Tải bản đầy đủ (.docx) (70 trang)

ĐỀ CƯƠNG CVC 2018 CÁC TỈNH DA THI từ câu 53 đến câu 81

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (525.55 KB, 70 trang )

MỤC LỤC TỪ CÂU 53 ĐẾN CÂU 82
Câu 53 (30đ). Anh/chị hiểu như thế nào về quan điểm định hướng: "Mô hình và
quy mô tổ chức bộ máy phải phù hợp với tính chất, đặc điểm, chức năng, nhiệm vụ của
từng cơ quan, đơn vị" trong đổi mới, xắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị được
đề ra tại Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25/10/2017 của hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp
hành Trung ương Đảng khóa XII?................................................ 5
Câu 54 (40đ). Anh/chị hãy giải thích vì sao cán bộ, công chức không được tiết lộ
thông tin liên quan đến bí mật nhà nước dưới mọi hình thức như quy định của Luật Cán
bộ, công chức về những việc- cán bộ, công chức không được làm. Liên hệ với thực tế cơ
quan hay địa phương nơi mình công tác để đề xuất biện pháp nhằm thực hiện tốt quy
định trên?
Câu 55 (30đ). Theo Anh/chị, nhiệm vụ đề cao trách nhiệm và đạo đức công vụ,
trách nhiệm xã hội, siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong chỉ đạo, điều hành và thực thi công
vụ của cán bộ, công chức" trong kế hoạch cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 20162020 ban hành theo quyết định số 225/QĐ-TTg ngày 04 tháng 02 năm 2016 của Thủ
tướng Chính phủ có ý nghĩa như thế nào đối với công chức hành chính nhà nước ở Việt
Nam. Liên hệ với vị trí công tác mà mình đang đảm nhận, anh/chị hãy đưa ra biện pháp
chủ yếu để thực hiện có kết quả nhiệm vụ trên?
Câu 56: Các hình thức kết hợp quản lý nhà nước theo ngành và quản lý theo lãnh
thổ? Nội dung kết hợp quản lý theo ngành và quản lý theo lãnh thổ? Liên hệ thực tiễn
nơi đơn vị đồng chí công tác?
Câu 57. Trình bày kỹ năng phối hợp trong hoạt động công vụ? Phân tích cơ cấu tổ
chức của đơn vị dưới góc độ phân công công việc?
Câu 58. Tại sao phải có kỹ năng đánh giá thực thi công vụ? Hạn chế trong đánh
giá thực thi công vụ hiện nay, nguyên nhân và giải pháp?
Câu 59. Xác định yêu cầu về cải cách dịch vụ hành chính công đối với một lĩnh vực
mà anh chị quan tâm?
Câu 60. Anh (chị) hãy phân tích nguyên tắc: Tập trung dân chủ, chế độ trách
nhiệm cá nhân và phân công, phân cấp rõ ràng trong quản lý công chức quy định tại
khoản 3 điều 5 Luật cán bộ, công chức năm 2008. Liên hệ thực hiện nguyên tắc này ở cơ
quan, tổ chức, đơn vị Anh/chị đang công tác.
Câu 61. Đồng chí hãy nêu các chức năng cơ bản của tổ chức hành chính nhà nước


và trình bày các nguyên tắc tổ chức, hoạt động của bộ máy hành chính Nhà nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Liên hệ thực tiễn.
Câu 62 (30đ). Nhận thức của Anh/ chị về bản chất của Hệ thống chính trị Việt Nam
là một hình thức tổ chức thực hành dân chủ. Hãy nêu giải pháp chủ yếu để phát huy bản
chất này của hệ thống chính trị nước ta………………………………26
Câu 63 (30đ). Anh/ chị hãy trình bày mối quan hệ cuả việc tinh gọn bộ máy nhà
nước và hiệu lực, hiệu quả của bộ máy hành chính nhà nước. Liên hệ thực tiễn để đánh
giá tình hình và đề xuất giải pháp nhằm thực hiện được mục tiêu “Tiếp tục đổi mới, xắp
xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả” như đã
xác định trong Nghị quyết số 18-NQ/TW của Hội nghị Trung ương 6 khóa XII về một số
vấn đề về tiếp tục đổi mới, xắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt
động hiệu lực, hiệu quả………….……………...28
Câu 64 ( 30đ). Anh/ chị hãy đánh giá việc thực hiện quy định “Những việc cán bộ,
công chức không được làm liên quan đến đạo đức công vụ” tại Điều 18, Luật Cán bộ,
công chức) ở cơ quan Anh/chị công tác và đề xuất giải pháp để khắc phục những hạn
chế…………………………………………………………………………. 31
Câu 65 (30đ). Theo Anh/chị, nhiệm vụ “Hoàn thiện các chức danh, tiêu chuẩn
nghiệp vụ của công chức, viên chức” được đề ra trong Quyết định số 225/QĐ-TTg ngày
04 tháng 02 năm 2016 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Kế hoạch Cải cách hành


2

chính nhà nước giai đoạn 2016-2020 có ý nghĩa như thế nào đối với công cuộc cải
cách hành chính ở Việt Nam hiện nay?............................................................ 34
Câu 66 (40 điểm): Anh/chị hiểu thế nào về nghĩa vụ: "Chấp hành nghiêm chỉnh
đường lối, chủ trương chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước" của cán bộ, công
chức được quy định tại Điều 8 Luật cán bộ, công chức năm 2008 và cho biết tình hình
thực hiện nghĩa vụ này trên thực tế?............................................... 35
Câu 67 (30 điểm): Theo anh/chị, nhiệm vụ: "Đổi mới công tác thống kê, báo cáo và

quản lý hồ sơ công chức, viên chức" trong kế hoạch cải cách hành chính nhà nước giai
đoạn 2016-2020 ban hành theo Quyết định số 225/QĐ-TTG ngày 04/2/2016 của Thủ
tướng Chính phủ có ý nghĩa như thế nào đối với công cuộc cải cách hành chính nhà nước
ở Việt Nam. Liên hệ với vị trí công tác mà mình đang đảm nhận, anh/chị hãy đề xuất
những biện pháp chủ yếu để thực hiện có kết quả nhiệm vụ
trên?........................................................................................................ 37
Câu 68 (40đ). Từ thực tiễn Ngành, Lĩnh vực hoặc địa phương anh/chị đang công
tác hãy làm rõ nội dung, ý nghĩa của nhiệm vụ, giải pháp trong việc xắp xếp lại tổ chức,
bộ máy của hệ thống chính trị được đề ra tại Nghị quyết số 18 của Hội nghị Trung ương 6
khóa XII: “Thực phân cấp, phân quyền mạnh mẽ, hợp lý giữa Trung ương và địa
phương, giữa cấp trên và cấp dưới, gắn quyền hạn với trách
nhiệm”………………………………………………………………………………….. 39
Câu 69 (30đ). Từ thực tiễn Ngành, Lĩnh vực hoặc địa phương anh/chị đang công
tác hãy làm rõ quan điểm của hội nghị Trung ương 7 khóa XII: “Cải cách chính sách tiền
lương phải….. tuân thủ nguyên tắc phân phối theo lao động và quy luật khách quan của
kinh tế thị trường, lấy tăng năng suất lao động là cơ sở để tăng
lương”………………………………………………………………………………….. 41
Câu 70 (30đ). Nhận thức của anh/chị về nhiệm vụ “hoàn thiện cơ chế đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, công chức, viên chức, phù hợp với điều kiện của Việt Nam và yêu cầu hội
nhập quốc tế” đối với công cuộc cải cách hành chính nhà nước ở Việt Nam hiện nay. Từ
thực tiễn Ngành, Lĩnh vực hoặc địa phương anh/chị đang công tác hãy đề xuất giải pháp
hoàn thiện cơ chế đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức trong thời gian
tới……………………………………………………………………... 43
Câu 71 (30đ). Anh/chị hiểu như thế nào về quan điểm định hướng "Xây dựng và
hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một nhiệm vụ chiến
lược, là khâu đột phá quan trọng, tạo động lực để phát triển nhanh và bền vững được đề
ra tại Nghị quyết 11-NQ/TW ngày 03/6/2017 của Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành
Trung ương Đảng khóa XII……………………………...………… 46
Câu 72 (35đ). Anh/chị hãy phân tích làm rõ ý nghĩa của việc thực hiện nhiệm vụ
xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức: "Xây dựng cơ chế, chính sách đãi ngộ, thu hút,

trọng dụng nhân tài" được đề ra trong Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương
Đảng khóa khóa XI tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII. Liên hệ với ngành hay địa
phương công tác để đánh giá tình hình thực hiện và đề xuất biện pháp tiếp tục thực hiện
tốt nhiệm vụ trên………………………………………….. 48
Câu 73 (35đ). Theo Anh/chị, nhiệm vụ "hoàn thiện cơ chế đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ, công chức, viên chức, phù hợp với điều kiện của Việt Nam và yêu cầu hội nhập quốc
tế” được đề ra trong kế hoạch cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2016-2020 ban
hành theo Quyết định số 225/QĐ-TTG ngày 04/2/2016 của Thủ tướng Chính phủ có ý
nghĩa như thế nào đối với công cuộc cải cách hành chính nhà nước ở Việt Nam. Liên hệ
với thực tiễn Ngành hay địa phương, anh/chị hãy đề xuất những biện pháp chủ yếu để
thực hiện có kết quả nhiệm vụ trên………………… 51
Câu 74 (40đ). Trên cơ sở những nội dung cụ thể của nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu:
"Hỗ trợ kinh tế tư nhân đổi mới sáng tạo, hiện đại hóa công nghệ và phát triển nguồn
nhân lực, nâng cao năng suất lao động" được đề ra trong Nghị quyết số 10-NQ/TW ngày


3

03/6/2017 của Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về phát
triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, anh (chị) hãy phân tích ý nghĩa của việc thực hiện tốt nhiệm vụ,
giải pháp chủ yếu đó…………………………………. 54
Câu 75 (30đ). Anh (chị) đánh giá việc thực hiện quy định: "Quyền của cán bộ,
công chức được bảo đảm các điều kiện thi hành công vụ" (tại Điều 11, Luật Cán bộ, công
chức) ở cơ quan mình công tác và đề xuất giải pháp khắc phục những hạn
chế…………………………………………………………………..………………….. 56
Câu 76 (30 đ). Anh (chị) hãy nêu ý nghĩa của việc thực hiện nhiệm vụ: "kiểm soát
chặt chẽ việc ban hành mới các thủ tục hành chính theo quy định của pháp luật" được đề
ra trong Nghị quyết 30c ngày 08/11/2011 của Chính phủ ban hành Chương trình tổng thể
cải cách hành chính giai đoạn 2011-2020. Theo anh (chị), ngành/địa phương cần làm gì để

thực hiện tốt nhiệm vụ trên……………………. 58
Câu 77. Cơ sở lý luận và thực tiễn về nghĩa vụ của cán bộ, công chức: "Tôn trọng
nhân dân, tận tụy phục vụ nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và
chịu sự giám sát của nhân dân. Liên hệ việc thực hiện nghĩa vụ này của cán bộ, công
chức của ngành, lĩnh vực hoặc địa phương nơi anh/chị đang công
tác………………………………………………………………………………………. 60
Câu 78 (40đ). Anh chị hãy phân tích làm rõ quan điểm: “Thực phân cấp, phân
quyền mạnh mẽ, hợp lý giữa Trung ương và địa phương, giữa cấp trên và cấp dưới, gắn
quyền hạn với trách nhiệm; đồng thời xây dựng cơ chế kiểm soát quyền lực chặt chẽ
bằng các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước, bảo đảm dân chủ, công khai, minh
bạch, đề cao trách nhiệm giải trình và tăng cuwongf kiểm tra giám sát việc thực hiện" tại
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 khóa XII………. 62
Câu 79 (30đ). Anh/chị hãy phân tích ý nghĩa của tinh gọn bộ máy nhà nước đối với
hiệu lực, hiệu quả của hành chính nhà nước. Liên hệ thực tiễn để đánh giá tình hình và
đề xuất giải pháp nhằm thực hiện được mục tiêu: "Tiếp tục đổi mới, xắp xếp tổ chức bộ
máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả" như đã xác định trong
Nghị quyết 18-NQ/TW của Hội nghị lần thứ 6 Ban chấp hành Trung ương khóa XII về
một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, xắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh
gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả……………… 64
Câu 80 (30đ). Tại sao xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ công chức giúp
nâng cao hiệu lực, hiệu quả hành chính nhà nước? Trình bày nội dung chính về xây dựng
và nâng cao chất lượng đội ngũ công chức giai đoạn 2016-2020. Kết quả thực hiện nội
dung
này tại ngành, lĩnh vực hoặc địa phương anh/chị đang công
tác?........................................................................................................................... 67
Câu 81 (30đ). Cơ sở lý luận và thực tiễn của quy định về đánh giá cán bộ, công
chức trong Nghị quyết Trung ương 7 khóa XII: “ Đổi mới công tác đánh giá cán bộ theo
hướng: Xuyên suốt, liên tục, đa chiều, theo tiêu chí cụ thể, bằng sản phẩm, thông qua
khảo sát, công khai kết quả và so sánh với chức danh tương đương; gắn đánh giá cá nhân
với tập thể và kết quả thực hiện nhiệm vụ của địa phương, cơ quan, đơn vị. Các giải pháp

bảo đảm công tác đánh giá cán bộ, công chức theo định hướng
trên…………………………………………………………… 69
Câu 82 (30đ). Anh/chị hãy phân tích tầm quan trọng của đánh giá công chức Liên
hệ với ngành hoặc lĩnh vực công tác để đánh giá thực trạng và đưa ra các kiến nghị nhằm
khắc phục được những hạn chế trong công tác này đã được Nghị quyết Hội nghị lần thứ
7 Ban Chấp hành Trung ương khóa XII về xác định là: Đánh giá cán bộ vẫn là khâu yếu,
chưa phản ảnh đúng thực chất, chưa gắn với kết quả, sản phẩm cụ thể, không ít trường
hợp còn cảm tính, nể nang, dễ dãi hoặc định kiến…72


4
Câu 53 (30đ). Anh/chị hiểu như thế nào về quan điểm định hướng: "Mô hình và quy mô tổ
chức bộ máy phải phù hợp với tính chất, đặc điểm, chức năng, nhiệm vụ của từng cơ quan, đơn vị"
trong đổi mới, xắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị được đề ra tại Nghị quyết số 18NQ/TW ngày 25/10/2017 của hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII?
Trả lời: Để đáp ứng yêu cầu của việc xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa,
phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập quốc tế thì một trong những vấn đề cấp
bách đặt ra trong giai đoạn hiện nay ở nước ta đó là phải đổi mới tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị cho
phù hợp và thích ứng với cơ chế quản lý mới, với các yêu cầu của hội nhập quốc tế.
Việc đổi mới, xắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị thực chất là việc điều chỉnh chức năng,
nhiệm vụ của các cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị cho phù hợp với yêu cầu phát triển của đất nước
trong tình hình mới, đồng thời khắc phục tình trạng trùng lắp, chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ, lĩnh vực
quản lý giữa các cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị để bảo đảm tính tổng thể, đồng bộ, liên thông;
kết hợp hài hoà giữa kế thừa, ổn định với đổi mới, phát triển; gắn đổi mới tổ chức bộ máy với đổi mới
phương thức lãnh đạo, tinh giản biên chế, cải cách chế độ tiền lương; cơ cấu lại và nâng cao chất lượng đội
ngũ cán bộ, công chức, viên chức; thu hút người có đức, có tài vào làm việc trong các cơ quan, tổ chức của
hệ thống chính trị.
Với quan điểm nêu trên thì quy mô tổ chức của bộ máy của hệ thống chính trị phải được tinh gọn
và phải được kiện toàn, xắp xếp lại cho phù hợp với tính chất, đặc điểm, chức năng, nhiệm vụ của từng cơ
quan, đơn vị theo nguyên tắc một cơ quan thực hiện nhiều việc, một việc chỉ giao cho một cơ quan chủ trì
thực hiện và chịu trách nhiệm chính và cũng là căn cứ để xác định rõ trách nhiệm của từng cấp quản lý,

từng cơ quan, đơn vị, từng tập thể, từng cá nhân, nhất là trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức
nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động công vụ; phù hợp với quan điểm, mục tiêu của cải cách nền
hành chính nhà nước, cải cách chế độ công vụ, công chức, trong đó có việc áp dụng mô hình công vụ việc
làm là mô hình công vụ đã được nhiều nước phát triển trên thế giới áp dụng để quản lý nguồn nhân lực dựa
trên vị trí việc làm.
Việc áp dụng mô hình công vụ việc làm trong đổi mới, xắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính
trị vừa đảm bảo tinh gọn được tổ chức bộ máy, vừa nâng cao được hiệu lực, hiệu quả hoạt động của hệ
thống chính trị. Bởi lẽ, trong mô hình công vụ việc làm đòi hỏi các vị trí việc làm phải được bố trí xắp xếp
theo một hệ thống thứ bậc công việc được thiết lập dựa trên cơ sở phân tích một cách hệ thống nội dung
các công việc đó và như vậy, vị trí việc làm của công chức được sắp xếp trên cơ sở đánh giá công việc,
theo một trật tự thứ bậc chứ không căn cứ vào số lượng biên chế công chức được giao và trình độ học vấn
của công chức để xắp xếp công việc như trong mô hình công vụ chức nghiệp hiện hành; theo đó, hệ thống
tiền lương cũng được thiết lập dựa trên cơ sở đánh giá công việc và phân loại công việc; các vị trí công
việc khác nhau thì được xếp vào các mức khác nhau theo mức độ phức tạp của từng công việc và đảm bảo
việc trả lương công bằng theo các vị trí công việc; mỗi một mức lại được phân chia thành nhiều bậc gắn
với chỉ số tiền lương tăng dần; việc tăng bậc lương phụ thuộc vào kết quả thực hiện công việc và thâm niên
công tác của công chức. Trong mô hình công vụ việc làm, mỗi công chức được coi là một chuyên gia, được
giao đảm nhận những loại công việc cụ thể (vị trí công việc), mỗi vị trí công việc cũng được quy định cụ
thể về nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm, quyền lợi, tiêu chuẩn cần phải có để đảm nhận công việc theo
một trật tự thứ bậc và cũng là tiêu chuẩn để tuyển chọn người cho vị trí việc làm đó, giúp các nhà quản lý
có nhiều quyền hơn trong việc tuyển chọn hay thuê người vào làm việc, thậm chí được phép trả lương theo
cơ chế thị trường hoặc ký các hợp đồng ngắn hạn để lựa chọn được người giỏi vào làm việc trong các cơ
quan, tổ chức của hệ thống chính trị mà không bị ràng buộc bởi “chế độ công chức suốt đời”; việc xác định
chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức bộ máy của các cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị cũng được
xác định trên cơ sở vị trí việc làm của từng cơ quan, tổ chức; việc bố trí sử dụng công chức cũng được thực
hiện một cách khoa học, chặt chẽ hơn, khi công chức được giao đảm nhận công việc ở vị trí này mà có
nguyện vọng muốn được chuyển sang đảm nhận công việc ở vị trí khác đòi hỏi phải có những kiến thức, kỹ
năng thích ứng với vị trí việc làm mới, do đó sẽ không có sự đề bạt, thăng tiến theo bậc, ngạch hoặc theo
thâm niên như mô hình chức nghiệp hiện hành.
Từ các nội dung như đã phân tích ở trên cho thấy, quan điểm định hướng về "Mô hình và quy mô tổ

chức bộ máy phải phù hợp với tính chất, đặc điểm, chức năng, nhiệm vụ của từng cơ quan, đơn vị" trong
đổi mới, xắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị được đề ra tại Nghị quyết số 18-NQ/TW của
BCHTW Đảng khóa XII, có mối quan hệ biện chứng, mật thiết, không thể tách rời với việc đổi mới chế độ
công vụ, công chức và cũng là nhiệm vụ, giải pháp quan trọng để thực hiện việc tinh gọn tổ chức bộ máy,
nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị đáp ứng yêu cầu của việc xây dựng, hoàn
thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, hội nhập
quốc tế và các yêu cầu của cải cách nền hành chính nhà nước, cải cách chế độ công vụ, công chức./.


