Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

Ảnh hưởng của cuộc cách mạng Khoa học Công nghệ 4.0 đối với Giáo dục và Đào tạo ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (330.74 KB, 13 trang )

ẢNH
HƯỞNG
CỦA
CUỘC
CÁCH
MẠNG
KHOA
HỌC
CÔNG
NGHỆ 4.0 ĐẾN GIÁO
DỤC VÀ ĐẠO TẠO CỦA
VIỆT NAM HIỆN NAY
sontnv.thptthuong


TÓM TẮT:
Cách mạng 4.0 cũng như những cuộc cách mạng trước đó đã tác động tới
mọi mặt của đời sống xã hội với những mức độ và chiều hướng khác nhau. Giáo
dục đại học là một trong những ngành chịu ảnh hưởng mạnh mẽ nhất của cuộc
cách mạng 4.0 vì sản phẩm của đào tạo phải đáp ứng với nhu cầu của thị trường
lao động đang có sự thay đổi nhanh chóng. Bài viết này đề cập đến một số tác động
của cuộc cách mạng 4.0 tới hoạt động giáo dục đại học của Việt Nam hiện nay.
1. Khái quát về cuộc cách mạng 4.0
Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (cách mạng 4.0) bắt đầu xuất hiện từ thập
niên đầu tiên của thế kỷ XXI. Cuộc cách mạng 4.0 là sự gắn kết giữa các nền công
nghệ, làm xóa đi ranh giới giữa thế giới vật thể, thế giới số hóa và thế giới sinh
học. Đó là các công nghệ internet vạn vật, trí tuệ nhân tạo, người máy, xe tự lái, in
ba chiều, máy tính siêu thông minh, công xưởng thông minh, công nghệ nano,
công nghệ sinh học… Đây là cuộc cách mạng về sản xuất thông minh dựa trên các
thành tựu đột phá trong các lĩnh vực công nghệ khác nhau với nền tảng là các đột
phá của công nghệ số. Trung tâm củacuộc cách mạng 4.0là công nghệ thông tin và


internet kết nối vạn vật (IoT), không chỉ giúp con người giao tiếp với con người,
mà còn là con người giao tiếp với máy, con người giao tiếp với đồ vật và đồ vật
giao tiếp với nhau.
Cuộc cách mạng 4.0 sẽ tạo ra sự thay đổi mạnh mẽ về phân bố nguồn lực sản
xuất, cách thức sản xuất và tiêu dùng nhờ vào sự phát triển mạnh mẽ của khoa học
công nghệ. Nền sản xuất “tự động” đặc trưng của cách mạng công nghiệp lần thứ 3
sẽ sớm chuyển sang nền sản xuất “thông minh”, trong đó các máy móc được kết
nối internet và liên kết với nhau qua một hệ thống có thể tự vận hành toàn bộ quá
trình sản xuất theo một kế hoạch đã được xác lập từ trước.
Làn sóng công nghệ mới với sản xuất thông minh sẽ giúp công nghệ phát
triển và kéo theo năng suất tăng cao. Nhưng để có thể áp dụng được “sản xuất
thông minh” vào thực tiễn thì không thể thiếu một nguồn nhân lực chất lượng cao.
Vì vậy, nhiệm vụ đặt ra đối với ngành Giáo dục là cần phải có định hướng cụ thể
để thích ứng với thời cuộc, để đào tạo ra nguồn nhân lực tốt, đáp ứng với yêu cầu
đòi hỏi của thị trường lao động. Bởi, nguồn nhân lực chất lượng cao luôn là yếu tố
quyết định cho sự phát triển.
2. Lực lượng lao động trước đòi hỏi của cuộc cách mạng 4.0
2


Theo Báo cáo phân tích môi trường kinh doanh (Doing Business Report) của
Ngân hàng Thế giới (WB), năm 2016, Việt Nam xếp thứ 90 trong 189 nước tham
gia xếp hạng. Với sự tác động của cách mạng 4.0, các nước đang phát triển như
Việt Nam sẽ buộc phải thay đổi lợi thế cạnh tranh. Dự báo, từ năm 2020 trở đi,
chúng ta không cạnh tranh với các quốc gia như Trung Quốc, Bănglađét, Malaixia,
Ấn Độ hay Mêxicô, mà là cạnh tranh với những công ty tự động hóa của Mỹ hay
Nhật Bản.
Trong lịch sử, các cuộc cách mạng công nghiệp đều đi kèm với những hệ lụy
như bất công gia tăng kéo theo hàng loạt những chuyển dịch lớn về chính trị cũng
như thể chế. Diễn đàn kinh tế thế giới đã rung một hồi chuông cảnh báo người lao

