LỜI CẢM ƠN
Với tình cảm hết sức chân thành, em xin bày tỏ sự cảm ơn tới PGS.TS
Trần Thị Tuyết Oanh, người cô kính yêu đã hết lòng giúp đỡ em hoàn thành
luận văn này.
Em xin gửi lời cảm ơn tới các Giáo sư, Phó giáo sư, Tiến Sỹ, các thầy
giáo, cô giáo khoa Tâm lý - Giáo dục, trường Đại học Sư phạm Hà Nội,
Phòng sau đại học trường Đại học Tây Bắc đã tận tình giảng dạy, hướng dẫn,
tạo điều kiện thuận lợi cho em trong quá trình học tập, nghiên cứu.
Tôi xin bày tỏ sự cảm ơn tới Ban giám hiệu, các lãnh đạo của trường
Cao đẳng Sơn La cùng đồng nghiệp đã tạo điều kiện và giúp đỡ tôi hoàn
thành khóa học và luận văn.
Tôi cũng xin bày tỏ sự cảm ơn tới các anh chị em học viên lớp Thạc sỹ
Giáo dục và phát triển cộng đồng Khóa 24 Sơn La đã giúp đỡ tôi trong quá
trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Tác giả vô cùng cảm động trước những sự động viên, khích lệ và tạo
mọi điều kiện thuận lợi của gia đình, người thân, bạn bè trong suốt quá trình
học tập và nghiên cứu - Xin được chân thành cảm ơn!
Dù đã hết sức cố gắng nhưng luận văn này vẫn khó tránh khỏi những
khiếm khuyết, kính mong nhận được sự góp ý, chỉ giáo của các thầy cô giáo,
bạn bè, đồng nghiệp và những ai quan tâm tới đề tài.
Xin trận trọng cảm ơn!
Hà Nội, tháng 10 năm 2016
Tác giả
Dương Thị Thế
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU...........................................................................................................1
1. Tính cấp thiết của đề tài...........................................................................1
2. Mục đích nghiên cứu................................................................................3
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu.........................................................3
4. Giả thuyết nghiên cứu..............................................................................4
5. Nhiệm vụ nghiên cứu...............................................................................4
6. Giới hạn nghiên cứu.................................................................................4
7. Phương pháp nghiên cứu.........................................................................5
8. Cấu trúc luận văn.....................................................................................6
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA GIÁO DỤC BÌNH ĐẲNG GIỚI
CHO CỘNG ĐỒNG NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ..................................7
1.1. Tổng quan nghiên cứu vấn đề...............................................................7
1.1.1. Những nghiên cứu ở nước ngoài......................................................7
1.1.2. Những nghiên cứu ở Việt Nam........................................................9
1.2. Những khái niệm cơ bản của đề tài....................................................13
1.2.1. Khái niệm Giới...............................................................................13
1.2.2. Bình đẳng giới................................................................................14
1.2.3. Dân tộc thiểu số.............................................................................15
1.2.4. Giáo dục, Giáo dục bình đẳng giới................................................16
1.3. Một số vấn đề lý luận cơ bản về bình đẳng giới.................................18
1.3.1. Ý nghĩa của bình đẳng giới trong xã hội........................................18
1.3.2. Các lĩnh vực của bình đẳng giới....................................................21
1.4. Giáo dục bình đẳng giới cho cộng đồng người dân tộc thiểu số.......24
1.4.1. Mục tiêu, nội dung giáo dục bình đẳng giới..................................24
1.4.2. Con đường và phương pháp giáo dục bình đẳng giới cho cộng đồng.....25
1.4.3. Đặc điểm của cộng đồng người dân tộc thiểu số...........................26
1.4.4. Vai trò, trách nhiệm của các chủ thể tham gia giáo dục bình đẳng
giới trong cộng đồng người dân tộc thiểu số...........................................27
Kết luận chương 1.........................................................................................30
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG BÌNH ĐẲNG GIỚI VÀ GIÁO DỤC BÌNH
ĐẲNG GIỚI TRONG CỘNG ĐỒNG NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ
TẠI HUYỆN MƯỜNG LA - TỈNH SƠN LA..............................................32
2.1. Khái quát về khảo sát thực trạng........................................................32
2.1.1. Mục đích và đối tượng khảo sát.....................................................32
2.1.2. Nội dung và phương pháp khảo sát...............................................32
2.1.3. Cách xử lý kết quả khảo sát...........................................................33
2.2. Đặc điểm tình hình kinh tế - xã hội của địa bàn nghiên cứu............34
2.3. Thực trạng bình đẳng giới trong cộng đồng người dân tộc thiểu số
tại huyện Mường La - Tỉnh Sơn La...........................................................36
2.3.1. Thực trạng bình đẳng giới trong Phân công lao động theo giới....36
2.3.2. Thực trạng bình đẳng giới trong việc ra quyết định.......................37
2.3.3. Thực trạng bình đẳng giới trong giáo dục và chính trị..................37
2.3.4. Hậu quả của bất bình đẳng giới.....................................................39
2.4. Thực trạng giáo dục bình đẳng giới đã thực hiện tại cộng đồng......41
2.4.1. Thực trạng nhận thức về giáo dục bình đẳng giới trên địa bàn......41
2.4.2. Thực trạng thực hiện các nội dung Giáo dục bình đẳng giới trên
địa bàn......................................................................................................42
2.4.3. Thực trạng nhận thức của cán bộ địa phương về tính cần thiết của
các phương pháp giáo dục bình đẳng giới...............................................44
2.4.4. Thực trạng thực hiện các phương pháp giáo dục bình đẳng giới........46
2.4.5. Thực trạng nhận thức của cán bộ địa phương về các hình thức giáo
dục bình đẳng giới....................................................................................49
2.4.6. Thực trạng sử dụng các hình thức giáo dục bình đẳng giới trên địa bàn
..................................................................................................................52
2.4.7. Thực trạng tác động của các chủ thể đến quá trình giáo dục bình
đẳng giới..................................................................................................55
2.5. Đánh giá chung về thực trạng.............................................................56
2.5.1. Những mặt đạt được.......................................................................56
2.5.2. Những hạn chế...............................................................................57
2.5.3. Nguyên nhân của hạn chế..............................................................58
Kết luận chương 2.........................................................................................60