5

Câu 54 (40đ). Anh/chị hãy giải thích vì sao cán bộ, công chức không được tiết lộ
thông tin liên quan đến bí mật nhà nước dưới mọi hình thức như quy định của Luật Cán
bộ, công chức về những việc cán bộ, công chức không được làm. Liên hệ với thực tế cơ
quan hay địa phương nơi mình công tác để đề xuất biện pháp nhằm thực hiện tốt quy
định trên?
Trả lời: Bí mật Nhà nước là những tin về vụ, việc, tài liệu, vật, địa điểm, thời gian, lời
nói có nội dung quan trọng thuộc lĩnh vực chính trị, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, kinh tế,
khoa học, công nghệ, các lĩnh vực khác mà Nhà nước không công bố hoặc chưa công bố và
nếu bị tiết lộ thì gây nguy hại cho Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Nghĩa vụ
trong việc bảo vệ bí mật nhà nước đã được quy định cụ thể trong Pháp lệnh bảo vệ bí mật nhà
nước: “Cơ quan Nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, tổ chức
kinh tế, tổ chức khác, đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân đều có nghĩa vụ, trách nhiệm
bảo vệ bí mật Nhà nước. Nghiêm cấm mọi hành vi thu thập, làm lộ, làm mất, chiếm đoạt, mua
bán, tiêu hủy trái phép bí mật Nhà nước, lạm dụng bảo vệ bí mật Nhà nước để che giấu hành vi
vi phạm pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và công dân hoặc
làm cản trở việc thực hiện các kế hoạch Nhà nước. Việc tiếp xúc, bảo quản, cung cấp và xử lý
bí mật Nhà nước phải thực hiện theo quy định của Chính phủ”.
Để cụ thể hóa các quy định của Pháp lệnh bảo vệ bí mật nhà nước trong hoạt động công
vụ, Luật Cán bộ, công chức đã quy định cụ thể về những việc cán bộ, công chức không được

làm liên quan đến bí mật nhà nước; theo đó, tại Khoản 1, Điều 19, Luật Cán bộ, công chức đã
quy định: “cán bộ, công chức không được tiết lộ thông tin liên quan đến bí mật nhà nước dưới
mọi hình thức”. Đây vừa là quy định có tính bắt buộc phải thực hiện đối với mọi cán bộ, công
chức trong công tác bảo vệ bí mật nhà nước và cũng là nghĩa vụ của cán bộ, công chức trong
hoạt động công vụ và thực thi công vụ. Không được tiết lộ thông tin liên quan đến bí mật nhà
nước dưới mọi hình thức được hiểu là việc nghiêm cấm cán bộ, công chức dù vô tình hay cố ý
đã cung cấp thông tin hoặc do sơ suất trong công tác quản lý văn thư, lưu trữ; trong việc sử
dụng công nghệ thông tin, mạng internet, trong soạn thảo, ban hành các văn bản, trong việc
xuất bản các ấn phẩm, báo chí, tạp chí hoặc phát biểu trong các diễn đàn, hội thảo v.v... mà để
lộ, lọt những thông tin thuộc danh mục bảo vệ bí mật nhà nước chưa được công bố đều được
coi là các hành vi bị nghiêm cấm.
Mục đích của quy định này nhằm nâng cao tinh thần, ý thức trách nhiệm của cán bộ,
công chức trong việc chấp hành các quy định của pháp luật về bảo vệ bí mật nhà nước, về đạo
đức công vụ trong hoạt động công vụ và thực thi công vụ, bởi lẽ những thông tin liên quan đến
bí mật nhà nước nếu bị lộ lọt sẽ gây ra hậu quả rất lớn, không chỉ gây phương hại đến tình hình
kinh tế, chính trị, xã hội, quốc phòng, an ninh, đến lợi ích của quốc gia, dân tộc mà còn gây
khó khăn, ảnh hưởng đến công tác đối ngoại của Đảng và Nhà nước; gây khó khăn, cản trở cho
hoạt động công vụ và thực thi công vụ trong các cơ quan, tổ chức của hệ thống chính trị, tạo cơ
hội cho các phần tử xấu, các thế lực thù địch lợi dụng những thông tin thuộc danh mục bảo vệ
bí mật nhà nước chưa được công bố bị lộ, lọt để xuyên tạc, kích động, lôi kéo, gây chia rẽ nội
bộ, gây rối trật tự an ninh và trật tự an toàn xã hội và thực hiện âm mưu diễn biến hòa bình,
bạo loạn lật đổ để chống phá Đảng và Nhà nước ta.
Liên hệ với thực tế ở cơ quan tôi trong việc thực hiện quy định trên cho thấy: Với
trách nhiệm là cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh, cơ quan tôi đã triển khai thực hiện
nghiêm túc các quy định của pháp luật về bảo vệ bí mật nhà nước trong cơ quan. Đã thường
xuyên quán triệt, tuyên truyền, phổ biến cho cán bộ, công chức các văn bản có liên quan đến
bảo vệ bí mật nhà nước như: Pháp lệnh Bảo vệ bí mật nhà nước; Nghị định số 33/2002/NĐ-CP
ngày 28/3/2002 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh bảo vệ bí
mật nhà nước; Thông tư số: 12/2002/TT-BCA(A11) ngày 13 tháng 9 năm 2002 của Bộ Công
an hướng dẫn thực hiện nghị định số 33/2002/NĐ-CP ngày 28 tháng 3 năm 2002 của Chính

phủ quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh bảo vệ bí mật nhà nước; Chỉ thị số 05/CT-TTg ngày
21/02/2012 của Thủ tướng Chính phủ vê nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác bảo vệ bí mật


6

nhà nước trong tình hình mới; Chỉ thị số 28- CT/TW ngày 16/9/2013 của Ban Bí thư Trung
ương về tăng cường công tác bảo đảm an toàn thông tin mạng cũng như các quy chế, quy định,
các văn bản hướng dẫn, chỉ đạo của UBND tỉnh có liên quan đến bảo vệ bí mật nhà nước. Đã
ban hành và triển khai thực hiện đầy đủ các quy chế, quy định của cơ quan; đặc biệt là việc xây
dựng, hoàn thiện các quy chế, quy định để cụ thể hóa các quy định của pháp luật có liên quan
đến bảo vệ bí mật nhà nước cho phù hợp với quy định của pháp luật trong tình hình mới và
chức năng, nhiệm vụ của cơ quan; cụ thể là đã ban hành và triển khai thực hiện tốt các quy
chế, quy định: Quy chế bảo vệ bí mật nhà nước; Quy chế đảm bảo an toàn, an ninh mạng và an
ninh thông tin; Quy chế quản lý, khai thác và sử dụng hệ thống công nghệ thông tin; Quy chế
quản lý văn thư, lưu trữ; Quy chế phát ngôn; Quy chế về việc kiểm duyệt nội dung, cung cấp
tin bài, hình ảnh đăng tải trên trang thông tin điện tử (trang Web) của cơ quan. Nội dung các
quy chế, quy định của cơ quan tôi cũng đã quy định cụ thể về danh mục bí mật nhà nước có
liên quan đến chức năng, nhiệm vụ của cơ quan; quy định cụ thể về việc soạn thảo, sao, chụp,
in ấn, phổ biến, giao nhận, lưu trữ, thống kê, sử dụng, cung cấp, bảo quản, vận chuyển, tiêu
hủy tài liệu, vật mang bí mật nhà nước của cơ quan.
Cùng với việc ban hành, triển khai thực hiện các quy chế, quy định nêu trên, cơ quan tôi
đã thành lập Ban Chỉ đạo thực hiện bí mật nhà nước và phân công nhiệm vụ cụ thể cho từng
thành viên trực tiếp theo dõi, chỉ đạo từng lĩnh vực công tác có liên quan đến danh mục bí mật
nhà nước của cơ quan; tổ chức cho cán bộ, công chức, viên chức ký cam kết thực hiện các quy
chế, quy định có liên quan đến bảo vệ bí mật nhà nước; đã thực hiện tốt việc kiểm tra, đôn đốc,
theo dõi, tổng hợp kết quả thực hiện để báo cáo UBND tỉnh, Công an tỉnh theo quy định; định
kỳ hàng năm đã tổ chức sơ kết, tổng kết, đánh giá tình hình thực hiện và đề ra các giải pháp để
đảm bảo thực hiện tốt công tác bảo vệ bí mật nhà nước. Nhìn công tác bảo vệ bí mật nhà nước
của cơ quan tôi đã được triển khai thực hiện nghiêm túc theo đúng quy định của pháp luật,

chưa để xẩy ra vụ việc nào về lộ lọt thông tin, không có cán bộ, công chức nào vi phạm các
nội dung đã được quy định trong các quy chế, quy định của cơ quan, nhiều năm liên tục cơ
quan tôi đã được UBND tỉnh tặng Bằng khen về thành tích xuất sắc trong công tác bảo vệ bí
mật nhà nước.
Để thực hiện tốt các quy định về bảo vệ bí mật nhà nước ở cơ quan tôi trong thời
gian tới, tôi xin đề xuất một số giải pháp sau:
Một là, Phải thường xuyên quán triệt, tuyên truyền, phổ biến giáo dục cho cán bộ, công
chức trong việc chấp hành các quy định của pháp luật về những vấn đề có liên quan đến công
tác bảo vệ bí mật nhà nước, các quy định về đạo đức công vụ nhằm nâng cao tinh thần, ý thức
trách nhiệm của cán bộ, công chức trong công tác bảo vệ bí mật nhà nước trong hoạt động
công vụ và thực thi công vụ.
Hai là, Phải thường xuyên rà soát, kiểm tra, hoàn thiện, hệ thống hóa các văn bản quy
phạm pháp luật về bảo vệ bí mật nhà nước; các quy chế, quy định của cơ quan có liên quan đến
công tác bảo vệ bí mật nhà nước đã ban hành, kịp thời phát hiện những nội dung còn bất hợp
lý, không còn phù hợp với quy định của pháp luật để sửa đổi, bổ sung, thay thế hoặc hủy bỏ.
Ba là, Phải tăng cường thanh tra, kiểm tra, giám sát, đánh giá kết quả hoạt động công
vụ, thực thi công vụ và việc chấp hành các quy định của pháp luật về bảo vệ bí mật nhà nước
của các Phòng, Ban nói chung, của cán bộ, công chức nói riêng để kịp thời chấn chỉnh và xử lý
các sai phạm nếu có.
Bốn là, Phải thường xuyên mở các lớp tập huấn, bồi dưỡng kiến thức về bảo vệ bí mật
nhà nước cho cán bộ, công chức nói chung, cán bộ, công chức trực tiếp làm việc trong các lĩnh
vực có liên quan đến danh mục bảo vệ bí mật nhà nước của cơ quan nói riêng.
Năm là, Phải quan tâm hơn nữa tới việc đầu tư cơ sở vật chất phục vụ cho công tác bảo
vệ bí mật nhà nước của cơ quan như: tủ lưu giữ tài liệu, máy vi tính không kết nối mạng
Internet dành riêng cho việc soạn thảo, in ấn các các văn bản, tài liệu nội dung có liên quan
đến danh mục bảo vệ bí mật nhà nước của cơ quan/.


7


Câu 55 (30đ). Theo Anh/chị, nhiệm vụ đề cao trách nhiệm và đạo đức công vụ,
trách nhiệm xã hội, siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong chỉ đạo, điều hành và thực thi công
vụ của cán bộ, công chức" trong kế hoạch cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 20162020 ban hành theo quyết định số 225/QĐ-TTg ngày 04 tháng 02 năm 2016 của Thủ
tướng Chính phủ có ý nghĩa như thế nào đối với công chức hành chính nhà nước ở Việt
Nam. Liên hệ với vị trí công tác mà mình đang đảm nhận, anh/chị hãy đưa ra biện pháp
chủ yếu để thực hiện có kết quả nhiệm vụ trên?
Trả lời: Trách nhiệm công vụ của cán bộ, công chức hay còn gọi là nghĩa vụ công vụ
của cán bộ, công chức là những gì mà cán bộ, công chức phải tuân thủ, phải nghiêm chỉnh thực
hiện, là bổn phận của cán bộ, công chức trong hoạt động công vụ và thực thi công vụ. Trách
nhiệm công vụ của cán bộ, công chức được pháp luật quy định mang tính bắt buộc, mang tính
đơn phương và tính phải thi hành, sự vi phạm trách nhiệm của cán bộ, công chức trong hoạt
động công vụ và thi hành công vụ cũng được xử lý theo quy định của pháp luật, không thể tùy
nghi. Trách nhiệm công vụ của cán bộ, công chức do đạo đức công vụ điều chỉnh, được nhà
nước và pháp luật bảo vệ.
Việc đề cao trách nhiệm và đạo đức công vụ, trách nhiệm xã hội, siết chặt kỷ luật, kỷ
cương trong chỉ đạo, điều hành và thực thi công vụ của cán bộ, công chức vừa là cơ sở để
nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động công vụ, vừa có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với
đội ngũ công chức hành chính ở nước ta hiện nay:
Một là, Nâng cao được tinh thần, ý thức trách nhiệm của cán bộ, công chức trong việc
chấp hành các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước, trong việc
thực hiện quyền và nghĩa vụ của cán bộ, công chức; trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ công
tác được giao, cũng như bổn phận phải thực hiện các quyền và nghĩa vụ đó.
Hai là, Nâng cao được trách nhiệm của cán bộ, công chức trong việc chủ động xây
dựng chương trình, kế hoạch và tìm ra các giải pháp để thực hiện đúng, đầy đủ và chịu trách
nhiệm về kết quả thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được giao; trong việc chấp hành kỷ luật, kỷ
cương hành chính, các nội quy, quy chế, quy định của cơ quan, trong việc phối hợp chặt chẽ
với các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan để thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao.
Ba là, Nâng cao được tinh thần, ý thức trách nhiệm của cán bộ, công chức trong việc
chấp hành các nội quy, quy chế của cơ quan, các quy định về bảo vệ bí mật nhà nước, về bảo
vệ, quản lý và sử dụng hiệu quả, tiết kiệm tài sản nhà nước được giao; trong việc đấu tranh,

phát hiện, phòng ngừa các hành vi vi phạm pháp luật trong cơ quan v.v…
Bốn là, Nâng cao được tinh thần, ý thức trách nhiệm của cán bộ, công chức trong việc
chấp hành các nguyên tắc trong hoạt động công vụ, trong thi hành công vụ, trong việc chấp
hành các quyết định và sự chỉ đạo của cấp trên, của người có thẩm quyền theo thứ bậc hành
chính.
Năm là, Nâng cao được tinh thần, ý thức trách nhiệm của cán bộ, công chức trong việc
thực hiện các quy định về những việc cán bộ, công chức không được làm liên quan đến đạo
đức công vụ như: Trốn tránh trách nhiệm, thoái thác nhiệm vụ được giao; gây bè phái, mất
đoàn kết; tự ý bỏ việc hoặc tham gia đình công; sử dụng tài sản của Nhà nước và của nhân dân
trái pháp luật; lợi dụng, lạm dụng nhiệm vụ, quyền hạn; sử dụng thông tin liên quan đến công
vụ để vụ lợi; phân biệt đối xử dân tộc, nam nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo dưới
mọi hình thức v.v…
Sáu là, Nâng cao được tinh thần, ý thức trách nhiệm của người đứng đầu trong chỉ đạo,
điều hành, tổ chức thực hiện nhiệm vụ; trong việc kiểm tra, đôn đốc, hướng dẫn việc thi hành
công vụ của cán bộ, công chức; trong việc tổ chức thực hiện các biện pháp phòng, chống quan
liêu, tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; trong việc xử lý cán bộ, công chức
thuộc quyền quản lý có hành vi vi phạm kỷ luật, pháp luật, có thái độ quan liêu, hách dịch, cửa
quyền, gây phiền hà cho công dân; trong việc giải quyết hoặc kiến nghị cơ quan có thẩm quyền
giải quyết khiếu nại, tố cáo và kiến nghị của cá nhân, tổ chức v.v….