động và chính phủ các nước cần chuẩn bị cho việc nguồn lực lao động sẽ có những
dịch chuyển đột ngột, khiến cho người lao động đối diện nguy cơ mất việc làm. Có
khoảng 47% các công việc hiện tại ở Mỹ có thể biến mất vì tự động hóa, dẫn đến
nguy cơ phá vỡ thị trường lao động và gia tăng căng thẳng về việc làm.
Nhìn vào một ngành cụ thể như ngành Dệt may, đã xuất hiện rô-bốt làm việc
cùng con người trong các nhà máy. Điều đó còn chưa dừng lại. Theo ILO, 2/3
trong số 9,2 triệu lao động ngành Dệt may và Da giày tại Đông Nam Á đang bị đe
dọa, trong đó 86% lao động của Việt Nam, 88% lao động của Campuchia và 64%
lao động Inđônêxia trong ngành May mặc, Da giày sẽ chịu ảnh hưởng nặng nề từ
làn sóng tự động hóa, công nghiệp hóa trong ngành. Hay như hệ thống tổng đài
(Call Center) trả lời trong ngành Viễn thông, Ngân hàng, Bảo hiểm, Chứng khoán
cũng bị đe dọa, khi mà hàng trăm nghìn người đang làm việc cho các “call center”
trên khắp thế giới có thể mất việc.
Cùng với sự ảnh hưởng của công nghệ, việc gia tăng tầng lớp trung lưu và
quá trình đô thị hóa ở các thị trường mới nổi cũng sẽ ảnh hưởng đến xu hướng việc
làm. Nhu cầu lao động có tay nghề cao gia tăng trong khi nhu cầu đối với lao động
có tay nghề và kỹ năng thấp đã giảm. Điều đó có lợi cho tầng lớp giàu hơn là
nghèo và dẫn đến tình trạng bất bình đẳng lớn hơn. Diễn đàn Kinh tế Davos năm
ngoái đã dự đoán, cách mạng 4.0 diễn ra sẽ khiến 7 triệu việc làm trước đây biến
mất và 2.000.000 việc làm mới được tạo ra.
Với khoảng 60% dân số trong độ tuổi lao động, Việt Nam còn ở thời kỳ dân
số vàng trong ít nhất 20 năm nữa. Tuy nhiên, do nguồn nhân lực có sự thiếu hụt
trầm trọng lao động có trình độ tay nghề cao và công nhân kỹ thuật lành nghề
khiến cho chỉ số cạnh tranh nguồn nhân lực Việt Nam chỉ đạt 3,39/10 điểm và năng
lực cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam xếp thứ 73/133 nước (WB, 2014). Hiện có
khoảng 52% dân số Việt Nam sử dụng internet, dự báo đến năm 2020 sẽ có khoảng
3


1000.000 lao động làm việc trong lĩnh vực công nghệ thông tin. Đây là những nền

tảng và lợi thế rất quan trọng mà nhiều tập đoàn công nghệ cao như Fujitsu, Intel,
Samsung, Siemens, Acatel... đang tranh thủ để mở rộng đầu tư vào Việt Nam.
Năm 2016, lần đầu tiên Việt Nam có hơn 110.000 doanh nghiệp thành lập
trong một năm, bình quân một giờ đồng hồ có 12 doanh nghiệp mới ra đời. Việt
Nam đặt mục tiêu đến năm 2020 có hơn 1.000.000 doanh nghiệp, hỗ trợ khoảng
600 doanh nghiệp, với 2.000 dự án trong lĩnh vực khởi nghiệp sáng tạo để thúc đẩy
các doanh nghiệp tiếp cận với công nghệ mới. Đồng thời, việc đàm phán hoặc ký
kết các Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới hy vọng đem lại những cơ hội việc
làm mới. Tuy nhiên, nền kinh tế Việt Nam hiện nay vẫn dựa nhiều vào các ngành
thâm dụng lao động giá rẻ.
Nhà vật lý, vũ trụ học Stephen Hawking gần đây đã có phát ngôn chấn động
khi dự đoán về tác động khủng khiếp của công nghệ rô-bốt trong tương lai: “Loài
người đang đối diện với khả năng diệt vong trong 1.000 năm nữa, nếu không phải
vì chiến tranh hạt nhân, thì cũng vì công nghệ rô bốt phát triển”. Mới đây, Elon
Musk tuyên bố thành lập một công ty chuyên nghiên cứu cách liên kết bộ não con
người với trí tuệ nhân tạo của máy tính. Viễn cảnh các nhà máy thông minh, trong
đó các máy móc được kết nối internet và liên kết với nhau qua một hệ thống có thể
tự hình dung toàn bộ quy trình sản xuất rồi đưa ra quyết định có lẽ sẽ không còn xa
xôi nữa.
Thách thức lớn nhất của mỗi cá nhân là vượt qua chính mình, vượt qua tâm
lý tư duy phát triển tự hài lòng của người tiểu nông, không dám chấp nhận mạo
hiểm để khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo. Cần chủ động đưa tư duy của mình thoát
khỏi lối mòn với những ý tưởng, những hệ thống thậm chí chưa bao giờ nghĩ tới.
Xét đến cùng, nếu không muốn bị lệ thuộc vào những quốc gia đi trước thì mỗi cá
nhân, doanh nghiệp hay rộng hơn là đất nước, đều cần phải liên tục đổi mới để sinh
tồn.
Cách mạng 4.0 trong đó cách mạng năng lượng, cách mạng ICT và trí tuệ
nhân tạo cùng công nghệ in 3D đang tạo ra môi trường kinh doanh mới mẻ. Nơi
mà tài năng, tri thức sẽ đại diện cho yếu tố quan trọng của sản xuất, hơn là yếu tố
vốn. Đồng thời, tạo cơ hội phát sinh một thị trường việc làm ngày càng tách biệt và

