hành động nhân nghĩa mà còn gợi tả hết
mối chân tình của cả gia đình ông Ngư đối với người bị nạn .
Cứu sống Vân Tiên, ông còn lưu giữ chàng ở lại gia đình mình. Dù gia cảnh ông rất nghèo nhưng ông
sẵn lòng đùm bọc kẻ tật nguyền không chốn dựa nương. Ông Ngư đã không hề tính toán đến cái ơn cứu
mạng mà Vân Tiên không lấy gì báo đáp:
“Ngư rằng : Lòng lão chẳng mơ,
Dốc lòng nhân nghĩa, há chờ trả ơn”
Lời nói ý nghĩa này của ông làm ta nhớ lại lời của Vân Tiên khi cứu Nguyệt Nga “làm ơn há dễ trông
11
người trả ơn”.

Không chỉ việc làm, quan niệm sống và cả phong cách sống của ông Ngư cũng rất đẹp : Nghèo mà trong
sạch, không màng danh lợi. Ông sống ung dung tự do tự tại, kiếm sống bằng chính sức lao động của
mình : “Khoẻ quơ chài kéo, mệt quăng câu dầm” . Quả là một cuộc sống rất mực thanh cao, vui cùng
bầu trời, vui cùng gió trăng sông nước: “ Một bầu trời đất vui thầm ai hay”, “Ngày kia hứng gió, đêm này
chơi trăng”.
Rất đẹp cả từ hành động đến quan niệm sống. Ông Ngư là hình ảnh tiêu biểu của người dân lao động,
cho đạo đức cao đẹp và trong sáng của nhân dân.
Tóm lại, qua trích đoạn này, ta thấy rõ sự đối lập giữa thiện và ác. Thái độ tác giả ở đây cũng rất rõ ràng:
Ông hết lòng thương yêu những con người có nhân cách cao thượng như Lục Vân Tiên, Kiều Nguyệt
Nga, Ông Ngư … và ông cũng ghét cay ghét đắng những kẻ xấu, kẻ ác như bọn cướp, Trịnh Hâm, Bùi
Kiệm… Nhà thơ đã hết lòng tin tưởng nơi nhân dân lao động, những người tuy nghèo khổ nhưng đầy
lòng nhân hậu, vị tha, trọng nghĩa khinh tài.
Ghi nhớ : đoạn thơ trích nêu lên sự đối lập giữa thiện và ác; giữa nhân cách cao cả và những toan tính
thấp hèn, đồng thời thể hiện lòng tin của tác giả đối với người dân lao động. Một đoạn thơ giàu cảm xúc,
khoáng đạt, ngôn ngữ bình dị, dân giả.
Hình tượng người lính
trong thơ kháng chiến chống Pháp
Không biết bao mùa thu đã trôi qua kể từ mùa thu Tháng Tám của dân tộc. Chiến tranh đã đi qua trên
mảnh đất Việt thân yêu, để lại với đời mùa thu nay tươi đẹp của hòa bình, hạnh phúc và để lại với lòng
người bao chiến công của những chiến sĩ mùa thu xưa – những mùa thu của cuộc kháng chiến chống
Pháp với những con người “chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”. Họ đã dựng nên tượng đài bất hủ
trong thơ ca về người chiến sĩ Cách mạng.
Không biết bao mùa thu đã trôi qua kể từ mùa thu Tháng Tám của dân tộc. Chiến tranh đã đi qua trên
mảnh đất Việt thân yêu, để lại với đời mùa thu nay tươi đẹp của hòa bình, hạnh phúc và để lại với lòng
người bao chiến công của những chiến sĩ mùa thu xưa – những mùa thu của cuộc kháng chiến chống
Pháp với những con người “chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”. Họ đã dựng nên tượng đài bất hủ
trong thơ ca về người chiến sĩ Cách mạng.