CHƯƠNG 3. BIỆN PHÁP GIÁO DỤC BÌNH ĐẲNG GIỚI CHO CỘNG
ĐỒNG NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ TẠI HUYỆN MƯỜNG LA TỈNH SƠN LA...............................................................................................61
3.1. Định hướng và nguyên tắc đề xuất biện pháp....................................61
3.1.1. Định hướng đề xuất biện pháp.......................................................61
3.1.2. Nguyên tắc đề xuất biện pháp........................................................64
3.2. Các biện pháp đề xuất..........................................................................65
3.2.1. Biện pháp 1: Phối hợp các cơ quan và tổ chức trong giáo dục bình
đẳng giới..................................................................................................65
3.2.2. Biện pháp 2: Tổ chức thực hiện đa dạng các hình thức tuyên
truyền, vận động về bình đẳng giới trong cộng đồng..............................68
3.2.3. Biện pháp 3: Xây dựng chế tài xử phạt các cơ quan, đơn vị, cá
nhân vi phạm luật bình đẳng giới.............................................................71
3.2.4. Biện pháp 4: Phổ biến kiến thức về giới và bình đẳng giới cho đội
ngũ cán bộ quản lý các ban ngành, cơ quan ở địa phương......................73
3.2.5. Biện pháp 5: Bồi dưỡng, đào tạo nâng cao trình độ cho cán bộ
chuyên trách.............................................................................................75
3.3. Khảo sát về tính cần thiết và tính khả thi của các
biện pháp đã đề xuất.........................................................................76
3.3.1. Mục đích khảo sát..........................................................................76
3.3.2. Lựa chọn đối tượng khảo sát..........................................................77
3.3.3. Kết quả khảo sát.............................................................................77
Kết luận chương 3.........................................................................................80
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ...............................................................82
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................85
PHỤ LỤC.......................................................................................................88
DANH MỤC BẢNG
Bảng 1.1. Bình đẳng giới trong Phân công lao động gia đình........................36
Bảng 1.2. Bình đẳng giới trong việc ra quyết định.........................................37
Bảng 1.3. Bình đẳng giới trong giáo dục và chính trị.....................................39
Bảng 1.4. Đánh giá về mức độ thực hiện các nội dung giáo dục bình đẳng giới. .43
Bảng 1.5. Nhận thức của cán bộ về các phương pháp giáo dục bình đẳng giới
cho người dân tộc thiểu số................................................................45
Bảng 1.6. Thực trạng việc thực hiện các phương pháp giáo dục bình đẳng giới.......46
Bảng 1.7. Thực trạng nhận thức của cán bộ địa phương về các hình thức giáo
dục bình đẳng giới.............................................................................51
Bảng 1.8. Thực trạng sử dụng các hình thức giáo dục bình đẳng giới............54
Bảng 1.9. Thực trạng tác động của các chủ thể đến quá trình giáo dục bình
đẳng giới............................................................................................55
Bảng 1.10. Kết quả khảo sát về mức độ cần thiết của các biện pháp giáo dục bình
đẳng giới cho cộng đồng trên địa bàn huyện Mường La, tỉnh Sơn La...77
Bảng 1.11. Kết quả khảo sát về tính khả thi của các biện pháp giáo dục bình đẳng
giới cho cộng đồng trên địa bàn huyện Mường La, tỉnh Sơn La...........78
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 1.1: Mức độ tổ chức các hoạt động giáo dục bình đẳng giới.............42
CÁC TỪ VIẾT TẮT TRONG ĐỀ TÀI
CNXHKH
: Chủ nghĩa xã hội khoa học
CNH-HĐH
: Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa
CTQG
: Chính trị quốc gia
ĐHQGHN
: Đại học quốc gia Hà Nội
HDI (Human Development Index): chỉ số phát triển con người
KHXH
: Khoa học xã hội
LHPNVN
: Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam
NXB
: Nhà xuất bản
SL
: Số lượng
UBND
: Ủy ban nhân dân
UNDP
: Chương trình Phát triển của Liên hợp quốc tại Việt Nam
UNICEF
: Quỹ Nhi đồng Liên Hợp Quốc)
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Xã hội ngày càng phát triển thì quyền con người càng được coi trọng
hơn bao giờ hết. Mục tiêu, chuẩn mực cơ bản và trực tiếp mà xã hội chúng ta
hướng đến là xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ và hạnh phúc. Thế
giới cũng đã chứng minh phát triển con người là tiêu chuẩn cao nhất của sự
phát triển xã hội bởi vì tất cả sự phát triển (phát triển kinh tế, văn hóa, chính
trị, xã hội... đều nhằm thỏa mãn nhu cầu của con người, phục vụ nhu cầu của
con người) hay nói cách khác con người là trung tâm của sự phát triển. Sự
phát triển xã hội đòi hỏi phải đem lại sự công bằng, bình đẳng cho cả nam và
nữ về mọi mặt (cơ hội cống hiến và hưởng lợi).
Bình đẳng giới cũng là một trong 8 mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ
được 189 quốc gia thành viên Liên hợp quốc nhất trí phấn đấu đạt được vào
năm 2015 (Tăng cường bình đẳng giới và nâng cao vị thế cho phụ nữ), nó
được ghi trong bản Tuyên ngôn Thiên niên kỷ của Liên hợp quốc tại Hội nghị
thượng đỉnh Thiên niên kỷ diễn ra từ ngày 6 đến ngày 8 tháng 9 năm 2000 tại
trụ sở Đại hội đồng Liên hợp quốc ở New York, Mỹ. Mặt khác, bình đẳng giới
là một vấn đề quan trọng không chỉ vì đó là mục tiêu phát triển thiên niên kỷ
mà đó còn là yếu tố thiết yếu để đạt các mục tiêu phát triển khác nhằm phát
triển bền vững.
Trong những năm qua, nhận thấy được vai trò quan trọng của bình đẳng
giữa nam và nữ đối với sự phát triển bền vững của xã hội, vấn đề bình đẳng
giới được Đảng và nhà nước quan tâm đặc biệt. Đã có nhiều chủ trương chính
sách thúc đẩy bình đẳng nam nữ nhằm đảm bảo quyền lợi và phát huy vai trò
của phụ nữ. Tiêu biểu trong số đó là sự ra đời của Luật luật chống bạo hành
phụ nữ, đặc biệt là luật bình đẳng giới đuợc thông qua trong kì họp thứ 10,
quốc hội khóa 11 (21/11/2006). Cùng với sự nỗ lực của các ban ngành, đoàn
1
thể và người dân thì nước ta đã có những bước tiến ngoạn mục về thực hiện
bình đẳng giới. “Báo cáo phát triển con người, 2011” do UNDP (Chương
trình Phát triển của Liên hợp quốc tại Việt Nam) công bố mới đây cho thấy,
Việt Nam xếp thứ 128 trên 187 quốc gia và vùng lãnh thổ, mức trung bình
trên thế giới, về chỉ số phát triển con người (HDI-Human Development
Index) nhưng lại xếp thứ 48 trên thế giới về chỉ số bất bình đẳng giới (thứ
hạng càng gần 0 càng thể hiện sự bình đẳng cao). Điều này chứng tỏ chúng ta
đã có những bước tiến vượt bậc trong việc thực hiện bình đẳng giới.
Tuy nhiên trên thực tế vấn đề bình đẳng giới ở Việt Nam vẫn còn nhiều
bất cập. Sự giải phóng phụ nữ chưa đi vào sâu đuợc đời sống của mọi người.