có thu nhập cao trong xã hội.
Lực lượng lao động của nước ta hiện nay không thiếu về số lượng nhưng lại
thiếu về kiến thức chuyên môn, yếu về kỹ năng giải quyết vấn đề, lãnh đạo và giao
tiếp dẫn đến năng suất lao động thấp (chỉ bằng 4,4% Singapore; bằng 17,4% của
4


Malaysia; 35,2% của Thái Lan; 48,5% của Philippines và 48,8% của Indonesia).
Với thực trạng như vậy, lợi thế về chi phí nhân công thấp tại Việt Nam đang dần
mất đi sức hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài.
Trước thực tế trình độ lao động như vậy, cùng với làn sóng của cuộc cách
mạng công nghiệp 4.0, mối lo này càng trở nên lớn hơn. Một số báo cáo về thị
trường lao động đánh giá cách mạng công nghiệp 4.0 không chỉ đe dọa tới việc làm
của những lao động trình độ thấp (lực lượng sẽ bị ảnh hưởng nhiều nhất) mà ngay
cả các lao động có kỹ năng bậc trung cũng sẽ bị ảnh hưởng nếu họ không trang bị
kiến thức mới, chủ yếu là kỹ năng sáng tạo. Một số nghề như lái xe, lắp ráp điện
tử, rô bốt cũng sẽ dần thay thế. Thách thức ở đây chính là, nếu muốn ứng dụng
được công nghệ 4.0, con người phải có trí tuệ mới tham gia được quá trình sản
xuất, bản thân mỗi con người trong đó phải có sự sáng tạo.
Do đó, để phát huy được sự sáng tạo của mỗi lao động, không còn cách nào
khác là phải cải cách, thay đổi ngay từ khâu đào tạo.
3. Tác động của cuộc cách mạng 4.0 tới giáo dục của Việt Nam
Trước những đòi hỏi của thị trường lao động ngày càng cao để phù hợp với
môi trường sản xuất mới, các hoạt động đào tạo của các cơ sở đào tạo càng phải
được gắn kết với doanh nghiệp nhằm rút ngắn khoảng cách giữa đào tạo, nghiên
cứu và triển khai. Đẩy mạnh phát triển đào tạo tại doanh nghiệp, phát triển các
trường trong doanh nghiệp để đào tạo nhân lực phù hợp với công nghệ và tổ chức
của doanh nghiệp. Tăng cường việc gắn kết giữa cơ sở giáo dục và doanh nghiệp,
trên cơ sở trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp, hướng tới doanh nghiệp thực sự là
“cánh tay nối dài” trong hoạt động đào tạo của cơ sở giáo dục nhằm sử dụng có

