NGHỆ THUẬT ĐIÊU KHẮC CHĂMPA
I. MỞ BÀI
Nghệ Thuật điêu khắc cổ Champa là một trong những nền nghệ thuật đặc sắc trong kho
tàng di sản nghệ thuật Việt Nam , với nền văn hóa đa tôn giáo và đa dân tộc của Việt Nam
, góp phần không nhỏ vào nền văn hóa đa dạng đó có văn hóa tôn giáo dân tộc Chăm với
nền văn hóa bản địa lâu đời , khi các tôn giáo Ấn Độ du nhập vào Champa cũng giống
như một số nền văn hóa trong khu vực Nam Á, Đông Nam Á, ngoài những ảnh hưởng
tôn giáo của ấn Độ , người Chăm còn tiếp thu cả nền văn hóa , phong tục và đặc biệt nghệ
thuật kiến trúc , điêu khắc của Ấn độ và khi tiếp thu những thành tựu văn minh Ấn Độ ,
người Chăm đã bản địa hóa nhanh chóng và sớm tạo nên những nét độc đáo hấp dẫn đặc
sắc riêng của một phong cách Chăm trên từng tác phẩm điêu khắc.
II. NỘI DUNG
1. Tìm hiểu chung
1.1. điêu khắc là gì
Điêu khắc là một môn nghệ thuật mà người nghệ sĩ tác động vào những hình khối gọn
gàng, tinh tê nhất nhằm thể hiện một hay nhiều ý nghĩ của tác phẩm. Có thể là tượng đài
(đồng, đá, bê tong), có thể là biểu tượng (sư tử), có thể là bích trương) hay các phù điêu
thạch cao.
Điêu khắc tồn tại trong không gian 3 chiều. Có hai loại chính: Phù điêu, tượng tròn.
Nghệ thuật điêu khắc Champa rất phong phú với nhiều tác phẩm phù điêu, tượng tròn gắn
với sinh hoạt tôn giáo Bà-la-môn, trên những tác phẩm này thường bắt gặp nét chủng tộc,
y phục, trang sức Chăm hòa quyện với hình ảnh các vị thần Bà-la-môn, hoặc những nét tả
thực cũng như cách điệu thể hiện trong hình ảnh con người, loài vật… hết sức sinh
động(1). Đằng sau những bức phù điêu, những bức tượng ấy là cả một không gian huyền
thoại, phản ánh những tư duy trừu tượng, lãng mạn của con người khi lý giải về những
điều kỳ diệu của vũ trụ.
Điêu khắc đá Chămpa là một loại hình điêu khắc của nghệ thuật Chămpa. Các tác phẩm
điêu khắc này thường được gắn liền với các công trình kiến trúc cổ Việt Nam, tạo thành
một tổng thể nghệ thuật hoàn chỉnh. Được nghiên cứu từ cuối thế kỷ XIX. Các nhà
nghiên cứu đã định ra được các phong cách tạo hình của Champa từ giai đoạn trước thế
kỷ VII (chịu ảnh hưởng nghệ thuật Amaravati của Ấn Độ) cho tới giai đoạn nửa sau thế
kỷ VII trở đi, đã tạo được những nét riêng của điêu khắc đá Champa qua 8 loại phong
cách: Mỹ Sơn E1, Hòa Lai, Đồng Dương, Khương Mỹ, Chánh Lộ, Tháp Mẫm, Yang
Mun, Po Ramé. Hiện nay sưu tập điêu khắc Champa tập trung ở các Bảo tàng Lịch sử Hà
Nội, Bảo tàng Chăm Đà Nẵng, Bảo tàng Tổng hợp Huế, Bảo tàng Bình Định, Bảo tàng
Mỹ thuật thành phố Hồ Chí Minh và Bảo tàng Lịch sử Việt Nam – TP Hồ Chí Minh và
các quốc gia khác trên thế giới.
1.2. Phân loại điêu khắc chăm.
Điêu khắc đá Chămpa có hai loại hình chính là phù điêu và tượng có chủ đề về
thần voi, sư tử, chim thần Garuda, vũ nữ Apxara, thần Visnu, thần Siva...Các loại hình
này thường được nhìn thấy trang trí ở thân hoặc chân tháp Chàm.