Trong các gia đình ít nhiều vẫn tồn tại các hiện tượng bất bình đẳng giới như
chưa ghi nhận đúng vai trò của nữ giới, sự phân biệt đối xử nam nữ, bạo hành
gia đình mà phần nhiều là bạo hành phụ nữ, sự phân công lao động trong gia
đình chưa hợp lý, nam giới vẫn được coi là trụ cột gia đình, có quyền quyết
định các vấn đề lớn và là người đại diện ngoài cộng đồng. Còn các công việc
nội trợ, chăm sóc các thành viên trong gia đình thường được coi là thiên chức
của phụ nữ.v.v. Điều này là một thiệt thòi lớn đối với mỗi giới nhất là với phụ
nữ, vai trò và vị thế của họ chưa được coi trọng và chưa được đánh giá cao
trong xã hội, ảnh hưởng sâu sắc tới quá trình phát triển kinh tế, văn hóa, chính
trị...của xã hội cũng như ảnh hưởng tới chất lượng cuộc sống và hạnh phúc
của từng gia đình.
Đối với một số đồng bào dân tộc ít người thì sự phân biệt đối xử theo
giới còn hà khắc hơn và quan niệm về giới còn lạc hậu cũ kỹ hơn. Nhất là đối
với đồng bào dân tộc thiểu số ở huyện Mường La tỉnh Sơn La. Huyện Mường
La là một huyện nghèo của tỉnh và của cả nước, trong huyện có đến một nửa
số xã là thuộc vùng đặc biệt khó khăn, là địa bàn thuần nông, địa hình xa xôi
hiểm trở, nhân dân chủ yếu là người các dân tộc ít người (Dân tộc H’Mông,
2
dân tộc Thái, dân tộc Kháng, dân tộc La Ha, dân tộc Khơ Mú…) sống chủ yếu
bằng nghề trồng ngô, cà phê và hoa màu. Với đặc điểm kinh tế nông nghiệp,
trình độ dân trí chưa cao, cơ hội tiếp cận những nguồn thông tin mới còn hạn
chế nên tư tưởng của người dân nơi đây còn rất lạc hậu. Tư tưởng phong kiến
gia trưởng cùng những sự biến đổi chậm chạp của ý thức xã hội, của các định
kiến về giới vẫn bám rễ lâu đời trong các tầng lớp dân cư nên tình trạng bất
bình đẳng giới ở nơi đây vẫn diễn ra phổ biến.
Đã có không ít các công trình nghiên cứu về bình đẳng giới ở các góc
độ khác nhau như xã hội học, giáo dục học, công tác xã hội…trên các loại
khách thể khác nhau. Tuy nhiên nghiên cứu trên khách thể là người dân tộc
thiểu số thì hầu như còn ít được quan tâm, đặc biệt chưa có nghiên cứu nào về
giáo dục bình đẳng giới cho cộng đồng dân tộc ít người tại huyện Mường la,
tỉnh Sơn La.
Xuất phát từ những lý do trên chúng tôi lựa chọn đề tài Giáo dục bình
đẳng giới cho cộng đồng dân tộc thiểu số tại huyện Mường La - Tỉnh Sơn La,
với mong muốn đưa ra những biện pháp góp phần nâng cao chất lượng cuộc
sống của cộng đồng dân tộc thiểu số nơi đây.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực trạng bình đẳng giới trong cộng
đồng người dân tộc thiểu số định cư ở huyện Mường La, tỉnh Sơn La hiện
nay, đề xuất một số biện pháp giáo dục bình đẳng giới góp phần nâng cao chất
lượng cuộc sống của cộng đồng dân tộc thiểu số tại huyện Mường La, tỉnh
Sơn La
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
a. Khách thể nghiên cứu:
Giáo dục bình đẳng giới cho cộng đồng dân tộc thiểu số
b. Đối tượng nghiên cứu:
3
Biện pháp Giáo dục bình đẳng giới cho cộng đồng dân tộc thiểu số tại
huyện Mường La - Tỉnh Sơn La
4. Giả thuyết nghiên cứu
Đã có những chính sách giáo dục bình đẳng giới cho cộng đồng dân tộc
thiểu số trên địa bàn huyện Mường La, tỉnh Sơn La nhưng việc thực hiện chưa
có hiệu quả cao, người dân và cán bộ địa phương vẫn còn có nhận thức và
hành vi chưa đúng về bình đẳng giới, điều này ảnh hưởng xấu tới chất lượng
cuộc sống người dân, tới quá trình phát triển kinh tế - chính trị - xã hội của
địa phương. Nếu xác định được đúng nguyên nhân của thực trạng và tìm ra
các biện pháp giáo dục bình đẳng giới phù hợp thì sẽ nâng cao chất lượng,
hiệu quả Giáo dục bình đẳng giới trên địa bàn, góp phần cải thiện chất lượng
cuộc sống cho người dân huyện Mường La – tỉnh Sơn La.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Xây dựng cơ sở lý luận về bình đẳng giới ở cộng đồng người dân tộc
thiểu số
- Khảo sát thực trạng bình đẳng giới và giáo dục bình đẳng giới trong
cộng đồng người dân tộc thiểu số tại huyện Mường La - tỉnh Sơn La.
- Đề xuất biện pháp giáo dục bình đẳng giới cho cộng đồng dân tộc
thiểu số tại huyện Mường La, tỉnh Sơn La
6. Giới hạn nghiên cứu
- Về thời gian: Từ tháng 11 năm 2015 đến tháng 9 năm 2016.
- Về không gian: Tại 6 xã, thị trấn của huyện Mường La- Tỉnh Sơn La
(Mường Bú, Mường Trai, Chiềng Lao, Hua Trai, Ngọc Chiến và thị trấn Ít Ong).
- Về khách thể khảo sát:
+ Người dân: 150 người dân tại 6 xã, thị trấn của huyện Mường LaTỉnh Sơn La (Mường Bú, Mường Trai, Chiềng Lao, Hua Trai, Ngọc Chiến và
thị trấn Ít Ong)
4
+ Cán bộ địa phương: 50 người, trong đó 35 cán bộ chuyên trách thuộc
Hội liên hợp phụ nữ cấp xã, huyện; 15 cán bộ công chức cấp xã, huyện.
7. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu, văn bản: Sưu tầm, nghiên cứu, phân
tích, tổng hợp, khái quát hóa hệ thống các văn bản tài liệu, sách báo, tạp chí,
các công trình liên quan đến hoạt động giáo dục bình đẳng giới cho cộng đồng
dân tộc thiểu số. Tìm hiểu những quy định, văn bản pháp luật liên quan đến
bình đẳng giới, những báo cáo, đánh giá của địa phương về công tác giáo dục
bình đẳng giới trên địa bàn…
- Phương pháp quan sát: Quan sát các hoạt động giáo dục bình đẳng
giới tại địa phương; Quan sát các hoạt động trong gia đình nhằm tìm hiểu thực
trạng phân công lao động theo giới, sự tiếp cận các nguồn và lợi ích của mỗi
giới; Quan sát thái độ tham gia của người dân và cán bộ địa phương trong các
hoạt động giáo dục bình đẳng giới…
- Phương pháp phỏng vấn: Trao đổi với cán bộ địa phương để tìm hiểu
về các hoạt động của giáo dục bình đẳng giới cho cộng đồng và nhận thức của
họ về vấn đề này; trao đổi với nam giới và phụ nữ trong gia đình để tìm hiểu
thực trạng bất bình đẳng giới trong gia đình và trên địa bàn; Trao đổi với
người dân để thu thập, tìm hiểu những thông tin liên quan khác…
- Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi: Tiến hành trưng cầu ý kiến của
cán bộ và người dân địa phương bằng bảng hỏi để khảo sát thực trạng bình
đẳng giới và thực trạng hoạt động giáo dục bình đẳng giới cho cộng đồng trên
địa bàn; Dùng bảng hỏi để khảo sát những biện pháp nhằm nâng cao hoạt
động này trên địa bàn…
- Phương pháp thống kê toán học: Sử dụng phương pháp này để xử lý
số liệu điều tra đảm bảo tính chính xác, khoa học nhằm nâng cao tính khách
quan của đề tài nghiên cứu.
5
8. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và khuyến nghị, luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận của giáo dục bình đẳng giới cho cộng đồng
người dân tộc thiểu số
Chương 2: Thực trạng bình đẳng giới và giáo dục bình đẳng giới trong
cộng đồng người dân tộc thiểu số tại huyện Mường La – Tỉnh Sơn La
Chương 3: Biện pháp giáo dục bình đẳng giới cho cộng đồng người dân
tộc thiểu số tại huyện Mường La – Tỉnh Sơn La
6
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA GIÁO DỤC BÌNH ĐẲNG GIỚI CHO CỘNG
ĐỒNG NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ
1.1. Tổng quan nghiên cứu vấn đề
1.1.1. Những nghiên cứu ở nước ngoài
Thúc đẩy bình đẳng giới là một trong những vấn đề có tính toàn cầu, là
mối quan tâm lớn của nhân loại nói chung và của mỗi quốc gia nói riêng. Trong
giai đoạn hiện nay, thúc đẩy bình đẳng giới là vấn đề hết sức quan trọng góp
phần bảo đảm sự phát triển bền vững của xã hội.
Trên thế giới, nhiều văn bản quốc tế quan trọng trong việc giải quyết
vấn đề giới và bạo lực trên cơ sở giới đã ra đời. Một trong số đó là Tuyên bố
Xoá bỏ bạo lực đối với phụ nữ được Đại hội đồng Liên Hợp Quốc thông qua
năm 1993. Rất nhiều nỗ lực cải cách luật pháp đã được thực hiện trên thế giới
để giải quyết vấn đề bất bình đẳng giới. Cụ thể là đã có rất nhiều quốc gia và
vùng lãnh thổ trên thế giới đã sửa đổi hoặc ban hành những quy định pháp
luật về bình đẳng giới và bạo lực đối với phụ nữ. Ở Châu Mỹ, 29 quốc gia và
vùng lãnh thổ đã ban hành luật pháp về Bình đẳng giới và chống bạo lực đối
với phụ nữ, phần lớn trong giai đoạn 2000-2012. Puerto Rico là quốc gia đầu
tiên ban hành luật phòng chống bạo lực đối với phụ nữ bằng việc thông qua
đạo luật Phòng chống và can thiệp đối với bạo lực gia đình năm 1989. Ở Châu
Âu, trong số 17 quốc gia và vùng lãnh thổ có luật pháp về bình đẳng giới và
phòng chống bạo lực đối với phụ nữ, Ukraine là quốc gia đầu tiên ban hành
Luật Phòng chống bạo lực gia đình năm 2001. Tây Ban Nha có Luật về Các
biện pháp bảo vệ chống lại bạo lực giới năm 2004. Châu Á có 23 quốc gia đã
xây dựng và ban hành luật pháp phòng chống bạo lực đối với phụ nữ, chủ yếu
trong giai đoạn 1994-2012 và Malaysia là quốc gia đầu tiên ban hành Luật
Bạo lực gia đình năm 1994. Châu Phi có 10 quốc gia và Châu Đại Dương có 1
7
quốc gia đã ban hành luật bình đẳng giới về chống bạo lực đối với phụ nữ.
Năm 2011, Quốc hội Zambia đã thông qua Luật Chống bạo lực trên cơ sở giới
sau những đề xuất về luật pháp nhằm giải quyết vấn đề giới và bạo lực trên cơ
sở giới.
Mặc dù nhiều quốc gia đã phê chuẩn và ký các công ước của Liên hợp
quốc về xây dựng và thực hiện luật về bạo lực đối với phụ nữ nhưng các bộ
luật này dường như vẫn còn hạn chế về nội dung và việc thực thi vì quyền và
lợi ích hợp pháp và cơ bản của người phụ nữ
Trong tác phẩm: "Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của
Nhà nước" (Engels, 1884), tác giả đã mô tả sự phân công lao động theo giới
gắn liền với các kiểu hôn nhân và gia đình, các hình thức sở hữu tư liệu sản
xuất khác nhau. Trong đó sự bất bình đẳng giới về phân công lao động được
đề cập dù chưa rõ nét.
Tác phẩm "Giới tính thứ hai" (Simone De Beauvoir, 1949) đã giải thích
các nguyên nhân dẫn đến "địa vị hạng hai" của phụ nữ và lên tiếng đấu tranh
nhằm xóa bỏ tình trạng bất bình đẳng nam - nữ trên thế giới.
Với tác phẩm "Sự huyền bí của nữ tính" (Betty Friedan, 1963) đã chỉ ra
sự khốn khổ và thất vọng của người phụ nữ nội trợ khi họ bị phụ thuộc vào
nam giới. Từ sự khốn khổ đó họ bắt đầu tìm cách để độc lập mà không còn
phụ thuộc nữa. Còn trong tác phẩm "Vai trò của phụ nữ trong phát triển kinh
tế "( Boserup, 1970) đã xác định một cách có hệ thống và ở phạm vi thế giới
sự phân công lao động theo giới trong các nền kinh tế nông nghiệp...
Những nghiên cứu và các văn bản trên thể hiện sự quan tâm của thế
giới tới phụ nữ và khẳng định vai trò của bình đẳng giới trong xã hội, là cơ sở
quan trọng để tác giả tham khảo, nghiên cứu lý luận, xây dựng các khái niệm
liên quan về bình đẳng giới, giáo dục bình đẳng giới và đề xuất các biện pháp
giáo dục bình đẳng giới trên địa bàn.
8
1.1.2. Những nghiên cứu ở Việt Nam
Ở Việt Nam, Đảng Cộng sản, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Nhà nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngay từ những ngày đầu cách mạng đã quan
tâm tới vấn đề này, coi việc giải phóng phụ nữ, nâng cao vị thế của phụ nữ,
thực hiện “nam nữ bình quyền” là một trong những mục tiêu đấu tranh cơ bản
của sự nghiệp các mạng. Điều đó được thể hiện bằng các văn kiện của Đảng
Cộng sản Việt Nam, trong hệ thống pháp luật và chính sách của Nhà nước ta.