hiệu quả trang thiết bị và công nghệ của doanh nghiệp phục vụ cho công tác đào
tạo, hình thành năng lực nghề nghiệp cho người học trong quá trình đào tạo và thực
tập tại doanh nghiệp.
Như vậy, có thể thấy sự tác động của cuộc cách mạng 4.0 tới giáo dục là rất
lớn, vừa tạo ra cơ hội nhưng cũng đặt ra những thách thức ngày càng nhiều hơn
cho các cơ sở giáo dục. Cơ hội và thách thức đối với các cơ sở giáo dục trước sự
tác động của cuộc cách mạng 4.0 luôn có sự đan xen lẫn nhau. Cụ thể là:
Thứ nhất, tạo ra nhu cầu đào tạo cao cho các cơ sở giáo dục. Trong mọi lĩnh
vực ngành nghề, những bước đi có tính đột phá về công nghệ mới như trí thông
minh nhân tạo, robot, mạng internet, phương tiện độc lập, in 3D, công nghệ nano,
công nghệ sinh học, khoa học về vật liệu, lưu trữ năng lượng và tin học lượng tử sẽ
còn tác động mạnh mẽ hơn tới đời sống xã hội. Trong cuộc cách mạng 4.0, hệ
5


thống giáo dục nghề nghiệp sẽ bị tác động rất mạnh và toàn diện, danh mục nghề
đào tạo sẽ phải điều chỉnh, cập nhật liên tục vì các ranh giới giữa các lĩnh vực rất
mỏng manh. Theo đó, sẽ là sự liên kết giữa các lĩnh vực lý - sinh; cơ - điện tử sinh, từ đó hàng loạt nghề nghiệp cũ sẽ mất đi và thay vào đó là cơ hội cho sự phát
triển của những ngành nghề đào tạo mới, đặc biệt là sự liên quan đến sự tương tác
giữa con người và máy móc. Thị trường lao động trong nước cũng như quốc tế sẽ
có sự phân hóa mạnh mẽ giữa nhóm lao động có trình độ thấp và nhóm lao động có
trình độ cao. Các nhà nghiên cứu chỉ ra rằng, cuộc cách mạng công nghiệp 4.0
không chỉ đe dọa tới việc làm của những lao động trình độ thấp, mà ngay cả lao
động có kỹ năng bậc trung cũng sẽ bị ảnh hưởng nếu họ không được trang bị kiến
thức mới - kỹ năng sáng tạo cho nền kinh tế 4.0. Cách mạng công nghiệp 4.0
không chỉ tạo ra cơ hội đào tạo những người mới chưa qua đào tạo, còn đòi hỏi
ngay cả những người đã đi làm, từ công nhân đến kỹ sư đều phải thay đổi, cập nhật
về kiến thức, kỹ năng ở mức độ cao hơn. Theo mục tiêu của Chính phủ, năm 2020,
nước ta sẽ có khoảng 1.000.000 doanh nghiệp, tức là cũng cần một triệu cán bộ
công nghệ thông tin. Tuy nhiên, hiện nay chúng ta mới có 300.000 cán bộ công

nghệ thông tin, nên chỉ riêng nhu cầu đào tạo mới của ngành này để cung cấp cho
xã hội một lực lượng lao động làm chủ công nghệ thông tin đã là cơ hội lớn cho
các trường đào tạo.
Thứ hai, làm thay đổi mọi hoạt động trong các cơ sở đào tạo. Để đáp ứng đủ
nhân lực cho nền kinh tế sáng tạo, đòi hỏi phải thay đổi các hoạt động đào tạo, nhất
là ngành nghề đào tạo, hình thức và phương pháp đào tạo với sự ứng dụng mạnh
mẽ củacông nghệ thông tin. Theo đó, các phương thức giảng dạy cũ không còn phù
hợp với nhu cầu của xã hội. Với sự vận dụng những thành tựu của cách mạng 4.0
thì người học ở bất cứ đâu đều có thể truy cập vào thư viện của nhà trường để tự
học, tự nghiên cứu. Như vậy, không thể chỉ tồn tại mô hình thư viện truyền thống
mà các trường phải xây dựng được thư viện điện tử. Hoặc chúng ta sẽ có những mô
hình giảng dạy mới như đào tạo trực tuyến không cần lớp học, không cần giáo viên
đứng lớp, người học sẽ được hướng dẫn học qua mạng. Những lớp học ảo, thầy
giáo ảo, thiết bị ảo có tính mô phỏng, bài giảng được số hóa và chia sẻ qua những
nền tảng như Facebook, YouTube, Grab, Uber... sẽ trở thành xu thế phát triển trong
hoạt động đào tạo nghề nghiệp trong thời gian tới. Khi đó, kiến thức không thể bó
hẹp và độc quyền bởi một người hay trong một phạm vi tổ chức. Người học có
nhiều cơ hội để tiếp cận, tích lũy, chắt lọc cái mới, cái hay, có nhiều cơ hội để trở
thành một công dân toàn cầu - người lao động tương lai có khả năng làm việc trong
môi trường sáng tạo và có tính cạnh tranh. Phần thưởng cuối cùng không còn là
bằng cấp trên giấy tờ nữa, mà là bằng cấp theo nghĩa mở rộng, trao đổi tri thức,
sáng tạo, giá trị đóng góp cho xã hội. Bởi một doanh nghiệp tuyển dụng là cần
người làm được việc chứ không cần người có văn bằng cao. Từ đó có thể bỏ việc
6