8

Liên hệ với việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ của bản thân tôi trong thời gian qua
cho thấy: Căn cứ các quy định về quyền và nghĩa vụ của cán bộ, công chức; các quy định trong
các quy chế, quy định của cơ quan. Bản thân tôi đã tự ý thức được quyền và nghĩa vụ của mình
trong hoạt động công vụ và thực thi công vụ. Với trách nhiệm công vụ được giao theo vị trí
việc làm, bản thân đã chấp hành nghiêm túc các quy chế, quy định của cơ quan, chủ động
nghiên cứu, triển khai thực hiện đúng, đủ, kịp thời các nhiệm vụ công tác theo đúng thẩm
quyền, trách nhiệm, trình tự giải quyết công việc; đã phối hợp chặt chẽ với cán bộ, công chức

trong cơ quan trong việc triển khai thực hiện những nhiệm vụ công tác có liên quan với tinh
thần dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, không đùn đẩy, né tránh trách nhiệm; đã chấp
hành nghiêm túc sự chỉ đạo điều hành của cấp trên, của người có thẩm quyền theo thứ bậc
hành chính, đã kịp thời báo cáo, xin ý kiến của người có thẩm quyền đối với những vấn đề
phát sinh trong thi hành công vụ hoặc vượt quá thẩm quyền, trách nhiệm được giao theo vị trí
việc làm đã được phân công; đã thực hiện nghiêm túc các quy định về những việc cán bộ,
không chức không được làm liên quan đến đạo đức công vụ, đặc biệt là việc chấp hành các quy
định về văn hóa trong giao tiếp với cấp trên, với đồng nghiệp, với nhân dân; kết quả đánh giá
xếp loại hàng năm bản thân tôi đều được đánh giá, xếp loại hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Bên
cạnh những kết quả đã đạt được, trong từng lúc, từng việc, bản thân còn có sự chậm chễ, chưa
đảm bảo đúng tiến độ trong xử lý một số công việc cụ thể, còn để quá hạn và bỏ sót một số
nhiệm vụ tuy không nhiều nhưng đã được bản thân rút kinh nghiệm, khắc phục kịp thời.
Để nâng cao hiệu lực hiệu quả hoạt động của cơ quan tôi trong thời gian tới, tôi xin
đề xuất một số giải pháp sau:
Một là, Phải thường xuyên quán triệt, triển khai thực hiện nghiêm túc các quy định của
pháp luật về những vấn đề có liên quan đến cán bộ, công chức, về trách nhiệm công vụ của cán
bộ, công chức cho cán bộ, công chức trong cơ quan, gắn với việc tăng cường các biện pháp
quản lý đảm bảo kỷ luật, kỷ cương hành chính và phải được cụ thể hóa trong các quy chế, quy
định của cơ quan.
Hai là, Phải nắm vững các nguyên tắc cơ bản trong hoạt động công vụ và thực thi công
vụ, thực hiện công khai, minh bạch, kịp thời các hoạt động công vụ, quyền và nghĩa vụ của cán
bộ, công chức trong thi hành công vụ; các quy trình, thủ tục trong việc giải quyết các thủ tục
hành chính có liên quan đến chức năng, nhiệm vụ của cơ quan, của cán bộ, công chức theo
từng vị trí việc làm.
Ba là, Phải thực hiện nghiêm túc chế độ trách nhiệm công vụ của cán bộ, công chức
trong hoạt động công vụ và thực thi công vụ với những tiêu chí cụ thể, đặc biệt là trách nhiệm
của Thủ trưởng cơ quan trong công tác chỉ đạo, điều hành các hoạt động công vụ, gắn với việc
tăng cường thanh tra, kiểm tra, giám sát các hoạt động công vụ, trách nhiệm của cán bộ, công
chức trong thi hành công vụ.
Bốn là, Phải thực hiện đồng bộ, có hiệu quả các nội dung của chương trình, kế hoạch

cải cách hành chính, đặc biệt là nội dung về nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức,
gắn với triển khai thực hiện nghiêm túc có hiệu quả các Nghị quyết của Bộ Chính trị, của Ban
Chấp hành Trung ương Đảng, đặc biệt là Nghị quyết số 39-NQ/TW của Bộ Chính trị về tinh
giản biên chế và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức; Nghị quyết 18-NQ/TW của
Ban Chấp hành Trung ương Đảng về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống
chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả.
Năm là, Mỗi cán bộ, công chức trong cơ quan phải luôn đề cao tính tiên phong, gương
mẫu, tự giác chấp hành và thực hiện tốt các nhiệm vụ công tác được giao theo từng vị trí việc
làm; nêu cao tinh thần, ý thức trách nhiệm trong học tập, rèn luyện, giữ gìn phẩm chất đạo đức,
lối sống, nâng cao năng lực thực thi công vụ, tích cực học tập và làm theo tấm gương đạo đức,
phong cách Hồ chí Minh./.


9

Câu 56 (30đ). Các hình thức kết hợp quản lý nhà nước theo ngành với quản lý
theo lãnh thổ? Nội dung kết hợp quản lý theo ngành và quản lý theo lãnh thổ? Liên hệ
thực tiễn nơi đơn vị đồng chí công tác?
Trả lời: Kết hợp quản lý theo ngành với quản lý theo lãnh thổ là một trong những
nguyên tắc cơ bản của quản lý hành chính nhà nước và cũng là nguyên tắc mang đặc tính tổ
chức kỹ thuật trong hoạt động quản lý nhà nước.
Kết hợp quản lý theo ngành với quản lý theo lãnh thổ là sự phối kết hợp giữa các ngành
với các địa phương khi cùng nhau giải quyết những vấn đề cụ thể của ngành, của địa phương
và của vùng nhằm đảm bảo sự cân đối, hợp lý phát triển, tạo ra sự ăn khớp về quy hoạch phát
triển giữa ngành với địa phương và phát huy cao độ nhất hiệu quả sử dụng nguồn lực của Nhà
nước, của từng vùng kinh tế, từng địa phương trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, bảo
đảm thống nhất lợi ích quốc gia và lợi ích từng địa phương trong sự phát triển một cách có lợi
nhất những lợi thế của địa phương.
Việc kết hợp quản lý nhà nước theo ngành với quản lý theo lãnh thổ được thể hiện trong
việc tổ chức điều hòa, phối hợp các hoạt động của ngành với các cấp quản lý, các thành phần

kinh tế và các tổ chức theo một cơ cấu hợp lý nhất, có hiệu quả nhất, vừa bảo đảm cho việc
thực hiện công tác quản lý trên toàn lãnh thổ quốc gia, vừa đảm bảo cho việc thực hiện công
tác quản lý của từng địa phương, từng vùng, kết hợp hài hòa giữa lợi ích chung của Nhà nước
với lợi ích riêng của từng địa phương, từng vùng, vừa cung cấp dịch vụ công, cơ sở hạ tầng,
phục vụ các hoạt động của tất cả các đơn vị nằm trên lãnh thổ, bất kể đó là doanh nghiệp hay
cơ quan của trung ương, địa phương; bảo vệ tài nguyên, môi trường, an ninh, trật tự công cộng,
phục vụ đời sống dân cư.
Việc kết hợp quản lý nhà nước theo ngành với quản lý theo lãnh thổ là sự kết nối, hợp
tác, hỗ trợ của các cơ quan trong bộ máy nhà nước để đạt được sự đồng thuận, bổ khuyết
những thiếu sót cho nhau, giữa một bên là cơ quan quản lý tổng hợp, không có chuyên môn
sâu với cơ quan chuyên ngành, có khả năng phân tích, đánh giá, giám sát về tiêu chuẩn kỹ
thuật.
Hình thức và mức độ kết hợp quản lý theo ngành với quản lý theo lãnh thổ được thể
hiện dưới dạng: đồng quản (quản lý theo các quyết định liên tịch), hiệp quản (cùng ra quyết
định quản lý nhưng có sự thương lượng, trao đổi, bàn bạc) hoặc tham quản (ra quyết định phải
có tham khảo ý kiến của cơ quan khác).
Nội dung của việc kết hợp quản lý theo ngành với quản lý theo lãnh thổ bao gồm các
nội dung cụ thể sau đây:
Một là, Xây dựng thể chế về kết hợp quản lý theo ngành với quản lý theo lãnh thổ: Đây
là một trong những nội dung quan trọng nhằm tạo ra các quy định pháp luật, xác định các chủ
thể tham gia phối, kết hợp quản lý theo ngành với quản lý theo địa phương và phương thức
thực hiện sự phối, kết hợp trong quản lý.
Hai là, Xác định phương thức kết hợp quản lý theo ngành với quản lý theo lãnh thổ:
Sau khi xác định phạm vi công việc cần có các cơ quan tham gia phối, kết hợp quản lý, cơ
quan chủ trì là địa phương hoặc bộ quản lý ngành sẽ lựa chọn phương thức phối hợp; nếu nội
dung công việc cần phối hợp là vấn đề xây dựng chính sách, đề án thì phương thức phối hợp
có thể là: lấy ý kiến bằng văn bản; tổ chức họp; khảo sát điều tra; lập tổ chức phối hợp liên cơ
quan; cung cấp thông tin theo yêu cầu của cơ quan chủ trì hoặc cơ quan phối hợp và thông tin
cho cơ quan phối hợp về những vấn đề có liên quan đến chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của
cơ quan đó. Nếu công việc cần thực hiện phối hợp là kiểm tra chính sách, đề án thì phương

thức phối hợp có thể là: tổ chức đoàn kiểm tra; lấy ý kiến về các vấn đề có liên quan đến nội
dung kiểm tra; làm việc trực tiếp với cơ quan kiểm tra; cung cấp và thẩm tra thông tin cần
thiết; sơ kết, tổng kết việc thực hiện chính sách.
Ba là, Xác định thẩm quyền và phạm vi trách nhiệm của cơ quan quản lý theo ngành và
theo lãnh thổ: việc xác định thẩm quyền và phạm vi trách nhiệm của cơ quan quản lý theo
ngành và theo lãnh thổ tùy thuộc vào công việc cụ thể; có những công việc do cơ quan quản lý


10

ngành chủ trì, phối, kết hợp, có những công việc do địa phương chủ trì. Cơ quan chủ trì sẽ
đồng thời là cơ quan ra quyết định ban hành quy chế tổ chức và phối hợp hoạt động quản lý.
Việc xác định quyền hạn, trách nhiệm của từng cơ quan được quy định trong quy chế tổ chức
hoạt động phối hợp quản lý do cơ quan chủ trì ban hành. Thẩm quyền của các cơ quan thực
hiện phối, kết hợp quản lý xuất phát từ vai trò của mỗi cơ quan đối với công việc cần kết hợp.
Hình thức của thẩm quyền và trách nhiệm của các cơ quan trong phối, kết hợp quản lý được
thể hiện dưới dạng: hướng dẫn, thông báo, báo cáo, cung cấp thông tin, đóng góp ý kiến bằng
văn bản hay ra quyết định.
Bốn là, Xác định nguồn lực để bảo đảm thực hiện các hoạt động kết hợp quản lý nhà
nước theo ngành với quản lý theo lãnh thổ: sau khi xác định được công việc cần có sự kết hợp
quản lý của ngành với địa phương, cơ quan chủ trì phải dự liệu và chuẩn bị các điều kiện về
nguồn nhân lực, tài chính, cơ sở vật chất, phương tiện kỹ thuật, truyền thông,... để triển khai
công việc.
Năm là, Đôn đốc thực hiện, kiểm tra và xử lý vi phạm trong hoạt động kết hợp quản lý
nhà nước theo ngành với quản lý theo lãnh thổ: Đôn đốc, kiểm tra là hoạt động thường xuyên
của các cơ quan chủ trì và các cơ quan phối hợp. Hoạt động này nhằm đánh giá khả năng và ý
thức thực thi pháp luật về phối, kết hợp quản lý theo ngành với quản lý theo địa phương, phát
hiện và tháo gỡ kịp thời những vướng mắc, thúc đẩy, động viên tinh thần làm việc cho các cán
bộ, công chức hoàn thành tốt việc phối hợp quản lý. Bên cạnh việc đôn đốc, thúc đẩy tinh thần
làm việc là các biện pháp xử lý vi phạm của các cơ quan chủ trì và cơ quan tham gia phối hợp

để đảm bảo trật tự, kỷ cương trong quản lý nhà nước.
Liên hệ với thực tiễn việc quản lý theo ngành kết hợp với quản lý theo lãnh thổ tại cơ
quan tôi cho thấy: Để có sự kết hợp chặt chẽ giữa việc việc quản lý nhà nước theo ngành với
việc quản lý theo lãnh thổ, căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ được giao, trên cơ sở các quy định
hiện hành của Đảng và nhà nước, cơ quan tôi đã tham mưu cho UBND tỉnh ban hành các văn
bản quy định về phân cấp quản lý cho các cấp, các ngành đối với những lĩnh vực công tác có
liên quan đến nhiều cấp, nhiều ngành và hướng dẫn, chỉ đạo các cấp, các ngành trong tỉnh triển
khai thực hiện việc phân cấp. Nội dung các văn bản hướng dẫn, chỉ đạo của UBND tỉnh do cơ
quan tôi tham mưu đã xác định rõ thẩm quyền, trách nhiệm của từng cấp, từng ngành, từng cơ
quan, đơn vị trong việc triển khai thực hiện các nhiệm vụ được phân cấp, đồng thời cơ quan tôi
đã phối hợp chặt chẽ với các cấp, các ngành trong việc tăng cường kiểm tra, giám sát việc thực
hiện. Thông qua việc phân cấp vừa đảm bảo cho việc thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của
ngành, vừa đảm bảo được quyền chủ động, sáng tạo của các cấp, các ngành trong việc thực
hiện mục tiêu chung và các nhiệm vụ được phân cấp.
Để thực hiện tốt quản lý theo ngành, kết hợp với quản lý theo lãnh thổ tôi xin đề xuất một
số giải pháp sau:
Một là, Tiếp tục rà soát, tham mưu cho UBND tỉnh sửa đổi, bổ sung các quy định về
phân cấp quản lý cho phù hợp với quy định của pháp luật và thực tiễn của ngành, của địa
phương; ban hành các văn bản hướng dẫn, chỉ đạo các cơ quan, đơn vị trong tỉnh triển khai
thực hiện các nhiệm vụ đã được phân cấp, gắn với tăng cường công tác hướng dẫn, chỉ đạo,
điều hành, kiểm tra, thanh tra, giám sát việc thực hiện ở tất cả các cấp, các ngành trong tỉnh.
Hai là, Phải tiếp tục đẩy mạnh công tác thông tin tuyên truyền để nâng cao nhận thức
của cán bộ, công chức, viên chức trong quá trình triển khai thực hiện chức năng, nhiệm vụ
được giao gắn với tăng cường kỷ luật, kỷ cương hành chính trong các cơ quan, đơn vị, trong
mỗi cán bộ, công chức, viên chức.
Ba là, Để việc xây dựng và triển khai thực hiện các lĩnh vực công tác của ngành đạt
hiệu quả, đòi hỏi các cấp, các ngành, các cơ quan, đơn vị phải có sự phối hợp đồng bộ trong
quá trình triển khai thực hiện theo sự phân công, phân cấp của UBND tỉnh./.