Kháng chiến bùng nổ, người trai lên đường ra chiến trận theo Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Hồ
chủ tịch kính yêu – lời kêu gọi của non sông. Lòng người không khỏi luyến tiếc cảnh thanh bình cũ khi
bước chân lên đường vào mặt trận. Đó là mùa thu Hà Nội đầy lưu luyến :

Sáng mát trong như sáng năm xưa
Gió thổi mùa thu hương cốm mới
Tôi nhớ những ngày thu đã xa
Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội
Những phố dài xao xác heo may
Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy. ( Đất Nước – Nguyễn Đình Thi )
Hay một làng quê Kinh Bắc trù phú, tươi đẹp, nay đã chìm trong máu lửa của quân thù :
Quê hương ta lúa nếp thơm nồng
Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong
Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp. ( Bên kia sông Đuống – Hoàng Cầm )
Quê hương càng tươi đẹp thì lòng người càng xót xa nhớ tiếc và quyết ra đi để dẹp tan kẻ thù giày xéo
quê hương. Cảm hứng lãng mạn với khí khái “tráng sĩ” là cảm hứng chủ đạo về hình tượng người lính
những ngày đầu cách mạng. Người chiến sĩ mang dáng dấp của chàng Kinh Kha năm xưa khi bước
chân vào mặt trận :
Thôi hãy lên đường tráng sĩ ơi ?
12
Quê hương mong đợi đã bao đời
Biên thùy nghe dậy niềm ai oán
Gươm hận mài chưa ? Khát máu rồi. ( Biết gửi đưa ai – báo Vệ Quốc )
Đó là tâm trạng của những ngày đầu xung trận còn vương lại chút mơ mộng của thời thanh bình đã mất
Những chàng trai chưa trắng nợ anh hùng
Hồn mười phương phất phơ cờ đỏ thắm
Rách tả tơi rồi đôi giày vạn dặm
Bụi trường chinh phai bạc áo hào hoa
Mái đầu xanh thề mãi đến khi già
Phơi nắng gió hoa ngàn cỏ dại. ( Ngày về – Chính Hữu )
Họ đi vào chiến trường với những hình ảnh đẹp nhất, anh dũng nhất và cũng đầy chất lãng mạn nhất :
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm. ( Tây Tiến – Quang Dũng )
Đó là hình ảnh người lính Tây Tiến trong cuộc hành quân đầy gian khổ : ăn đói, mặc rét, sốt rét đến xanh
da trụi tóc. Người chiến sĩ vô danh ấy vẫn tiếp bước trên đường với lòng yêu nước khôn nguôi, cho dù
có phải nằm lại nơi chiến trường :
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Aùo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành. ( Tây Tiến – Quang Dũng )
Nhưng rồi bom đạn, chết chóc, chiến tranh ngày càng ác liệt hơn. Hiện thực cuộc sống đã khiến cho họ
không còn những mơ mộng của ngày đầu nhập ngũ. Hình tượng thơ có sự vận động đi từ lãng mạn đến
hiện thực. Điều đó cũng là điều phù hợp với những vận động biến đổi trong tâm hồn người chiến sĩ. Như
chính Chính Hữu tâm sự : “ Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, là chính trị viên, hằng ngày tôi phải chăm
nom chôn cất những đồng đội của tôi đã hy sinh và tôi có nhận xét : bạn tôi, không có người nào chết
trong động tác nằm ngủ, trong tư thế nghỉ ngơi. Họ đều hy sinh trong khi đang bắn, hoặc ôm bộc phá
xông lên. Nhận xét này đã trở thành sự day dứt, âm ỉ, nó trở thành một vấn đề trách nhiệm. Và một lúc
nào đó, từ trong kỷ niệm, một cách bất ngờ nhất, nó đã hiện lên thành những câu trọn vẹn :
Bạn ta đó
Chết trên dây thép ba từng
Một bàn tay chưa rời báng súng
Chân lưng chừng nửa bước xung phong
Oâi những con người mỗi khi nằm xuống
Vẫn nằm trong tư thế tiến công
Đó là hình ảnh đeo đuổi suốt đời tôi về những cái chết, chỉ có tác dụng thôi thúc chúng ta đứng lên”. Có
lẽ vì vậy mà hình ảnh người chiến sĩ không còn gắn với “bụi trường chinh” và “áo hào hoa” nữa, mà đã
trở thành người Vệ quốc quân trong tình đồng chí, đồng đội, cùng chiến đấu vì lòng yêu tổ quốc :