yêu cầu về bằng cấp hay xem đó là điều kiện tiên quyết khi tuyển dụng lao động.
Như vậy, các cơ sở giáo dục sẽ phải chuyển đổi mạnh mẽ sang mô hình chỉ đào tạo
“những gì thị trường cần”, những nội dung của các môn cơ bản sẽ phải được rút
ngắn và thay thế vào đó là những nội dung cần thiết để đáp ứng nhu cầu của các

doanh nghiệp, của nền kinh tế nói chung và đảm bảo để người học thực hiện được
phương châm “học tập suốt đời”. Theo mô hình mới này, việc gắn kết giữa cơ sở
giáo dục đào tạo với doanh nghiệp là yêu cầu tất yếu để bổ sung cho nhau. Đồng
thời, đẩy mạnh việc hình thành các cơ sở đào tạo trong doanh nghiệp để phân chia
các nguồn lực chung, làm cho các nguồn lực được sử dụng một cách tối ưu hơn.
Điều này sẽ tác động đến việc bố trí cán bộ quản lý, phục vụ và đội ngũ giáo viên
của các cơ sở giáo dục nghề nghiệp. Khi đó, tại các cơ sở giáo dục, tất cả các dữ
liệu của người học từ mã số, điểm số, thông tin cá nhân... đều đã được số hóa tại
một nơi lưu trữ. Trong nhiều trường hợp, người dạy chỉ cần “vứt” tài liệu lên
“mây” (Cloud), tất cả mọi người tranh luận trên “mây” mà vẫn đảm bảo được sự
riêng tư, hiệu quả và tính đồng bộ. Trước thực tế này, nếu các trường không thay
đổi thì sẽ không có người học. Doanh nghiệp nói riêng và thị trường nói chung có
nhu cầu như thế nào, thì người học sẽ càng hướng tới tìm học những nơi đáp ứng
được nhu cầu đó. Đây thực sự là một thách thức vì hầu như các trường hiện nay
mới chỉ dừng lại ở mức độ giáo viên giảng dạy bằng máy chiếu, video, chia sẻ tài
liệu trên mạng. Kinh phí eo hẹp cũng là một trong những điểm chính khiến các ứng
dụng khoa học công nghệ chưa phát triển trong trường học.
4. Một số giá trị cốt lõi và tác động của CMCN 4.0 đối với GD&ĐT
4.1. Một số giá trị cốt lõi của CMCN 4.0 nhìn từ góc độ giáo dục:
- "Đổi mới mở" thay thế "Đổi mới đóng" tạo ra sự tương tác giữa các công
ty, tổ chức, nhà trường
- Trước đây "Hướng vào cung" cần High-Tech nay "Hướng vào cầu"
- CMCN 4.0: cần cả Ứng dụng công nghệ và Khách hàng
- Các mô hình kinh tế, xã hội đều đổi mới hướng tới sự kết nối
- Tri thức có ở dạng thực tiễn
- Học qua làm việc
- Học qua sử dụng
7



