Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

Ứng dụng phương pháp giảng dạy theo hình thức kết hợp giữa phương pháp sermina và phương pháp thuyết trình nhằm nâng cao hiệu quả học tập môn sinh học di truyền cho sinh viên năm thứ nhất

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (211.08 KB, 13 trang )

02-BCSK

SÁNG KIẾN
I. Điều kiện hoàn cảnh tạo ra sáng kiến
Khi nói về thế kỷ 21, nhiều nhà chiến lược đã cho rằng “giáo dục là con chủ bài
để đưa nhân loại tiến lên”. Trong giáo dục nói chung, giáo dục đại học đóng vai trò
nòng cốt, là nhân tố chìa khóa, là động lực thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Hiểu được
điều này vào tháng 11/2005 Chính phủ ra Nghị quyết 14 về “Đổi mới cơ bản và toàn
diện giáo dục đại học Việt Nam giai đoạn 2006- 2020” và vào tháng 11/2013 Chính
phủ lại ra Nghị quyết 29 về “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng
yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế” nhằm mục tiêu tạo được chuyển biến cơ bản về
chất lượng, hiệu quả và quy mô, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước, hội nhập kinh tế quốc tế và nhu cầu học tập của nhân dân. Muốn đạt
được điều đó thì giáo dục đại học phải tập trung đào tạo nhân lực trình độ cao, bồi
dưỡng nhân tài, phát triển phẩm chất và năng lực tự học, tự làm giàu tri thức, sáng tạo
của người học.
Hòa chung theo sự chuyển mình của hệ thống giáo dục đại học ở Việt Nam,
trường Đại học Điều dưỡng Nam Định đã chuyển từ đào tạo theo hình thức niên chế
sang đào tạo theo hệ thống tín chỉ vì hiện nay học chế tín chỉ là hình thức đào tạo được
xem là tiên tiến trên thế giới, mục đích đào tạo của nó là hướng vào sinh viên, coi
người học là trung tâm trong quá trình dạy - học. Với hình thức này, người học chủ
động hơn trong việc tiếp thu kiến thức, quản lý thời gian (chủ động lựa chọn môn học,
giảng viên, giờ học...), nâng cao khả năng tự học, tự nghiên cứu và người dạy phải
hiểu biết về các phương pháp dạy- học, kiểm tra- đánh giá tiên tiến như yêu cầu của hệ
thống tín chỉ, có kỹ năng sử dụng các thiết bị giảng dạy hiện đại,…
Môn Sinh học- Di truyền là môn học bắt buộc trong chương trình đào tạo của
trường Đại học Điều dưỡng Nam Định do bộ môn Sinh vật đảm nhiệm. Trước năm
2014 môn học này được các giảng viên giảng dạy theo hình thức thuyết trình truyền
thống, nhưng bắt đầu từ năm 2014 khi nhà trường chuyển từ đào tạo theo niên chế
sang hình thức tín chỉ, với mong muốn tăng tính tự học, tự nghiên cứu của sinh viên,


trong đề cương chi tiết môn Sinh học – Di truyền các giảng viên đã giảng dạy theo


