Tải bản đầy đủ (.doc) (5 trang)

MTSK 2017 2018 anh TT1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (63.45 KB, 5 trang )

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
MÔ TẢ SÁNG KIẾN
Mã số: …………………………………
1. Tên sáng kiến: Một số phương pháp dạy Toán lớp 4 theo hướng tích
cực hóa hoạt động học tập của học sinh.
2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Chuyên môn tiểu học.
3. Mô tả bản chất của sáng kiến:
3.1. Tình trạng giải pháp đã biết:
Ưu điểm: Được sự quan tâm của Ban giám hiệu trường trong việc đổi mới
phương pháp. Mặc khác việc học tập của các em hiện nay cũng được các bậc
phụ huynh rất quan tâm. Bên cạnh đó môn toán là một môn có nhiều nội dung
dung mới đối với học sinh lớp 4 nên các em rất tò mò. Từ đó gây hứng thú cho
các em khi các em học môn toán.
Nhược điểm:
a)Về phía giáo viên: Ở các lớp 1,2,3 học sinh chủ yếu nhận biết các khái
niệm ban đầu, đơn giản qua các ví dụ cụ thể với sự hỗ trợ của các vật thực hoặc
mô hình, tranh ảnh,…do đó chỉ nhận biết cái toàn thể, cái riêng lẻ, chưa làm rõ
các mối quan hệ, tính chất của sự vật, hiện tượng. Lên lớp 4 các em được học
các kiến thức trừu tượng, khái quát, vận dụng một số tính chất của số, phép tính,
hình học dạng khái quát hơn. Các em thực hành, vận dụng nhiều: Dạy học dựa
vào hoạt động học của học sinh.
b) Học sinh: Qua giảng dạy tôi thấy, rất nhiều em do điều kiện kinh tế gia
đình còn khó khăn, một buổi đi học, một buổi các em phải làm việc kiếm tiền
giúp gia đình, nên chủ yếu các em học ở trên lớp là chính. Vì thế việc học của
các em gặp rất nhiều trở ngại. Đặc biệt chưa nhận thức đúng vai trò của môn
Toán. Học sinh chưa ý thức được nhiệm vụ của mình, chưa chịu khó, tích cực tư
duy suy nghĩ tìm tòi cho mình những phương pháp học đúng để biến tri thức của
thầy thành của mình.
3.2. Nội dung giải pháp đề nghị công nhận là sáng kiến:
- Mục đích của giải pháp: Nhằm phát huy những ưu điểm, kịp thời khắc


phục những hạn chế, để giúp học sinh lĩnh hội được đầy đủ các kiến thức từ
những phương pháp dạy học. Qua thực tế giảng dạy, bản thân tôi luôn trăn trở
phải làm gì, làm như thế nào để các em có hứng thú trong học tập, nhất là đối
với môn toán, để giúp các em nắm vững các kiến thức trong môn học này.
- Nội dung giải pháp:
1 .Phát huy tính tích cực hóa của học sinh trong PPDH vấn đáp kết
hợp với một số PPDH khác trong hình thành tri thức mới.
Học sinh muốn tiếp thu tri thức mới cần có sự hướng dẫn của giáo viên
bắng một hệ thống câu hỏi phù hợp. Giáo viên tổ chức các hoạt động dạy học
nhằm chuyển giao ý đồ sư phạm của thầy thành nhiệm vụ học tập của trò.
1


Ví dụ trong bài: “Phép nhân phân số”. Hình thành phép tính nhân của 2
phân số

3
2
3
2
và . Hình thành phép tính nhân của 2 phân số và cho học sinh
4
5
4
5

là một vấn đề mới. nếu giáo viên chỉ giới thiệu quy tắc tính sau đó áp dụng vào
luyên tập thì không phát huy được tính tích cực, tư duy, sáng tạo của học sinh.
Do đó, giáo viên cần suy nghĩ, chuẩn bị hệ thống câu hỏi phù hợp để hướng dẫn
học sinh tiếp thu tri thức mới một cách tích cực, sáng tạo.

