Tải bản đầy đủ (.pdf) (81 trang)

Trả hồ sơ điều tra bổ sung đối với các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt theo pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh (Luận văn thạc sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.16 MB, 81 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

DƯƠNG VĂN HOÀNG

TRẢ HỒ SƠ ĐỂ ĐIỀU TRA BỔ SUNG ĐỐI VỚI CÁC TỘI
XÂM PHẠM SỞ HỮU CÓ TÍNH CHẤT CHIẾM ĐOẠT
THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ
THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

HÀ NỘI, năm 2018


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

DƯƠNG VĂN HOÀNG

TRẢ HỒ SƠ ĐỂ ĐIỀU TRA BỔ SUNG ĐỐI VỚI CÁC TỘI
XÂM PHẠM SỞ HỮU CÓ TÍNH CHẤT CHIẾM ĐOẠT
THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ
THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 8.38.01.04

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. ĐINH XUÂN NAM


HÀ NỘI, năm 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn “Trả hồ sơ để điều tra bổ sung đối với các tội
xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt theo pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam
từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh” là công trình nghiên cứu của riêng tôi, dưới sự
hướng dẫn khoa học của TS. Đinh Xuân Nam. Các số liệu có nguồn gốc rõ ràng, kết
quả nghiên cứu là trung thực. Tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm về kết quả nghiên cứu
và tính trung thực của luận văn.
Tôi xin chịu trách nhiệm về lời cam đoan trên của mình.
Hà Nội, ngày 09 tháng 8 năm 2018
Tác giả luận văn

Dương Văn Hoàng


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ TRẢ HỒ SƠ
ĐỂ ĐIỀU TRA BỔ SUNG GIỮA CÁC CƠ QUAN TIẾN HÀNH TỐ TỤNG
ĐỐI VỚI CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU CÓ TÍNH CHẤT CHIẾM ĐOẠT 7
1.1.Khái niệm, đặc điểm pháp lý các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm
đoạt..........................................................................................................................7
1.2. Những vấn đề lý luận về trả hồ sơ điều tra bổ sung ......................................11
1.3. Quy định của pháp luật về trả hồ sơ để điều tra bổ sung ...............................14
Tiểu kết Chương 1 ...................................................................................................36
CHƯƠNG 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT
VỀ TRẢ HỒ SƠ ĐỂ ĐIỀU TRA BỔ SUNG ĐỐI VỚI CÁC TỘI XÂM PHẠM
SỞ HỮU CÓ TÍNH CHẤT CHIẾM ĐOẠT GIỮA CÁC CƠ QUAN TIẾN

HÀNH TỐ TỤNG TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ................38
2.1. Diễn biến tình hình tội phạm xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trên
địa bàn thành phố Hồ Chí Minh từ năm 2013 đến năm 2017 trả hồ sơ để điều tra
bổ sung. .................................................................................................................38
2.2. Tình hình trả hồ sơ điều tra bổ sung đối với tội phạm xâm phạm sở hữu có
tính chất chiếm đoạt trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh từ năm 2013 đến năm
2017 ......................................................................................................................40
2.3. Nguyên nhân dẫn đến trả hồ sơ để điều tra bổ sung ......................................51
Tiểu kết Chương 2 ...................................................................................................56
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP KIẾN NGHỊ, NHẰM HẠN CHẾ VIỆC
TRẢ HỒ SƠ ĐỂ ĐIỀU TRA BỔ SUNG ĐỐI VỚI CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ
HỮU CÓ TÍNH CHẤT CHIẾM ĐOẠT ...............................................................57
3.1. Tăng cường công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành của Lãnh đạo của các cơ
quan tiến hành Tố tụng trong việc trả hồ sơ điều tra bổ sung đối với các tội xâm
phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt ...................................................................57
3.2. Nâng cao nhận thức đối với Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán trong


việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung .........................................................................59
3.3. Tăng cường công tác đào tạo bồi dưỡng Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm
phán .......................................................................................................................61
3.4. Tăng cường quan hệ phối hợp giữa Viện kiểm sát với Cơ quan điều tra và
Viện kiểm sát với Tòa án ......................................................................................64
3.5. Tăng cường công tác tổng kết rút kinh nghiệm trong tố tụng .....................65
3.6.Tăng cường công tác ban hành các văn bản hướng dẫn áp dụng các quy định
của Bộ luật tố tụng hình sự. ..................................................................................66
Tiểu kết Chương 3 ...................................................................................................69
KẾT LUẬN ..............................................................................................................70
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO



DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BLHS:

Bộ luật Hình sự

BLTTHS:

Bộ luật Tố tụng hình sự

CQĐT:

Cơ quan điều tra

TA:

Tòa án

TAND:

Tòa án nhân dân

TP HCM:

Thành phố Hồ Chí Minh

TTHS:

Tố tụng hình sự


VKS:

Viện kiểm sát

VKSND:

Viện kiểm sát nhân dân

XPSH:

Xâm phạm sở hữu


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1. Bảng thống kê số liệu các vụ án xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm
đoạt từ năm 2013 đến năm 2017 trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh. ...................38
Hình 2.2. Biểu đồ phân tích các vụ án xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt từ
năm 2013 đến năm 2017 ...........................................................................................39
Bảng 2.3. Bảng thống kê các vụ án xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt Viện
kiểm sát trả hồ sơ cho cơ quan điều tra để điều tra bổ sung từ năm 2013 đến năm
2017 ...........................................................................................................................40
Bảng 2.4. Bảng thống kê các vụ án xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt Tòa
án trả hồ sơ cho Viện kiểm sát để điều tra bổ sung từ năm 2013 đến năm 2017 ......44