02-BCSK

phương pháp sermina. Tuy nhiên dù phương pháp giảng dạy đã thay đổi theo hướng
lấy người học làm trung tâm nhưng thực tế giảng dạy cho thấy phương pháp serminar
đang áp dụng vẫn bộc lộ những nhược điểm, có ảnh hưởng nhất định đến khả năng
nhận thức và kết quả học tập môn học của sinh viên.
Với mong muốn lựa chọn được hình thức dạy học phù hợp nhất với nội dung
môn học, giúp người học vừa nắm vững được kiến thức cơ bản của môn học, vừa rèn
luyện khả năng tự học, tự nghiên cứu - điều thật sự cần thiết với sinh viên năm thứ
nhất, tạo tiền đề cho các em học tốt trong những năm tiếp theo, vì thế sáng kiến được
hình thành và thực hiện.
II. Mô tả giải pháp
1. Mô tả giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến
* Trước năm 2014, môn Sinh học – Di truyền được các giảng viên dạy theo
phương pháp thuyết trình (PPTT) truyền thống. Trong phương pháp này, giảng viên
dạy và sinh viên được dạy; giảng viên suy nghĩ và sinh viên buộc phải nghĩ theo cách
của giảng viên; giảng viên nói và sinh viên lắng nghe; giảng viên quyết định (chọn
lựa) và sinh viên phải làm theo. Nhìn chung, giảng viên là chủ thể còn sinh viên là
khách thể của quá trình dạy – học. Giảng viên quan tâm trước hết đến việc truyền đạt
kiến thức, hướng đến mục tiêu làm cho sinh viên hiểu và ghi nhớ kiến thức.
Ưu điểm của phương pháp thuyết trình: - Chủ động trong tiến trình đào tạo: tập
trung vào chủ điểm, kiểm soát được nội dung và thứ tự thông tin truyền đạt trong thời
gian định trước; - Truyền đạt được khối lượng kiến thức trong một thời gian giới hạn; Phù hợp với số đông người học, thiếu lớp, thiếu phương tiện.
Nhược điểm của phương pháp thuyết trình: - Chỉ có thông tin một chiều, người
học bị động; - Khó nắm được hiệu quả của bài giảng, người học dễ bị “ù lỳ” khi nghe
quá lâu; - Không phát triển được kỹ năng cho người học.
* Sau năm 2014, khi trường chuyển từ đào tạo theo hệ thống niên chế sang hệ

thống tín chỉ, các giảng viên đã thay đổi phương pháp giảng dạy để phù hợp với mục
tiêu hướng người học làm trung tâm, phát huy tối đa tính chủ động, tích cực trong hoạt
động lĩnh hội tri thức của người học, và bộ môn đã chọn phương pháp sermina
(PPSER) để giúp sinh viên học tập tốt hơn. Serminar là hình thức học tập, trong đó


02-BCSK

người học chủ động hoàn toàn từ khâu chuẩn bị tài liệu, trình bày nội dung đưa dẫn
chứng, trao đổi thảo luận với các thành viên khác và cuối cùng tự rút ra nội dung bài
học hay vấn đề khoa học cũng như đề xuất các ý kiến để mở rộng nội dung. Trong
hình thức serminar, sinh viên buộc phải tìm hiểu trước vấn đề sẽ thảo luận một cách
chủ động như: đọc giáo trình bài giảng, đọc tài liệu có liên quan, suy nghĩ về những
vấn đề được thảo luận. Từ đó, sinh viên lựa chọn cho mình một cách hiểu và bảo vệ
được quan điểm của mình.
Ưu điểm của phương pháp sermina: - Tạo được cơ hội cho mọi người học đều
tham gia, khai thác được tiềm năng của mỗi cá nhân; - Chủ động trong điều chỉnh
nhận thức của người học; - Rèn luyện được nhiều kỹ năng mềm.
Nhược điểm của phương pháp sermina: - Tính hệ thống của bài học không được
thể hiện rõ ràng; - Sự thống nhất quan điểm giữa các sinh viên, giữa người dạy và
người học thường không triệt để; - Những sinh viên yếu, kém khó tiếp thu bài học; Gây khó khăn cho những giảng viên có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ trung bình
hoặc yếu.
2. Mô tả giải pháp sau khi có sáng kiến
2.1. Vấn đề cần giải quyết
Đưa ra được hình thức giảng dạy phù hợp khắc phục được nhược điểm của
phương pháp sermina và tận dụng những ưu điểm của phương pháp thuyết trình truyền
thống. Qua đó giúp sinh viên chủ động trong học tập và rèn luyện kỹ năng làm việc
nhóm từ đó sinh viên sẽ có kiến thức trong việc giao tiếp, thiết lập mối quan hệ và khả
năng quản lý công việc sau này.
2.2. Tính mới của giải pháp mới so với giải pháp cũ

Giải pháp này được thực hiện dựa trên cơ sở thay đổi một vài điểm của phương
pháp sermina kèm theo kết hợp với những điểm mạnh của phương pháp thuyết trình.
Ưu điểm của giải pháp này so với giải pháp cũ được thể hiện qua bảng 1:


02-BCSK

Bảng 1. So sánh giải pháp cũ và giải pháp mới
STT

Giải pháp cũ

Giải pháp mới

- Sinh viên lên thuyết trình về nội dung mà - Sinh viên lên thuyết trình về nội dung mà
nhóm mình được giao, giảng viên nhận xét nhóm mình được giao, giảng viên nhận xét
1

nội dung bài, cách thuyết trình và tiến hành nội dung bài, cách thuyết trình và tiến hành
thảo luận. Sau đó giảng viên tóm tắt để sinh
thảo luận
viên nắm được nội dung cơ bản của bài học.
- Sinh viên không nắm rõ mục tiêu bài học

- Sinh viên nắm rõ mục tiêu, nội dung cơ bản
của bài thông qua quá trình giảng viên thuyết
trình và tổng kết bài học
- Người học chủ động trong quá trình thu

2


nhận kiến thức, khai thác được tiềm năng của
mỗi cá nhân, giúp sinh viên phát triển tốt một
số kỹ năng mềm, là nền tảng để học tốt
những môn học tiếp theo.
- Một số người học không tham gia hoạt động - Thông qua hoạt động giảng viên chỉ định
nhóm

3

một sinh viên bất kì của nhóm lên trình bày
bài thuyết trình và trả lời câu hỏi sẽ hạn chế
được hiện tượng sinh viên trây ì, không tham
gia hoạt động nhóm

- Hứng thú của sinh viên đối với môn học ít

- Hứng thú của sinh viên với môn học tăng do
người học và người dạy cùng nhau chia sẻ
hiểu biết của mình về nội dung bài học góp

4

phần giảm sự nhàm chán của môn học. Hơn
nữa giúp mối quan hệ thầy- trò gần gũi, thân
thiện hơn.

5

- Thời gian sinh viên dành để chuẩn bị bài dài


- Thời gian chuẩn bị bài ngắn đi, do giảng
viên chỉ giao chủ đề với nội dung rất ngắn.

- Thời gian soạn bài của giảng viên ít, giảng - Bắt buộc giảng viên luôn luôn cập nhật kiến
6

viên hài lòng với kiến thức mà mình đã có

thức mới để giải đáp những thắc mắc của
sinh viên

Nói tóm lại phương pháp giảng dạy theo hình thức sermina có điều chỉnh có rất
nhiều ưu điểm, thích hợp để áp dụng trong việc giảng dạy kiến thức theo hình thức đào
tạo tín chỉ như hiện nay nhằm tăng cường khả năng tự học, tự nghiên cứu và trang bị
cho sinh viên một số kỹ năng để học những môn học khác tốt hơn, cũng là hành trang


02-BCSK

giúp các em tự tin hơn trong cuộc sống.
2.3. Các bước thực hiện sáng kiến
Các bước thực hiện một buổi học theo hình thức kết hợp giữa phương pháp
sermina và phương pháp thuyết trình.
Bước 1: Chuẩn bị
- Chia nhóm: Dựa vào điểm đầu vào đại học môn sinh học, giảng viên chia lớp
học làm 8 nhóm (mỗi nhóm 7-8 sinh viên), sao cho mỗi nhóm đều có điểm đầu vào
cao, trung bình, thấp tương đương nhau.
- Giao chủ đề: Chủ đề là những vấn đề cơ bản của nội dung bài học (không phải
là tất cả nội dung bài học của buổi học hôm sau); đại diện nhóm chọn chủ đề trong