Hiện nay, với tâm huyết của các nhà khoa học trong nước cùng với sự
hỗ trợ của các tổ chức quốc tế, một số lý luận và thực tiễn nghiên cứu vấn đề
giới- bình đẳng giới đã nghiên cứu và có những giải pháp phù hợp, đúng đắn.
Trong những năm gần đây, việc nghiên cứu vấn đề giới đã được triển khai
rộng rãi và đồng bộ. Đã có rất nhiều cơ sở, các trung tâm, các khoa, bộ môn
thuộc chính phủ và phi chính phủ nghiên cứu và giảng dạy khoa học về giới.
Đấu tranh cho mục tiêu bình đẳng giới bao gồm các hoạt động nghiên
cứu khoa học và thực tiễn mang tính toàn cầu. Tuy vậy, nghiên cứu khoa học
về giới và bình đẳng giới được “phổ biến ” vào Việt Nam và chính thức trở
thành một chuyên ngành khoa học chỉ trong khoảng hơn 30 năm trở lại đây
(nhiều nhà khoa học coi sự kiện thành lập trung tâm nghiên cứu phụ nữ, nay
là viện Nghiên cứu Gia đình và Giới, thuộc viện Khoa học xã hội Việt Nam
vào năm 1987 như là cột mốc của sự ra đời và phát triển của khoa học này).
Các công trình nghiên cứu của cá nhân hoặc tổ chức đã góp phần luận giải
nhiều vấn đề thực tiễn đặt ra trong nghiên cứu về vai trò của phụ nữ trong gia
đình và xã hội, thực hiện bình đẳng giới trong gia đình.
Có thể kể đến một số nghiên cứu sau:
- Trần Thị Vân Anh và Lê Ngọc Hùng, “Phụ nữ - giới và phát triển”,
Nxb Phụ nữ, Hà Nội, (1996) [2]. Tác giả cuốn sách đã tiếp cận vấn đề nghiên
cứu dựa trên mối quan hệ giữa phụ nữ - giới và phát triển. Phân tích vị trí, vai
9
trò của phụ nữ trong đổi mới kinh tế - xã hội gắn với vấn đề việc làm, thu
nhập, sức khỏe, học vấn chuyên môn; phụ nữ quản lý kinh tế - xã hội; phụ nữ
và gia đình; chính sách xã hội đối với phụ nữ và ảnh hưởng của chính sách xã
hội đối với phụ nữ và thực hiện bình đẳng giới.
- Lê Thi, “Phụ nữ và bình đẳng giới trong đổi mới ở Việt Nam”, Nxb
Phụ nữ, Hà Nội, (1998) [31]. Công trình khoa học này chính là kết quả bước
đầu của sự vận dụng quan điểm của Đảng và Nhà nước, cũng như quan điểm
tiếp cận giới vào việc xem xét các vấn đề có liên quan đến bình đẳng giới, kết
hợp với các hình thức thu thập thông tin qua các cuộc khảo sát đời sống phụ
nữ công nhân, nông dân, trí thức trong quá trình đổi mới đất nước. Từ đó đã
nêu lên những vấn đề đáng quan tâm và đề xuất ý kiến về một số chính sách
xã hội cần thiết, nhằm xây dựng sự bình đẳng giới trong tình hình mới.
- Giáo sư Lê Thi, “Việc làm, đời sống phụ nữ trong chuyển đổi kinh tế
ở Việt Nam”, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, (1999) [32]; Tiến sĩ Hoàng Bá
Thịnh, “Vai trò của người phụ nữ nông thôn trong công nghiệp hóa nông
nghiệp nông thôn”, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, (2002) [33]. Các công
trình này đã trình bày lý luận về vai trò của phụ nữ trong phát triển kinh tế- xã
hội, quan điểm của Hồ Chí Minh, của Đảng và chính sách của Nhà nước Việt
Nam về vấn đề này trên quan điểm và phương pháp tiếp cận giới, đặc biệt
trong lao động và hưởng thụ, vấn đề xây dựng chính sách kinh tế- xã hội đáp
ứng sự bình đẳng giới hiện nay.
- Nguyễn Linh Khiếu, “Nghiên cứu phụ nữ, giới và gia đình”, Nxb
KHXH, Hà Nội, (2003) [23]. Tác giả đã phân tích làm sáng rõ vai trò của phụ
nữ cũng như quan hệ giới trong gia đình thể hiện trên tất cả các lĩnh vực như
kinh tế, tiếp cận nguồn lực, giáo dục và chăm sóc sức khỏe. Đặc biệt, tác giả
nhấn mạnh hơn đối với phụ nữ nông thôn miền núi, vị thế của họ trong gia
đình cũng như những rào cản văn hóa đang cản trở quá trình phát triển của họ.
10
Những kết luận mà tác giả khái quát cũng chính là những vấn đề đặt ra cho
những nhà khoa học cũng như những nhà hoạch định chính sách đối với vấn
đề phụ nữ - giới và gia đình.
- Nguyễn Thị Tuyết, “Vấn đề giới trong lãnh đạo và ra quyết định ở
Việt Nam, hiện trạng và giải pháp” - Kỷ yếu Hội thảo Hội nghị cán bộ khoa
học nữ Đại học Quốc gia Hà Nội lần thứ 8, 2003 [38]; Lê Thị Nhâm Tuyết,
“Phụ nữ Việt Nam qua các thời đại”, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội (1973)
[37]; Nguyễn Đức Bạt, “Nâng cao năng lực lãnh đạo củ cán bộ nữ trong hệ
thống chính trị”, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, (2007) [7]. Các công trình
này đã trình bày khái quát, tổng hợp nhiều khía cạnh của phụ nữ Việt Nam qua
các thời kỳ lịch sử xã hội khác nhau, từ thời nguyên thủy đến thời đại chống
Mỹ và đề cập đến các vấn đề phụ nữ để hướng tới bình đẳng giới trong hệ
thống chính trị, đánh giá thực trạng bình đẳng giới, trong đó có những số liệu
về phụ nữ tham gia quản lý, lãnh đạo xã hội.
- Phan Thanh Khôi - Đỗ Thị Thạch (Đồng chủ biên) (2007) [21],
“Những vấn đề giới - từ lịch sử đến hiện đại”. Đây là công trình của tập thể
các nhà khoa học của Viện CNXHKH - Học viện CTQG Hồ Chí Minh. Các
tác giả của công trình đã nghiên cứu các vấn đề về giới từ tiếp cận trong các
tác phẩm kinh điển của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin và Hồ Chí Minh đến
vấn đề giới trong đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước Việt
Nam; vấn đề giới trong một số phương tiện thông tin đại chúng và trong sách
giáo khoa. Có thể nói, đây là một công trình đã đề cập đến tương đối đầy đủ
những vấn đề về giới. Đó cũng chính là căn cứ lý luận và thực tiễn về thực
trạng quan hệ giới ở nước ta hiện nay.