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong công tác đấu tranh phòng chống tội phạm, để đảm bảo cho công tác
điều tra, truy tố và xét xử đúng người đúng tội đúng pháp luật, không bỏ lột tội
phạm và người phạm tội. Bộ luật TTHS năm 2015 tại các điều 245, 246, 280 đã

quy định căn cứ để trả điều tra bổ sung giữa các cơ quan tiến hành tố tụng, Thông tư
liên tịch số 02 ngày 22 tháng 12 năm 2017 giữa VKSND Tối cao, Tòa án nhân dân
Tối cao, Bộ công an, Bộ quốc phòng quy định quy định việc phối hợp cơ quan tiến
hành tố tụng trong việc thực hiện các quy định của Bộ luật TTHS 2015 về trả hồ sơ
điều tra bổ sung. Đây là những căn cứ pháp lý quan trọng bảo đảm cho các cơ quan
tiến hành tố tụng trả hồ sơ điều tra bổ sung có căn cứ và đúng pháp luật, tránh
trường hợp lợi dụng việc trả hồ sơ điều tra bổ sung trong việc gây khó khăn trong
công tác điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự.
Có thể nói rằng trong giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, các cơ quan
tiến hành tố tụng và những người tiến hành tố tụng đã thực hiện tốt chức năng,
nhiệm vụ được giao bảo đảm việc truy tố, xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp
luật, hạn chế ở mức thấp nhất các trường hợp trả hồ sơ để điều tra bổ sung dẫn đến
tạm đình chỉ, đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án.
Trong thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế, Thành phố Hồ Chí Minh là trung
tâm kinh tế, văn hóa-xã hội của cả nước, là địa phương có nền kinh tế phát triển sôi
động nhất cả nước, nhiều khu công nghiệp, nhiều khu chế xuất ra đời thu hút mạnh
mẽ nhà đầu tư trong và ngoài nước, các dịch vụ du lịch vui chơi giải trí, nhà hàng
khách sạn ngày còn phát triển. Mặc khác đây cũng là địa phương thu hút nguồn lao
động trong cả nước về đây làm việc, học tập, sinh sống và làm việc dân số tăng
nhanh đến nay có khoảng 8,4 triệu người dẫn đến việc quản lý tình hình trật tự trị
an, an toàn xã hội, quản lý con người gặp nhiều khó khăn. Theo số liệu thống kê của
VKSND thành phố Hồ Chí minh, trong 5 năm gần đây kể từ năm 2013 đến năm
2017. Trên địa bàn thành phố trung bình hàng năm VKS truy tố khoảng 9500 đến
10 000 vụ án hình sự với trên 12 000 bị can trong đó các tội xâm phạm sở hữu có
1


tính chất chiếm đoạt chiếm khoảng trên 70% tổng số vụ và gần 80% số bị can.
Mặc dầu số lượng các vụ án XPSH có tính chất chiếm đoạt xảy ra trên đại
bàn toàn thành phố luôn chiếm tỷ lệ cao nhất. Nhưng cơ quan tiến hành tố tụng đã

nhận thức và thể hiện đúng chức năng nhiệm vụ theo quy định của pháp luật do đó
trong số các vụ án đã khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử, số lượng vụ án trả hồ sơ
điều tra bổ sung đều nằm trong trong tỷ lệ quy định của mỗi cơ quan tiến hành tố
tụng (từ 3,3 đến 0,4%). Tuy nhiên do tình hình tội phạm đều diễn biến phức tạp,
một số vụ án XPSH có tính chất chiếm đoạt việc phát hiện vì thiếu chứng cứ chứng
minh tội phạm và người phạm tội dẫn đến bỏ lọt tội phạm, người phạm tội, làm oan
người vô tội. Mặc khác trong một số bị can phạm tội là người nước ngoài , đối
tượng người các tỉnh, sống lang thang không có nơi cư trú; quy mô tính chất tội
phạm ngày càng tinh vi xảo nguyệt, một số vụ án phạm tội có tổ chức, nhiều đối
tượng tham gia nên việc phát hiện thu thập chứng cứ gặp rất nhiều khó khăn...do đó
vẫn còn tình trạng trả hồ sơ điều tra bổ sung, thậm chí trong số đó có vụ phải đình
chỉ điều tra, đình chỉ vụ án làm giảm uy tín của các cơ quan bảo vệ pháp luật gây ra
bức xúc trong quần chúng nhân dân.
Từ ý nghĩa đó việc lựa chọn vấn đề “ Trả hồ sơ điều tra bổ sung đối với các
tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt theo pháp luật Tố tụng hình sự Việt
Nam từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh” làm đề tài luận văn là đáp ứng yêu cầu
tất yếu khách quan hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Qua nghiên cứu các công trình khoa học đã công bố, cho thấy có một số
công trình đề cập về trả điều tra bổ sung giữa các cơ quan tiến hành tố tụng như sau:
Một số công trình nghiên cứu về vấn đề trả điều tra bổ sung ở Việt Nam cho
đến nay: Tạp chí Tòa án nhân dân số 4/2008; Tạp chí kiểm sát, số 6/2008, “Chuyên
đề về việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung giữa các cơ quan tiến hành tố tụng hình
sự”;Vụ 1A Viện kiểm sát nhân dân tối cao 2008, “Chuyên đề trả hồ sơ để điều tra
bổ sung”; Tác giả Nguyễn Ngọc Kiện, “Một số vấn đề về việc Tòa án trả lại hồ sơ
để điều tra bổ sung”, Tác giả Nguyễn Hải Ninh, “Sửa đổi, bổ sung quy định của

2



pháp luật về điều tra bổ sung”, Tạp chí Luật học, số 7/2008; Tác giả Nguyễn Hữu
Hậu, “Thẩm quyền của Viện kiểm sát và của Kiểm sát viên trong việc đề ra các yêu
cầu điều tra và điều tra bổ sung”, Tạp chí kiểm sát số 16/2009; Tác giả Lê Ngọc
Huấn, “Một số giải pháp nhằm hạn chế việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung giữa các
cơ quan tiến hành tố tụng”, Tạp chí kiểm sát số 10/2009; Tác giả Nguyễn Đình
Huề, “Một số vấn đề về trả hồ sơ vụ án hình sự để điều tra bổ sung”, Tạp chí Tòa
án số 4/2009; Tác giả Trần Vi Dân, “Một số giải pháp khắc phục việc trả hồ sơ điều
tra bổ sung, điều tra lại”, Tạp chí kiểm sát số 2/2010; Tác giả Nguyễn Ngọc Kiện,
“Hoàn thiện chế định Tòa án trả hồ sơ điều tra bổ sung trong Bộ luật tố tụng hình
sự năm 2003”, Tạp chí Dân chủ và pháp luật số 7/2012; Tác giả Nguyễn Thị
Phương Thảo, “Một số vấn đề về hoạt động điều tra bổ sung của Viện kiểm sát ở
giai đoạn xét xử phúc thẩm”, Tạp chí kiểm sát số 6/2012; Tác giả Vũ Gia Lâm,
“Hoàn thiện quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về việc Tòa án cấp sơ thẩm trả hồ
sơ để điều tra bổ sung”, Tạp chí Tòa án số 8/2013; Tác giả Nguyễn Quang Lộc,
“Bàn về chế định trả hồ sơ để điều tra bổ sung”, Tạp chí Tòa án số 8/2013; Tác giả
Thái Chí Bình, “Hoàn thiện các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2013 về
yêu cầu điều tra bổ sung”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 11/2013; Tác giả Lê
Ngọc Duy, “Một số giải pháp nhằm hạn chế việc trả hồ sơ điều tra bổ sung đối với
Viện kiểm sát nhân dân quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội”, Tạp chí kiểm sát số
6/2013; Tác giả Lê Tấn Cường, “Giải pháp để hạn chế việc trả hồ sơ điều tra bổ
sung trong giai đoạn truy tố”, Tạp chí kiểm sát số 10/2014; Tác giả Đào Anh Tới,
“Hoàn thiện chế định trả hồ sơ điều tra bổ sung”, Tạp chí kiểm sát số 13/2014…
Các công trình nghiên cứu và bài viết nói trên đã đề cập đến trả hồ sơ điều tra
bổ sung được quy định của Bộ luật tố tụng hình sự nhưng các công trình nghiên cứu
trên chỉ nghiên cứu về cơ sở pháp lý mà chưa nghiên cứu đầy đủ, toàn diện và bao
quát đối thực tế đối với các án trả hồ sơ để điều tra bổ sung . Vì vậy việc nghiên cứu
đề tài của tác giả trong giai đoạn hiện tại là vấn đề cần thiết.
Một số vấn đề về mặt lý luận liên quan đến trả hồ sơ để điều tra bổ sung
chưa được làm rõ, còn nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn, nhiều khía cạnh pháp lý