4.2. Tác động của CMCN 4.0 đối với GD&ĐT
- Sự thay đổi việc làm và nhân lực: Thay đổi trong yêu cầu đối với nhân lực
4.0, nhiều công việc, nhiều khi không cần nhiều đến trình độ đại học mà chỉ cần
hiểu biết ở bậc trung học phổ thông
- Giáo dục hiện nay, cần thay đổi mục tiêu, nội dung, chương trình, phương
pháp, phương tiện, hình thức tổ chức dạy học ở tất cả các bậc học để đáp ứng thời
kỳ 4.0
- Giáo viên tương lai của nước ta sẽ phải dạy trẻ tự học, tự tiến bộ, tự tư
duy... Đan Mạch đã đưa môn lập trình tự động vào ngay từ cấp tiểu học.
- Phần thưởng cuối cùng không còn là bằng cấp, mà là giá trị mỗi người tạo
ra cho xã hội
- Thích nghị việc học suốt đời: Giáo dục hàn lâm bị tác động mạnh; Thay
Elearning bằng WE-learning (cùng nhau học suốt đời)
- Cần trang bị thêm các kỹ năng mới tùy theo từng ngành nghề, ví dụ: tư duy
phi tuyến tính, liên môn Văn hóa và Xã hội, liên môn Tự nhiên và Xã hội; năng lực
tự quản/tranh luận, đối thoại và phản biện,...
- Giáo dục 4.0 cần có những kỹ năng sáng tạo, đổi mới, kỹ năng giải quyết
cácvấn đề phức tạp, tư duy phản biện, sáng tạo, quản lý nhân sự, làm việc nhóm...
- Định hướng nghề nghiệp phải là trách nhiệm pháp lý của nhà trường/cơ sở
đào tạo
- Cuộc cách mạng mới bắt đầu trong lòng GD&ĐT: "Tài sản Icloud", "Đào
tạo ngoài khuôn viên nhà trường": học trong quá trình đi làm, dẫn đến trong tương
lại: xóa ranh giới không thể thẩm thấu giữa giáo dục hàn lâm và đào tạo nghề ở
khắp nơi bằng mạng. Có những mạng quốc tế (Edunet), CTE (giáo dục kỹ thuật)
- Tiếp cận mới về quản lý dạy - học: bố trí quá trình học như nó phải có
trong đời sống thực tế/hay quá trình sản xuất ở nhà máy
- 4 cách tiếp cận dạy: Phê phán, Sáng tạo, Năng suất, Tính chịu trách nhiệm
(Sinlarat, 2016).

8



9
cách
tiếp
cận
học
(3R,
3I,
3P):
3R (điều khiển việc hiểu): Reacalling, Relating, Refining (Gọi tên lại, Quan
hệ lại và Xác định lại).
I (Điều tra nghiên cứu): Hỏi (Inquiring), Tương tác (Interacting), Giải thích
(Interpreting).
3P: Tham gia (Pảticipating), Xử lý (Processing) và Trình bày (Presenting),
(Gomaratat, 2005)
- Học ảo (Jeschke, 2014) trên hệ thống Mã nguồn mở
* Giáo dục 4.0 sẽ có nội hàm khác giáo dục thông thường:
- Giáo dục 4.0 cần có tư duy phê phán, óc đổi mới, hiểu biết văn hóa, kỹ
năng học để lập nghiệp; Tác nhân thông minh sử dụng thông tin hiện đại; công
nghệ
Mobile,
Smartphone,
dịch
vụ
Icloud
(mây
điện
toán)
Giáo

dục
4.0
cần
thiết


hình
dạy
học
mới
- Các trường đào tạo giáo viên và đào tạo quản lý cũng thay đổi
- CN 4.0-KHCN, Giáo dục 4.0 có giá trị huyền thoại, tức là ước mơ của
chúng ta sẽ đến mà chẳng ai chỉ rõ được vào mốc thời gian nào
- Giáo dục 4.0: Khẳng định kết nối qua GD, do đó cần có tiếp cận mới về
dạy
học

đào
tạo
- Học cách chung sống với CN 4.0 khi không có trường lớp huấn luyện, phải
gắn chặt vào nhu cầu địa phương, nhu cầu khách hàng (hướng vào cầu)
- Giáo dục 4.0: cần thay điều khiển cứng (của vài trăm người trong phòng
lạnh) bằng tư duy sáng tạo của hàng triệu nhà giáo và nhân dân;
- Giáo dục 4.0: Tăng cường tự chủ/giải trình và trách nhiệm của nhà trường
đối
với

hội
- Giáo dục 4.0: tăng cường xã hội hóa để phát triển giáo dục, mở rộng đối
tác

Công

4 đặc trưng VUCA: Dễ biến đổi (Volatility); Không chắc chăn (Uncertainty);
Phức
tạp
(Complexity);


hồ
(Ambiguity)
Dự
báo,
tác
động
ICT:
thay
đổi
việc
làm
mạnh
HS, SV thành công ở môi trường toàn cầu hóa, tự động hóa, ảo hóa và nối
mạng
linh
hoạt
Các nghề hot: (10 Jobs, 2006): Quản lý thông tin xã hội, Blogger, Thiết kế
phầm mềm ứng dụng, Phân tích dữ liệu lớn (10 năm trước đây chưa có)
Cạnh tranh việc làm thị trường khu vực, cộng đồng kinh tế
- Giáo dục 4.0: công tác hướng nghiệp hs/sv vô cùng quan trọng và phải là
trách nhiệm pháp lý của nhà trường/cơ sở đào tạo của các cấp họ