Anh với tôi, đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau,
Súng bên súng, đầu gác bên đầu,
Đêm rét chung chăn, thành đôi tri kỷ

Đồng chí ! ( Đồng chí – Chính Hữu )
Từ khắp mọi miền đất nước, những con người yêu nước tụ hội với nhau trong cuộc kháng chiến gian
khổ. Họ là những thanh niên trí thức Hà thành, lên đường theo tiếng gọi nhập ngũ :
Kháng chiến bùng lên biệt thủ đô
Lên đường dẻo bước khoác ba lô ( Tự thuật – Tú Mỡ )
Hay những người nông dân chân chất, “chưa biết chữ”, “súng bắn chưa quen”, “quân sự mươi bài”. Tất
cả người con đất Việt đã đến và chiến đấu vì đất mẹ yêu thương :
Lũ chúng tôi
Bọn người tứ xứ
Gặp nhau hồi chưa biết chữ
13
Quen nhau từ buổi “một hai”
Súng bắn chưa quen,
Quân sự mươi bài,
Lòng vẫn cười vui kháng chiến. ( Nhớ – Hồng Nguyên )
Phần lớn họ ra đi từ những làng quê nghèo khó :
Quê hương anh đất mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá ( Đồng chí – Chính Hữu )
Họ bỏ lại đó là cả quãng đời chìm trong đói khổ, là cuộc sống nông thôn đầu tắt mặt tối mà không đủ no :
Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay ( Đồng chí – Chính Hữu )
Hay :
Mái lều gianh,
Tiếng mõ đêm trường,
Luống cày đất đỏ
Ít nhiều người vợ trẻ
Mòn chân bên cối gạo canh khuya ( Nhớ – Hồng Nguyên )
Bản thân họ thì thiếu thốn, cực khổ trăm bề, bệnh tật khổ sở :
Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vừng trán đẫm mồ hôi

Aùo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt già
Chân không giày ( Đồng chí – Chính Hữu )
Ngay cả đến trang bị họ cũng phải “ Lột sắt đường tàu, Rèn thêm đao kiếm”. Từ chỗ nghèo khó họ trở
thành những người tri kỷ, cùng chung chí hướng “cùng nhau chung sống căm thù giết Tây”. Họ chia
nhau từng hơi ấm đôi bàn tay ( Thương nhau tay nắm lấy bàn tay ) rồi lại :
Kỳ hộ lưng nhau ngang bờ cát trắng
Quờ chân tìm hơi ấm đêm mưa ( Nhớ – Hồng Nguyên )
Những mất mát của họ thật là to lớn. Không biết bao nhiêu đồng đội của họ đã lần lượt hy sinh, vĩnh viễn
nằm lại chiến trường :
Hôm qua còn theo anh
Đi ra đường quốc lộ
Hôm nay đã chặt cành
Đắp cho người dưới mộ ( Viếng bạn – Hoàng Lộc )
Kể sao cho hết nỗi đau của người chiến sĩ khi hay tin những người thân yêu của mình đã mất dưới bom
đạn của kẻ thù. Tuy có bi thảm, đau thương, nhưng chính điều đó lại càng tố cáo mạnh mẽ hơn tội ác
của kẻ thù, càng nung nấu mãnh liệt hơn ý chí “căm thù giặc” nơi người Vệ quốc quân. Hình ảnh của
những người em gái, những người yêu mãi mãi nằm xuống đi vào thơ ca như những hình ảnh xúc động
nhất. Đó là người vợ trẻ nơi hậu phương ngã xuống :
Nhưng không chết người trai khói lửa
Mà chết người em nhỏ hậu phương
Tôi về không gặp nàng
Má tôi ngồi bên mộ con đầy bóng tối
Chiếc bình hoa ngày cưới thành bình hương…tàn lạnh vây quanh. ( Màu tím hoa sim – Hữu Loan )
Hay người em gái chết anh dũng nơi quê nhà :
Mới đến đầu ao, tin sét đánh
Giặt giết em rồi, dưới gốc thông
Giữa đêm bộ đội vây đồn Thứa
Em sống trung thành, chết thủy chung. ( Núi đôi – Vũ Cao )

Đó là nỗi căm hận họ đành chôn kín vào lòng :
Ai biến tên em thành liệt sĩ
Bên những hàng bia trắng giữa đồng
Nhớ nhau anh gọi : em, đồng chí
14
Một tấm lòng trong vạn tấm lòng. ( Núi đôi – Vũ Cao )
Những đau thương mất mát đó như tiếp thêm sức mạnh cho họ nơi chiến tuyến để tìm câu trả lời cho
những đau thương của họ và cả dân tộc. Họ lao vào chiến dịch với thế tiến công như nước vỡ bờ như
Nguyễn Đình Thi kể lại : “Hình ảnh những đoàn dân công tới tấp đến chiến trường, bộ đội ào ào đi vào