- Tượng: là một tác phẩm điêu khắc nhằm thay thế một cách đại diện mọt người, một con
vật hoặc một sự kiện, thong thường thực hiện ở kích thước thật hoặc có thể lớn hơn phân
biệt với tượng bán than.
- Phù điêu là hình thức đắp nối hoặc khoét lõm với chiều dài, rộng là thực còn phần nổi
mang tính ước lệ về khối.
* Phù điêu 9 vị thần: Cho đến nay, đây là bức phù điêu duy nhất về loại hình này được
tìm thấy ở Champa. (Hiện vật tại bảo tàng ký hiệu BTLS 5979).
-Với lối thể hiện: Vị thần thứ nhất ngồi trên xe ngựa kéo và một vị thần ngồi trên bệ, còn
các vị thần khác đều cưỡi trên một con vật được coi là vật cưỡi của thần. Trừ vị thần thứ
nhất ngồi trên xe 7 ngựa kéo, còn các vị thần khác, những con vật được coi là vật cưỡi
của thần được điêu khắc ngay dưới bệ thần ngồi (các vị thần không trực tiếp cưỡi lên
nó). Vì bức phù điêu bị sứt mẻ nhiều nên khó nhận dạng.
Tuy nhiên, dựa trên cơ sở tích truyện liên quan đến thần thoại Ấn Độ và Ấn Độ giáo,
chúng ta có thể đoán nhận những vị thần đó là:
Vị thần thứ nhất là Usa (nữ thần Rạng đông). Cũng có người cho đây là Surya (thần Mặt
trời). Usa là vị thần trong thần thoại Ấn Độ thời Rigvêđa, được coi là con gái của trời,
chị em với thần Đêm tối (Ratri), đồng thời là người bà con với Agni (thần Lửa). Usa
được coi là người yêu hay là vợ của Surya. Trong thần thoại Ấn Độ, nàng được miêu tả
có sắc đẹp, mặc áo dài trắng thường ngồi trên xe có bảy ngựa hồng kéo. Bình minh là
lúc nàng xuất hiện để đánh thức thế giới bừng tỉnh, còn chính nàng lúc đến với người yêu
là thần Mặt trời. Kế Usa là Surya, cũng có người cho đây là Sô Ma (thần mặt trăng), vị
thứ ba không rõ, vị thứ tư là Brahma (thần Sáng tạo), vị thứ năm là thần Indra (thần Sấm
sét), vị thứ sáu và bảy không rõ, vị thứ tám là thần Siva, vị thứ chín là “Đấng Toàn
năng”.
Mặc dù ở Champa đã tiếp thu Ấn Độ giáo, mà Ấn Độ giáo cho rằng tất cả hành động kể
cả hành động của thượng đế, cũng đều biểu thị ba khuynh hướng: sáng tạo, bảo tồn, hủy
diệt, và được qui tụ thành ba đấng tối cao Brahma (thần Sáng tạo), Visnu (thần Bảo vệ),
thần Shiva (thần Hủy diệt), được gọi là “Tam vị nhất linh”, nhưng qua bức phù điêu này,
chứng tỏ tín ngưỡng đa thần vẫn tồn tại ở Champa(2).
2. Những hình tượng thường thấy trong nghệ thuật điêu khắc chăm
Thần Shiva
Shiva vị thần Bà-la-môn giáo được người Chăm thờ cúng và tôn vinh là vị thần tối cao.
Khoảng thế kỷ IV, sự tôn thờ Shiva một cách tuyệt đối của các vua Champa khởi đầu bởi
vua Bhabravarman đã hình thành một tôn giáo chuyên thờ thần Shiva gọi là Shiva giáo
mà từ đó ra đời khu “thánh địa Mỹ Sơn”. Shiva vừa mang tính hủy diệt vừa mang tính
sáng tạo, vừa được coi là hung thần phá hoại, hủy diệt muôn loài vừa là phúc thần bảo
vệ đời sống của cư dân Champa. Shiva thường thể hiện dưới dạng một nam nhân có ba
con mắt với mắt thứ ba ở giữa trán, ba mắt tượng trưng cho mặt trời, mặt trăng, ngọn
lửa thế gian, và có thể nhìn thấy hết quá khứ, hiện tại, tương lai. Tay Shiva có khi cầm
đinh ba biểu tượng cho sáng tạo, bảo tồn và hủy diệt, có khi cầm rìu biểu hiện cho sự
tuyệt đối hoặc cầm cây kiếm xua đuổi những sợ hãi và một tay ban phúc lành. Shiva cũng
là vị thần tổng hợp, vạn sự đều qui tụ vào đó.