3


cần được tiếp tục nghiên cứu một cách toàn diện và sâu sắc hơn. Mặt khác, thực tiễn
hoạt động Trả hồ sơ để điều tra bổ sung đối với các tội xâm phạm sở hữu có tính
chất chiếm đoạt theo pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố
Hồ Chí Minh chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra, một phần là do các quy định của
pháp luật TTHS liên quan đến vấn đề này còn nhiều bất cập, chưa phù hợp trong
tình hình hiện nay, cần phải tiếp tục nghiên cứu, làm rõ.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu:
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận, đánh giá thực trạng trả hồ sơ để điều tra bổ
sung theo pháp luật TTHS Việt Nam đối với các tội xâm phạm sở hữu có tính chất
chiếm đoạt từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh, luận văn góp phần làm sáng tỏ
những bất cập và những tồn tại, hạn chế trong thực tiễn áp dụng các quy định của
pháp luật TTHS. Trên cơ sở đó, luận văn đề xuất những giải pháp nhằm hạn chế trả
hồ sơ điều tra bổ sung đối với các loại tội phạm này.
- Nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu phân tích và làm rõ những vấn đề lý luận và pháp luật về trả hồ
sơ điều tra bổ sung.
Nghiên cứu tình hình tội XPSH có tính chất chiếm đoạt thực tiễn tại TP. HCM
Đánh giá thực tế trả hồ sơ điều tra bổ sung đối với các tội XPSH có tính chất
chiếm đoạt trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh. Những kết quả đạt được và những
tồn tại hạn chế đồng thời làm rõ nguyên nhân của những tồn tại hạn chế, khó khăn
vướng mắc dẫn đến trả hồ sơ điều tra bổ sung
Đề giải pháp khắc phục tình trạng trả hồ sơ điều tra bổ sung các tội XPSH có
tính chất chiếm đoạt
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu:
Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về trả hồ sơ điều tra

bổ sung đối với các tội XPSH có tính chất chiếm đoạt theo pháp luật TTHS Việt
Nam của Bộ luật TTHS năm 2015, và thực tiễn tại thành phố Hồ Chí Minh.

4


- Phạm vi nghiên cứu:

+ Về nội dung, đề tài nguyên cứu Trả hồ sơ điều tra bổ sung đối với các tội
XPSH có tính chất chiếm đoạt theo pháp luật TTHS Việt nam từ thực tiễn thành phố
Hồ Chí Minh.
+ Về chủ thể thực hiện: Đề tài nghiên cứu Trả hồ sơ điều tra bổ sung đối với
các tội XPSH có tính chất chiếm đoạt theo pháp luật TTHS Việt nam từ thực tiễn
thành phố Hồ Chí Minh của Cơ quan tiến hành tố tụng cấp quận, huyện và cấp
thành phố thuộc TP HCM.
+ Phạm vi về thời gian: Số liệu khảo sát đánh giá trong phạm vi 05 năm từ
năm 2013 đến năm 2017
+ Phạm vi về không gian: Địa bàn thành phố Hồ Chí Minh
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận:

Luận văn sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin; quan điểm
của Đảng và Nhà nước ta về việc trả hồ sơ điều tra bổ sung đối với các tội xâm
phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt nhằm đấu tranh phòng chống tội phạm và cải
cách tư pháp.
- Phương pháp nghiên cứu:

+ Phương pháp nghiên cứu tài liệu
+ Phương pháp thống kê, tổng kết
+ Phương pháp lấy ý kiến chuyên gia

+ Phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp số liệu
+ Phương pháp khảo sát
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Luận văn được nghiên cứu một cách có hệ thống các quy định của Pháp luật
tố tụng hình sự hiện hành về thủ tục trả hồ sơ để điều tra bổ sung giữa các cơ quan
tiến hành tố tụng và phân tích, đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật hình sự trong
việc giải quyết các vụ án XPSH có tính chất chiếm đoạt phải trả hồ sơ điều tra bổ
sung giữa các cơ quan tiến hành tố tụng trên địa bàn thành phố TP HCM từ năm
2013 – 2017. Từ kết quả nghiên cứu luận văn, tác giả đưa ra những giải pháp cụ thể
5


là kiến nghị hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự và pháp luật tố tụng hình
sự và các giải pháp nhằm hạn chế tình trạng trả hồ sơ để điều tra bổ sung của các
Cơ quan tiến hành tố tụng ở Việt Nam.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận
văn gồm 3 chương
Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật về trả hồ sơ để điều tra bổ
sung giữa các cơ quan tiến hành tố tụng đối với các tội xâm phạm sở hữu có tính
chất chiếm đoạt.
Chương 2: Thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật về trả hồ sơ để
điều tra bổ sung đối với các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt giữa các
cơ quan tiến hành tố tụng trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh.
Chương 3: Một số giải pháp kiến nghị, nhằm hạn chế việc trả hồ sơ để điều
tra bổ sung đối với các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt.