- Trần Thị Vân Anh - Nguyễn Hữu Minh (Chủ biên), (2008),“Bình
đẳng giới ở Việt Nam”, (Phân tích số liệu điều tra), Nxb KHXH, Hà Nội [3].
Với mục tiêu chính là điều tra cơ bản về bình đẳng giới, xác định thực trạng
11
bình đẳng giới về cơ hội và khả năng nắm bắt cơ hội của phụ nữ và nam giới
và tương quan giữa hai giới trên lĩnh vực lao động - việc làm, giáo dục - đào
tạo, chăm sóc sức khỏe và địa vị trong gia đình, cộng đồng và xã hội.
Đối với cộng đồng dân tộc thiểu số và vai trò của người phụ nữ dân tộc
thiểu số trong gia đình và xã hội, chúng ta có thể kể đến một số công trình sau:
- Đỗ Thị Bình (2001), “Mấy vấn đề về vai trò giới trong gia đình nông
thôn hiện nay” (Nghiên cứu trường hợp các xã miền núi phía Bắc), Khoa học
về phụ nữ, số 3 [9]. Từ phân tích vai trò giới trong gia đình dân tộc Thái,
Mông, Dao, tác giả đã chỉ ra sự biến đổi vai trò giới trong gia đình ở đây theo
cả hai xu hướng tích cực và tiêu cực.
- Đặng Thị Hoa (2001), “Vị thế của người phụ nữ H’Mông trong gia
đình và xã hội”, (Nghiên cứu ở bản Hang Kia, xã Hang Kia, huyện Mai Châu,
Hòa Bình), Khoa học về phụ nữ, số 1 [15]. Tác giả phân tích vai trò, vị thế
của phụ nữ H’mông trong gia đình trước đây cũng như hiện nay và kết luận:
Người phụ nữ H’mông là người phụ thuộc trong gia đình lại càng trở nên bị
cách biệt trong xã hội khi họ không có trình độ học vấn, ngôn ngữ phổ thông,
không thể hòa nhập vào cộng đồng và càng không thể chủ động tham gia
công tác xã hội. Những ràng buộc về phong tục tập quán, thói quen trong suy
nghĩ, cách làm của họ bị khép kín trong cộng đồng và chưa thể hòa nhập với
nhịp độ phát triển của xã hội trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
hiện nay.
- Nguyễn Linh Khiếu (2002), “Khía cạnh quan hệ giới trong gia đình
nông thôn miền núi” (Nghiên cứu trường hợp xã Cát Thịnh, Văn Chấn, Yên
Bái), Khoa học về phụ nữ, số 1 năm 2002 [19]. Trong khuôn khổ một cuộc
khảo sát tiền dự án tại một xã nghèo miền núi phía Bắc, tác giả đã chỉ ra
những thành tựu đã đạt được, những hạn chế cần phải khắc phục, cũng như
những xu hướng vận động và phát triển trong tương lai của nông thôn miền
12
núi phía Bắc Việt Nam trong điều kiện toàn cầu hóa hiện nay.
- Viện Chủ nghĩa xã hội khoa học (2007) “Những vấn đề giới: từ lịch
sử đến hiện tại”, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội [41], Viện Chủ nghĩa xã hội
khoa học(2008), Kỷ yếu khoa học “Vai trò của hệ thống chính trị cơ sở với
việc thực hiện bình đẳng giới ở vùng đồng bằng sông Hồng hiện nay”… Các
công trình nghiên cứu này đã nêu bật được quan điểm về giới và bình đẳng
giới của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mac-Lênin,Hồ Chí Minh, đồng thời
đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước Việt Nam qua các văn kiện và các
văn bản pháp luật. Đặc biệt, các công trình còn nghiên cứu về vấn đề giới trên
các phương tiện thông tin đại chúng,trên Internet và trong sách giáo khoa phổ
thông các cấp
Các kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học trên đã đề cập đến
vấn đề giới, vai trò của bình đẳng giới đối với sự phát triển xã hội nói chung,
ở các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, gia đình. Những công trình trên bước
đầu đặt cơ sở lý luận cho việc nghiên cứu bình đẳng giới, đã phác họa bức
tranh đa dạng, nhiều màu sắc về địa vị người phụ nữ trong sự nghiệp đổi mới
ở nước ta hiện nay. Qua đó tác động đến suy nghĩ, quan niệm, thái độ và hành
vi của mọi người đối với gia đình và bình đẳng giới ở Việt Nam, do vậy đây là
những tư liệu hết sức quý báu cho việc triển khai đi sâu nghiên cứu của tác
giả. Tuy nhiên đến nay vẫn chưa có công trình nào nghiên cứu về giáo dục
bình đẳng giới cho cộng đồng dân tộc thiểu số ở vùng cao đặc biệt là huyện
Mường La, tỉnh Sơn La.
1.2. Những khái niệm cơ bản của đề tài
1.2.1. Khái niệm Giới
Giới là một khái niệm mới xuất hiện, mãi đến nửa đầu thế kỷ XX mới
được sử dụng rộng rãi ở trong phong trào phụ nữ ở các nước phương Tây và
vào nước ta những năm 1980. Cho đến nay, nhất là từ khi xuất hiện Luật Bình
13
đẳng giới, thuật ngữ giới đã trở nên khá quen thuộc đối với các lĩnh vực của
đời sống xã hội. Tuy nhiên, trên thực tế vẫn có sự nhầm lẫn cách hiểu về giới,
có sự lẫn lộn giữa “giới” và “giới tính” cũng như đánh đồng những khác biệt
giữa nam và nữ về vai trò giới (do học mà có) với những khác biệt về mặt sinh
học (do di truyền mà có). Sự xuất hiện của khái niệm giới đã làm rõ sự khác biệt
giữa nam và nữ trên hai khía cạnh: sinh học (giới tính) và xã hội (giới).
Giới là khái niệm khoa học ra đời từ môn nhân loại học, chỉ sự khác
biệt giữa nam và nữ về mặt xã hội. Nói về giới là nói về vai trò, trách nhiệm
và quyền lợi mà xã hội quan niệm hay quy định cho nam và nữ.
Có rất nhiều khái niệm về Giới xuất phát từ những góc độ nghiên cứu
khác nhau, sau đây là một số khái niệm cơ bản:
“Giới là một phạm trù được sử dụng để nói về các vai trò, thái độ và giá
trị của giới tính do kỳ vọng các cộng đồng xã hội gán cho; là sự khác nhau giữa
phụ nữ và nam giới về mặt xã hội, mang tính xã hội, không đồng nhất, có thể
thay đổi được” [22, tr 12].