11

Câu 57 (30đ). Trình bày kỹ năng phối hợp trong hoạt động công vụ? Phân tích cơ
cấu tổ chức của đơn vị dưới góc độ phân công công việc?
Trả lời: Phối hợp trong hoạt động công vụ là nhằm đảm bảo cho các nỗ lực mà mỗi cá
nhân, đơn vị bỏ ra được huy động theo một hướng thống nhất và cũng là cơ chế đảm bảo sự hợp
tác giữa các chủ thể trong tổ chức nhằm thực hiện mục tiêu chung; là quá trình liên kết các hoạt
động của các cán bộ, công chức, các cơ quan hành chính, các tổ chức xã hội một cách có ý thức và
có kế hoạch nhằm thực hiện mục tiêu chung theo phương pháp can thiệp đã được thống nhất trước;
là cơ sở để thiết lập quan hệ hợp tác giữa các chủ thể, chống lại bệnh cục bộ, đảm bảo cho các chủ
thể hoạt động nhịp nhàng, ăn khớp với nhau.
* Kỹ năng phối hợp trong hoạt động công vụ được thực hiện thông qua các hình thức:
- Phối hợp theo chiều dọc (giữa cấp trên và cấp dưới): là hình thức phối hợp mang tính thứ
bậc trong quan hệ hành chính, thể hiện quyền lực của cấp trên đối với cấp dưới, được bảo đảm
bằng các quy định hành chính. Cơ chế chi phối quan hệ tương tác giữa các cấp này là quan hệ
phục tùng, chỉ huy, phân chia thẩm quyền và quy định rõ ràng.
- Phối hợp theo chiều ngang (giữa các cơ quan đồng cấp): là hình thức phối hợp và quản lý
một loạt các hoạt động giữa hai hay nhiều đơn vị tổ chức không chịu sự kiểm soát mang tính thứ
bậc lẫn nhau với mục đích tạo ra các kết quả mà họ không thể đạt được khi làm việc cá nhân, đơn
lẻ.
- Phối hợp bên trong và phối hợp bên ngoài. Phối hợp bên trong là sự phối hợp giữa các
đơn vị, cá nhân trong cùng cơ quan. Phối hợp với bên ngoài là sự phối hợp thực hiện công việc
phát sinh giữa các cơ quan, bộ phận khác nhau.
Cơ cấu tổ chức của đơn vị dưới góc độ phân công công việc được hiểu là việc phân chia
các hoạt động cho các đơn vị, cá nhân khác nhau để nhằm đạt được hiệu suất cao hơn. Phân công
công việc hợp lý sẽ tạo được tính thống nhất trong một guồng máy nhất định theo quy chế hoạt
động của từng đơn vị, đảm bảo cho bộ máy đó hoạt động một cách suôn sẻ và đạt tới mục tiêu xây
dựng một bộ máy quản lý tinh gọn và có hiệu lực, giúp cho mỗi tập thể, mỗi cá nhân chuyên tâm
vào công việc được phân công, góp phần tăng hiệu suất lao động của tổ chức.
Việc phân công công việc theo cơ cấu tổ chức của đơn vị giúp cho mỗi ngành được hoàn

toàn tự chủ, tương ứng với một đơn vị trên phương diện pháp lý. Đây là cơ cấu mang tính phân
quyền tương đối cao, bởi lẽ người phụ trách đơn vị là người chịu trách nhiệm về sản phẩm, thị
trường và khu vực của mình. Ban lãnh đạo cấp cao giữ quyền đưa ra các quyết định mang tính
chiến lược, ủy quyền đối với các trách nhiệm liên quan đến tác nghiệp. Với cách phân công công
việc như vậy thì trách nhiệm của cấp trên trở nên nặng nề, cơ cấu cồng kềnh, khó quản lý trên tất
cả các phương diện và thiếu tính linh hoạt. Việc phân công công việc theo cách này được thực hiện
theo các hình thức sau:
Một là, Phân công công việc theo dựa trên cả chức năng và đơn vị: Đây là việc phân công
công việc mang tính chất cơ cấu tổng hợp được thiết kế vừa theo chức năng và vừa theo ngành
nghề, vừa mang tính tập trung, vừa mang tính phân quyền, bao gồm các đơn vị mang tính chức
năng và các lãnh đạo phụ trách sản phẩm, nhằm mục đích tối ưu hóa việc sử dụng nguồn lực dành
cho mỗi chức năng và một phương thức phối hợp theo chiều ngang đảm bảo sự vận hành trôi chảy
của các chức năng khác nhau tham gia vào cùng một dòng chảy hoạt động. Ưu điểm của việc phân
công này được thực hiện rất linh hoạt, có khả năng phối hợp khi những hoạt động phức tạp và
mang tính tương tác được tổ chức trong đơn vị; tuy nhiên, về nhược điểm, nó sẽ tạo ra sự lộn xộn,
khuynh hướng thúc đẩy tranh giành quyền lực và tạo sự căng thẳng cho mỗi cá nhân, có nguy cơ
dẫn đến xung đột. Vì vậy, để có thể vận hành được, cần phải tổ chức tốt cơ chế phối hợp, giao tiếp
cũng như phân cấp trách nhiệm.
Hai là, Phân công công việc theo cơ cấu dự án: Đây là hình thức phân công cho phép huy
động các cá nhân, đơn vị làm việc với nhau bên ngoài hệ thống thứ bậc thông thường trong thời
gian thực hiện dự án, tạo sự linh hoạt trong hoạt động của các dự án đồng thời vẫn đảm bảo những
công việc thường xuyên của tổ chức. Các dự án nhỏ này cho phép tổ chức cải thiện chất lượng và
thích ứng một cách linh hoạt hơn với nhu cầu của khách hàng. Các nhóm làm việc nhỏ như vậy
cũng có thể được xây dựng trong khuôn khổ các hoạt động làm giàu cho công việc, tránh tình


12

trạng phân công công việc mang tính chuyên môn hóa quá cao theo mô hình Tay lo. Việc
phân công công việc này được thực hiện dưới các hình thức:

- Phân công công việc theo chuyên môn hóa lao động: Đây là hình thức phân công công
việc được thực hiện thông qua những thao tác lặp đi lặp lại dẫn đến khả năng chuyên môn hóa cao,
cải thiện năng suất lao động, nhưng dễ dẫn đến sự nhàm chán, mất động lực làm việc, mất tinh
thần đồng đội và cuối cùng, dẫn đến giảm hiệu suất lao động.
- Phân công công việc theo chuẩn mực hóa các thao tác và tiêu chuẩn hóa công việc: Đây
là hình thức phân công công việc làm tăng hiệu quả công việc, nhưng có nhược điểm là người lao
động không có quyền tự chủ trong thực thi công việc mà chỉ thực hiện lặp đi lặp lại theo mô hình
mẫu, cho phép đảm bảo kết quả lao động ở mức tối đa.
- Phân công công việc một cách đa năng: Đây là hình thức phân công mà người lao động
được thực hiện các công việc khác nhau, được tham gia vào các quyết định, được đưa ra sáng kiến
và có thể được luân chuyển vào các vị trí làm việc khác nhau để tránh nhàm chán và mất động lực
làm việc; người lao động có thể biết được các thành viên khác trong nhóm và có cái nhìn tổng thể
đối với hoạt động của tổ chức, góp phần mang lại ý nghĩa cho công việc của người lao động, cải
thiện trình độ chuyên môn và mở ra cho họ những cơ hội phát triển sự nghiệp. Phân công công
việc theo hướng đa năng cho phép đáp ứng nhu cầu nhân lực của tổ chức, đơn vị trong những thời
điểm khác nhau. Tuy nhiên, hình thức phân công công việc này có thể làm cho người lao động
không thành thục trong công việc, và vì vậy, làm giảm hiệu quả lao động.
Câu 58 (30đ). Tại sao phải có kỹ năng đánh giá thực thi công vụ? Hạn chế trong đánh
giá thực thi công vụ hiện nay, nguyên nhân và giải pháp?
Trả lời: Đánh giá thực thi công vụ thực chất là đánh giá việc thực thi công việc của công
chức trong các cơ quan nhà nước; là quá trình xem xét có hệ thống và chính thức việc thực hiện
công việc của công chức dựa trên các tiêu chí/chỉ số đánh giá đã được xác định trước, bằng các
phương pháp đánh giá phù hợp để nói lên quá trình làm việc, kết quả làm việc của công chức; là
hoạt động nhằm đo lường và đưa ra những kết luận có liên quan đến việc thực thi công vụ của
công chức; là khâu nền tảng trong quá trình quản lý việc thực thi công vụ của công chức.
Thông qua việc đánh giá các nhà quản lý sẽ biết được tình hình thực thi công vụ của cán
bộ, công chức, để có những biện pháp can thiệp phù hợp nhằm đảm bảo thực hiện được mục
tiêu/kết quả đã đề ra và cũng là thông tin cần thiết giúp cho việc ban hành các quyết định chính
sách, chương trình, các quyết định về quản lý nhân sự và các quyết phân bổ nguồn lực trong cơ
quan, tổ chức; đánh gía thực thi công vụ còn là cơ sở để xây dựng kế hoạch, mục tiêu của tổ chức

ở chu trình sau và cũng là căn cứ phản ánh tình hình thực thi công vụ của công chức giúp cho tổ
chức và cá nhân công chức điều chỉnh quá trình thực thi công vụ sao cho đạt hiệu quả thực thi
công vụ với mức cao nhất.
Việc đánh giá thực thi công vụ cần phải có những kỹ năng cần thiết bởi lẽ: Trong hoạt
động công vụ, việc lựa chọn mục tiêu phù hợp và sử dụng phương thức đánh giá hiệu quả sẽ nâng
cao chất lượng việc thực thi công vụ của công chức và đánh giá công chức một cách chính xác
(hướng đến mục tiêu). Việc thiết lập mục tiêu đánh giá rõ ràng sẽ giúp cho công chức tập trung vào
các nhiệm vụ cụ thể nhằm hướng đến mục tiêu của tổ chức, giúp công chức cảm nhận được nỗ lực
trong công việc của họ được ghi nhận và họ được đánh giá; đây cũng là công cụ giúp cho công
chức có cơ hội nhận biết những điểm yếu, những vấn đề còn tồn tại và đưa ra giải pháp để đạt
được mục tiêu và sẽ được đánh giá cao hơn.
Việc xác định mục tiêu thực thi công vụ của công chức cũng chính là mục tiêu mà các chủ
thể đánh giá sẽ tập trung vào đánh giá nhằm bảo đảm cho công chức thấy được sự đóng góp của
mình là phù hợp với mục tiêu tổng thể của cơ quan, tổ chức; giúp công chức hiểu rõ hơn mục tiêu
và vai trò của họ trong tổ chức; giúp công chức nhận biết được họ được đánh giá; tạo ra các tiêu
chuẩn để đo lường số lượng, chất lượng công việc của công chức; là công cụ để giám sát sự thành
công của tổ chức và xác định cách thức điều hành hoạt động của tổ chức để đạt hiệu quả cao nhất.
Việc đánh giá đối với cá nhân sẽ giúp họ nhận thức và gắn bó nhiều hơn với công việc đang
làm; định hướng và kích thích họ thể hiện tốt hơn nữa trong quá trình thực thi công vụ để đạt được
thành tích cao hơn, đồng thời đáp ứng được những thông tin cụ thể veefb kết quả thực thi công vụ


13

của cán bộ, công chức làm cơ sở cho việc bình xét khen thưởng và sự thăng tiến của cán bộ,
công chức.
Việc đánh giá đối với cơ quan, tổ chức phụ thuộc vào loại đánh giá (đánh giá theo chức
nghiệp, đánh giá hoạt động cụ thể hay đánh giá định kỳ) giúp nhà quản lý có cơ sở để quyết định
những vấn đề về nhân sự; kiểm định lại tình trạng năng suất làm việc; thay đổi biểu hiện, thái độ
làm việc; đưa ra phương thức hỗ trợ cải thiện hiệu suất làm việc; quản lý tiền lương; thông tin

phản hồi thực thi nhiệm vụ được giao; thừa nhận kết quả hoạt động của cá nhân và khen thưởng,
đề bạt, kỷ luật.
Những hạn chế trong đánh giá thực thi công vụ thường được biểu hiện như sau:
Một là, Đánh giá theo cảm nhận, cảm tính: Việc đánh giá theo cảm nhận, cảm tính là hình
thức đánh giá thông qua những ấn tượng và sự cảm nhận về đối tượng đánh giá, không căn cứ vào
quá trình thực thi công vụ của công chức và mục tiêu đánh giá mà chỉ căn cứ vào một ấn tượng
hoặc một công việc cụ thể nào đó để đánh giá và như vậy, việc đánh giá sẽ làm lu mờ hoặc che lấp
những dấu hiệu tốt và ngược lại, làm cho việc đánh giá sẽ không còn tính chính xác nữa.
Hai là, Đánh giá theo sự áp đặt tiêu chuẩn, yêu cầu của người đánh giá: Việc đánh giá
theo sự áp đặt tiêu chuẩn, yêu cầu của người đánh giá là hình thức đánh giá căn cứ vào tiêu chuẩn,
ý chí chủ quan của người đánh giá để đánh giá, làm cho người đánh giá không tự đưa ra được kết
quả đánh giá khách quan, xác thực, thâm chí còn gây cản trở, khó khăn cho người bị đánh giá.
Ba là, Đánh giá theo sự phản kháng từ phía người bị đánh giá: Việc đánh giá theo sự phản
kháng từ phía người bị đánh giá thường gắn liền với đặc trưng của hoạt động công vụ trong các cơ
quan nhà nước, bởi lẽ, cơ quan nhà nước với những đặc trưng riêng khác với những tổ chức khác
do tiêu chuẩn đánh giá không rõ ràng, nhiều hoạt động của người lao động làm việc trong các cơ
quan hành chính nhà nước rất khó có thể lượng hóa thành những tiêu chuẩn để đánh giá hiệu quả,
chất lượng; nhiều sản phẩm mà cá nhân hay cơ quan hành chính nhà nước tạo ra chỉ có thể phát
huy tác dụng sau một vài năm (tác động của các chính sách); do vậy, khó có thể đưa ra một hệ
thống tiêu chí mang tính định lượng cụ thể. Nhiều vấn đề giải quyết trong các cơ quan hành chính
nhà nước mang tính liên ngành, hiệu quả hay hoạt động tốt của một ngành chưa thể đem lại hiệu
quả chung, thậm chí có thể không đem lại hiệu quả; nếu chỉ đánh giá một bộ phận hay một cá nhân
có thể khó khăn để đưa ra một quyết định đánh giá đúng.
Nguyên nhân của những hạn chế nêu trên là do nhiều công việc trong các cơ quan hành
chính còn mang tính trừu tượng, định tính, khó xác định được định lượng, hiệu quả cụ thể; trong
khi đó việc ban hành khung pháp lý và các tiêu chí phục vụ cho việc đánh giá và tự đánh giá của
công chức chưa được quy định một cách rõ ràng, chi tiết, còn nhiều tiêu chí mang tính định tính,
chưa có định lượng cụ thể nên rất khó vận dụng để thực hiện cho cả người đánh giá và người bị
đánh giá.
Để khắc phục những hạn chế nêu trên, tôi xin đề xuất một số giải pháp sau:

Một là, Phải làm cho cán bộ, công chức trong các cơ quan, tổ chức nhận thức được ý nghĩa
của đánh giá kết quả thực thi công vụ đối với chính bản thân họ và kết quả đánh giá sẽ có ý nghĩa
quan trọng đến việc phát triển chức nghiệp, đến việc đào tạo, bồi dưỡng và nhiều vấn đề khác
thuộc về cá nhân; kết quả đánh giá cũng sẽ ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của cơ quan, tổ
chức.
Hai là, Phải tạo tâm lý cho cán bộ, công chức tin tưởng tuyệt đối vào sự đánh giá công
bằng, vô tư, khách quan, khoa học khi đánh giá hoạt động của họ.
Ba là, Phải xây dựng một môi trường làm việc tốt, tin tưởng lẫn nhau để mọi người trong
cơ quan, tổ chức có thể dễ dàng chia sẻ thông tin cho nhau trong thực thi công vụ nói chung, trong
đánh giá thực thi công vụ nói riêng
Bốn là, Phải đào tạo, bồi dưỡng cho những người tham gia đánh giá những kỹ năng cơ bản
về đánh giá con người.
Năm là, Phải mở rộng hình thức dân chủ trong đánh giá nhằm huy động sự tham gia của
nhiều người trong quá trình đánh giá, tránh sự độc quyền của một số người trong đánh giá hoạt
động của cán bộ, công chức; đồng thời mở rộng hình thức tự đánh giá của công chức đối với từng
công việc cụ thể./.


14

Câu 59 (30đ) Xác định yêu cầu về cải cách dịch vụ hành chính công đối với một
lĩnh vực mà anh chị quan tâm?
Trả lời: Dịch vụ hành chính công là loại dịch vụ gắn liền với chức năng quản lý nhà nước
nhằm đáp ứng yêu cầu của người dân. Dịch vụ này chỉ do các cơ quan nhà nước nhân danh công
quyền hay các cơ quan do nhà nước thành lập được uỷ quyền mới có thẩm quyền cung ứng dịch vụ
hành chính công. Đây là một phần trong chức năng quản lý nhà nước; người dân được hưởng những
dịch vụ này không theo quan hệ cung cầu, ngang giá trên thị trường mà thông qua việc đóng lệ phí
hoặc phí cho các cơ quan hành chính nhà nước; phần lệ phí này chỉ mang tính chất hỗ trợ cho ngân
sách nhà nước ví như: hoạt động cấp giấy phép, giấy chứng nhận, đăng ký, công chứng, thị thực, hộ
tịch v.v...