6



Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ TRẢ HỒ SƠ ĐỂ ĐIỀU
TRA BỔ SUNG GIỮA CÁC CƠ QUAN TIẾN HÀNH TỐ TỤNG ĐỐI VỚI
CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU CÓ TÍNH CHẤT CHIẾM ĐOẠT
1.1. Khái niệm, đặc điểm pháp lý các tội xâm phạm sở hữu có tính chất
chiếm đoạt
1.1.1. Khái niệm
Các tội XPSH là những hành vi có lỗi gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại
cho quan hệ sở hữu và sự gây thiệt hại này thể hiện được đầy đủ nhất bản chất nguy
hiểm cho xã hội của hành vi [36, tr. 5].
Các tội này được quy định tại Chương XIV Bộ luật Hình sự năm 1999 được
sửa đổi, bổ sung năm 2009 gồm 13 tội được quy định rất cụ thể từ Điều 133 đến
Điều 145.
Đó là các tội: tội cướp tài sản được quy định tại Điều 133; tội bắt cóc nhằm
chiếm đoạt tài sản được quy định tại Điều 134; tội cưỡng đoạt tài sản được quy định
tại Điều 135; tội cướp giật tài sản được quy định tại Điều 136; tội công nhiên chiếm
đoạt tài sản được quy định tại Điều 137; tội trộm cắp tài sản được quy định tại Điều
138; tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được quy định tại Điều 139; tội lạm dụng tín
nhiệm chiếm đoạt tài sản được quy định tại Điều 140; tội chiếm giữ trái phép tài sản
được quy định tại Điều 141; tội sử dụng trái phép tài sản được quy định tại Điều
142; tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản được quy định tại Điều 143; tội
thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng đến tài sản của Nhà nước được quy
định tại Điều 144; tội vô ý gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản được quy định tại
Điều 145.
Nay các tội này được quy định tại Chương XVI BLHS năm 2015 (được sửa
đổi, bổ sung năm 2017), cũng gồm 13 tội từ điều 168 đến điều 180. Vậy BLHS năm
2015 về tên gọi (các tội xâm phạm sở hữu) và số lượng điều luật (13 điều) không
thay đối so với BLHS năm 1999. Sự không thay đổi này phản ánh sự ổn định của
nhóm tội phạm có tính chất truyền thống từ trước đến nay qua các lần thay đổi của
7



BLHS.
Về tê tội danh thì BLHS năm 2015 ( Sửa đổi, bổ sung năm 2017) có sửa tên
tội danh của Tội thiếu trách nhiệm gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản của nhà
nước (Điều 144 BLHS năm 1999) thành tội thiếu trách nhiệm gây thiết hại đến tài
sản của Nhà nước, cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp (Điều 179 BLHS) [8, tr. 182].
Căn cứ vào tính chất mục đích phạm tội khoa học luật hình sự chia các tội
XPSH thành hai nhóm tội.
Nhóm 1: là nhóm các tội phạm có mục đích tư lợi bao gồm 10 tội được quy
định từ Điều 133 đến Điều 142 BLHS. Và nhóm 2: là nhóm tội phạm không có mục
đích tư lợi được quy định từ Điều 143 đến Điều 145 BLHS. Đối với nhóm các tội có
mục đích tư lợi, dựa vào đặc điểm chung của hành vi phạm tội có thể chia thành
nhóm có tính chất chiếm đoạt (bao gồm 8 tội từ Điều 133 đến Điều 140 và nhóm
không có tính chất chiếm đoạt (gồm các Điều 141, 142). Vậy tính chất chiếm đoạt ở
đây được hiểu như thế nào?
Trong khi đó, theo Từ điển tiếng Việt, chiếm đoạt là “Chiếm của người làm
của mình, bằng cách dựa vào vũ lực, quyền thế”[36, tr. 212]. Như vậy, khái niệm
chiếm đoạt cần phải bao quát cả ở khía cạnh hành vi phạm tội và mục đích phạm
tội. Từ đó, chúng tôi cho rằng khái niệm chiếm đoạt trong dấu hiệu chiếm đoạt cần
được hiểu như sau: “Chiếm đoạt là việc cố ý chuyển dịch trái pháp luật tài sản đang
thuộc sự quản lí của chủ sở hữu thành tài sản của mình. Chúng được biểu hiện dưới
dạng hành vi hoặc mục đích phạm tội”.
Trên cơ sở khái niệm các tội XPSH và khái niệm chiếm đoạt ở trên, có thể
đưa ra khái niệm về các tội XPSH có tính chiếm đoạt như sau:
Các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt là những hành vi cố ý
chiếm lấy, đoạt lấy tài sản đang do người khác sở hữu hợp pháp làm tài sản của
mình vì mục đích vụ lợi.
1.1.2. Dấu hiệu pháp lý đặc trưng
Dấu hiệu pháp lý đặc trưng của các tội XPSH có tính chất chiếm đoạt (dựa

vào bốn yếu tố cấu thành tội phạm và khái niệm các tội XPSH có tính chất chiếm

8


đoạt) cụ thể như sau:
Thứ nhất, khách thể của tội phạm
Theo khoa học luật hình sự, khách thể của tội phạm là quan hệ xã hội được
luật hình sự bảo vệ và bị tội phạm xâm hại [35, tr. 78].
Theo quy định của BLHS năm 1999 sửa đổi bổ sung 2009 thì các tội được
quy định cụ thể từ Điều 133 đến Điều 140; thực tiễn áp dụng như sau: các tội có
khách thể không chỉ là quan hệ sở hữu mà còn là quyền nhân thân đó là các tội được
quy định từ Điều 133 đến Điều 136 BLHS năm 1999 sửa đổi bổ sung 2009. Còn đối
với các tội có khách thể chỉ là quan hệ sở hữu được quy định từ Điều 137 đến Điều
140 BLHS năm 1999 sửa đổi bổ sung 2009.
Về đối tượng tác động thuộc khách thể của tội phạm, các tội XPSH có tính
chất chiếm đoạt có đối tượng tác động là tài sản thuộc sở hữu của người khác và
chúng còn nằm trong sự chiếm hữu, quản lí của chủ sở hữu hoặc người quản lý tài
sản. Về nguyên tắc tài sản này là hợp pháp, bao gồm: vật có thực, tiền, giấy tờ trị
giá được bằng tiền và các quyền về tài sản (theo Điều 163 Bộ luật dân sự).
Thứ hai, mặt khách quan của tội phạm.
Hành vi phạm tội được hiểu là hành vi khách quan nguy hiểm cho xã hội
được luật hình sự quy định chịu sự kiểm soát, điều khiển bởi ý thức, ý chí của người
phạm tội [35, tr. 93-97]. Hành vi phạm tội có hai hình thức thể hiện là hành động và
không hành động.
Thực tiễn áp dụng các tội XPSH có tính chất chiếm đoạt có những hành vi
khách quan khác nhau, theo quy định của BLHS năm 1999 sửa đổi bổ sung 2009.
Đó có thể là hành vi dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực như tội Cướp tài sản, bắt cóc
nhằm chiếm đoạt tài sản, Cưỡng đoạt tài sản (nhóm 1); hành vi lợi dụng sơ hở của
chủ tài sản để thực hiện tội phạm như tội Công nhiên chiếm đoạt tài sản, Trộm cắp