phạm vi chủ đề giảng viên đưa ra (chủ đề khác nhau giữa các nhóm).
- Nghiên cứu tài liệu: Tất cả sinh viên ít nhất đều phải đọc trước nội dung bài
học hôm sau trong giáo trình, tìm hiểu thêm vấn đề nhờ các công cụ khác nhau để có
được kiến thức tổng quát về nội dung bài.
- Viết bài thuyết trình: Giảng viên gợi ý cấu trúc, độ dài và hình thức trình bày;
hướng dẫn cách làm bài thuyết trình; giảng viên không cần đọc duyệt nội dung bài
thuyết trình, để cho sinh viên tập bảo vệ quan điểm của mình.
Bước 2: Thực hiện
- Lớp học sắp xếp theo hình chữ U để tạo cảm giác đối thoại thân thiện. Các
thành viên trong một nhóm phải ngồi gần với nhau để có thể trao đổi, thảo luận được.
Giảng viên chọn một chỗ ngồi thích hợp giữa các sinh viên sao cho vừa gần gũi vừa dễ
dàng điều khiển buổi học.
- Đại diện mỗi nhóm lên trình bày nội dung nhóm mình chuẩn bị trong khoảng
5-10 phút. Để tránh hiện tượng có những sinh viên không chuẩn bị bài trước, giảng
viên chỉ định bất kì một thành viên nào của nhóm đứng lên trình bày nội dung và trả


02-BCSK

lời những vấn đề mà các bạn trong lớp và người dạy thắc mắc về nội dung mình mới
trình bày.
- Sau khi sinh viên thuyết trình xong, giảng viên nhận xét sơ lược về nội dung
và cách trình bày và chuyển qua phần thảo luận.
- Sinh viên khác trong lớp (có thể là cả giảng viên) đặt câu hỏi liên quan đến đề
tài vừa được thuyết trình cho người trình bày hoặc nhóm chuẩn bị đề tài. Giảng viên
hướng dẫn câu hỏi không nên chỉ tập trung vào câu hỏi nhận diện, câu hỏi chất vấn
– giải thích, mà chủ yếu là câu hỏi phân tích lý giải, câu hỏi so sánh – đối chiếu, câu
hỏi liên hệ – phát triển.
- Các thành viên trong nhóm thảo luận với nhau trong một thời gian nhất định
rồi cử người đại diện đứng lên trả lời câu hỏi. Giảng viên khẳng định lại ý kiến đã trả

lời, bổ sung, mở rộng, nâng cao ở những chỗ cần thiết.
- Giảng viên khái quát về nội dung mà nhóm vừa trình bày, sau đó giảng viên
thuyết trình về vấn đề tiếp theo trong nội dung bài học. Việc này giúp người học có cái
nhìn tổng quát về nội dung mà bạn trong lớp vừa trình bày vừa nắm được nội dung
tiếp theo của bài học vì người trình bày có nhiều bạn còn rụt rè, nhút nhát nên nói bé,
nói không rõ ràng.
- Giảng viên tiếp tục chỉ định người trình bày của nhóm tiếp theo. Trình tự lại
diễn ra như ở trên cho đến khi hết nội dung bài học.
Các hiệu quả của sáng kiến được đánh giá sơ bộ qua phiếu phỏng vấn sinh viên
của 06 lớp học phần (n= 356 sinh viên). Kết quả thu được ở các bảng dưới đây.
Trong bộ câu hỏi khảo sát chúng tôi đưa ra 5 sự lựa chọn (5: rất đồng ý; 4:
đồng ý; 3: phân vân; 2: không đồng ý; 1: rất không đồng ý) cho các nội dung như ở
bảng 1. Trong quá trình nhập số liệu chúng tôi mã hóa: rất đồng ý với ý kiến này = 5
điểm ; đồng ý với ý kiến này = 4 điểm ; phân vân với ý kiến này = 3 điểm; không đồng
ý với ý kiến này = 2 điểm; rất không đồng ý với ý kiến này = 1 điểm, sau đó tính điểm
trung bình (viết tắt là ĐTB) và độ lệch chuẩn (viết tắt là Std) cho một nội dung của
mỗi một phương pháp, chúng tôi có được bảng 2:
Bảng 2. Đánh giá của sinh viên về các phương pháp dạy- học (tính theo điểm
trung bình chung)