Để đáp ứng được yêu cầu của cải cách dịch vụ hành chính công, đòi hỏi nhà nước phải
đẩy mạnh việc nghiên cứu cơ bản, thống nhất nhận thức về dịch vụ công trong điều kiện phát
triển kinh tế thị trường định hướng XHCN (khái niệm, nội dung, loại hình, phương thức thực
hiện); xây dựng chiến lược, thể chế, chính sách pháp luật để tổ chức, quản lý các dịch vụ công,
bảo đảm trách nhiệm của nhà nước trong tổ chức, quản lý, cung ứng dịch vụ công; tạo môi
trường thuận lợi, khuyến khích các tổ chức, cá nhân tham gia thực hiện cung ứng dịch vụ công,
đồng thời bảo đảm hiệu quả, chất lượng cung ứng dịch vụ công; cải cách dịch vụ công gắn với
cải cách nền hành chính nhà nước, xác định rõ trách nhiệm, nghĩa vụ của các cơ quan, của cán
bộ, công chức hành chính nhà nước trong việc phục vụ nhân dân gắn với đẩy mạnh xã hội hóa
các hoạt động cung ứng dịch vụ công đối với những dịch vụ thích hợp và tăng cường công tác
quản lý, kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm đối với các hoạt động cung ứng dịch vụ công của tất
cả các chủ thể nhằm bảo đảm quyền và lợi ích của công dân.
1. Dịch vụ hành chính công Việt Nam
“Dịch vụ công là những hoạt động phục vụ các lợi ích chung, thiết yếu, các quyền và nghĩa vụ cơ bản
của tổ chức và công dân do Nhà nước trực tiếp thực hiện hoặc chuyển giao cho các cơ sở ngoài Nhà
nước thực hiện nhằm mục tiêu hiệu quả và công bằng” (1). Dịch vụ công là những hoạt động của cơ
quan nhà nước trong việc thực thi chức năng quản lý hành chính nhà nước và bảo đảm cung ứng các
hàng hóa công cộng phục vụ nhu cầu chung, thiết yếu của xã hội. Việc tiến hành hoạt động ấy có thể
do nhà nước hoặc tư nhân đảm nhiệm.
Xét theo lĩnh vực cung ứng dịch vụ, dịch vụ công gồm 3 loại: dịch vụ công trong lĩnh vực sự nghiệp;
dịch vụ công trong lĩnh vực công ích và dịch vụ công trong lĩnh vực hành chính nhà nước hay còn gọi
là dịch vụ hành chính công.
Dịch vụ sự nghiệp công,gồm các hoạt động cung cấp phúc lợi xã hội thiết yếu cho người dân như: giáo
dục, văn hóa, khoa học, chăm sóc sức khỏe, thể dục thể thao, bảo hiểm, an sinh xã hội,... Xu hướng
trên thế giới hiện nay là nhà nước chỉ thực hiện những dịch vụ công nào mà xã hội không thể làm được
hoặc không muốn làm, chuyển giao một phần việc cung ứng loại dịch vụ công này cho khu vực tư
nhân và các tổ chức xã hội.
Dịch vụ công ích, là các hoạt động cung cấp hàng hóa, dịch vụ cơ bản, thiết yếu cho người dân và
cộng đồng như: vệ sinh môi trường, xử lý rác thải, cấp nước sạch, vận tải công cộng đô thị, phòng
chống thiên tai... Một số hoạt động khu vực tư nhân có thể đảm nhiệm như: vệ sinh môi trường, cung

ứng nước sạch.
Dịch vụ hành chính công,là loại dịch vụ gắn liền với chức năng quản lý nhà nước nhằm đáp ứng yêu
cầu của người dân. Đây là một phần trong chức năng quản lý nhà nước. Để thực hiện chức năng này,
nhà nước phải tiến hành những hoạt động phục vụ trực tiếp như cấp giấy phép, giấy chứng nhận, đăng
ký, công chứng, thị thực, hộ tịch,...
Đặc trưng của dịch vụ hành chính công Việt Nam
Thứ nhất,việc cung ứng dịch vụ hành chính công luôn gắn với thẩm quyền mang tính quyền lực pháp
lý, gắn với các hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước trong việc cấp các loại giấy phép, giấy
khai sinh, chứng minh thư nhân dân; công chứng, xử lý và xử phạt hành chính, kiểm tra, thanh tra hành
chính... Loại dịch vụ này chỉ có thể do các cơ quan hành chính nhà nước thực hiện.
Thứ hai,phục vụ cho hoạt động quản lý của Nhà nước. Dịch vụ hành chính công bản thân nó không
thuộc về chức năng quản lý nhà nước, song lại là những hoạt động nhằm phục vụ cho chức năng quản
lý. Dịch vụ hành chính công là những dịch vụ mà nhà nước bắt buộc và khuyến khích người dân phải


15
làm để bảo đảm trật tự và an toàn xã hội. Nhu cầu được cấp các loại giấy tờ trên không xuất phát từ
nhu cầu tự thân của họ, mà xuất phát từ những quy định có tính chất bắt buộc của nhà nước. Càng
nhiều người sử dụng dịch vụ hành chính công thì càng tạo điều kiện cho hoạt động quản lý nhà nước
được thực hiện tốt hơn.
Thứ ba, dịch vụ hành chính công là những hoạt động không vụ lợi, nếu có thu tiền thì thu dưới dạng lệ
phí để nộp ngân sách nhà nước. Lệ phí không mang tính chất bù đắp hao phí lao động cho bản thân
người cung cấp dịch vụ, mà chủ yếu là nhằm tạo ra sự công bằng giữa người sử dụng dịch vụ với
người không sử dụng dịch vụ.
Thứ tư,mọi người dân có quyền ngang nhau trong việc tiếp cận và sử dụng các dịch vụ hành chính
công với tư cách là đối tượng phục vụ của chính quyền. Nhà nước có trách nhiệm và nghĩa vụ cung
cấp dịch vụ để phục vụ cho mọi người dân, không phân biệt đó là người như thế nào.
Các loại hình cơ bản của dịch vụ hành chính công Việt Nam
Dịch vụ hành chính công Việt Nam có những đặc trưng riêng gắn với từng loại hình riêng biệt, cụ thể
là:

Một là, hoạt động cấp các loại giấy phép. Giấy phép là một loại giấy tờ do các cơ quan hành chính nhà
nước cấp cho các tổ chức và công dân để thừa nhận về mặt pháp lý quyền của các chủ thể này được
tiến hành một hoạt động nào đó phù hợp với các quy định của pháp luật trong lĩnh vực được cấp phép.
Hai là, cấp các loại giấy xác nhận, chứng thực, bao gồm: công chứng, cấp chứng minh thư nhân dân,
giấy khai sinh, khai tử, giấy đăng ký kết hôn, giấy phép lái xe, đăng ký ô tô, xe máy, tàu thuyền...
Ba là, cấp giấy đăng ký kinh doanh và chứng chỉ hành nghề... Giấy đăng ký kinh doanh được cấp cho
chủ thể kinh doanh khi thành lập doanh nghiệp hoặc cơ sở kinh doanh. Giấy phép hành nghề nhằm
chứng minh chủ thể có đủ khả năng và điều kiện hoạt động theo quy định của pháp luật đối với một
nghề nhất định nào đó, thí dụ: giấy phép hành nghề luật sư, hành nghề khám chữa bệnh...
Bốn là, hoạt động thu các khoản đóng góp vào ngân sách và các quỹ của Nhà nước. Các hoạt động này
gắn với nghĩa vụ mà Nhà nước yêu cầu các chủ thể trong xã hội phải thực hiện.
Năm là, giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân và xử lý các vi phạm hành chính. Hoạt động này
nhằm bảo vệ các quyền cơ bản của công dân trong mối quan hệ giữa cơ quan hành chính nhà nước với
công dân.
2. Thực trạng dịch vụ hành chính công Việt Nam
Nghị quyết 53/2007/NQ-CP ngày 7-11-2007 của Chính phủ trong Chương trình Hành động thực hiện
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 về đẩy mạnh cải cách nền hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả
quản lý của bộ máy nhà nước là một chủ trương lớn trong giai đoạn hiện nay và đã đạt được những
thành công nhất định.
Nhà nước đã chú trọng đổi mới và nâng cao chất lượng cung ứng dịch vụ hành chính công, coi đó là
một khâu quan trọng trong thực hiện chương trình cải cách nền hành chính nhà nước theo hướng hiện
đại, chuyên nghiệp. Nhiều bộ ngành, địa phương đã áp dụng các phương tiện kỹ thuật điện tử, công
nghệ thông tin để nâng cao chất lượng dịch vụ công như trong hoạt động cấp giấy chứng nhận đăng ký
kinh doanh, cấp phép đầu tư, cấp đăng ký xe máy, giấy chứng minh thư nhân dân...; tổ chức đấu thầu
các dự án chi tiêu công; hỏi đáp pháp luật. Rà soát để loại bỏ những thủ tục hành chính không cần
thiết, các giấy phép con gây phiền hà cho người dân và doanh nghiệp khi tiếp cận dịch vụ hành chính
công, rút ngắn thời gian cung ứng dịch vụ... Đặc biệt là việc tinh giản biên chế, sáp nhập các đơn vị
hành chính theo hướng tinh gọn, thí dụ: việc sáp nhập một số cơ quan hành chính tại Bộ Công thương,
sáp nhập các phòng đăng ký kinh doanh tại Sở Kế hoạch Đầu tư TP. Hà Nội...
Người dân và doanh nghiệp được tạo thuận lợi trong những việc cần giải quyết với cơ quan nhà nước,

như đăng ký kinh doanh, làm thủ tục hộ tịch, tìm hiểu luật pháp...
Sự kết hợp giữa Nhà nước với các thành phần kinh tế trong hoạt động cung cấp dịch vụ công đang trở
nên phổ biến. Hoạt động cung cấp dịch vụ thu phí vốn do nhà nước thực hiện, đang được chuyển dịch
dần sang khu vực tư (thí dụ các văn phòng công chứng tư), Nhà nước chỉ đóng vai trò xúc tiến.
Thực hiện cải cách nền hành chính quốc gia theo “Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước
giai đoạn 2011-2020”, nền hành chính công Việt Nam đã triển khai cải cách toàn diện trên nhiều nội
dung cơ bản: từ cải cách thể chế, tổ chức bộ máy hành chính, xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ
cán bộ, công chức, đến cải cách tài chính công và hiện đại hóa nền hành chính công(2).
Bên cạnh những kết quả đạt được, dịch vụ hành chính công Việt Nam cũng còn tồn tại nhiều hạn chế,
yếu kém, bất cập như:


16
- Dịch vụ hành chính công hoạt động kém hiệu quả, chẳng hạn: thủ tục hành chính phức tạp,
phiền hà; quy trình cung ứng dịch vụ qua nhiều tầng nấc, phòng ban, các quy trình khác nhau; sự cửa
quyền, nhũng nhiễu, quan liêu của những người trực tiếp cung ứng dịch vụ.
- Các thông tin cần thiết về thủ tục, cách thức và quy trình thực hiện dịch vụ hành chính công, các
thông tin về quy hoạch, đất đai, tài nguyên... chưa được công khai rõ ràng, minh bạch, nên dễ bị những
người cung ứng dịch vụ lợi dụng để sách nhiễu, gây khó khăn, phiền hà. Các tổ chức và người dân
chưa thực sự dễ dàng, thuận tiện khi tiếp cận các thông tin trên và tiếp cận dịch vụ hành chính công.
- Các văn bản quy phạm pháp luật quy định về thủ tục hành chính của các cơ quan nhà nước từ trung
ương đến địa phương còn rườm rà, phức tạp và chồng chéo, thậm chí khó hiểu hoặc có nhiều cách hiểu
khác nhau làm cho người cung ứng dịch vụ lúng túng, bị động; tổ chức, công dân tốn nhiều công sức
khi thực hiện và vô hình trung sẽ khiến cho người dân tìm cách trốn tránh thực hiện các nghĩa vụ của
mình đối với Nhà nước.
- Sự phân công, phân cấp trong việc cung ứng dịch vụ công chưa thực sự được đẩy mạnh theo hướng
một công việc chỉ do một cơ quan giải quyết và chịu trách nhiệm mà vẫn còn tình trạng cấp trên ôm
đồm, chưa muốn giao hoặc chưa tin tưởng vào khả năng của cấp dưới.
- Tình trạng bất bình đẳng, phân biệt đối xử trong tiếp cận dịch vụ hành chính công còn khá phổ biến:
doanh nghiệp nhà nước được ưu tiên hơn doanh nghiệp ngoài quốc doanh; người có chức quyền hoặc

thân quen dễ tiếp cận các dịch vụ công hơn người dân...
- Năng lực chuyên môn, nghiệp vụ của người cung ứng dịch vụ còn nhiều hạn chế; đạo đức của một bộ
phận cán bộ, công chức trực tiếp giải quyết các dịch vụ hành chính công sa sút, biến chất; kỷ luật, kỷ
cương công vụ chưa được siết chặt...
3. Giải pháp cải thiện dịch vụ hành chính công Việt Nam
Để giải quyết những hạn chế, bất cập trong cung cấp dịch vụ hành chính công, cần tập trung vào các
giải pháp cơ bản sau:
- Chuyển từ tư duy “quản lý”, “áp đặt” sang tư duy “phục vụ”. Đổi mới nhận thức về chức năng của
Nhà nước, về nền hành chính phục vụ nhân dân, bảo đảm sự tiếp cận dễ dàng và công bằng của công
dân đối với dịch vụ hành chính công. Đưa yếu tố “phục vụ” vào sứ mệnh tổ chức của hành chính công.
- Thành lập các nhóm công tác chính sách để điều phối việc lập và thực hiện kế hoạch giữa các ngành,
trong đó nhấn mạnh việc xác định trình tự công việc và theo dõi kết quả hoạt động. Tiến hành các điều
tra lĩnh vực công thường kỳ, tập trung vào các khía cạnh liên quan đến vai trò của hành chính công và
phát triển kinh tế, huy động sự tham gia của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể cũng như các
tổ chức xã hội, các cơ quan dân cử, cán bộ dân cử.
- Tiếp tục hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ của chính quyền các cấp; giảm đầu mối, bỏ cấp trung gian,
theo hướng xây dựng hệ thống cơ quan hành chính thống nhất, thông suốt, hiện đại và đúng với vai trò.
Thực hiện nhất quán nguyên tắc: một việc chỉ giao cho một cơ quan, một người chịu trách nhiệm
chính.
- Tiếp tục rà soát, cải cách mạnh mẽ các thủ tục hành chính, tạo môi trường thuận lợi cho sản xuất kinh
doanh và đáp ứng nhu cầu chính đáng của người dân và doanh nghiệp, như: thành lập, giải thể, tạm
ngưng, phá sản doanh nghiệp; đăng ký kinh doanh và chứng nhận đầu tư; đầu tư xây dựng công trình,
dự án và nhà ở; quyền sử dụng đất và quyền sở hữu tài sản; xuất nhập khẩu; nộp thuế; hộ tịch, hộ khẩu,
giấy chứng minh nhân dân, hộ chiếu, thị thực nhập cảnh; công chứng, chứng thực; thanh tra, kiểm tra
doanh nghiệp... Bãi bỏ hoặc sửa đổi, bổ sung theo thẩm quyền hoặc trình cấp trên xem xét sửa đổi theo
hướng tạo thuận tiện cho nhân dân và doanh nghiệp. Xử lý nghiêm những cá nhân và tổ chức tùy tiện
đặt ra các quy định trái pháp luật, trái thẩm quyền, gây khó khăn, phiền hà cho các đơn vị, tổ chức và
người dân khi tiếp cận dịch vụ. Đề cao trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan hành chính trong hoạt
động dịch vụ hành chính công.
- Công khai các thủ tục (các loại giấy tờ, biểu mẫu) và quy trình giải quyết công việc, thời gian giải

quyết, phí và lệ phí theo quy định để nhân dân biết và thực hiện thuận lợi. Xây dựng và đưa vào thực
hiện các quy định về quyền được thông tin của người dân, tạo điều kiện để người dân tham gia, giám
sát hoạt động của cơ quan cung ứng dịch vụ hành chính công.
- Tiếp tục thực hiện có hiệu quả cơ chế một cửa, một cửa liên thông tại các cơ quan hành chính nhà
nước.
- Đẩy mạnh đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao tính chuyên nghiệp của bộ máy hành chính, đặc biệt là kỹ
năng hành chính của cán bộ, công chức, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động của
cơ quan hành chính.


17
- Quy hoạch và xây dựng công sở theo hướng tập trung và từng bước hiện đại, có đủ điều kiện và
phương tiện làm việc, tạo thuận lợi cho người dân khi đến liên hệ và giải quyết công việc.
- Tiếp tục phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Quán triệt sâu sắc trong nhận thức và hành động của
hệ thống cơ quan hành chính nhà nước ý thức phục vụ dân, gần dân, giúp dân, học dân. Khắc phục tình
trạng vô trách nhiệm, vô cảm của cán bộ, công chức đối với người dân và doanh nghiệp.
- Xử lý nghiêm các hành vi nhũng nhiễu, gây phiền hà cho dân trong quá trình quản lý hành chính. Tạo
lập cơ sở pháp luật nhằm bảo đảm quyền giám sát trực tiếp của nhân dân đối với hoạt động của bộ máy
hành chính, tăng cường các hình thức dân chủ trực tiếp để người dân tham gia vào công việc của Nhà
nước ngày càng thực chất và hiệu quả.
Cung ứng dịch vụ hành chính công là trách nhiệm của nhà nước trước xã hội, là sự thể hiện trực tiếp
nhất vai trò của nhà nước trước các tổ chức và công dân. Cải cách dịch vụ hành chính công đang trở
thành một nội dung quan trọng trong cải cách hoạt động của bộ máy nhà nước, nhằm nâng cao hiệu
quả và hiệu lực hoạt động của Nhà nước, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của công dân.

Một trong những yêu cầu của cải cách dịch vụ hành chính công mà tôi quan tâm đó
là hiện đại hóa hành chính. Hiện đại hóa hành chính là nhằm tạo dựng được một tư duy mới
để thay đổi cung cách ứng xử của những chủ thể trong nền hành chính, giữa nền hành chính
với phần còn lại của xã hội trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và toàn cầu
hóa và cũng là để hướng tới một nền hành chính phục vụ. Để hiện đại hóa hành chính chúng ta

cần phải triển khai thực hiện có hiệu quả các yêu cầu sau:
Một là, Hoàn thiện và đẩy mạnh hoạt động của Mạng thông tin hành chính điện tử của
Chính phủ; xây dựng Cổng dịch vụ công Quốc gia để tích hợp tất cả các dịch vụ công trực
tuyến của các bộ, ngành, địa phương.
Hai là, Triển khai xây dựng Chính phủ điện tử, Chính quyền điện tử theo Nghị quyết
36a/NQ-CP ngày 14 tháng 10 năm 2015 của Chính phủ và Quyết định số 1819/QĐ-TTg ngày
26 tháng 10 năm 2015 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình quốc gia về ứng
dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của cơ quan nhà nước giai đoạn 2016 - 2020.
Ba là, Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin - truyền thông trong quy trình xử lý
công việc của từng cơ quan hành chính nhà nước, giữa các cơ quan hành chính nhà nước với
nhau và trong giao dịch với tổ chức, cá nhân. Phát triển, tích hợp, kết nối các hệ thống thông
tin quy mô quốc gia, tạo lập môi trường mạng, chia sẻ thông tin rộng khắp giữa các cơ quan
nhà nước.
Bốn là, Phát triển các hệ thống thông tin thiết yếu cho công tác ứng dụng công nghệ
thông tin phục vụ người dân và doanh nghiệp; bảo đảm triển khai đồng bộ với việc phát triển
các hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu quy mô quốc gia; thống nhất ứng dụng công nghệ thông
tin hiệu quả, toàn diện tại Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả theo cơ chế một cửa, cơ chế một
cửa liên thông; tăng cường kết nối, chia sẻ thông tin, trao đổi, xử lý hồ sơ qua mạng.
Năm là, Nâng cao chất lượng phục vụ và tính công khai, minh bạch trong hoạt động của
cơ quan hành chính nhà nước thông qua đẩy mạnh cung cấp dịch vụ công trực tuyến cho người
dân, tổ chức; cung cấp các dịch vụ công cơ bản trực tuyến mức độ 4, đáp ứng nhu cầu thực tế,
phục vụ cá nhân và tổ chức mọi lúc, mọi nơi, dựa trên nhiều phương tiện khác nhau. Ứng dụng
công nghệ thông tin để giảm thời gian, số lần trong một năm cá nhân, tổ chức phải đến trực
tiếp cơ quan nhà nước thực hiện các thủ tục hành chính.
Sáu là, Kết hợp chặt chẽ với triển khai các nội dung cải cách hành chính để ứng dụng
công nghệ thông tin trong hoạt động của cơ quan nhà nước có tác dụng thực sự thúc đẩy cải
cách hành chính. Ứng dụng hiệu quả công nghệ thông tintrong hoạt động của cơ quan nhà
nước nhằm tăng tốc độ xử lý công việc, giảm chi phí hoạt động.
Bảy là, Nâng cao chất lượng công tácchỉ đạo, điều hành hoạt động của cơ quan hành
chính thông qua việc sử dụng hiệu quả mạng thông tin điện tử hành chính; xây dựng, áp dụng

hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn TCVN/ISO 9001-2008 trong các cơ quan hành
chính gắn với đầu tư xây dựng trụ sở cơ quan hành chính, đặc biệt là trụ sở cấp xã./.