2.Phát huy tính tích cực hóa của học sinh trong phương pháp phát
hiện và giải quyết vấn đề, kết hợp với PPDH khác để tổ chức hoạt động dạy
học.
Ví dụ trong bài: “ Phép cộng phân số ” ( tiếp theo ).
Bài toán: “ Có một băng giấp màu, bạn Hà lấy

1
1
băng giấy, Bạn An lấy băng
2
3

giấy. Hỏi cả 2 bạn lấy bao nhiêu phấn băng giấy màu? ” ( Toán 4 trang 127 ).
Sau khi học xong học sinh biết cách cộng hai phân số khác mẫu số và rèn
luyện kỹ năng tính toán cho học sinh.
Hướng dẫn giải như sau:
+ Muốn tìm số phần băng giấy của 2 bạn Hà và An đã lấy, cần thực hiện
phép tính gì? ( phép cộng:

1
1
+ ).
2
3

Như vậy, việc yêu cầu học sinh tính tổng hai phân số khác mẫu số là một
tình huống gợi vấn đề, là một yêu cầu nhận thức mà học sinh chưa thể giải quyết
được bằng vốn kiến thức và kinh nghiệm sẵn có của mình (học sinh chỉ mới biết
tính tổng hai phân số có cùng mẫu số).
Tuy nhiên nếu học sinh chịu khó suy nghĩ hoặc được giáo viên hướng dẫn

tìm cách biến đổi để đưa hai phân số đã cho thành hai phân số có cùng mẫu số
(Quy đồng mẫu số) thì học sinh có thể giải quyết vấn đề kết hợp với PPDH vấn
đáp để tổ chức hoạt động dạy học hình thành phép cộng 2 phân số khác mẫu số.
3. Phát huy tính tích cực hóa của học sinh trong PPDH hợp tác theo
nhóm nhỏ và kết hợp với PPDH khác để tổ chức hoạt động dạy học nhằm
phát huy tính chủ động sáng tạo, hợp tác của học sinh.
Mục tiêu, nội dung bài học yêu cầu hình thành tri thức mới cho học sinh.
Tri thức mới đó cần có sự kiểm nghiệm kết quả qua nhiều học sinh khác nhau,
cần có sự phát hiện, đóng góp trí tuệ. Tập thể học sinh cần phải đo đạc, thu thập
các số liệu điều tra thống kê.
Ví dụ bài: Diện tích hình thoi.
Yêu cầu tính diện tích hình thoi ABCD, khi biết 2 đường chéo AC = m,
BD = n (hình a)
- Để tìm công thức tính diện tích hình thoi theo độ dài 2 đường chéo, học
sinh có thể thực hiện theo nhiều cách khác nhau:
* Cắt hình tam giác AOD và hình tam giác COD rồi ghép với hình tam
giác ABC để được hình chữ nhật AMNC (hình b).
Ta có: Diện tích( hình thoi ABCD) = diện tích ( hình chữ nhật AMNC ) =


n
m×n
=
.
2
2

2



4. Phát huy tính tích cực hóa của học sinh trong việc giải các bài toán
là cơ sở giải loại toán sắp học.
Giải các bài toán có tính chất chuẩn bị này, học sinh có thể tính ra được
kết quả dễ dàng nhằm tạo điều kiện cho các em tập trung suy nghĩ váo các mối
quan hệ toán học và các từ mới chứa trong đầu bài toán:
Ví dụ: Để chuẩn bị cho việc học loại toán: “Tìm 2 số biết tổng và tỉ số
của 2 số đó”. Có thể cho học sinh giải bài toán sau: “ Cô có 30 bút chì, chia
thành 3 phần bắng nhau. Bạn nam được 1 phần, bạn nữ được 2 phần. Hỏi bạn
nam được mấy bút chì?”.
5.Phát huy tính tích cực hóa của học sinh trong việc giải các bài toán
phát huy tính trực quan cụ thể trong tư duy của học sinh.
Để giải được các bài toán này giáo viên cần triển khai các hoạt động mang
tính chất thực tiễn, học sinh phải được thao tác trên đồ dùng trực quan. Từ đó
các em sẽ tự phát hiện và tự giải quyết nhiệm vụ bài học.
Ví dụ: Trong bài “Phép cộng phân số”.
Để hình thành phép cộng hai phân số có mẫu số bằng nhau, giáo viên và
học sinh cùng thực hành trên băng giấy
– Chia băng giấy thành 8 phần bằng nhau, bằng cách gấp đôi ba lần theo
chiều ngang:
3
băng giấy
8
2
+ Tô màu vào băng giấy
8

+ Tô màu vào

Nhìn vào băng giấy học sinh dễ nêu được hai lần đã tô màu được
giấy.