Biểu tượng của Shiva là Linga. Linga là biểu hiện của tam vị nhất thể với chỏm đầu hình
cầu tròn là Siva, phần giữa là Vishnu có tám cạnh và phần cuối là Brahma có bốn cạnh.
Chiếc Linga đầu tiên xuất hiện dưới triều vua Bhadravarman thế kỷ IV. Nhà vua cho xây
tại thánh địa Mỹ Sơn một đền thờ thần Shiva Bradravarman, mà biểu tượng là một
Linga.
Ấn Độ giáo ở Champa thuộc phái Siva, thường được thể hiện dưới dạng Linga để tôn
thờ. Những hình tượng Shiva ở dạng người (hay nhân hóa), thường được đồng nhất là
thần vua Champa. Hiện tượng này chúng ta có thể thấy được ở những tháp Champa, như
phù điêu thần Shiva ở tháp Po Klaong Girai, Po Ramé, Po Ina Nagar, thực tế đó là vua
Champa (riêng Po Ina Nagar, người Chăm thờ người như là “Quốc mẫu”). Các thần
Shiva của Ấn Độ giáo cũng được thờ ở trong các tháp Champa nhưng dưới dạng Linga
hoặc Linga-Yony.
Từ đó chúng tôi nghĩ rằng, những đầu tượng Shiva trong sưu tập này, có thể là “thần vua
Champa”. Những đầu tượng thần, có thể cũng là những thần bản địa của Champa.
- Thần Siva Trong các điêu khắc Chăm, vị thần được thờ phổ biến nhất là Siva - một
trong ba vị thần tối cao. Người Chăm tiếp thu văn hóa Ấn Độ giáo, tôn thờ thần Siva, vị
thần đầy quyền năng. Thần Siva theo tiếng Phạn là “tốt lành”, được gọi là thần Hủy
diệt, hủy diệt cái cũ để sáng tạo ra cái mới. Ở Bảo tàng Điêu khắc Chăm, Đà Nẵng có
những bức phù điêu nữ thần Uma, vợ hay thần nữ của Siva, gọi là Bhagavati, được sùng
kính ở vương quốc Chămpa, là Mẹ Xứ sở hay Pô Nưgar.
Phù điêu Vishnu (thế kỷ XI-XII): Theo Ấn độ giáo, Vishnu là vị thần bảo tồn, canh giữ
không trung. Trong thần thoại Ấn Độ, vị thần này có rất nhiều kiếp hóa thân khác nhau.
Tấm tympan với viền khung xung quanh hình lá đề, bên trong thể hiện thần Vishnu ngồi
xếp bằng theo kiểu Ấn Độ trên thân mình cuộn thành chín khúc của rắn Naga.
Phía sau lưng thần, rắn Naga mọc lên mười ba đầu tạo thành một tán che cho thần. Bốn
tay của thần cầm bốn vật tượng trưng gồm: chiếc gậy Kaumodaki, chiếc tù và bằng ốc
biển Shankha, chiếc đĩa rỗng đáy Sudarsana và đoá hoa sen (đã gãy). Đề tài về thần
Vishnu xuất hiện không nhiều trong điêu khắc Champa, vì thế tác phẩm này rất quí hiếm
và có giá trị trong việc tìm hiểu nghệ thuật điêu khắc và tôn giáo của Champa.
Thần Indra
Được thể hiện ở tư thế ngồi ở 2 chân xếp bằng trên một cái bệ, đầu vị vỡ, bàn tay trái để
úp lên đầu gối trái; bàn tay phải đặt ngửa trên đầu gối phải, và cầm một vật (lưỡi tầm
sét). Ở bệ có một hình voi đang phủ phục. Theo thần thoại Ấn Độ, Indra là vị thần đứng
đầu các vị thần, vật cưỡi của thần là voi.