tài sản (nhóm 2); hành vi dùng thủ đoạn gian dối như tội Lừa đảo chiếm đoạt tài
sản, Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản (nhóm 3) hay hành vi nhanh chóng
chiếm đoạt tài sản một cách công khai rồi tẩu thoát như tội Cướp giật tài sản. Đối
tượng thực hiện hành vi và điều kiện khi thực hiện hành vi là khác nhau. Cụ thể,

9


trong nhóm 1, đối với tội Cướp tài sản, người phạm tội dùng vũ lực hoặc đe dọa
dùng vũ lực “Ngay tức khắc” đối với chủ tài sản; đối với tội Bắt cóc nhằm chiếm
đoạt tài sản thì hành vi đe dọa dùng vũ lực lại nhằm vào con tin từ đó khiến người
thân của con tin (người có tài sản) phải lo sợ, giao nộp tài sản; hoặc cùng là đe dọa
dùng vũ lực đối với chủ tài sản nhưng ở tội Cưỡng đoạt tài sản không có đặc điểm
“Ngay tức khắc” như tội Cướp tài sản. Đối với nhóm 2, người phạm tội Trộm cắp
tài sản có thủ đoạn lén lút khi thực hiện hành vi chiếm đoạt; còn ở tội Công nhiên
chiếm đoạt tài sản thì người phạm tội lại có hành vi công khai. Ở nhóm 3,tội Lừa
đảo chiếm đoạt tài sản và tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản được phân biệt
với nhau bởi thủ đoạn gian dối được thực hiện trước hay sau khi hành vi chiếm đoạt
được thực hiện.
Qua những hành vi nói trên gây ra hậu quả là những thiệt hại cho quan hệ sở
hữu được thể hiện dưới dạng thiệt hại vật chất cụ thể là tài sản bị mất. Đối với
những tội như Cướp tài sản, Cướp giật tài sản, Bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản thì
thiệt hại còn bao gồm cả thiệt hại về thể chất (thương tích hoặc tổn hại về sức khỏe,
tinh thần).
Thứ ba, chủ thể của tội phạm
Chủ thể của nhóm tội này có thể là bất kỳ người nào có năng lực trách
nhiệm hình sự và đạt độ tuổi nhất định: từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm
hình sự về mọi tội phạm, từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu
trách nhiệm hình sự về những tội rất nghiêm trọng do cố ý hoặc những tội đặc biệt
nghiêm trọng quy định tại Điều 133; khoản 2,3, và 4 của các Điều 134, 135, 136;

khoản 3 và 4 các Điều 137, 138, 139, 140. Ngoài ra tại các Điều 139, 140 BLHS,
Thứ tư, mặt chủ quan của tội phạm:
Mặt chủ quan của tội phạm các tội XPSH có tính chất chiếm đoạt được thực
hiện với lỗi cố ý trực tiếp. Người thực hiện hành vi chiếm đoạt biết tài sản chiếm
đoạt là tài sản đang có người quản lí nhưng vẫn mong muốn biến tài sản đó thành
của mình.
Về động cơ và mục đích phạm tội: người phạm tội mong muốn chiếm đoạt

10


được tài sản của người khác và dấu hiệu chiếm đoạt là dấu hiệu bắt buộc đối với các
tội này. Không chỉ tùy thuộc vào đặc trưng của từng tội do BLHS quy định mà dấu
hiệu chiếm đoạt trong các tội XPSH có tính chất chiếm đoạt là khác nhau. Chúng có
thể là hành vi chiếm đoạt, mục đích chiếm đoạt hoặc chiếm đoạt được. Cụ thể: Đối
với các tội từ Điều 133 đến Điều 135 BLHS, khách thể được bảo vệ bao gồm quan
hệ sở hữu và quan hệ nhân thân. Để xâm phạm quan hệ sở hữu, người phạm tội phải
có hành vi xâm hại quan hệ nhân thân. Trong đó, quan hệ nhân thân rõ ràng quan
trọng hơn quan hệ sở hữu nên các tội này có cấu thành hình thức, chỉ cần người
phạm tội thực hiện hành vi phạm tội xem như tội phạm đã hoàn thành và dấu hiệu
chiếm đoạt được thể hiện qua mục đích phạm tội. Vì vậy, mục đích chiếm đoạt là
dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội phạm của các tội này. Đây là cơ sở phân biệt
các tội này với các tội khác do BLHS quy định có hành vi khách quan tương tự như
hành vi phạm tội của các tội này.
Đối với tội cướp giật tài sản, mặc dù khách thể mà tội này xâm phạm cũng là
quan hệ sở hữu và quan hệ nhân thân nhưng khác với các tội tại các Điều 133, 134,
135 BLHS. Hành vi khách quan do BLHS quy định đối với tội cướp giật tài sản
xâm phạm trực tiếp đến quan hệ sở hữu và qua việc xâm phạm quan hệ sở hữu mới
xâm phạm đến quan hệ nhân thân nên dấu hiệu chiếm đoạt được thể hiện qua hành
vi chiếm đoạt được mô tả trong điều luật.