chiến dịch gợi lên một cái gì rất mạnh mẽ của không khí tức nước tràn bờ
Súng nổ rung trời giận dữ
Người lên như nước vỡ bờ ( Đất Nước – Nguyễn Đình Thi )
Tôi viết : “Người lên như nước vỡ bờ!” chính là nói đến sức mạnh ấy của quân đội ta, của quần chúng
cách mạng”. Đó là khí thế hừng hực đấu tranh của những ngày khói lửa :
Những đồng chí, thân chôn làm giá súng
Đầu bịt lỗ châu mai
Băng mình qua núi thép gai
Ào ào vũ bão,
Những đồng chí chè lưng cứu pháo
Nát chân nhắm mắt còn ôm
Những bàn tay xẻ núi, lăn bom
Nhất định, mở đường, cho xe ta lên chiến trường tiếp viện. ( Hoan hô chiến sĩ Điện Biên – Tố Hữu )
Những ngày chiến đấu anh dũng đã bộc lộ một cách rực rỡ hình ảnh cao đẹp của người chiến sĩ cụ Hồ:
kiên trì vượt qua mọi nguy hiểm, anh dũng quên mình vì nhiệm vụ. Càng gian khổ, đau thương càng
thắp sáng trong họ ngọn lửa nhiệt tình cách mạng, họ vẫn tiếp tục chiến đấu với tâm thế lạc quan, tin
tưởng vào thắng lợi trước mắt của dân tộc. Hình tượng người lính càng về giai đoạn sau càng tỏa sáng
vẻ đẹp của một quân đội trưởng thành về việc quân cũng như càng thể hiện tinh thần “vì nước quên
thân” của anh bộ đội. Đó là cuộc sống người lính chịu cực khổ nơi chốn rừng sâu vẫn bám trụ với làng
bản, với dân, giữ vững tinh thần của người dân sau khi sự tàn phá của giặc đã đi qua :
Có đêm gió bấc lạnh lùng

Áo quần rách nát lá dùng che thân
Khó khăn đau ốm muôn phần
Lấy đâu đủ thuốc mặc dần bệnh nguôi
Có phen giặc chạy tơi bời
Rừng sâu đói rét không người hỏi han
Đến nay họ về đây
Giữ vừng miền núi Cấm
Thổ phỉ quét xong rồi
Đồn Tây xa chục dặm
Kiến thiết lại bản xóm
Bị giặc đốt tan tành. ( Lên Cấm Sơn – Thôi Hữu )
Sống kham khổ, bệnh tật nhưng họ vẫn vui, vẫn đem lại nhịp sống mới cho làng bản. Và họ vẫn lạc quan
trên đường hành quân :
Một tiếng chim kêu sáng cả rừng
Lên đường chân lại nối theo chân
Đêm qua đầu chụm, run bên đá
Nay lại cùng mây sưởi nắng hừng. ( Từ đêm 19 – Khương Hữu Dụng )
Họ vẫn cùng nhau vui cười rộn rã khi kể chuyện riêng tư. Sự lạc quan trở thành bản lĩnh Cách mạng
giúp người chiến sĩ vượt lên trên tất cả để chiến thắng :
Đằng nớ vợ chưa !
Đằng nớ ?
Tớ còn chờ độc lập
Cả lũ cười vang bên ruộng bắp
Nhìn o thôn nữ cuối nương dâu. ( Nhớ – Hồng Nguyên )
Bên cạnh tình đồng chí, đồng đội thì tình quân dân chính là nguồn nghị lực khiến họ thêm vững bước
chiến đấu với quân thù. Hình ảnh người lính trở nên gần gũi với đời sống qua tình quân dân, hoàn thành
chiến lược của quân đội ta trong công tác dân vận “đi dân nhớ, ở dân thương”. Người dân đón tiếp Vệ
quốc quân như những người thân đi xa trở về
15
Bóng tre che mát đường làng

Một hàng quân bước hai hàng người vui ( Quân về – Nguyễn Ngọc Tấn )
Dân làng đón tiếp họ với tấm lòng của người dân nghèo, với “bát nước chè xanh”, đạm bạc, đơn sơ mà
thắm đượm nghĩa tình :
Các anh về
Xôn xao làng tôi bé nhỏ
Nhà lá đơn sơ,
Tấm lòng rộng mở
Nồi cơm nấu dở
Bát nước chè xanh
Ngồi vui kể chuyện tâm tình bên nhau. ( Bao giờ trở lại – Hoàng Trung Thông )
Từ tấm lòng bà mẹ chở che cho bộ đội :
Bầm yêu con, bầm yêu đồng chí
Bầm quý con, bầm quý anh em. ( Bầm ơi – Tố Hữu )
Đến sự yêu quý của cô gái :
Nếu không nhận hết bánh này
Các anh cũng nhận một hai cái dùm. ( Xếp bánh phồng – Nguyễn Hiêm )
Tất cả tình cảm máu thịt gắn bó đó đã theo các anh trong suốt đường ra mặt trận. Hình tượng người lính
trong thơ kháng chiến thể hiện được vẻ đẹp của cuộc sống Cách mạng đang chuyển biến đi lên.