Giới là các quan niệm, hành vi, các mối quan hệ và tương quan về địa vị xã
hội của phụ nữ và nam giới trong một bối cảnh xã hội cụ thể. Hay nói cách khác,
nói đến giới là nói đến sự khác biệt của phụ nữ và nam giới về mặt xã hội [35].
Tóm lại, khi nói về giới có thể hiểu là nói về vai trò, trách nhiệm và
quyền lợi mà xã hội quan niệm hay quy định cho nam và nữ. Vai trò, trách
nhiệm và quyền lợi đó thể hiện trước hết ở sự phân công lao động, phân chia
các nguồn của cải vật chất và tinh thần, tức là cách đáp ứng nhu cầu của nam
và nữ trong xã hội
1.2.2. Bình đẳng giới
Theo Trần Xuân Kỳ - Tài liệu chuyên khảo Giới và phát triển - NXB Lao
động - Xã hội, Hà Nội 2008 [22; tr 57]: “Bình đẳng giới là môi trường lý tưởng
trong đó phụ nữ và nam giới được hưởng vị trí ngang nhau, có các cơ hội bình
14
đẳng để phát triển đầy đủ tiềm năng của mình nhằm cống hiến cho sự phát
triển quốc gia và được hưởng lợi từ các kết quả đó”.
Trong cuốn Hỏi và đáp về Luật Bình đẳng giới (2006) thì: “Bình đẳng
giới là việc nam, nữ có vị trí, vai trò ngang nhau, được tạo điều kiện và cơ hội
phát huy năng lực của mình cho sự phát triển của cộng đồng, của gia đình và
thụ hưởng như nhau về thành quả của sự phát triển đó” [36; tr 42] .
Bình đẳng giới có nghĩa là phụ nữ và nam giới có vị trí như nhau và có
cơ hội như nhau để làm việc và phát triển. Nói bình đẳng giới không có nghĩa
là chỉ đấu tranh quyền lợi cho phụ nữ mà là đấu tranh cho sự bất bình đẳng
của cả hai giới. Nhưng trong thời đại ngày nay, nhìn chung sự bất bình đẳng
xảy ra đối với phụ nữ là đa số nên người ta nói nhiều đến việc đòi quyền lợi
cho phụ nữ. Bình đẳng giới trong gia đình là các thành viên trong gia đình có
sự bình đẳng với nhau. Cụ thể là mọi công việc trong gia đình đều được các
thanh viên, trước hết là vợ và chồng cùng nhau chia xẻ và cùng nhau hưởng
thụ thành quả từ những công việc đó mang lại. Vợ và chồng cần phải bình
đẳng bàn bạc, quyết định và thực hiện mọi công việc. Đặc biệt việc nội trợ là
hết sức vất vả, tiêu hao nhiều thời gian và sức lực, đo đó không chỉ người phụ
nữ làm mà đòi hỏi phải có sự tham gia, chia sẻ của chồng và của các thành
viên khác.
Muốn đạt được bình đẳng giới thì một trong những điều kiện quan trọng là
nam và nữ được bình đẳng với nhau trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
1.2.3. Dân tộc thiểu số
Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam: Dân tộc thiểu số là dân tộc có số
dân ít (có thể là hàng trăm, hàng ngàn và cho đến hàng triệu dân) cư trú trong
một quốc gia thống nhất có nhiều dân tộc, trong đó có một dân tộc số dân
đông. Như vây, có thể hiểu, Dân tộc thiểu số là những dân tộc có số dân ít hơn
so với dân tộc đa số trên phạm vi lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
15
Việt Nam. Trong các quốc gia có nhiều thành phần dân tộc, mỗi dân tộc thành
viên có hai ý thức: ý thức về Tổ quốc chung và ý thức về dân tộc mình.
Những dân tộc thiểu số có thể cư trú tập trung hoặc rải rác xen kẽ, thường ở
những vùng ngoại vi, vùng hẻo lánh, vùng điều kiện phát triển kinh tế - xã hội
còn khó khăn. Vì vậy, các Nhà nước tiến bộ thường thực hiện chính sách bình
đẳng dân tộc nhằm xóa dần những chênh lệch trong sự phát triển kinh tế - xã
hội giữa dân tộc đông người và các dân tộc thiểu số.
Ở nước ta hiện nay có 53 dân tộc thiểu số. Số dân của các dân tộc nhiều
ít khác nhau, nhưng mỗi dân tộc có bản sắc văn hóa riêng, góp phần làm nên
sự phong phú, đa dạng của văn hóa Việt Nam (biểu hiện qua ngôn ngữ, phong
tục, luật tục, kiến trúc nhà cửa, giao tiếp, ứng xử...). Do hậu quả lâu dài bởi
các chính sách áp bức, bóc lột của chế độ thực dân phong kiến cùng với điều
kiện tự nhiên và môi trường khắc nghiệt, nên trình độ phát triển kinh tế - xã
hội của các dân tộc không đều nhau, thậm chí còn có sự chênh lệch khá lớn
giữa các vùng miền và giữa các dân tộc; đặc điểm tâm lý, văn hóa tộc người
mang nhiều sắc thái đa dạng, phức tạp.
1.2.4. Giáo dục, Giáo dục bình đẳng giới
1.2.4.1. Giáo dục
Để tồn tại và phát triển, con người phải trải qua quá trình lao động, học
tập và cuộc sống hàng ngày, con người nhận thức thế giới xung quanh, dần
dần tích luỹ được kinh nghiệm, từ đó nảy sinh nhu cầu truyền đạt những hiểu
biết ấy cho nhau. Đó chính là nguồn gốc phát sinh của hiện tượng giáo dục.
Giáo dục được hiểu theo nghĩa rộng: là một quá trình toàn vẹn hình
thành nhân cách, được tổ chức một cách có mục đích, có kế hoạch thông qua
các hoạt động và các quan hệ giữa người giáo dục và người được giáo dục,
nhằm truyền đạt và chiếm lĩnh những kinh nghiệm xã hội của loài người.
Giáo dục được hiểu theo nghĩa hẹp: Đó là một bộ phận của quá trình sư
16
phạm, là quá trình hình thành những cơ sở khoa học của thế giới quan, niềm
tin, lý tưởng, động cơ, tình cảm, thái độ, những hành vi thói quen đúng đắn
trong xã hội thuộc các lĩnh vực tư tưởng, chính trị, đạo đức thuộc các lĩnh vực
học tập, thẩm mỹ...
Giáo dục mang một ý nghĩa đặc biệt quan trọng của mỗi quốc gia trong
sự phát triển bền vững của nó. Ở mỗi một quốc gia giáo dục được coi là chiếc
chìa khoá vàng để bước vào tương lai. Ý nghĩa thuyết phục đó thể hiện sâu
sắc vai trò của giáo dục: Là bước mở đầu của chiến lược con người, là điều
kiện cơ bản để hình thành, hoàn thiện phát triển lực lượng sản xuất xã hội.