1.2. Những vấn đề lý luận về trả hồ sơ điều tra bổ sung
1.2.1. Khái niệm trả hồ sơ để điều tra bổ sung
Trả hồ sơ để điều tra bổ sung là việc TA chuyển trả hồ sơ cho VKS hoặc
VKS chuyển trả hồ sơ cho CQĐT để điều tra bổ sung. Vậy việc trả hồ sơ điều tra bổ
sung có thể được hiểu là quá trình khắc phục những vi phạm về thủ tục nếu có, làm
rõ, bổ sung thêm những chứng cứ còn yếu, còn thiếu, chưa toàn diện.
1.2.2. Chế định trả hồ sơ điều tra bổ sung trong Bộ luật tố tụng hình sự
Trả hồ sơ để điều tra bổ sung là chế định pháp lý được quy định tại các
Điều 168, 179 BLTTHS năm 1999 được sửa đổi bổ sung năm 2009, cho phép
CQĐT, VKS, TA thực hiện trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử và giải quyết vụ

11


án hình sự.
Đây là quyền hạn của CQĐT, VKS, TA được thực hiện khi có căn cứ pháp
luật nhằm đảm bảo cho việc điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự khách quan,
đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không làm oan người vô tội, không bỏ lọt tội
phạm.
Điều 168 Bộ luật TTHS năm 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009 được quy định
rất cụ thể về việc VKS ra quyết định trả hồ sơ cho CQĐT để điều tra bổ sung khi
phát hiện thấy hồ sơ vụ án còn thiếu những bằng chứng, chứng cứ quan trọng đối
với vụ án mà VKS không thể tự mình bổ sung chứng cứ được. Nên khi có căn cứ
để khởi tố bị can về một tội phạm khác hoặc có đồng phạm khác hay có vi phạm
nghiêm trọng thủ tục tố tụng, thì VKS ra quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung
trong thời hạn truy tố quy định tại khoản 1 Điều 166 của BLTTHS năm 1999 sửa
đổi bổ sung năm 2009.
Thẩm phán được phân công nghiên cứu hồ sơ vụ án hình sự sơ thẩm ra quyết
định trả hồ sơ cho VKS để điều tra bổ sung trong giai đoạn trước ngày mở phiên
tòa sơ thẩm trong thời hạn cụ thể được quy định tại điểm c khoản 2 Điều 176 của

BLTTHS năm 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009.
Trong quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung, Thẩm phán cũng cần
nêu rõ thuộc trường hợp cụ thể nào quy định tại các điểm a, b và c khoản 1 Điều
179 của BLTTHS năm 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009 và những vấn đề cụ thể cần
điều tra bổ sung. Đó là: Khi cần xem xét thêm những chứng cứ quan trọng đối với
vụ án mà không thể bổ sung tại phiên tòa được; khi có căn cứ để cho rằng bị
cáo phạm một tội khác hoặc có đồng phạm khác; hoặc khi phát hiện có vi phạm
nghiêm trọng thủ tục tố tụng. Tại phiên tòa Hội đồng xét xử cũng có thể ra quyết
định yêu cầu điều tra bổ sung, quyết định yêu cầu điều tra bổ sung trong giai đoạn
này cần tuân thủ quy định tại Điều 199 BLTTHS năm 1999 sửa đổi bổ sung năm
2009, quyết định đó phải được thảo luận và thông qua tại phòng nghị án và phải
được lập thành văn bản.
Điều tra bổ sung là một chế định TTHS được qui định trong BLTTHS do các

12


cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền quyết định và thực hiện nhằm bảo đảm
việc giải quyết vụ án hình sự khách quan, toàn diện và đúng pháp luật, không làm
oan và bỏ lọt tội phạm.
Chế định trả điều tra bổ sung được BLTTHS 2003 qui định tại các Điều 168,
khoản 1 Điều 166 và Điều 179, khoản 2 Điều 199 của BLTTHS 2003. Việc trả hồ
sơ vụ án để điều tra bổ sung của VKS, Thẩm phán và Hội đồng xét xử của TA được
BLTTHS 2003 cho phép. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện, áp dụng các Điều
168, 1 Điều 166, Điều 179 và Khoản 2 Điều 199 Bộ luật TTHS 2003 giữa các cơ
quan tiến hành tố tụng còn chưa thống nhất dẫn đến tình trạng số án trả điều tra bổ
sung vẫn còn cao. Để hạn chế việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung nhiều lần, kéo dài
thời gian giải quyết vụ án không cần thiết. Ngày 27/8/2010, liên ngành gồm
VKSND tối cao, Bộ Công an và TAND tối cao đã ký ban hành Thông tư liên tịch số
01/2010/TTLT đã hướng dẫn thi hành các quy định của BLTTHS về vấn đề trả hồ

sơ để điều tra bổ sung rất cụ thể.
Hiện nay BLTTHS 2015 có hiệu lực thì có nhiều điểm mới nổi bậc giúp cho
các cơ quan tiến hành tố tụng dễ áp dụng và phân hóa điều luật rõ ràng hơn so với
BLTTHS 2003. BLTTHS 2015 gồm có 4 căn cứ so với BLTTHS 2003 chỉ có 3 căn
cứ để trả hồ sơ điều tra bổ sung.
BLTTHS 2015 được quy định rất cụ thể tại các điều 245, 246, 280 và Điều
240, khoản 2 Điều 298 trong việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung hiện nay.
VKS trả hồ sơ cho CQĐT dựa vào 4 căn cứ tại khoản 1 điều 245. Điểm mới
được bổ sung vào BLTTHS 2015 đó là quyết định trả hồ sơ điều tra bổ sung của
VKS trả hồ sơ cho CQĐT được cụ thể hóa bằng khoản 2 Điều 245 vào BLTTHS
2015. Và trách nhiệm của CQĐT được quy định rõ tại khoản 3 Điều 245 BLTTHS
2015.
TA trả hồ sơ cho VKS dựa vào 4 căn cứ tại khoản 1 Điều 280 BLTTHS
2015. Khoản 2 Điều 280 VKS yêu cầu TA trả hồ sơ điều tra bổ sung nếu phát hiện
có căn cứ. Đối với Quyết định trả hồ sơ điều tra bổ sung của TA cho VKS được
quy định tại khoản 3 Điều 280 BLTTHS 2015 đây cũng là điểm mới. Vấn đề giải

13


quyết yêu cầu điều tra bổ sung của TA được thể hiện rất rõ tại Điều 246 BLTTHS
2015.
Ngoài ra Thông tư liên tịch số 02/2017/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCABQP của VKSND tối cao - TAND – Bộ công an – Bộ quốc phòng ngày 22 tháng 12
năm 2017 đi kèm hướng dẫn sẽ giúp các cơ quan tiến hành tố tụng làm giảm đáng
kể việc trả hồ sơ điều tra bổ sung trong thời gian tới.
1.3. Quy định của pháp luật về trả hồ sơ để điều tra bổ sung
1.3.1. Căn cứ trả hồ sơ để điều tra bổ sung
1.3.1.1. Căn cứ thứ nhất là căn cứ chứng cứ trong hồ sơ vụ án
Theo giáo trình của trường Đại học Luật Hà Nội thì: “ Chứng cứ là những gì
có thật có liên quan đến vụ án hình sự, được cơ quan điều tra, Viện kiểm sát , Tòa