Hình tượng người lính trong thơ kháng chiến chống Pháp là một hình tượng đẹp trong văn học Việt
Nam, đó là bước tiếp nối với hình tượng sĩ phu yêu nước trong quá khứ, và là hình tượng mở đầu cho
hình tượng chiến sĩ giải phóng quân kiên cường trong cuộc kháng chiến chống Mỹ sau này. Đó là những
tượng đài bất hủ của lòng yêu nước và tự hào dân tộc của nhân dân ta. Cũng xin mượn hình tượng
người lính mà Nguyễn Đình Thi miêu tả làm lời kết cho hình tượng người lính trong cuộc kháng chiến
chống Pháp đầy hào hùng của dân tộc : “Những người lính trẻ với gương mặt rất tươi sáng nhiều khi
cũng lấm lem bùn đất. Họ đi lại với tinh thần xông pha hăng hái, thỉnh thoảng trên gương mặt lại nhoẻn
ra một nụ cười. Tôi liên tưởng hình ảnh đẹp đó với hình ảnh đất nước. Đất nước đang trải qua những
cơn thử thách và hình ảnh của đất nước vượt lên từ than bụi lấy bùn và rạng rỡ ánh sáng mới :
Nước Việt Nam từ trong máu lửa
Rũ bùn đứng dậy sáng lòa. “ ( Đất Nước – Nguyễn Đình Thi )
Sang thu (Hữu Thỉnh)

GIÚP CÁC EM ÔN THI THPT MÔN NGỮ VĂN.
Có lẽ vì nàng thu “thơ mộng muôn thủa” luôn có xu hướng “rủ rê” ngòi bút theo những lối mòn quen
thuộc của truyền thống thơ thu. Mà hút theo những con đường dằng đặc đã định hình trước đó là đến tử
lộ của văn chương…
Có lẽ vì nàng thu “thơ mộng muôn thủa” luôn có xu hướng “rủ rê” ngòi bút theo những lối mòn quen
thuộc của truyền thống thơ thu. Mà hút theo những con đường dằng đặc đã định hình trước đó là đến tử
lộ của văn chương…
Nói về đề tài mùa thu, một tác giả đã nhận định: “Đề tài "Mùa Thu" bao giờ cũng có vẻ là dễ viết. Mùa
thu dường như luôn luôn nấp sẵn trong ngòi bút của chúng ta, nhất là những ngòi bút thơ: hễ động bút là
mùa thu cứ chực đổ ùa ra trên mặt giấy. Tưởng như với đề tài thơ mộng muôn thuở này có thể dễ dàng
chắp bút. Chỉ đến khi bắt đầu cầm bút ngồi trước mặt giấy, tôi mới thấy đề tài này thật là khó” Tại sao lại
có nghịch lí trong kinh nghiệm của người sáng tác như vậy? Có lẽ vì nàng thu “thơ mộng muôn thủa”
luôn có xu hướng “rủ rê” ngòi bút theo những lối mòn quen thuộc của truyền thống thơ thu. Mà hút theo
những con đường dằng đặc đã định hình trước đó là đến tử lộ của văn chương…
Sang thu của Hữu Thỉnh xuất hiện khi trước nó đã có rất nhiều bài thơ nổi tiếng đông tây kim cổ: Thu
hứng (Đỗ Phủ), Chùm thơ thu (Nguyễn Khuyến), Đây mùa thu tới (Xuân Diệu)… Nhưng nó vẫn có cái
hay, cái độc đáo riêng của một hồn thơ sâu lắng, nhạy cảm khi mùa thu tới.