18
Câu 60 (30đ). Anh (chị) hãy phân tích nguyên tắc: Tập trung dân chủ, chế độ trách nhiệm
cá nhân và phân công, phân cấp rõ ràng trong quản lý công chức quy định tại khoản 3 điều 5 Luật cán
bộ, công chức năm 2008. Liên hệ thực hiện nguyên tắc này ở cơ quan, tổ chức, đơn vị Anh/chị đang công
tác.
Trả lời: Nguyên tắc tập trung dân chủ, chế độ trách nhiệm cá nhân và phân công, phân cấp rõ ràng trong
quản lý công chức là một trong những nguyên tắc cơ bản trong quản lý cán bộ, công chức đã được quy định cụ
thể tại khoản 3, Điều 5 - Luật Cán bộ, công chức. Nguyên tắc này vừa đảm bảo cho việc quản lý công chức
được thực hiện tập trung, thống nhất, có sự phân công, phân cấp rõ ràng, cụ thể theo từng cấp quản lý trên cơ sở
thẩm quyền, trách nhiệm của từng cấp, từng ngành, từng cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị và các cá
nhân được nhà nước trao quyền; vừa là sự kết hợp giữa chế độ tập thể lãnh đạo với cá nhân phụ trách (chế độ
thủ trưởng) trong quản lý công chức; vừa đề cao trách nhiệm của tập thể, vừa đề cao trách nhiệm của cá nhân,
của người đứng đầu trong công tác quản lý công chức; vừa bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, sự chỉ đạo tập trung
thống nhất của nhà nước; vừa tạo quyền chủ động cho các cấp, các ngành, các địa phương trong công tác quản
lý công chức và phát huy được dân chủ trong quản lý công chức.
Để thực hiện nguyên tắc này đòi hỏi các cơ quan có thẩm quyền của Đảng và các cơ quan nhà nước có
thẩm quyền phải xây dựng thể chế về quản lý công chức bằng việc ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản
quy phạm pháp luật về quản lý công chức; về quy hoạch, kế hoạch quản lý, sử dụng công chức; về đào tạo, bồi
dưỡng công chức; về ngạch, chức danh, mã số công chức, chế độ tiền lương; về xác định vị trí việc làm và cơ
cấu công chức; về tuyển dụng, sử dụng, chuyển ngạch, nâng bậc công chức; về quản lý hồ sơ công chức; về điều
động, biệt phái, bổ nhiệm, từ chức, miễn nhiệm, luân chuyển, khen thưởng, kỷ luật; thanh tra, kiểm tra, giám sát,
đánh giá, phân loại công chức và thực hiện chế độ báo cáo hàng năm về công tác quản lý công chức và các công
tác khác có liên quan đến việc quản lý, sử dụng công chức.
Các thể chế về quản lý công chức phải quy định cụ thể, rõ ràng các tiêu chí, tiêu chuẩn, điều kiện, thẩm
quyền, trách nhiệm của tập thể, của cá nhân trong công tác quản lý công chức; đặc biệt là trong phân cấp quản
lý công chức cũng phải quy định cụ thể, rõ ràng những nội dung nào thuộc thẩm quyền quyết định của cấp nào,

của cơ quan nào, của ai; những nội dung nào phải xin ý kiến của cơ quan cấp trên, của người có thẩm quyền cấp
trên trước khi quyết định, những nội dung nào thuộc thẩm quyền quyết định của cơ quan trực tiếp quản lý, sử
dụng công chức, của người có thẩm quyền được chủ động quyết định theo chức năng, nhiệm vụ, theo thẩm
quyền được giao, những nội dung nào phải lấy kiến của nhân dân, lấy ý kiến của cán bộ, công chức trong cơ
quan v.v…
Liên hệ với thực tiễn trong công tác quản lý công chức ở tỉnh Thái Nguyên cho thấy: Ngay sau khi có
Luật Cán bộ, công chức, Tỉnh ủy, UBND tỉnh đã ban hành nhiều văn bản hướng dẫn, chỉ đạo có liên quan đến
việc quản lý công chức trên địa bàn tỉnh nhằm đảm bảo tính thống nhất trong công tác quản lý công chức giữa
các cơ quan có thẩm quyền của Đảng và các cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, cụ thể như: Đã ban
hành: "Quy định về phân cấp quản lý tổ chức, bộ máy, biên chế, cán bộ, công chức, viên chức nhà nước trên địa
bàn tỉnh"; Quy định về chính sách hỗ trợ cán bộ, công chức đi học và chính sách thu hút người có trình độ cao
trên địa bàn tỉnh", Quy chế đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức; Quy hoạch cán bộ hàng năm và quy hoạch
cán bộ theo giai đoạn; Đề án vị trí việc làm trong các cơ quan, tổ chức hành chính nhà nước; Đề án vị trí việc
làm trong các đơn vị sự nghiệp công lập; Hướng dẫn về đánh giá, xếp loại công chức hàng năm v.v... Để tăng
cường công tác quản lý công chức, UBND tỉnh đã chỉ đạo các cấp, các ngành, các cơ quan chuyên môn tăng
cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát các việc chấp hành các quy định của pháp luật trong quản lý sử
dụng cán bộ, công chức nhằm bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, sự quản lý Nhà nước; kịp thời
phát hiện, xử lý những sai phạm trong công tác quản lý công chức ở các cấp, các ngành trong tỉnh.
Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác quản lý công chức của tỉnh còn một số hạn chế, yếu kém đó
là: Việc xây dựng quy hoạch, kế hoạch quản lý, sử dụng đội ngũ công chức chưa được các cơ quan hành chính
nhà nước của tỉnh quan tâm thực hiện một cách bài bản, do vậy chất lượng công tác xây dựng quy hoạch, kế
hoạch còn thấp, chưa đáp ứng được đầy đủ các yêu cầu trong công tác quản lý công chức. Việc ban hành các cơ
chế, chính sách liên quan đến quản lý công chức như chính sách hỗ trợ cho công chức đi học các lớp đào tạo,
bồi dưỡng để nâng cao trình độ còn chưa theo kịp với sự biến đổi của tình hình kinh tế xã hội nên chưa khuyến
khích được công chức trong cơ quan hành chính nhà nước đi học; hệ thống văn bản quy phạm pháp luật của tỉnh
để cụ thể hóa các quy định của pháp luật trong tuyển dụng, sử dụng và quản lý công chức tuy đã từng bước
được hoàn thiện nhưng vẫn còn nhiều bất cập, nhất là quy định về phân cấp quản lý tổ chức, bộ máy, biên chế
cán bộ, công chức trên địa bàn tỉnh.
Để nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác quản lý công chức và thực hiện tốt nguyên tắc nêu trên
trong thời gian tới tôi xin đề xuất một số giải pháp sau:



19
Một là, Phải quán triệt và triển khai thực hiện nghiêm túc các quan điểm chỉ đạo của Đảng, các quy
định của Nhà nước và các nguyên tắc cơ bản trong quản lý công chức, đặc biệt là nguyên tắc tập trung dân chủ,
chế độ trách nhiệm cá nhân và phân công, phân cấp rõ ràng trong quản lý công chức.
Hai là, Phải xây dựng quy hoạch, kế hoạch quản lý, sử dụng cán bộ, công chức trên cơ sở xác định vị trí
việc làm, chức danh tiêu chuẩn ngạch công chức và các yếu tố đặc thù của địa phương làm căn cứ để xây dựng
quy hoạch, kế hoạch tuyển dụng, sử dụng và quản lý công chức; đào tạo bồi dưỡng cán bộ, công chức’
Ba là, Phải tăng cường chỉ đạo, kiểm tra, thanh tra, giám sát việc thực hiện chế độ, chính sách đối với
công chức, kịp thời phát hiện những điểm còn bất hợp lý trong chính sách, đãi ngộ, nhất là chính sách tiền lương
để kiến nghị với Nhà nước sửa đổi, bổ sung cho phù hợp.
Bốn là, Phải thường xuyên rà soát các văn bản hiện hành về quản lý công chức, tăng cường thanh tra,
kiểm tra, giám sát việc thực hiện công tác quản lý công chức, thực hiện công khai hóa các hoạt động công vụ,
các nội dung quản lý công chức (trừ những vấn đề thuộc danh mục bí mật nhà nước đã được quy định)
Năm là, Phải tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, các cấp chính quyền, các cơ quan, đơn vị
trong công tác quản lý công chức, đặc biệt là vai trò lãnh đạo của cấp ủy trong việc thực hiện thẩm quyền, trách
nhiệm của cấp ủy, của người đứng đầu cấp ủy, thẩm quyền, trách nhiệm của thủ trưởng cơ quan, đơn vị trong công
tác quản lý công chức./.
Một số vấn đề về trách nhiệm công vụ của cán bộ, công chức ở nước ta hiện nay Công vụ là một loại hoạt
động nhân danh quyền lực nhà nước, nói đến công vụ là nói đến trách nhiệm của cán bộ, công chức trong
việc thực hiện quyền và nghĩa vụ nhằm mục tiêu phục vụ người dân và xã hội. Trách nhiệm công vụ là
việc cán bộ, công chức tự ý thức về quyền và nhiệm vụ được phân công cũng như bổn phận phải thực
hiện các quyền và nhiệm vụ đó. Một nền công vụ hiệu lực, hiệu quả đều dựa trên cơ sở đề cao tính trách
nhiệm với tinh thần tận tụy, mẫn cán và làm tròn bổn phận của cán bộ, công chức. Với ý nghĩa quan
trọng như vậy, bất kỳ nhà nước nào cũng phải xây dựng một nền công vụ hiệu lực, hiệu quả và nhấn
mạnh đến vấn đề trách nhiệm công vụ. Trong phạm vi bài viết này, tác giả tập trung trình bày những nội
dung cơ bản về trách nhiệm công vụ, qua đó góp phần cung cấp cơ sở lý luận và thực tiễn quan trọng cho
việc xây dựng, hoàn thiện chính sách về quản lý, phát triển đội ngũ cán bộ, công chức, trong đó có đề cao
và đảm bảo thực hiện trách nhiệm của cán bộ, công chức trong hoạt động thực thi công vụ.

1- Quan niệm về trách nhiệm và trách nhiệm công vụ của cán bộ, công chức
Khái niệm “trách nhiệm” theo Từ điển tiếng Việt là “Điều phải làm, phải gánh vác hoặc phải nhận lấy
về mình”; hay “được hiểu là sự ràng buộc đối với lời nói, hành vi của mình, bảo đảm làm đúng đắn, nếu sai trái
thì phải chịu phần hậu quả”; hoặc “là phần việc được giao cho hoặc coi như được giao cho, phải bảo đảm làm
tròn, nếu kết quả không tốt thì phải gánh chịu phần hậu quả”. Và “trách nhiệm là phải bảo đảm làm tròn những
sự việc được giao cho. Nếu kết quả không tốt thì phải gánh chịu hậu quả”.
Với quan niệm như vậy, trong xã hội, bất kỳ ai cũng có trách nhiệm bởi mỗi người đều có một vị trí
nhất định trong các mối quan hệ xã hội, như gia đình, dòng họ, địa phương, tập thể, tổ chức chính trị - xã hội,
công dân của một nước, thành viên của cộng đồng dân tộc và rộng nhất là của nhân loại... Trong các mối quan
hệ đó, trách nhiệm được hình thành trên cơ sở những quy định của luật pháp, quy chế, thỏa thuận của tập thể, tổ
chức, địa phương... Trách nhiệm còn được hình thành do dư luận xã hội và bị chi phối bởi dư luận xã hội.
Theo tác giả: Trách nhiệm = kết quả phải tạo ra là gì, như thế nào và theo đúng luật. Vậy nếu anh làm
việc đúng, nhưng chưa đủ để tạo ra kết quả yêu cầu thì chưa gọi là hoàn thành trách nhiệm. Hoàn thành trách
nhiệm/ làm tròn trách nhiệm = tạo ra kết quả như hoặc hơn yêu cầu một cách không phạm luật[1].
Công vụ là hoạt động mang quyền lực mang tính quyền lực – pháp lý được thực thi bởi đội ngũ cán bộ,
công chức hoặc những người được nhà nước trao quyền nhằm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của nhà nước,
phục vụ nhân dân.
Hoạt động công vụ theo Điều 2 Luật Cán bộ, công chức năm 2008 “là việc thực hiện nhiệm vụ, quyền
hạn của cán bộ, công chức theo quy định của luật này và các quy định khác có liên quan”. Cán bộ, công chức
khi tham gia hoạt động công vụ phải tuân thủ các nghĩa vụ và có trách nhiệm thực hiện đúng quyền hạn được
giao.
Theo Từ điển Luật học, trách nhiệm công vụ là “trách nhiệm của cán bộ, công chức nhà nước phải hành
động phù hợp với quy định của pháp luật, lựa chọn phương án hành động tối ưu và hợp lý nhất, báo cáo kết quả
hoạt động và gánh chịu những hậu quả do không thực hiện hay thực hiện không đúng các nghĩa vụ của mình.
Trách nhiệm công vụ là khái niệm thể hiện trên cả hai khía cạnh: tích cực và tiêu cực. Theo khía cạnh tích cực,
trách nhiệm công vụ thể hiện phạm vi các yêu cầu cụ thể của Nhà nước thông qua các quy định của pháp luật về
nội dung nhiệm vụ và phẩm chất của cán bộ, công chức khi thực thi công vụ. Trách nhiệm công vụ theo nghĩa
tiêu cực là sự gánh chịu hậu quả pháp lý do không thực hiện hay thực hiện không đúng nghĩa vụ. Nội hàm khái
niệm trách nhiệm công vụ còn thể hiện yêu cầu của pháp luật và đạo đức nghề nghiệp đối với cán bộ, công chức
về tính chủ động sáng tạo trong hoạt động thực thi công vụ. Đó là nghĩa vụ phải lựa chọn phương án hành động

tối ưu và hợp lý nhất”, tr 800


20
Cũng có ý kiến khác cho rằng “Trách nhiệm công vụ là một khái niệm mang tính chất chính trị, đó
là việc cán bộ, công chức tự ý thức về quyền và nhiệm vụ được phân công cũng như bổn phận phải thực hiện
các quyền và nhiệm vụ đó. Trách nhiệm trong hoạt động công vụ của công chức có mối quan hệ chặt chẽ với kết
quả hoạt động công vụ”[2].
Như vậy, có thể hiểu trách nhiệm công vụ của cán bộ, công chức là phải thực hiện đúng pháp luật và
đạt được kết quả tốt nhất, với chi phí thấp nhất, đáp ứng yêu cầu phục vụ nhân dân, tức là nếu cán bộ, công chức
thực hiện đúng chức trách, nhiệm vụ theo quy định của pháp luật, nhưng chưa tạo được kết quả theo yêu cầu thì
chưa thể coi là hoàn thành trách nhiệm công vụ.
Về phương diện chính trị - xã hội, trách nhiệm công vụ có mục đích bảo vệ chế độ xã hội, bảo vệ lợi ích
của nhà nước, quyền, lợi ích của nhân dân, của cơ quan, tổ chức, bảo vệ trật tự pháp luật. Về phương diện pháp
luật – hành chính, trách nhiệm công vụ thể hiện yêu cầu bắt buộc của của chủ thể quyền lực là Nhân dân (Nhà
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân
dân, vì Nhân dân) đối với cơ quan, cá nhân được ủy quyền.
Trên phương diện pháp luật, trách nhiệm công vụ tích cực là yếu tố chủ yếu, quan trọng nhất trong việc
thực hiện quy phạm pháp luật, pháp chế, nhưng trên thực tế, trách nhiệm công vụ ở khía cạnh tiêu cực lại là vấn
đề được chú ý nhiều hơn. Điều đó được cắt nghĩa bởi tình trạng vi phạm trách nhiệm công vụ nói chung, trong
đó có vi phạm pháp luật với các tác hại của nó luôn gây bức xúc trong đời sống xã hội, ảnh hưởng xấu đến hoạt
động bình thường của các quan hệ xã hội.
Liên quan đến khái niệm trách nhiệm công vụ, còn có một loạt khái niệm “gần” nghĩa hoặc phái sinh như:
trách nhiệm chính trị; trách nhiệm pháp lý; trách nhiệm hành chính; trách nhiệm nghề nghiệp; trách nhiệm đạo
đức; trách nhiệm giải trình;…
- Trách nhiệm chính trị “là trách nhiệm trước cử tri. Trách nhiệm chính trị được xác lập dựa trên sự tín
nhiệm...Và sự bất tín nhiệm là loại chế tài duy nhất ở đây. Trách nhiệm chính trị được bảo đảm bằng hai cách:
Một là thông qua bầu cử; Hai là, thông qua hoạt động của cơ quan đại diện cho cử tri[3].
- Trách nhiệm pháp lý, theo nghĩa ngắn gọn nhất là trách nhiệm trước pháp luật. Tuy nhiên trong sách báo
pháp lý hiện nay ở nước ta, trách nhiệm pháp lý được hiểu theo hai nghĩa khác nhau là trách nhiệm pháp lý tích