án dung làm căn cứ để xá định có hay không hành vi phạm tội, người thực hiện
hành vi phạm tội cũng như các tình tiết khác cần thiết cho việc giải quyết đúng đắn
vụ án hình sự” [37, tr. 77]. Khái niệm về chứng cứ này đã đưa ra tính liên quan của
chứng cứ với vụ án hình sự, tuy nhiên đối với tính hợp pháp là một trong những
thuộc tính quan trọng của chứng cứ thì khái niệm này không đề cập đến.
Theo giáo trình của Trường Cao đẳng Kiểm sát Hà Nội thì:” Trong pháp luật
tố tụng hình sự, chứng cứ là những sự việc, hiện tượng, những dấu vết, được Cơ
quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án thu thập trong quá trình điều tra, xét xử theo
đúng tình tự, do pháp luật quy định, để chứng minh là có hay không có hành vi
nguy hiểm cho xã hội, lỗi của người thực hiện hành vi ấy và những tình tiết khác có
ý nghĩa giải quyết đúng đắn vụ án” [31, tr. 21].
Như vậy, khái niệm chứng cứ này chỉ thể hiện được tính khách quan và tính
hợp pháp mà chưa đề cập đến tính liên quan của nó.
Từ khái niệm này cho thấy chứng cứ trong vụ án hình sự trước hết là những
thông tin có thật, được ghi nhận hoặc lưu giữ trong các nguồn do luật định và mang
đầy đủ ba thuộc tính: tính xác thật, tính hợp pháp và tính liên quan.
Theo quy định tại Điều 86 BLTTHS năm 2015 quy định thì: “Chứng cứ là
những gì có thật, được thu thập theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định, được

14


dùng làm căn cứ để xác định có hay không có hành vi phạm tội, người thực hiện
hành vi phạm tội và những tình tiết khác có ý nghĩa trong việc giải quyết vụ án. “
[23, tr. 86]
Đồng thời theo Điều 87 BLTTHS năm 2015 thì chứng cứ được thu thập, xác
định từ các nguồn: “Vật chứng; Lời khai, lời trình bày; Dữ liệu điện tử; Kết luận
giám định, định giá tài sản; Biên bản trong hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét
xử, thi hành án; Kết quả thực hiện ủy thác tư pháp và hợp tác quốc tế khác; Các tài
liệu, đồ vật khác. Những gì có thật nhưng không được thu thập theo trình tự, thủ tục

do Bộ luật này quy định thì không có giá trị pháp lý và không được dùng làm căn
cứ để giải quyết vụ án hình sự.” [23, tr. 87]
Như vậy các vụ án XPSH có tính chất chiếm đoạt cần phải chứng minh một
số vấn đề cần chứng minh phải đúng căn cứ theo pháp lý, những vấn đề cần chứng
minh việc thiếu sót một hay một số chứng cứ quan trọng sẽ không đảm bảo giải
quyết vụ án hình sự một cách toàn diện, khách quan.
- Căn cứ pháp lý: Thì chứng cứ được quy định rất cụ thể tại Điều 64

BLTTHS 2003, và Điều 86 BLTTHS 2015 quy định thì chứng cứ là những gì có
thật, được thu thập theo trình tự thủ tục do BLTTHS quy định mà CQĐT, VKS và
TA dùng làm căn cứ để xác định có hay không có hành vi phạm tội, người thực hiện
hành vi phạm tội cũng như những tình tiết khác cần thiết cho việc giải quyết đúng
đắn vụ án.
Như vậy, chứng cứ là những gì có thật, tức là phải tồn tại trong thực tế khách
quan, độc lập với ý thức chủ quan của những người tiến hành tố tụng. Nếu người
tiên hành tố tụng nhận thức không đúng, chủ quan, suy diễn về những vấn đề phải
chứng minh trong vụ án hình sự cũng như những tình tiết khác cho việc giải quyết
đúng đắnvụ án, thì những tào liệu mà họ thu thập được không được công nhận là
chứng cứ vì chúng không mang tính khác quan.
Ngoài tính khác quan, chứng cứ cón phải mang tính kiên quan, tức là quá
trình điều tra, truy tố, xét xử, các cơ quan tiến hành tố tụng có thể thu thập được
nhiều tài liệu khác nhau, nhưng chỉ tài liệu nào có liên quan, có khả năng làm rõ vấn

15


đề phải chứng minh trong vụ án hình sự cũng như tình tiết khác có ý nghĩa giải
quyết đúng đắn vụ án mới có thể được công nhận là chứng cứ
Để công nhận là chứng cứ, ngoài việc phải thỏa mãn tính khách quan và tính
có liên quan, chứng cứ còn thỏa mãn tính hợp pháp, nghĩa là chứng cứ phải được

thu thập theo trình tự thủ tục do Bộ luật tố tụng hình sự quy định. Ví dụ, con dao là
vật chứng trong vụ cướp tài sản chỉ được coi là chứng cứ khi nó được điều tra viên
thu giữ theo đúng quy định của BLTTHS (thể hiện trong biên bản khám nghiệm
hiện trường hoặc trong biên bản thu giữ tang vật. [34, tr. 93]
- Những vấn đề cần chứng minh trong các vụ án xâm phạm sở hữu có tính

chất chiếm đoạt.
Trong các vụ án xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt, cần phải chứng
minh được các vấn đề sau:
+ Có hành vi phạm tội xảy ra hay không. Việc chứng minh có hành vi phạm
tội xảy ra hay không là một trong những vấn đề cơ bản , quan trọng, là căn cứ để cơ
quan có thẩm quyền quyết định khởi tố vụ án hoặc không khởi tố vụ án hình sự. Các
tài liệu, chứng cứ… chứng minh có hành vi phạm tội xảy ra hay không xảy ra cũng
chính là những căn cứ để kiểm sát viên, kiểm sát việc khởi tố vụ án hình sự. Trên
thực tế , có những hành vi xam hại xảy ra nhưng cũng có thể hành vi này không
phải là hành vi phạm tội. Ví dụ: Nguyễn Văn T 15 tuổi, chưa có tiền án, tiền sự, có
hành vi trộm xe đạp của bạn học cùng lớp trị giá 480.00 đồng. Hành vi trộm cắp này
không được coi là hành vi phạm tội, vì theo quy định của BLHS, hành vi của T
không được coi là hành vi phạm tội vì không có đủ dấu hiệu cấu thành tội phạm ( về
tuổi chịu trách nhiệm hình sự, về giá trị tài sản chiếm đoạt).
Nếu không làm rõ vấn đề này mà khởi tố vụ án thì có thể dẫn đến oan sai. Để
làm rõ vấn đề này thì phần lớn các vụ án trong nhóm tội phạm xâm phạm sở hữu có
tính chất chiếm đoạt cần phải được khám nghiệm hiện trường, lấy lời khai người bị
hại, người làm chứng, người có quyền lợi và nghĩ vụ liên quan.
+ Thời gian và địa điểm xảy ra phạm tội. Thời gian và địa điểm xảy ra vụ án
là những vấn đề buộc phải xác định để chứng minh sự tồn tại của tội phạm. Quá