9


5. Vài trò của nhà giáo dục trong thời kỳ cách mạng 4.0
Nhưng người máy và thiết bị thông minh không thể thay thế thầy giáo, cô
giáo trong các trường học vì thầy giáo, cô giáo còn có nhiệm vụ giúp học sinh phát
triển phẩm chất, năng lực. Học sinh không chỉ học để có điểm cao, thi đỗ mà phải
có phẩm chất và năng lực của người công dân thế kỷ 21.
Công việc dạy học của các nhà giáo ngày nay khác trước nhiều. Mọi kiến
thức, hiểu biết của học sinh không chỉ được hình thành qua sách vở, qua in-tơ-nét
mà phải được bổ sung qua các hoạt động trải nghiệm, biết học hỏi lẫn nhau, biết
vận dụng kiến thức đã học vào cuộc sống. Thông qua giờ dạy trên lớp và hoạt động
giáo dục trong và ngoài nhà trường, nhà giáo giúp học sinh biết tự học một cách
sáng tạo. Nhà giáo phải thật sự là nhà giáo dục, nhà sư phạm. Chỉ có thấu hiểu tính
cách, hoàn cảnh của từng học sinh, nhà giáo mới đưa ra được những phương pháp
giáo dục phù hợp, làm cho học sinh thích học, biết cách học, có thói quen học và
học hiệu quả.
Giáo dục và đào tạo trong thời kỳ cách mạng công nghiệp 4.0 phải có sứ
mệnh dám đương đầu với những mặt trái của xã hội tác động đến thế hệ trẻ.Trên
thực tế, xã hội hiện nay chưa được ổn định, phân cực giàu nghèo ngày càng lớn,
những tác động tiêu cực của xã hội, của văn hóa đời sống ngày một nhiều. Nhiều
gia đình, bố mẹ lo kiếm sống, không đủ thời gian và không có phương pháp giáo
dục con một cách khoa học; chỉ kỳ vọng vào con cái, áp dụng kiểu giáo dục áp đặt
mà thiếu đồng hành, lắng nghe con. Do đó, vai trò giáo dục gia đình, giáo dục của
nhà trường hiện nay là rất lớn. Thầy cô giáo không tâm huyết với nghề không thể
sáng tạo ra những phương pháp giáo dục hiệu quả, phù hợp với từng loại học sinh,
nhất là những học sinh gặp khó khăn về hoàn cảnh sống, về điều kiện học tập.
Nhịp độ phát triển của đất nước không chỉ lệ thuộc vào tốc độ phát triển kinh
tế, của khoa học kỹ thuật mà còn phụ thuộc vào nhịp độ phát triển của giáo dục,
đào tạo. Giáo dục trong thời đại cách mạng công nghiệp 4.0 cần phải được ưu tiên

phát triển đi trước một bước. Muốn vậy giáo dục phải được ưu tiên đồng bộ cả ba
mặt: tài chính; cơ chế chính sách quản lý; đào tạo bồi dưỡng, đãi ngộ nhà giáo.
Nhà giáo sẽ phát huy được vai trò khi yên tâm với cuộc sống đầy đủ bằng chính
tiền lương Nhà nước trả. Không thể như hiện nay, nhà giáo phải kiếm sống bằng
nhiều nghề, dạy học chỉ là phụ.
Để làm tròn sứ mệnh vẻ vang của mình, trong khi chờ đợi chính sách Nhà
nước thay đổi, nhà giáo phải biết tự phát huy nội lực để có thể đóng góp cho sự
nghiệp trồng người. Trước hết, thầy, cô giáo phải chuẩn bị cho mình có đủ nội lực
10


để phát huy mọi tiềm năng của bản thân cho mục tiêu phát triển phẩm chất, năng
lực của mỗi học sinh. Thầy, cô chỉ nói hay, truyền đạt kiến thức giỏi là chưa đủ mà
phải có đủ kiến thức về tâm lý học, giáo dục học để có khả năng thấu hiểu từng học
sinh; phải có những quan điểm giáo dục tiên tiến kịp thời khích lệ học sinh, dẫn dắt
học sinh tự chiếm lĩnh kiến thức thông qua các hoạt động trải nghiệm trên lớp,
ngoài nhà trường… Dạy học kiểu áp đặt, khuôn mẫu cứng nhắc chắc chắn sẽ
không thành công. Dạy học theo kiểu bắt học sinh răm rắp nghe lời, học sinh nào
cũng phải giỏi toàn diện các môn, môn nào cũng quan trọng như nhau là cách dạy
không theo hứng thú và sự phát triển khác nhau của mỗi học sinh.
Để mỗi học sinh phát triển năng lực, thầy, cô phải nắm vững những nguyên
tắc ứng xử với học sinh như: chấp nhận mọi mặt mạnh, yếu của từng học sinh,
không được chỉ thích dạy những học sinh khá, giỏi, ngoan, loại trừ học sinh yếu
kém, cá tính; khách quan đánh giá học sinh, không được có định kiến cá nhân để
trù dập học sinh; cho phép học sinh lựa chọn những phương pháp, hình thức giáo
dục phù hợp, để các em tự giác thay đổi bản thân; biết xây dựng những tập thể học
sinh biết tự quản lý, tự giải quyết các công việc, nhu cầu của chính các em; biết
gieo nhu cầu để học sinh dần dần thực hiện các yêu cầu giáo dục chứ không thể
dùng “kỷ luật sắt” để áp đặt các em.
Dạy học dựa trên nhu cầu của người học và biết cách tổ chức để học sinh