16
Ngay từ tiêu đề, tác giả đã tự xác định một thời điểm miêu tả: thời điểm giao mùa. Đó không phải là
chính thu, khi bầu trời xanh ngắt lơ lửng những tầng cao, không phải cuối thu, khi nắng trời đã nhuộm đỏ
lá bàng, hay khi cái rét mùa đông đã lẩn vào trong gió…Sang thu nghĩa là mới chớm thu thôi, cái tứ kết
buộc hệ thống hình ảnh trong bài cũng chỉ gói gọn trong chút “chớm” mỏng manh đó.
Đặc biệt ở góc độ miêu tả tạo vật. Không hề có một từ định tính để miêu tả thế giới thu. Có hương ổi,
mùi hương vừa đặc trưng cho mùa vừa đặc trưng cho làng thôn ngõ xóm. Nhưng hương ổi “thơm” như
thế nào thì thi sĩ hoàn toàn không miêu tả. Có gió, nhưng gió se chứ không phải là gió lạnh. Se gợi một
động thái, hơn là gợi một cảm giác. Làn sương giăng phủ ngõ thôn chẳng được đặc tả ở mức độ (mù
mịt) hay màu sắc (trắng mờ)... Dòng sông, cánh chim, hay đám mây cũng không tô điểm cho phong
cảnh thu bằng những gam màu đặc trưng của nó. Truyền thống thơ thường kiến trúc ngôi nhà thu bằng
những chất liệu quen thuộc như cúc, liễu, ngô đồng hay màu trời, sắc nước…Hữu Thỉnh hầu như khơi
gợi cảm giác về mùa trong trạng thái mơ hồ của tạo vật. Thành công nổi bật nhất của bài cũng là ở một

hệ thống những động từ miêu tả rất giàu cảm giác: “phả”, “se”, “chùng chình” “dềnh dàng” “bắt đầu vội
vã” “vắt nửa mình”… “Chùng chình” trước hết gợi tả chính xác những làn sương như ngưng lại và nhẹ
nhàng tỏa lan ngõ xóm. Dòng nước thu vốn trong trẻo và sâu hút làm người ta khó mà thấy rõ được sự
chuyển động nó nên cảm giác sông lững lờ trôi cũng rất hiện thực. Đám mây như tấm khoăn voan của
người thiếu nữ, duyên dáng nối hai mùa là một liên tưởng thực sự độc đáo. Song trên hết, hệ thống
động từ toàn bài còn đặc sắc ở chỗ, nó không chỉ miêu tả chính xác trạng thái của tạo vật mà còn thổi
vào tạo vật những cảm giác rất người. Tinh tế và sống động sao một buổi sáng chớm thu, sương như
người khách ngập ngừng nơi đầu ngõ, gió se lại bởi chút lạnh xa xăm, những cánh chim vội vã tìm về
phương ấm áp…
Song thời điểm chớm thu không phải chỉ hiển hiện ở những dấu hiệu mơ hồ trong trạng thái biến
chuyển của cảnh vật, mà ở cả chút ngỡ ngàng bâng khuâng của lòng người: “Bỗng nhận ra hương ổi”;
“Hình như thu đã về”…
Tiếp tục thể hiện những dấu hiệu mùa thu rõ rệt hơn nhưng ý nghĩa của khổ cuối không chỉ dừng lại ở
đó:
Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi
Con người cảm thấy biết bao biểu hiện khác biệt của thời tiết khi mùa thu tới: mưa và sấm thưa dần,
không còn dữ dội nữa. Sang thu, tất cả các dấu hiệu của mùa hạ vẫn còn nhưng đã giảm dần mức độ,
cường độ… Hàng cây như đã quá quen với nắng lửa mưa giông, được gọi một cách hình ảnh là “hàng
cây đứng tuổi”. Chính các từ “bất ngờ”, “đứng tuổi” khiến ý nghĩa của câu thơ không dừng lại ở nét nghĩa
tả thực mà có chiều sâu hơn. Nắng, mưa, sấm chớp… hay là những vang động của cuộc đời? Trong
tương quan ấy, hàng cây tượng trưng cho con người từng trải mà bao dâu bể biến đổi không còn đáng
ngạc nhiên. Cảnh như sâu lắng hơn bởi liên tưởng suy tư về mùa thu đời người.
Không hiểu sao, khi đọc bài thơ này, tôi chợt thấy nhớ rất nhiều những năm tháng đã qua của mình.