02-BCSK
PP thuyết
TT

1
2
3
4


Nội dung

- Hiểu rõ hơn về nội dung, mục tiêu
của môn học
- Tự tin khẳng định bản thân, phát biểu
ý kiến cá nhân
- Phát triển năng lực tư duy của bản
thân
- Rèn luyện kỹ năng thảo luận, làm
việc tập thể

trình

PP kết hợp

PP sermina
ĐT

ĐTB

Std

ĐTB

Std

4.37

0.487


4.23

0.503

4.22

0.428

2.70

0.768

4.07

0.672

4.00

1.085

3.11

0.965

4.16

0.594

4.11


0.832

2.17

0.841

4.23

0.625

4.56

0.616

3.87

0.754

4.04

0.650

3.83

0.857

3.07

1.043


4.16

0.642

4.44

0.616

B

Std

- Giúp vận dụng hiệu quả, hợp lý
5

những kiến thức môn học vào trong
thực tế

6

- Tìm tòi, phát hiện những vấn đề mới
liên quan đến môn học

Kết quả cho thấy khi sinh viên được dạy- học theo phương pháp giảng dạy tích
cực (PPSER và PPKH) thì họ nhận thấy bản thân tự tin khẳng định bản thân, phát biểu
ý kiến tốt hơn so với PPTT (ĐTB 4.0 và 4.07 so với 2.7). Tương tự như vậy PPSER và
PPKH cũng giúp sinh viên rèn luyện tốt kỹ năng thảo luận, làm việc tập thể hơn so với
PPTT (ĐTB 4.56 và 4.23 so với 2.17); ngoài ra ĐTB của PPSER và PPKH đối với nội
dung: khả năng tìm tòi, phát hiện những vấn đề mới liên quan đến môn học; khả năng
phát triển năng lực tư duy của bản thân và giúp người học vận dụng hiệu quả , hợp lý

những kiến thức môn học vào thực tế cao hơn so với ĐTB của PPTT (cụ thể: 4.44,
4.16 so với 3.07; 4.11, 4.16 so với 3.11 và 3.83, 4.04 so với 3.87). Điều này hoàn toàn
hợp lý vì khi sinh viên được dạy- học bằng phương pháp tích cực thì bản thân mỗi sinh
viên phải tự tìm tòi, tự tư duy đế làm bài thuyết trình mà thầy cô giao về nhà, hơn nữa
các sinh viên trong cùng một nhóm lại phải làm việc nhóm cùng nhau, đưa ra ý kiến,
thảo luận để quyết định xem trong bài thuyết trình cần phải có những nội dung nào cho
thích hợp.


02-BCSK

Tuy nhiên rất nhiều cuộc hội thảo trong nước về vấn đề chúng ta nên dạy- học
theo phương pháp nào là tốt nhất thì các chuyên gia không ai bác bỏ hoàn toàn vai trò
của phương pháp thuyết trình, vì PPTT cũng có mặt mạnh của nó, cụ thể trong điều tra
của chúng tôi sinh viên nhận thấy khi dạy- học bằng PPTT thì sinh viên hiểu rõ về nội
dung, mục tiêu môn học hơn so với PPSER và PPKH (ĐTB 4.37 so với 4.22 và 4.23).
Khi khảo sát về các kỹ năng mà sinh viên đạt được qua các phương pháp giảng
dạy, chúng tôi đưa ra 4 sự lựa chọn: kỹ năng đạt được tốt, khá, trung bình, yếu và mã
hóa như sau: tốt = 4 điểm ; khá = 3 điểm; trung bình = 2 điểm; yếu = 1 điểm, sau đó
tính điểm trung bình và độ lệch chuẩn cho một kỹ năng của mỗi một phương pháp,
chúng tôi thu được kết quả như ở bảng 3.
Bảng 3. Đánh giá của sinh viên về các kỹ năng đạt được qua các phương pháp
dạy – học (tính theo điểm trung bình chung)
PP thuyết
TT
1
2
3