thực hiện bằng được những nhu cầu bản thân là cả một nghệ thuật. Nó đòi hỏi các
nhà giáo phải thật sự tâm huyết, năng động và sáng tạo. Để phát huy nội lực của
nhà giáo, các cấp quản lý giáo dục phải tạo ra trong mỗi nhà trường có văn hóa
riêng, làm sao mỗi nhà trường phải tạo được văn hóa phát triển cho các nhà giáo.
Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 chắc chắn sẽ làm tốc độ phát triển xã hội
ngày một nhanh hơn, con người sẽ được thỏa mãn nhiều nhu cầu tiện ích trong đời
sống. Liệu điều đó có mang lại hạnh phúc cho số đông hay chỉ đáp ứng được nhu
cầu của những người có thu nhập cao, những nơi kinh tế phát triển? Chắc chắn xã
hội trong bước tiến của mình sẽ tìm được lời giải. Trong các giải pháp đó, không
thể thiếu sự đóng góp của giáo dục, đào tạo. Giáo dục là một con đường dẫn mọi
người đến thành công, tạo ra sự cân bằng trong xã hội. Nhà giáo Việt Nam hơn lúc
nào hết phải thấy được đất nước và thế hệ trẻ đang trông chờ ở họ. Nhà giáo cần
phát huy nội lực của mình mới chủ động đáp ứng được những nhu cầu thay đổi của
xã hội, đất nước.
6. Một vài khuyến nghị đối với Giáo dục và Đào tạo địa
phương

11


Ngành giáo dục và đào tạo Hải phòng nói riêng GD&ĐT nói
chung cần:
- Tìm hiểu, nhận thức đầy đủ, sâu sắc về cách mạng công
nghiệp
4.0

các
giá trị cốt lõi
- Làm tốt việc rà soát, sắp xếp, xây dựng quy hoạch giáo dục
phổ

thông,
mầm non (đã được thành phố giao, và đang thực hiện)
- Thực hiện tốt công tác bồi dưỡng đội ngũ (đội ngũ là yếu tố
then
chốt
để
GD&ĐT thắng lợi trong cuộc cách mạng giáo dục 4.0). Chú trọng
bồi
dưỡng
giáo
viên tin học, ngoại ngữ và công nghệ.
- Thực hiện đổi mới căn bản toàn diện giáo dục và đào tạo
theo
tinh
thần
Nghị quyết TW2
Đối mới các thành tố của quá trình dạy học theo hướng
thông
minh,
đó
là:
mục tiêu, chương trình, nội dung, phương pháp, phương tiện, hình
thức tổ chức...theo hướng tập trung vào người học. Xây dựng
khung chương trình giáo dục kết nối giữa trường học, doanh
nghiệp và chính phủ
- Đổi mới mô hình quản lý giáo dục thông minh
- Đổi mới mô hình nhà trường: Xây dựng mô hình nhà trường
thông minh
- Tăng cường trao quyền tự chủ, trách nhiệm giải trình với xã
hội- Trang bị, sử dụng công nghệ hiện đại để hỗ trợ giáo dục

Các cơ quan quản lý và xã hội cần chăm lo hơn nữa đến sự nghiệp
giáo
dục
và đào tạo như đúng vị thế sẵn có "cùng với khoa học và công
nghệ,
giáo
dục

đào
tạo

quốc
sách
hàng
đầu"
12


Trên đây là một số thông tin liên quan đến cuộc cách mạng công
nghiệp
lần
thứ 4 và các ảnh hưởng, tác động của nó đến giáo dục và đào tạo.
Chắc
chắn
giáo
dục đào tạo sẽ phải thay đổi để đón đầu mới có thể tận dụng thời

để
phát
triển

song hành với sự phát triển của kinh tế xã hội./.

13



×