Như vậy, giáo dục là một hiện tượng xã hội loài người, bản chất của nó
là sự truyền đạt và lĩnh hội kinh nghiệm lịch sử- xã hội của các thế hệ loài
người. Nhờ có giáo dục mà các thế hệ nối tiếp nhau phát triển, tinh hoa văn
hoá dân tộc, nhân loại được kế thừa, bổ sung và trên có sở đó, xã hội loài
người không ngừng tiến lên.
1.2.4.2. Giáo dục bình đẳng giới
Giáo dục bình đẳng giới là hệ thống các hoạt động, các giải pháp nhằm
giáo dục cho người học những kiến thức, thông tin, số liệu, chính sách, pháp luật
về bình đẳng giới; những tác hại của định kiến giới, phân biệt đối xử theo giới,
công tác đấu tranh, phòng ngừa, xử lý vi phạm pháp luật về bình đẳng giới.
Giáo dục bình đẳng giới nhằm đưa ra những biện pháp, kinh nghiệm
tốt, mô hình, điển hình tiên tiến trong việc thực hiện chính sách, pháp luật về
bình đẳng giới, đấu tranh xóa bỏ phân biệt đối xử về giới và định kiến giới.
Thông qua giáo dục bình đẳng giới, người dân nâng cao kiến thức, kỹ
năng, thái độ của mình trong việc thực hiện bình đẳng giới, góp phần nâng
cao chất lượng cuộc sống, gìn giữ hạnh phúc gia đình, phát triển kinh tế - văn
hóa xã hội.
1.3. Một số vấn đề lý luận cơ bản về bình đẳng giới
17
1.3.1. Ý nghĩa của bình đẳng giới trong xã hội
Bình đẳng giới được xem là tiêu chí quan trọng đánh giá sự phát triển
của một xã hội, một đất nước, nó vừa là mục tiêu của sự phát triển vừa là yếu tố
nâng cao khả năng tham gia đóng góp của phụ nữ vào sự phát triển ổn định và
bền vững của quốc gia. Quyền phụ nữ, quyền bình đẳng giới là một nội dung
cơ bản của quyền con người, thể hiện giá trị nhân văn cao cả, đồng thời là
những giá trị chính trị, pháp quyền đáng trân trọng. Từ Hiến pháp đầu tiên
(Hiến pháp 1946) đến các Hiến pháp 1959, 1980 và 1992, sửa đổi, bổ sung
năm 2001, bình đẳng nam, nữ luôn là một nguyên tắc kiến định xuyên suốt
trong văn bản có hiệu lực pháp lý cao nhất của Việt Nam. Bình đẳng giới được
tất cả các nước trên thế giới quan tâm. Bình đẳng giới được nhìn nhận là một
bộ phận quan trọng của định hướng phát triển kinh tế - xã hội và là một trong
những chỉ số được sử dụng để đánh giá mức độ phát triển của mỗi quốc gia.
Ủy ban Quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ khẳng định: Bất bình đẳng
giới vừa là một trong các nguyên nhân của tình trạng đói nghèo, vừa là rào
cản lớn đối với sự phát triển bền vững. Các vấn đề bất bình đẳng giới cản trở
tiến trình phát triển và cuối cùng gây tác động có hại tới tất cả các thành viên
xã hội. Xã hội nào có hiện tượng bất bình đẳng giới phổ biến, kéo dài sẽ phải
trả giá qua tình trạng gia tăng nghèo đói, suy dinh dưỡng, bệnh tật và nhiều
khó khăn khác. Xã hội nào có mức độ bình đẳng giới càng cao thì tăng trưởng
kinh tế càng phục vụ hiệu quả cho mục tiêu xóa đói giảm nghèo. Do vậy mục
tiêu bình đẳng giới vừa là một yếu tố đảm bảo quyền con người, vừa là điều
kiện thiết yếu cho mục tiêu phát triển công bằng, hiệu quả và bền vững.
Bất bình đẳng giới làm cản trở quá trình xóa đói giảm nghèo và sự phát
triển chung của xã hội. Bất bình đẳng giới về những quyền cơ bản như: Được
đến trường, được vay vốn, được tham gia các khóa đào tạo nâng cao kiến thức
làm ăn...đã hạn chế sự tham gia và đóng góp hiệu quả của nữ giới vào các
18
hoạt động của đời sống cộng đồng gây thiệt thòi cho phụ nữ và trẻ em gái.
Điều này cũng đồng nghĩa với việc làm giảm nguồn lực để đầu tư cho công
cuộc xóa đói giảm nghèo và phát triển xã hội. Bình đẳng giới luôn là vấn đề
hệ trọng đối với tiến bộ xã hội, vì phụ nữ là một nửa xã hội, giữ vai trò quan
trọng đảm bảo sự sinh tồn của dân tộc. Trong mọi chế độ xã hội, người phụ
nữ luôn là nguồn cảm hứng sáng tạo của văn học, nghệ thuật, nền tảng của đời
sống tinh thần gia đình, chủ thể hàng đầu trong xây dựng hạnh phúc, chăm
sóc chồng con, giúp đỡ cha mẹ khi tuổi già sức yếu. Vì vậy, trong cuộc đấu
tranh giải phóng phụ nữ, vấn đề thực hiện bình đẳng giới giữa nam và nữ trên
tất cả các mặt được xem là nội dung cốt lõi để phát triển xã hội.
Bình đẳng giới, vì sự tiến bộ của phụ nữ là một yêu cầu khách quan của
sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phù hợp với xu
thế phát triển của thời đại. Trong thời kỳ đổi mới đất nước, chủ trương của
Đảng về bình đẳng giới, vì sự tiến bộ của phụ nữ nhằm tạo điều kiện để phụ
nữ phát triển và phát huy năng lực đóng góp cho đất nước. Theo đó, vị thế của
người phụ nữ trong xã hội cũng như trong gia đình được nâng cao. Bình đẳng
giới được coi là một trong những thành tựu nổi bật của Việt Nam trong thời
kỳ đổi mới. Việt Nam đã được UNDP - Chương trình Phát triển của Liên hợp
quốc tại Việt Nam xếp thứ hạng cao trên thế giới về chỉ số bình đẳng giới.
Nước ta đã có những bước tiến vượt bậc trong việc thực hiện bình đẳng giới,
tạo cho phụ nữ có nhiều cống hiến to lớn vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc thời kỳ mới. Khi phụ nữ có học vấn, học vị cao sẽ mở ra các cơ hội
cho họ về nhiều mặt, như việc làm, thu nhập, cơ hội tiếp cận về y tế, kế hoạch
hóa gia đình, tham gia lĩnh vực chính trị và phát triển xã hội.
Theo báo cáo Tình hình Trẻ em Thế giới 2007, bình đẳng giới đem lại
“lợi ích kép” có lợi cho phụ nữ và trẻ em và đóng vai trò then chốt đối với sức
khỏe và sự phát triển của gia đình, cộng đồng và quốc gia. “Vấn đề bình đẳng
19