16



trình điều tra phải làm rõ hành vi phạm tội xảy ra khi mào, ở đâu. Thực tiễn điều tra
vụ án hình sự cho thấy, nếu còn xác định chính xác thời gian và địa điểm xảy ra vụ
án bao nhiêu, thì càng có điều kiện thuận lợi để chứng minh các tình tiết khác của
hành vi phạm tội. Nhiều trường hợp do không xác định được thời gian xảy ra vụ án
nên đã mất phương hướng điều tra, người phạm tội có điều kiện bỏ trốn. Chẳng hạn,
trong vụ giết người, cướp tài sản do không xác định kịp thời gian và chính xác thời
gian xảy ra vụ án nên người phạm tội đã bỏ trốn, gây khó khăn cho công tác điều
tra.
+ Đối tượng bị xâm hại trong các vụ án đối với nhóm tội xâm phạm sở hữu
có tính chất chiếm đoạt là tài sản gồm: đồ vật, tiền bạc, hoặc các loại giấy tờ có giá
trị…Những tình tiết phải chứng minh là dấu hiệu của đồ vật bị chiếm đoạt, về tính
năng, nơi sản xuất, số lượng, giá trị… phải được ghi nhận trong các tài liệu hồ sơ vụ
án hoặc thu giữ, bảo quản theo quy định về vật chứng.
+ Thủ đoạn phạm tội: Trong các vụ án đối với nhóm tội xâm phạm sở hữu
có tính chất chiếm đoạt Cần làm rõ tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm
tội, từ giai đoạn chuẩn bị phạm tội, phương thức phạm tội, thủ đoạn che giấu tội
phạm. Trong đó mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội được xác định trên cơ sở
nghiên cứu tính chất của hành vi phạm tội và hậu quả xảy ra khi thực hiện hành vi
đó. Làm rõ thủ đoạn phạm tội còn là cơ sở để phân biệt giữa các loại tội phạm trong
nhóm tội xâm phạm sở hữu. (vd: cướp tài sản với công nhiên chiếm đoạt tài sản)
+ Công cụ, phương tiện, vũ khí, tài liệu… người phạm tội sử dụng để thực
hiện hành vi phạm tội: Phải chứng minh làm rõ người phạm tội sử dụng hung khí,
vũ khí, công cụ, phương tiện gì để phạm tội, có phải thuộc loại nguy hiểm không,
nguồn gốc của nó. Đây là những tài liệu , chứng cứ, vật chứng rất quan trọng để
chứng minh sự khách quan của vụ án. Làm rõ được vấn đề này cón là cơ sở trong
việc định khung, lượng hình khi điều tra, truy tố, xét xử đối với các bị can sau này.
Mặt khác, qua đó có thể sơ bộ nhận định về người phạm tội thuộc dạng đối tượng
nào. Các yêu cầu này có thể được xác định thông qua khám nghiệm hiện trường ,
khám xet, hỏi cung, lấy lời khai, trưng cầu giám định. Ví dụ: Việc làm rõ người


17


phạm tội có sử dụng hung khí nguy hiểm ( dao sắc nhọn) trong khi dùng vũ lực
nhằm chiếm đoạt tài sản giúp chúng ta điều tra, truy tố, xét xử người đó đúng theo
Khoản 2 Điều 133 BLTTHS 2003 và hiện nay theo Điều 185 BLTTHS 2015.
+ Người bị hại trong vụ án, người làm chứng trong vụ án: Cần làm rõ người
bị hại là ai (Nhà nước hay công dân). Nếu quá trình thực hiện tội phạm, người phạm
tội gây tổn hại đến danh dự, sức khỏe, tính mạng…của người bị hại thì cần làm rõ
về mức độ tổn hại. Đây là cơ sở để cá thể hóa trách nhiệm hình sự, hình phạt, mức
độ bồi thường, nhiều trường hợp là căn cứ của việc định tội, định khung, xem xét
các tình tiết giảm nhẹ hoặc tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với các bị can, bị
cáo.
+ Cần làm rõ ai là người phạm tội, có đồng phạm không: Vị trí và vai trò
của những người phạm tội trong vụ đồng phạm. cần lập lý lịch bị can, danh chỉ bản,
trích lục tiền án tiền sự . Cần làm rõ người phạm tội có năng lực trách nhiệm hình
sự không, phạm tội có tính chất cơ hội hay lưu manh chuyên nghiệp… Làm rõ vấn
đề này có ý nghĩa rất lớn cho việc định tội, định khung hình phạt, lượng hình, đề ra
phương pháp hỏi cung, đấu tranh đối với bị can.
+ Động cơ, mục đích phạm tội tính chất lỗi: Làm rõ động cơ mục đích phạm
tội, như: Có vụ lợi hoặc tư lợi hay không, mục đích chiếm đoạt? Để đánh giá đầy đủ
vấn đề này cần phải dựa trên cơ sở đánh giá đặc điểm hành vi phạm tội, các mối
quan hệ của người phạm tội, mối quan hệ giữa người phạm tội với người bị hại; giá
trị tài sản mà người phạm tội chiếm đoạt , đã gây thiệt hại hoặc định gây thiệt hại,
định chiếm đoạt, ý thức chủ quan của người phạm tội. Ví dụ: Việc xác định rõ động
cơ mục đích của tội phạm sẽ giúp cho người tiến hành tố tụng phân được hành vi
trong tội sử dụng trái phép tài sản với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.
+ Những đặc điểm thân nhân người phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ hoặc
tăng trách nhiệm hình sự. Những đặc điểm về nhân thân của người phạm tội có ý
nghĩa rất quan trọng trong việc xác định trách nhiệm hình sự của người phạm tội,

tuy nhân thân người phạm tội không phải là yếu tố cấu thành tội phạm. các cơ quan
tiến hành tố tụng muốn giải quyết đúng đắn bất kỳ vụ án hình sự nào nói chung,

18


×