Nội dung

Kỹ năng phân tích và lý giải vấn đề
Kỹ năng hợp tác, làm việc theo
nhóm
Kỹ năng hệ thống hóa lại kiến thức
đã học

trình

PP kết hợp

PP sermina

ĐTB

Std

ĐTB

Std

ĐTB

Std

1.56

0.604

2.96


0.633

3.00

0.594

1.74

0.650

3.35

0.589

3.39

0.698

3.00

0.727

3.19

0.658

2.55

0.583


4

Kỹ năng trình bày các vấn đề

1.70

0.717

3.38

0.598

3.39

0.608

5

Kỹ năng giải quyết các vấn đề

2.28

0.627

2.99

0.646

3.11


0.676

6

Kỹ năng giao tiếp

1.91

0.708

3.35

0.659

3.33

0.686

7

Kỹ năng lập kế hoạch học tập

2.67

0.727

3.20

0.680


3.23

0.840

3.39

0.596

3.27

0.642

3.06

0.639

8

Kỹ năng nghe, ghi và hiểu bài giảng
tại lớp

Từ kết quả bảng 3 chúng tôi thấy kỹ năng đạt được của sinh viên với mỗi
phương pháp giảng dạy là khác nhau, cụ thế:
- Kỹ năng phân tích và lý giải vấn đề; Kỹ năng hợp tác, làm việc theo nhóm; kỹ
năng trình bày vấn đề; kỹ năng giao tiếp khi dạy- học bằng PPSER và PPKH cao hơn
nhiều so với dạy – học bằng PPTT (ĐTB: 3.0 và 2.96 so với 1.56; 3.39 và 3.35 so với


02-BCSK


1.74; 3.39 và 3.38 so với 1.7; 3.33 và 3.35 so với 1.91). Nếu trong PPTT, người học
chỉ nghe thầy cô trình bày vấn đề thì dạy- học theo PPSER và PPKH các thành viên
trong một nhóm có cơ hội đưa ra quan điểm của mình đối với chủ đề thảo luận, mặt
khác nó nâng cao được tính tương tác giữa các thành viên nhằm tác động tích cực đến
người học như: Tăng cường động cơ học tập, nảy sinh những hứng thú mới, kích thích
sự giao tiếp, chia sẻ tư tưởng và khích lệ mọi thành viên tham gia học hỏi kinh nghiệm
lẫn nhau, phát triển được các mối quan hệ và quan tâm đến nhau.
- Riêng đối với kỹ năng nghe, ghi và hiểu bài tại lớp thì thấy ĐTB của PPTT
cao hơn so với ĐTB của PPKH và PPSER (ĐTB 3.39 so với 3.27 và 3.06). Như vậy là
khi giảng viên thuyết trình thì sinh viên nắm được nội dung bài tốt hơn so với sinh
viên tự mình thuyết trình.
Hơn nữa trong quá trình diễn ra buổi học chúng tôi quan sát sự hứng thú của
sinh viên đối với từng phương pháp dạy học (bảng 4), nhận thấy khi dạy- học bằng
phương pháp sermina và phương pháp thuyết trình sinh viên hứng thú học tập hơn so
với phương pháp thuyết trình. Trong đó phương pháp kết hợp vượt trội hơn bởi nhóm
giảng viên chúng tôi quan sát thấy sinh viên chú ý hơn vì có sự tham gia thuyết trình
của giảng viên, điều này giúp sinh viên tổng hợp được nội dung bài học.
Bảng 4. Giảng viên đánh giá sự hứng thú của sinh viên đối với từng phương pháp
dạy – học (tính điểm trung bình chung cho 6 lớp học phần)
ST