Học sinh nêu:

5
băng
8

3
2
3+ 2
5
+ =
= .
8
8
8
8

Kết luận: Nêu được cách cộng hai phân số bằng cách lấy tử số cộng với
nhau và giữ nguyên mẫu số.
6. Khi dạy thực hành luyện tập Giáo viên cần lưu ý giúp mọi học sinh
đều tham gia vào hoạt động thực hành, luyện tập theo khả năng của mình,
bằng cách:
- Cho các em làm các bài theo thứ tự trong sách giáo khoa, không bỏ bài
nào, kể cả bài dễ, bài khó.
- Không bắt học sinh chờ đợi nhau trong khi làm bài. Làm xong chuyển sang
bài tiếp theo.
- Học sinh này có thể làm nhiều bài hơn học sinh khác:
- Ví dụ: Khi dạy bài : “ Tính bằng cách thuận tiện nhất ”
3
6

8
3
6
8
3
14
20
+
+
= +(
+
)= +
=
5
10
10
5
10
10
5
10
10

Có thể một số em vẫn thực hiện theo thứ tự của các phép tính trong biểu
thức, ra kết quả đúng nhưng chưa nhanh và chưa hợp lí. Giáo viên nên hướng
dẫn học sinh các tính chất đã học của phép cộng để tìm ra cách giải thuận tiện.
3


Hoặc trong bài luyện tập của phép nhân thì giáo viên phải dẫn dắt học

sinh nhớ lại kiến thức đã học đó là:
- Tính chất giao hoán của phép nhân.
- Tính chất kết hợp của phép nhân.
- Tính chất nhân một số với một tổng ( Hoặc một tổng nhân với một số ).
- Tính chất nhân một hiệu với một số ( Hoặc một số nhân với một hiệu ).
Học sinh phải vận dụng nhanh các tính chất này vào giải toán: Khi nào vận
dụng tính chất này, khi nào vận dụng tính chất kia:
Ví dụ: 2 × 10 + 10 × 5 = 10 × ( 2 + 5 ) = 10 × 10 = 20 (Áp dụng tính chất
nhân một số với một tổng)
3.3. Khả năng áp dụng của giải pháp
Giải pháp đã áp dụng thành công tại trường Tiểu học Tân Thành 1 huyện
Tân Hiệp, tỉnh Kiên Giang. Đề tài hoàn toàn có thể mở rộng ứng dụng ra các
trường tiểu học trong toàn huyện. Các biện pháp đề xuất rất dễ áp dụng và triển
khai.
3.4. Hiệu quả, lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp
dụng giải pháp
Qua quá trình giảng dạy, tôi đã áp dụng các phương pháp trên, tôi nhận
thấy học sinh lớp tôi hứng thú học tập. Các em mạnh dạn phát biểu ý kiến xây
dựng bài, tính toán nhanh, chính xác. Học sinh ham học, tự tin, chất lượng học
tập được nâng lên một cách rõ rệt. Trong quá trình học Toán, học sinh dần dần
chiếm lĩnh kiến thức mới và giải quyết các vấn đề gần gũi với đời sống. Sự tiến
bộ của các em biểu hiện cụ thể qua kết quả như sau:
Kết quả kiểm tra giữa HKI năm học 2017 – 2018:
Tổng số
Chưa hoàn
Hoàn thành tốt
Hoàn thành
học sinh
thành
TS

%
TS
%
TS
%
32
3
9,4
10
31,2
19
59,4
Kết quả kiểm tra cuối HKI năm học 2017 – 2018:
Tổng số
Chưa hoàn
Hoàn thành tốt
Hoàn thành
học sinh
thành
TS
%
TS
%
TS
%
32
5
15,6
14
43,8

13
40,6
Kết quả kiểm tra giữa HKII năm học 2017 - 2018:
Tổng số
Chưa hoàn
Hoàn thành tốt
Hoàn thành
học sinh
thành
TS
%
TS
%
TS
%
32
6
18,75
16
50
10
31,25
Tân Hiệp, ngày 17 tháng 03 năm 2018
Người mô tả
Phạm Thị ngọc Ánh
4


5




Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×