cực và trách nhiệm pháp lý tiêu cực. Trách nhiệm pháp lý tích cực được hiểu hành vi được thực hiện theo bổn
phận, nghĩa vụ của một chủ thể phải thực hiện quy định của pháp luật. Trái lại, trách nhiệm pháp lý tiêu cực lại
được hiểu là tác động của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đến người vi phạm pháp luật, buộc họ phải chịu các
biện pháp cưỡng chế nhà nước nhất định. Ví dụ, các trách nhiệm hình sự, dân sự, trách nhiệm hành chính được
quy định trong các văn bản pháp luật tương ứng như Bộ luật hình sự, Bộ luật dân sự, Luật xử lý vi phạm hành
chính. Trách nhiệm pháp lý tiêu cực là trách nhiệm đối với hành vi đã được thực hiện (trong quá khứ). Nhấn
mạnh trách nhiệm pháp lý tiêu cực, có quan niệm cho rằng “Trách nhiệm pháp lý là hậu quả bất lợi mà chủ thể
pháp luật phải gánh chịu do pháp luật quy định hành vi vi phạm pháp luật của mình hoặc của người mà mình
bảo lãnh hoặc giám hộ. Khác với các loại trách nhiệm khác, trách nhiệm pháp lý luôn gắn liền với sự cưỡng chế
nhà nước, với việc áp dụng chế tài do pháp luật quy định” (Từ điển Luật học).
- Trách nhiệm hành chính là “trách nhiệm thi hành nghĩa vụ do pháp luật hành chính quy định và trách
nhiệm phát sinh do vi phạm nghĩa vụ đó. Cụ thể hơn, có thể nói trách nhiệm hành chính với tính cách là trách
nhiệm pháp lý gắn với yếu tố vi phạm hành chính, hay là vi phạm hành chính là cơ sở của trách nhiệm hành
chính. Trong đó, lỗi là tiền đề chủ quan của vi phạm hành chính. Ba yếu tố của trách nhiệm hành chính được xác
định là: 1) Là biện pháp cưỡng chế hành chính; 2) Sự lên án của nhà nước và xã hội đối với hành vi của người
vi phạm hành chính; 3) Người vi phạm hành chính phải chịu những hậu quả bất lợi nhất định.
- Trách nhiệm giải trình, theo UNDP và Tổ chức hợp tác phát triển kinh tế (OECD) là nghĩa vụ (i)
chứng minh rằng công việc đã được thực hiện phù hợp với những nguyên tắc và tiêu chuẩn đã đồng thuận và (ii)
báo cáo đầy đủ, chính xác kết quả thực hiện nhiệm vụ và kế hoạch theo nhiệm kỳ. Theo đó, trách nhiệm giải
trình của trong hoạt động công vụ luôn gắn liền với công khai, minh bạch và quyền tiếp cận thông tin của người
dân đối với các hoạt động của công chức và bộ máy nhà nước.
2- Thực trạng trách nhiệm công vụ của cán bộ, công chức ở nước ta hiện nay
2.1- Thực trạng quy định của pháp luật về trách nhiệm công vụ của cán bộ, công chức
Trách nhiệm công vụ của cán bộ, công chức không chỉ được quy định trong một văn bản pháp luật cụ
thể mà nó được thể hiện ở một số văn bản sau:
a) Luật Cán bộ, công chức quy định: Khi thực hiện nhiệm vụ theo quy định của pháp luật, công chức phải
có nghĩa vụ đối với Đảng, Nhà nước và nhân dân: Trung thành với Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; bảo vệ danh dự Tổ quốc và lợi ích quốc gia; Tôn trọng nhân dân, tận tụy phục
vụ nhân dân; Liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của nhân dân; Chấp hành
nghiêm chỉnh đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước.

Trong thi hành công vụ, cán bộ, công chức có nghĩa vụ: Thực hiện đúng, đầy đủ và chịu trách nhiệm về
kết quả thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được giao; Có ý thức tổ chức kỷ luật; nghiêm chỉnh chấp hành nội quy,
quy chế của cơ quan, tổ chức, đơn vị; báo cáo người có thẩm quyền khi phát hiện hành vi vi phạm pháp luật
trong cơ quan, tổ chức, đơn vị; bảo vệ bí mật nhà nước; Chủ động và phối hợp chặt chẽ trong thi hành công vụ;


21
giữ gìn đoàn kết trong cơ quan, tổ chức, đơn vị; Bảo vệ, quản lý và sử dụng hiệu quả, tiết kiệm tài sản nhà
nước được giao; Chấp hành quyết định của cấp trên. Khi có căn cứ cho rằng quyết định đó là trái pháp luật thì
phải kịp thời báo cáo bằng văn bản với người ra quyết định; trường hợp người ra quyết định vẫn quyết định việc
thi hành thì phải có văn bản và người thi hành phải chấp hành nhưng không chịu trách nhiệm về hậu quả của
việc thi hành, đồng thời báo cáo cấp trên trực tiếp của người ra quyết định. Người ra quyết định phải chịu trách
nhiệm trước pháp luật về quyết định của mình; Các nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật.
Ngoài ra, công chức là người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị còn phải thực hiện các nghĩa vụ: Chỉ đạo
tổ chức thực hiện nhiệm vụ được giao và chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị;
Kiểm tra, đôn đốc, hướng dẫn việc thi hành công vụ của cán bộ, công chức; Tổ chức thực hiện các biện pháp
phòng, chống quan liêu, tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí và chịu trách nhiệm về việc để xảy ra
quan liêu, tham nhũng, lãng phí trong cơ quan, tổ chức, đơn vị; Tổ chức thực hiện các quy định của pháp luật về
dân chủ cơ sở, văn hóa công sở trong cơ quan, tổ chức, đơn vị; xử lý kịp thời, nghiêm minh cán bộ, công chức
thuộc quyền quản lý có hành vi vi phạm kỷ luật, pháp luật, có thái ðộ quan liêu, hách dịch, cửa quyền, gây phiền
hà cho công dân; Giải quyết kịp thời, đúng pháp luật, theo thẩm quyền hoặc kiến nghị cõ quan có thẩm quyền
giải quyết khiếu nại, tố cáo và kiến nghị của cá nhân, tổ chức; Các nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật.
Liên quan đến đạo đức công vụ, cán bộ, công chức phải thực hiện cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư
trong hoạt động công vụ và phải tuân thủ các quy định về văn hóa giao tiếp ở công sở và văn hóa giao tiếp với
nhân dân như: phải gần gũi với nhân dân; có tác phong, thái độ lịch sự, nghiêm túc, khiêm tốn; ngôn ngữ giao
tiếp phải chuẩn mực, rõ ràng, mạch lạc; không được hách dịch, cửa quyền, gây khó khăn, phiền hà cho nhân dân
khi thi hành công vụ.
Đồng thời, cán bộ, công chức không được: Trốn tránh trách nhiệm, thoái thác nhiệm vụ được giao; gây
bè phái, mất đoàn kết; tự ý bỏ việc hoặc tham gia đình công; Sử dụng tài sản của Nhà nước và của nhân dân trái
pháp luật; Lợi dụng, lạm dụng nhiệm vụ, quyền hạn; sử dụng thông tin liên quan đến công vụ để vụ lợi; Phân

biệt đối xử dân tộc, nam nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo dưới mọi hình thức.
Ngoài ra, cán bộ, công chức còn không được làm một số công việc liên quan đến bí mật nhà nước và
liên quan đến các việc khác theo quy định của pháp luật.
Đối với cán bộ, công chức vi phạm quy định của pháp luật, tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm, Luật
quy định phải chịu một trong các hình thức kỷ luật sau:
Đối với cán bộ: a) Khiển trách; b) Cảnh cáo; c) Cách chức; d) Bãi nhiệm.
Đối với công chức: a) Khiển trách; b) Cảnh cáo; c) Hạ bậc lương; d) Giáng chức; đ) Cách chức; e) Buộc
thôi việc.
b) Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2009 quy định tại Khoản 2 Điều 10: Người thi hành
công vụ đã gây ra thiệt hại có nghĩa vụ sau đây: a) Cung cấp kịp thời, đầy đủ và trung thực thông tin, tài liệu có
liên quan đến việc giải quyết bồi thường theo yêu cầu của cơ quan có trách nhiệm bồi thường hoặc Tòa án;b)
Hoàn trả cho ngân sách nhà nước một khoản tiền mà Nhà nước đã bồi thường cho người bị thiệt hại theo quyết
định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền; c) Nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật.
c) Bộ luật Hình sự quy định tại Điều 285:
“1. Người nào vì thiếu trách nhiệm mà không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nhiệm vụ được giao
gây hậu quả nghiêm trọng, nếu không thuộc trường hợp quy định tại các điều 144 (Tội thiếu trách nhiệm gây
thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản của Nhà nước ), 235 (Tội thiếu trách nhiệm trong việc giữ vũ khí, vật liệu nổ,
công cụ hỗ trợ gây hậu quả nghiêm trọng ) và 301 (Tội thiếu trách nhiệm để người bị giam, giữ trốn) của Bộ
luật này, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến năm năm.
2. Phạm tội gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười
hai năm.
3. Người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một
năm đến năm năm”.
Như vậy, có thể nói, các quy định của pháp luật về trách nhiệm công vụ của cán bộ, công chức khá đầy
đủ, rõ ràng, tuy nhiên theo nghĩa tích cực và tiêu cực, tức là hậu quả pháp lý do không thực hiện hay thực hiện
không đúng nghĩa vụ của cán bộ, công chức. Tuy nhiên đối với cán bộ, công chức làm việc đúng, nhưng chưa
đủ để tạo ra kết quả theo yêu cầu, hoặc làm việc một cách cầm chừng, làm vừa đủ bổn phận, cốt sao không
phạm phải khuyết điểm hay bệnh “vô cảm” của cán bộ, công chức – đáng tiếc là đang khá phổ biến hiện nay, tức
là chưa hoàn thành trách nhiệm công vụ, thì chưa có quy định cụ thể và chế tài xử lý.
2.2- Thực trạng trách nhiệm công vụ của cán bộ, công chức

Cho đến nay, ở nước ta có thể nói chưa có một nghiên cứu, khảo sát mang tính định lượng cụ thể về
thực trạng trách nhiệm công vụ của cán bộ, công chức. Trong điều kiện số liệu chính thức về số lượng cán bộ,
công chức bị xử lý kỷ luật bằng các hình thức khác nhau được quan niệm là “mật” hoặc không công khai rộng
rãi thì để đánh giá thực trạng trách nhiệm công vụ của cán bộ, công chức ở nước ta hiện nay chỉ có thể căn cứ
vào: a) Báo cáo về kết quả đánh giá phân loại cán bộ, công chức hàng năm; b) Kết quả công tác phòng chống
tham nhũng; c) Đánh giá của Trung ương Đảng và ý kiến của lãnh đạo các cơ quan nhà nước; d) Phản ánh của


22
các phương tiện thông tin đại chúng về tình trạng tiêu cực, nhũng nhiểu người dân của cán bộ, công chức; đ)
Kết quả khảo sát, lấy ý kiến của người dân, tổ chức đối với sự phục vụ của cơ quan hành chính nhà nước.
Dựa trên kết quả đánh giá phân loại cán bộ, công chức hàng năm đều cho thấy đại đa số cán bộ, công
chức nước ta hoàn thành tốt trách nhiệm công vụ, tỷ lệ cán bộ, công chức không hoàn thành nhiệm vụ
chiếm tỉ lệ rất nhỏ, không đáng kể.
Nguyên nhân của việc xác định chỉ có số ít cán bộ, công chức không hoàn thành nhiệm vụ được nêu ra là:
1) Chất lượng đội ngũ cán bộ công chức trong từng cơ quan đơn vị chưa đồng đều; việc bố trí phân công công
tác đối với từng cán bộ, công chức chưa cụ thể, chưa rõ ràng. 2) Các cơ quan, tổ chức, đơn vị chưa thường
xuyên theo dõi, kiểm tra, giám sát việc thực thi nhiệm vụ của cán bộ, công chức để kịp thời chấn chỉnh, có cơ sở
đánh giá chất lượng thực hiện nhiệm vụ. 3) Tinh thần tự phê bình và phê bình của cán bộ, công chức chưa cao,
vẫn còn tư tưởng “dĩ hòa vi quý”, nể nang trong công tác đánh giá, sợ đụng chạm. 4) Người tự đánh giá không
trung thực, thiếu nghiêm túc trong tự nhận xét đánh giá, thường xuyên có tâm lý không thừa nhận bản thân yếu
kém, chưa hoàn thành nhiệm vụ. Người đứng đầu cơ quan chưa thực hiện đầy đủ thầm quyền, trách nhiệm trong
công tác đánh giá hàng năm nên “Có những đơn vị làm lại tới 5 lần mới chỉ ra được một số không hoàn thành
nhiệm vụ”.
Về công tác phòng, chống tham nhũng. Theo báo cáo của Tổng Thanh tra Chính phủ về công tác phòng,
chống tham nhũng năm 2014 tại phiên khai mạc Kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XIII: Tình hình tham nhũng vẫn
diễn ra phức tạp. Tình trạng sách nhiễu, vòi vĩnh, phiền hà ở một bộ phận công chức, viên chức nhà nước vẫn
diễn ra gây bức xúc đối với người dân và doanh nghiệp. Tình hình tham nhũng trong khu vực công vẫn còn
nghiêm trọng, diễn ra ở nhiều ngành, nhiều cấp, nhiều lĩnh vực, nhất là trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng; quản
lý, sử dụng đất đai; quản lý, khai thác tài nguyên, khoáng sản và đầu tư công.

Trong năm 2014, ngành Thanh tra đã phát hiện 54 vụ, 87 đối tượng có hành vi liên quan đến tham nhũng
với số tiền 68,5 tỷ đồng; đã thu hồi 46,9 tỷ đồng (đạt 68,5%, tăng 18,3% so với năm 2013). Lực lượng cảnh sát
điều tra các cấp đã thụ lý 415 vụ án/1.031 bị can phạm tội về tham nhũng, khởi tố mới 256 vụ/593 bị can (so với
cùng kỳ năm trước tăng 23 vụ/25 bị can); thiệt hại trên 6.740 tỷ đồng, đã thu hồi nộp ngân sách nhà nước trên
1.500 tỷ đồng (đạt 22,3%, tăng 14,1% so với năm 2013).
Về xử lý trách nhiệm của người đứng đầu khi để xảy ra tham nhũng, trong năm 2014 đã có 48 người
đứng đầu thiếu trách nhiệm để xảy ra hành vi tham nhũng, trong đó, 03 người bị xử lý hình sự, 05 người bị cách
chức, 40 người bị xử lý kỷ luật các hình thức cảnh cáo, khiển trách.
Theo đánh giá của Trung ương Đảng, cụ thể là:
Kết luận số 37-KL/TW ngày 02/2/2009 của Trung ương 9 (khóa X) về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện
Chiến lược Cán bộ từ nay đến năm 2020: “Tình trạng suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống, bệnh cơ
hội, chủ nghĩa cá nhân, thực dụng, quan liêu, tham nhũng, lãng phí, thiếu trách nhiệm, thiếu tự giác rèn luyện,
phấn đấu, thiếu tinh thần đồng chí trong một bộ phận không nhỏ cán bộ diễn ra nghiêm trọng, kéo dài nhưng
chậm có giải pháp hữu hiệu để ngăn chặn và kịp thời xử lý, làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng, với
chế độ”.
Văn kiện Đại hội lần thứ XI nhận định “Năng lực, phẩm chất của một bộ phận cán bộ, đảng viên, công
chức, viên chức còn hạn chế”.
Nghị quyết số 12-NQ/TW của Trung ương 4 (khóa XI) về một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện
nay: “Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả
một số cán bộ cao cấp, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống với những biểu hiện khác nhau về sự
phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa
vị, cục bộ, tham nhũng, lãng phí, tùy tiện, vô nguyên tắc”.
Kết luận số 64/KL/TW về một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính trị từ Trung ương
đến cơ sở: “Một bộ phận cán bộ, công chức chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ”.
Bên cạnh đó, các đồng chí lãnh đạo Chính phủ cũng đánh giá:“một bộ phận cán bộ, công chức có tinh thần
phục vụ kém, thiếu trách nhiệm, sách nhiễu, tiêu cực trong khi việc kiểm tra, xử lý chưa quyết liệt, nghiêm túc”
(Phát biểu của Thủ tướng Chính phủ tại Hội nghị trực tuyến toàn quốc về đẩy mạnh cải cách hành chính
(CCHC) và cải cách chế độ công vụ, công chức).
Tuy nhiên, rất khó định lượng cụ thể “một bộ phận” hay “một bộ phận không nhỏ” là bao nhiêu người
trong đội ngũ cán bộ, công chức ở nước ta.