Sự biểu hiện

T

PP thuyết

PP kết

PP


trình

hợp

sermina

1

Tập trung, chú ý trong giờ học

7.8

8.8

6

2

Nghe giảng và ghi chép bài theo cách hiểu

8.1

8.1

7.7

của mình
3


Đưa ra câu hỏi cho giảng viên

3

8.2

8

4

Đưa ra câu hỏi cho các bạn trong lớp

0

8

8

5

Suy nghĩ, tự tìm tòi lời giải đáp đối với một

5

8

7.7

2


8.1

7.9

2

8

8

số vấn đề giảng viên đưa ra
6

Suy nghĩ, tự tìm tòi lời giải đáp đối với một
số vấn đề các bạn trong lớp đưa ra

7

Trao đổi với bạn bè để làm sáng tỏ một số


02-BCSK

vấn đề trong bài học
8

Đọc nội dung bài học trước khi đến lớp

5


8.4

8

9

Tham gia với các bạn trong nhóm để chuẩn bị

0

9.5

8.2

3

9

8.5

bài giảng viên giao về nhà
10

Tìm kiếm thông tin mới có liên quan đến bài
học trên mạng internet

Ngoài ra chúng tôi còn điều tra mong muốn của sinh viên về phương pháp dạyhọc môn Sinh học- Di truyền (bảng 5). Kết quả chúng tôi thấy có đến 79.8% sinh viên
mong muốn được dạy- học bằng phương pháp kết hợp, cao gấp 15 lần so với phương
pháp sermina và cao gấp 5 lần so với phương pháp thuyết trình.
Bảng 5. Mong muốn của sinh viên về phương pháp dạy- học môn Sinh học Di

truyền
TT

Phương pháp dạy- học

n

%

1

Phương pháp thuyết trình

54

15,2

2

Phương pháp kết hợp

284

79,8

3

Phương pháp sermina

18


5,1

Tổng

356

100

Sự thành công của việc dạy- học phụ thuộc rất nhiều vào phương pháp dạy học
được giảng viên lựa chọn, cùng một nội dung nhưng tùy thuộc vào phương pháp sử
dụng thì sẽ có những kết quả khác nhau. Phương pháp giảng dạy tích cực nói chung và
phương pháp kết hợp ở đây nói riêng là một trong những phương pháp dạy học được
áp dụng trong đổi mới phương pháp dạy học hiện nay nhằm phát huy được tính tích
cực của người học, dạy học hướng về người học. Ngày nay, ngoài kiến thức mà giáo
trình cung cấp thì yêu cầu về các kỹ năng mà sinh viên đạt được sau khi ra trường càng
cao hơn, do đó khi học theo phương pháp dạy học tích cực thấy đem lại kết quả tốt
nhất, phát triển khá toàn diện cả hai yêu cầu đặt ra: nắm được kiến thức và phát triển
kỹ năng, hơn nữa nó còn tạo ra được niềm vui và sự hứng thú trong học tập cho sinh
viên. Trên cơ sở đó, nhóm sáng kiến chúng tôi dựa vào kết quả điều tra nhận thấy
mong muốn học tập của sinh viên kết hợp với các kỹ năng chúng tôi lựa chọn giảng


02-BCSK

dạy nội dung môn Sinh học- Di truyền theo phương pháp kết hợp (phương pháp thuyết
trình kết hợp với phương pháp sermina).
2.4. Điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến
- Số lượng sinh viên trong một lớp học không được quá đông, chỉ từ 55-65 sinh
viên/1 lớp học phần.

- Giảng đường phải có projector, màn chiếu và máy tính để bàn (khi buổi học
thực hiện theo phương pháp sermina và phương pháp kết hợp).
- Có phiếu phỏng vấn dành cho sinh viên để đánh giá hiệu quả phương pháp
giảng dạy.
- Có bảng quan sát sự hứng thú của sinh viên đối với phương pháp dạy- học
(dành cho giảng viên đánh giá).
2.5. Khả năng áp dụng vào thực tế
Sáng kiến đã được áp dụng vào giảng dạy thực tế để tăng cường hiệu quả học
tập môn Sinh học- Di truyền cho sinh viên Đại học chính quy năm thứ nhất.
Điều kiện để áp dụng sáng kiến không khó, hầu hết các lớp học phần đều có số
lượng sinh viên vừa phải, các giảng đường đa phần đều đã được nhà trường trang bị
projector, màn chiếu và máy tính để bàn.


02-BCSK

Phương pháp giảng dạy này hoàn toàn xuất phát từ nhu cầu học tập của sinh
viên nên khi áp dụng đã tạo được sự hứng thú học tập cho người học.
2.6. Khả năng áp dụng cho những đối tượng, cơ quan, tổ chức khác
Có thể áp dụng phương pháp giảng dạy này cho các môn học khác trong trường
Đại học Điều dưỡng nói riêng và các trường cao đẳng, đại học khác nói chung.