Miền kí ức tuổi thơ được đánh thức bởi mùi hương ổi, bởi ngõ xóm thân quen ấy. Và có lẽ cũng nhờ
giọng điệu êm nhẹ dễ cuốn người đọc vào dòng cảm xúc, suy nghĩ tự nhiên của tác giả. Nét độc đáo
nhất của bài là những hình ảnh chính xác và giàu sức gợi tạo nên một bức tranh thu giản dị mà sống
động. Đây xứng đáng là một bài thơ thu hay trong thế giới thi ca!

Mùa xuân nho nhỏ (Thanh Hải)
GIÚP CÁC EM ÔN THI THPT MÔN NGỮ VĂN.
17
Phân tích tác phẩm Mùa xuân nho nhỏ (Thanh Hải)
* Yêu cầu về kỹ năng, phương pháp
- Học sinh cần nắm vững phương pháp, kỹ năng phân tích tác phẩm trữ tình.
- Bài viết có bố cục cân đối, hợp lý. Diễn đạt trôi chảy, có hình ảnh, bộc lộ cảm xúc... Biết sử dụng
hiệu quả các thao tác bình, so sánh đối chiếu trong quá trình phân tích.
- Phải có phần phát biểu cảm nghĩ: Bài thơ gợi cho em những suy nghĩ gì về một lối sống đẹp, sống
có ích ?
Tuy nhiên thí sinh có hai cách giải quyết: Các em có thể lồng suy nghĩ của mình khi phân tích ý
thơ: Mùa xuân và tâm niệm của nhà thơ; hay các em có thể chuyển thành một phần riêng sau khi đã
phân tích toàn bộ bài thơ.
* Yêu cầu về nội dung:
Nội dung chính: Bài thơ được viết tháng 11.1980, khoảng 1 tháng sau thì nhà thơ qua đời. Bài thơ
là khúc ca xuân, là tấm lòng tha thiết, gắn bó của Thanh Hải đối với đất nước, cách mạng.
Các em có thể dựa vào 3 ý sau để phân tích:
1/ Mùa xuân của thiên nhiên, đất trời:
- Miêu tả theo lối phác hoạ nhưng nhà thơ vẽ ra được cả không gian gợi cảm vô cùng, màu sắc tươi
thắm, âm thanh vang vọng rộn ràng, tươi vui.
- Cảm xúc say sưa ngây ngất của nhà thơ được diễn tả đa dạng và tập trung nhiều ở chi tiết tạo hình
“Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng”
2/ Mùa xuân của đất nước và cách mạng: Từ mùa xuân của thiên nhiên chuyển sang cảm nhận về
mùa xuân đất nước, cách mạng với hình ảnh “lộc non” gắn liền với hình ảnh người chiến sĩ và
người nông dân đều trào dâng sức sống mãnh liệt, tự tin với tương lai xán lạn rộng mở (Đất nước
như vì sao...)
3/ Tâm niệm của nhà thơ:
- Nhà thơ khéo chọn vẻ đẹp của thiên nhiên để thể hiện vẻ đẹp tâm hồn, ước nguyện nung nấu của
chính mình. Đấy cũng là những hình ảnh đơn sơ, nhỏ bé (con chim hót, một nhành hoa, nốt trầm...)

nhưng giàu sức gợi, thể hiện vẻ đẹp cao quý của tâm hồn, lối sống của con người cách mạng. Và
nghệ thuật điệp ngữ, sự chuyển đổi đại từ “tôi” sang “ta” cũng góp phần làm sáng tỏ nội dung, ý
nghĩa bài thơ.
-“Mùa xuân nho nhỏ” là một ý thơ hay, vừa thể hiện sự khiêm tốn đồng thời cũng là ý nguyện được
sống có ích được cống hiến một phần công sức nhiệt huyết của mình trong việc làm nên mùa xuân
rộng lớn của đất nước xã hội.
- Đoạn kết bài thơ nghe nhẹ nhàng lan tỏa mà sâu lắng bởi làn điệu dân ca xứ Huế, tỏ rõ niềm tin
yêu lạc quan của Thanh Hải - người con xứ Huế.
4. Phát biểu nhận thức, suy nghĩ của bản thân:
* Gợi ý:
- Lối sống đẹp là biết phục vụ, cống hiến, hy sinh vì người khác, vì đồng bào, vì quê hương đất
nước thân yêu.
- Sống có mục đích, ước mơ, lý tưởng cao đẹp.
- Luôn trau dồi tri thức, rèn luyện nhân cách, đạo đức để trở thành công dân tốt, có ích cho quê
18

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×