Về phản ánh của các phương tiện thông tin đại chúng. Có thể nói không có ngày nào trên các trang báo
giấy và báo mạng không có bài liên quan đến tình trạng tiêu cực, nhũng nhiễu, vô cảm, thậm chí là vi phạm
pháp luật của cán bộ, công chức. Ví dụ: “Vẫn còn một bộ phận cán bộ, công chức xa dân, quan liêu” – Báo
Thanh niên ngày 23/3/2015; “Hải quan vẫn còn nhũng nhiễu, doanh nghiệp bắt buộc phải chung chi – Báo Lao
động”, ngày 24/4/2015; “Quốc hội nóng với chất vấn tiêu cực, nhũng nhiễu trong cấp sổ đỏ” - Báo Người lao
động ngày 29/9/2014…
Về kết quả khảo sát ý kiến người dân. Theo công bố kết quả cuộc khảo sát chỉ số hiệu quả quản trị và
hành chính công cấp tỉnh ở Việt Nam năm 2014 (PAPI 2014), tình hình tham nhũng vặt có chiều gia tăng. Kết
quả nghiên cứu, đánh giá của người dân về tình trạng tham nhũng trong khu vực công cho thấy hiệu quả kiểm


23
soát tham nhũng của các cấp chính quyền là “ít có chuyển biến tích cực”. Thậm chí, trong một số lĩnh
vực, mức độ vòi vĩnh, nhũng nhiễu của cán bộ, công chức nhà nước là “có xu hướng gia tăng”. 50% người dân
được hỏi cho rằng có đưa lót tay để xin việc làm trong cơ quan nhà nước, khoảng 43% bệnh nhân hoặc người
nhà phải bồi dưỡng cho cán bộ y tế, 30% phụ huynh bồi dưỡng giáo viên…
3. Một số giải pháp nâng cao trách nhiệm công vụ của cán bộ, công chức
Từ thực trạng nêu trên, theo tác giả để nâng cao trách nhiệm công vụ của cán bộ, công chức, trong thời
gian tới cần thực hiện đồng bộ các giải pháp sau:
a) Thống nhất nhận thức về tính cấp thiết của việc nâng cao trách nhiệm công vụ của đội ngũ cán bộ, công
chức. Theo đó, phải xác định rõ vấn đề cốt lõi của cải cách hành chính là nâng cao trách nhiệm của cán bộ, công
chức
b) Tiếp tục hoàn thiện thể chế quản lý cán bộ, công chức theo hướng quy định rõ nhiệm vụ, thẩm quyền
của từng vị trí việc làm và chức danh cán bộ, công chức
Cụ thể là cần:
- Tiếp tục hoàn thiện việc phân định cán bộ, công chức, từ đó xây dựng cơ chế phân cấp quản lý phù hợp
với từng loại đối tượng. Sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện các quy định về nghĩa vụ và quyền của cán bộ, công
chức theo các loại hình cơ quan: lập pháp, hành pháp, tư pháp; theo các cấp hành chính: trung ương, địa
phương, cơ sở; theo các vị trí công chức: lãnh đạo, quản lý; tham mưu; thừa hành...
- Hoàn thiện các quy định hướng dẫn về tiêu chuẩn và phương pháp xác định vị trí việc làm phù hợp với

từng loại hình cơ quan, đơn vị; phân công, phân cấp rõ ràng, hợp lý thẩm quyền phê duyệt danh mục vị trí việc
làm. - Xây dựng, bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật về chức danh, tiêu chuẩn công chức, viên chức lãnh
đạo, quản lý và các ngạch công chức.
- Sửa đổi Quy chế đánh giá cán bộ, công chức theo hướng gắn với kết quả, hiệu quả công việc và đề cao
trách nhiệm người đứng đầu; thực hiện nguyên tắc cấp trên đánh giá cấp dưới, phù hợp với đặc điểm, tính chất
hoạt động của mỗi loại đối tượng.
- Xây dựng quy chế, tổ chức theo dõi kiểm tra giám sát thường xuyên việc thực hiện nhiệm vụ của từng
cán bộ, công chức.
- Hoàn thiện các quy định pháp luật về khen thưởng và có chế độ tiền thưởng đối với cán bộ, công chức
hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, đồng thời có chế tài xử lý nghiêm đối với công chức thiếu trách nhiệm và vi
phạm pháp luật.
c) Đổi mới phương thức làm việc của các cơ quan nhà nước và công tác quản lý cán bộ, công chức
Xuất phát từ nguyên tắc “Thảo luận thì thảo luận chung, nhưng trách nhiệm là của từng người... Vì không
biết vận dụng nguyên tắc này nên cứ mỗi bước đi, chúng ta lại bị khốn đốn…” (Lê nin toàn tập, tập 44, tr. 207),
cần đổi mới phương thức làm việc của các cơ quan nhà nước theo hướng từng cơ quan, đơn vị được giao nhiệm
vụ cụ thể, rõ ràng và người đứng đầu phải chịu trách nhiệm quản lý, điều hành đội ngũ cán bộ, công chức thuộc
quyền thực thi nhiệm vụ. Đến lượt mỗi cán bộ, công chức được phân công nhiệm vụ cụ thể và chịu trách nhiệm
bằng chữ ký của mình, hạn chế tình trạng công chức thực thi chí có nhiệm vụ nghiên cứu, chuẩn bị tài liệu, soạn
thảo văn bản hoặc tham mưu giúp việc cho lãnh đạo trưởng, phó phòng, vụ trưởng, phó vụ trưởng, giám đốc,
phó giám đốc chung chung như hiện nay.
Trên cơ sở xác định vị trí việc làm, các cơ quan, tổ chức, đơn vị phải phân công cụ thể rõ ràng, lượng
hóa công việc càng rõ để làm cơ sở đánh giá, phân loại.
d) Tăng cường kỷ cương, kỷ luật hành chính gắn với nâng cao đạo đức công vụ, đạo đức nghề nghiệp của
đội ngũ cán bộ, công chức
Chính phủ cần chỉ đạo nghiên cứu xây dựng Bộ Quy tắc đạo đức công vụ, trong đó xác định rõ giá trị
cốt lõi của nền công vụ và quy định rõ nghĩa vụ, trách nhiệm, quyền lợi của người công chức; những trường hợp
cần tự nguyện, chủ động xin từ chức; Hoàn thiện quy định của pháp luật về mối quan hệ giữa các cơ quan Nhà
nước; thực hiện công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình trong các hoạt động quản lý kinh tế - xã hội … ;
Đổi mới và tăng cường công tác giáo dục đạo đức công vụ, đạo đức nghề nghiệp nhằm hình thành các chuẩn
mực đạo đức công vụ của người cán bộ, công chức.

d) Tăng cường công khai, minh bạch trong hoạt động của các cơ quan nhà nước và trách nhiệm giải trình
của cán bộ, công chức; hoàn thiện cơ chế giám sát của người dân, tổ chức đối với hoạt động của cán bộ, công
chức.e) Cải cách hệ thống chính sách tiền lương, tiền thưởng và đãi ngộ vật chất, tinh thần đối với đội ngũ cán
bộ, công chức
Thể hiện cụ thể qua các nội dung như sau : - Đổi mới các thành tố của hệ thống chính sách tiền lương
đối với cán bộ, công chức. Hoàn thiện hệ thống thang lương, bảng lương trên cơ sở xem xét tính chất, đặc điểm
lao động và phân loại từng đối tượng cán bộ, công chức.
- Hoàn thiện phương thức quản lý tiền lương cán bộ, công chức trên cơ sở tách rõ cơ quan hành chính
công quyền với các tổ chức sự nghiệp dịch vụ công để có cơ chế tài chính và cơ chế quản lý tiền lương phù hợp.
- Xác định rõ ưu tiên và bảo đảm nguồn cho cải cách tiền lương cán bộ, công chức; có lộ trình thích hợp
và phải xác định được thứ tự ưu tiên cải cách, trong đó trước mắt cần ưu tiên cải cách chính sách tiền lương của
cán bộ, công chức hành chính nhà nước.


24

Câu 61 (30đ). Đồng chí hãy nêu các chức năng cơ bản của tổ chức hành chính nhà
nước và trình bày các nguyên tắc tổ chức, hoạt động của bộ máy hành chính Nhà nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Liên hệ thực tiễn.
Trả lời: Tổ chức hành chính nhà nước (cơ quan hành chính nhà nước) là một trong các
yếu tố cấu thành hệ thống hành chính nhà nước, bao gồm một tập hợp nhiều người, có sự phối
hợp hoạt động một cách có ý thức trong khuôn khổ của Hiến pháp, pháp luật, nhằm thực hiện
quyền hành pháp; là cơ quan chấp hành, đảm bảo thực thi quyền hành pháp, đưa pháp luật vào
cuộc sống để quản lý Nhà nước, quản lý xã hội.
Chức năng cơ bản của tổ chức hành chính nhà nước (cơ quan hành chính nhà
nước) là: Quản lý nhà nước và cung cấp hàng hoá, dịch vụ công cho xã hội, cho công dân. Với
chức năng đó, hoạt động của tổ chức (cơ quan) hành chính nhà nước mang tính cưỡng chế độc
quyền, có ảnh hưởng rộng lớn đến xã hội, bị ràng buộc bởi pháp luật, có phạm vi hoạt động
rộng, được bảo đảm bằng ngân sách của Nhà nước, việc cung cấp hàng hoá dịch vụ công cho
xã hội, cho công dân là trách nhiệm của tổ chức (cơ quan) hành chính nhà nước phải phục vụ

chứ không phải vì đặc quyền, đặc lợi.
Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước ở nước ta được
thực hiện theo các nguyên tắc cơ bản sau đây:
Một là, Phải phhù hợp Hiến pháp và chức năng thực thi quyền hành pháp.
Hai là, Phải tạo thành một hệ thống thống nhất, hoàn chỉnh từ trung ương đến cơ sở
trên cơ sở phân cấp, phân quyền về chức năng, nhiệm vụ theo cấp quản lý và theo phạm vi
lãnh thổ để bảo đảm giải quyết công việc nhanh nhạy và phản ánh thực tiễn đúng đắn. Việc
phân cấp, phân quyền phải bảo đảm sự thống nhất về chức năng, nhiệm vụ với thẩm quyền;
giữa quyền hạn với trách nhiệm; giữa nhiệm vụ, trách nhiệm với phương tiện để giải quyết
công việc.
Ba là, Phải bảo đảm yêu cầu tiết kiệm, hiệu quả trong sử dụng các nguồn lực quản lý;
đây là vấn đề vừa có ý nghĩa thiết thực trong xây dựng và phát triển đất nước và cũng là một
biện pháp ngăn chặn sự lạm dụng, tham nhũng, lãng phí v.v...
Bốn là, Phải phát huy được tính tích cực, sáng tạo của con người trong việc cơ cấu tổ chức,
hoạt động của bộ máy và người dân, nguyên tắc này là yêu cầu phổ biến ở tất cả các nền hành
chính hiện nay trên thế giới đặc biệt là ở các nước có nền kinh tế thị trường phát triển.
Liên hệ với thực tiễn ở nước ta cho thấy: Quá trình tổ chức, hoạt động, thực thi quyền
hành pháp, về cơ bản hệ thống tổ chức hành chính nhà nước (cơ quan hành chính nhà nước) ở
nước ta đã bám sát chức năng, nhiệm vụ và các nguyên tắc cơ bản trong tổ chức, hoạt động và
được cụ thể hóa bằng các nguyên tắc cụ thể sau đây:
Một là, Nguyên tắc Đảng lãnh đạo hệ thống hành chính nhà nước: Nguyên tắc này đã
được quy định tại điều 4 Hiến pháp năm 2013: “ Đảng Cộng sản Việt Nam - Đội tiên phong
của giai cấp công nhân …………….. là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”. Đảng lãnh
đạo hệ thống hành chính nhà nước bằng việc ban hành các đường lối, chủ trương, bằng công
tác tổ chức, bằng sự gương mẫu của đảng viên v.v…, nhưng không can thiệp cụ thể hay làm
cản trở hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước.
Hai là, Nguyên tắc tập trung dân chủ: Nguyên tắc này đã được quy định tại Điều 8 Hiến
pháp năm 2013: “ Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý
xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ”. Nguyên tắc này
là sự kết hợp giữa tập trung và dân chủ, nhằm đảm bảo sự lãnh đạo tập trung trên cơ sở dân chủ,

đồng thời mở rộng dân chủ dưới sự lãnh đạo tập trung thông qua các mối quan hệ trực thuộc; phân
định rõ chức năng, thẩm quyền giữa cơ quan hành chính nhà nước ở các cấp nhằm bảo đảm sự
lãnh đạo tập trung của cấp trên với cấp dưới; bảo đảm sự phục tùng của địa phương với trung
ương, của cấp dưới với cấp trên, của thiểu số với đa số.
Ba là, Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa: Nguyên tắc này nhằm đảm bảo cho việc
thiết lập bãi bỏ các cơ quan hành chính nhà nước được thực hiện theo quy định của Hiến pháp,


25

pháp luật. Việc tuyển dụng, bổ nhiệm, bố trí sắp xếp, điều động, luân chuyển v,v…cán bộ,
công chức trong hệ thống hành chính nhà nước được thực hiện đúng quy trình pháp luật quy
định; việc ban hành các văn bản pháp quy của cơ quan hành chính nhà nước không được trái
với các băn bản của các cơ quan nhà nước cấp trên, không trái với Hiến pháp và pháp luật;
hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước được thực hiện đúng quy định của pháp luật và
trong phạm vi pháp luật cho phép. Cơ quan hành chính nhà nước phải chịu trách nhiệm trước
pháp luật, trước người dân về hoạt động của mình, nếu gây thiệt hại cho cá nhân, tổ chức có
trách nhiệm phải bồi thường.
Bốn là, Nguyên tắc quản lý theo ngành kết hợp với quản lý theo địa giới hành chính: là
nguyên tắc quan trọng nhằm đảm bảo cho các hoạt động được thực hiện theo quy định của
pháp luật và được thực hiện trong phạm vi địa phương hoặc trong phạm vi cả nước đối với tất
cả mọi ngành, mọi lĩnh vực.
Năm là, Nguyên tắc quản lý theo ngành kết hợp với quản lý theo lĩnh vực: Nguyên tắc
này nhằm đảm bảo cho hoạt động quản lý nhà nước được thống nhất đồng bộ, có sự phối hợp
với nhau và có hiệu quả.
Sáu là, Nguyên tắc phân định rõ ràng giữa chức năng quản lý nhà nước về kinh tế với
quản lý sản xuất kinh doanh. Nguyên tắc này nhằm xác định rõ chức năng của nhà nước trong
việc xây dựng chiến lược, qui hoạch và định hướng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, tạo ra
cơ chế quản lý và môi trường pháp lý ổn định cho việc thực hiện sản xuất kinh doanh; định
hướng cho sự phát triển của nền kinh tế, sử dụng chính sách pháp luật và các công cụ khác để

điều tiết vĩ mô nền kinh tế nhằm làm cho nền kinh tế phát triển theo mục tiêu của nhà nước và
không can thiệp hành chính vào hoạt động sản xuất kinh doanh. Đối với các chủ thể hoạt động
kinh doanh phải có nhiệm vụ chấp hành và cụ thể hoá chiến lược và kế hoạch kinh tế - xã hội
của nhà nước, thực hiện kinh doanh theo quy định của pháp luật và chịu sự kiểm tra, giám sát
của nhà nước.
Ngoài các nguyên tắc nói trên tổ chức hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước
ở nước ta còn tuân theo các nguyên tắc: Bất kỳ chức năng quản lý nhà nước nào cũng phải có
tổ chức, có con người để thực hiện chức năng đó; một tổ chức có thể đảm đương một hoặc
nhiều chức năng khác nhau; cùng một chức năng thì không giao cho nhiều tổ chức; bất kỳ
vùng miền lãnh thổ nào cũng được có tổ chức./.

Trình bày các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước?
Phân tích các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước
Việt nam.
Mỗi một quốc gia đều có những nguyêntắc rất cơ bản cho việc xây dựng cơ cấu tổ chức
hành chính nhà nước nhằm đảm bảo cho việc quản lý nhà nước thống nhất, thông suốt, có hiệu
lực và hiệu quả, bảo đảm sự phát triển ổn định và bền vững của quốc gia.
1).Nguyên tắc nền hành chính phù hợp với những yêu cầu của chức năng thực thi quyền
hành pháp.Tổ chức nền hành chính trước hết phải phù hợp với những yêu cầu của chức năng
quản lý của chính phủ, phải dựa vào mục tiêu chức năng mà định ra thể chế và lập ra các bộ
máy tổ chức tương ứng. Đây là một nguyên tắc quan trọng trong tổ chức nền hành chính.
2).Nguyên tắc hoàn chỉnh thống nhất. Tổ chức hành chính nhà nước phải là một tổ chức
hoàn chỉnh và thống nhất. ở các nước hiện nay, dù thực hành theo chế độ nhà nước đơn nhất
hay chế độ liên bang, thực hành chế độ tập quyền hay phân quyền trong quốc gia liên bang
hay một quốc gia đơn nhất, hay một nước thành viên, chỉ có một chính phủ thực hành quyền
quản lý, thống nhất quản lý nền hành chính nhà nước và bộ máy tổ chức. Chính phủ là một tổ
chức hoàn chỉnh thống nhất. Bộ máy hành chính càng thể hiện rõ, đầy đủ nguyên tắc thống
nhất. Bộ máy hành chính càng thể hiện rõ, đầy đủ nguyên tắc thống nhất, hoàn chỉnh thì càng
phát huy tác dụng, hiệu lực của nó. Đó là sự thể hiện quản lý tập trung trong nguyên tắc tập
trung dân chủ trong tổ chức hành chính nhà nước xã hội chủ nghĩa.



×