III. Hiệu quả xã hội do sáng kiến đem lại
Phương pháp giảng dạy theo hình thức kết hợp giữa thuyết trình và sermina hấp
dẫn, lôi cuốn người học chủ động trong quá trình học tập. Tính chủ động cao là tiền đề
cho sự hình thành khả năng tư duy độc lập. Tư duy độc lập là nền tảng của sáng tạo.
Khi dạy- học theo phương pháp kết hợp sinh viên phát triển rất tốt kỹ năng,
nhất là các kỹ năng mềm, ví dụ như kỹ năng phân tích, lý giải vấn đề, kỹ năng hợp tác,
làm việc theo nhóm, kỹ năng tìm kiếm tài liệu, kỹ năng trình bày vấn đề trước đám
đông…. trong khi đó phương pháp giảng dạy truyền thống chỉ cung cấp được kỹ năng

cứng, hoàn toàn không quan tâm đến phát triển kỹ năng mềm.
Khi giảng viên dạy học bằng phương pháp kết hợp, người học thấy bản
thân “được học” chứ không phải “bị học”. Người học được chia sẻ những kiến thức và
kinh nghiệm của mình đồng thời với việc bổ sung những kiến thức, kinh nghiệm
không chỉ từ người thầy mà còn từ chính các bạn trong lớp.
Dạy- học bằng phương pháp giảng dạy kết hợp chính là tìm mọi cách giúp
người học được chủ động trong việc học, cho họ được làm việc, được khám phá tiềm


02-BCSK

năng của chính mình. Người dạy cần giúp người học có được sự tự tin, có trách nhiệm
với bản thân để từ đó chia sẻ trách nhiệm với cộng đồng. Charles Handy, nhà triết lý
kinh doanh nổi tiếng người Anh, đã nói: “Để làm cho tương lai trở thành hiện thực,
chúng ta cần phải tự tin và tin tưởng vào giá trị của chính mình. Đó là điều mà các
trường học phải dạy cho mọi người”. Chỉ khi người học được tự khám phá kiến thức,
tự học, tự làm và tự bổ sung cho nhau thì kiến thức mới trở thành tri thức của người
học, chuyển thành hành động, thành thói quen hàng ngày của họ.
Ngoài ra khi dạy – học theo lối học thụ động (nghe giảng, đọc, nhìn), sinh viên
học được nhiều nhất là 50% lượng kiến thức, điều này phần nào giải thích được vì sao
phương pháp giảng dạy truyền thống không mang lại hiệu quả cao. Với phương pháp
giảng dạy kết hợp, nhấn mạnh sự tham gia của sinh viên vào quá trình học, lôi cuốn
sinh viên chủ động trong học tập, thì kết quả khác biệt hết sức rõ ràng: có thể đạt được
mức độ tiếp thu kiến thức rất cao, có thể lên đến 90%.
Khi áp dụng phương pháp giảng dạy kết hợp, giờ giảng của mỗi giáo viên trở
nên sinh động, hấp dẫn và có ý nghĩa. Người học là trung tâm nhưng vai trò, uy tín của
người thầy cũng được đề cao hơn. Bên cạnh đó, khả năng chuyên môn của người thầy
sẽ tăng lên nhờ áp lực của phương pháp, bởi nội dung kiến thức của từng giờ giảng
phải được cập nhật liên tục để đáp ứng các câu hỏi của người học trong thời đại thông
tin rộng mở.

Dạy học là quá trình trao đổi kiến thức giữa thầy và trò. Mối quan hệ thầy trò sẽ
trở nên gần gũi, tốt đẹp qua việc giải quyết các tình huống liên quan đến nội dung bài
học và cuộc sống của người học. Qua đó có thể giáo dục các em về sức khỏe giới tính,
hướng dẫn sinh viên áp dụng những kiến thức đã học vào thực tế như nhận biết các
bệnh tật di truyền, tư vấn di truyền, tư vấn và giải thích chế độ dinh dưỡng phù hợp
với từng giai đoạn, từng lứa tuổi phát triển của cơ thể.



×