Nữ thần Devi
Được tạo tác bán thân, tóc búi kiểu hình tháp, lông mày liền nhau, mắt mở to, sống mũi
thẳng, cân đối, miệng hơi nở nụ cười tạo nên khuôn mặt xinh đẹp, hài hòa, tượng để hở
bộ ngực tròn căng sức sống nhưng lại tạo nên một cảm giác thánh thiện.
Theo truyền thuyết, nữ thần Devi có tên Champa là Rija Kula Hara Devi, là vợ của vua
Indravarman II, người sáng lập triều đại Đồng Dương, triều đại Phật giáo vào thế kỷ thứ
IX. Vì Devi có công với đất nước, đặc biệt là thường giúp đỡ những người nghèo, cô nhi
quả phụ, nên sau khi mất bà được phong thần và được vua Jaya Shinhavarman I dựng
tháp thờ(3).
Nữ thần Laksmi – vợ thần Visnu
Loại tượng thần phổ biến trong điêu khắc đá Champa, theo thần thoại Ấn Độ, Laksmi
xuất hiện trong cuộc quấy biến sữa giữa các thần và loài quỷ để tìm thuốc trường sinh
bất tử. Laksmi được xem là nữ thần sắc đẹp, nữ thần thịnh vượng, nữ thần may mắn (4).
Hình tượng những người cầu nguyện và tu sĩ
Có thể đây là hình tượng của những tu sĩ theo Ấn Độ giáo hoặc cũng có thể là tu sĩ của
phái Mật Tông. Riêng tượng thể hiện người đang khấn niệm, có lẽ là tu sĩ của phái Mật
Tông.
Tượng người
Đầu tượng bị mất, cổ đeo tràng hạt, tay trái bị vỡ mất hoàn toàn, tượng được thể hiện ở
tư thế ngồi hai chân xếp vào nhau, lòng bàn chân ngửa, hai tay đặt lên hai đầu gối. Đây
có thể là một thầy tu đang ngồi thiền.
Tượng phật
Đầu đội miện ba tầng, tay đeo trang sức chuỗi ngọc. Phật được thể hiện ở tư thế ngồi,
hai chân bắt chéo nhau, chân phải đặt lên chân trái, tay trái đặt phía trước bụng, lòng
bàn tay ngửa, tay phải giơ lên ngang ngực, lòng bàn tay hướng về phía trước. Đây là
hình ảnh Phật đang thiền định. Điêu khắc Phật giáo ở Đồng Dương (Inđrapura) tạo nên
cả một phong cách Đồng Dương. Đây là cả một thánh đường Phật giáo: Có tượng Phật,
tượng các vị La Hán và các tu sĩ. Đặc biệt tượng các vị môn thần được coi là đẹp nhất và
độc đáo nhất.
Bệ thờ hình ngực phụ nữ
Ở giữa bệ thể hiện những hình ngực phụ nữ, phía trên và phía dưới là dãy hoa văn hình
cánh sen. Việc tôn thờ những hình ngực phụ nữ ở Champa dường như chỉ tập trung ở
phong cách “Bình Định”. Sen là biểu tượng thường hay gắn với Phật giáo. Vì thế, bệ thờ
này cũng như những bệ thờ khác về dạng hình vú phụ nữ, có thể là biểu tượng tôn thờ
của môn đồ Mật Tông tả phái, phái này thường chú trọng tôn thờ nguyên lý âm (Sakti) và
coi đó là năng lực sáng tạo (yếu tố âm-Sakti trong Ấn Độ giáo thường được thể hiện dưới
dạng Yoni).
Những người theo phái Mật Tông đôi khi nhân hóa những Sakti thành những người vợ
của các thần thánh hoặc nữ vương theo thánh tính ấy. Đối với ở Champa, việc tôn thờ
này còn ý nghĩa liên quan đến yếu tố Mẫu hệ và tục thờ quốc mẫu(5).
Đài thờ (thế kỷ XII) là một thớt tròn, xung quanh được trang trí với 23 bầu vú phụ nữ
đầy đặn, căng tròn, đường kính mỗi bầu là 11cm. Phía trên và dưới của vòng tròn vú là
các đường xoắn chập hai đầu dây rất tỉ mỉ, theo phương thẳng đứng. Đây là những kiểu
thức trang trí rất phổ biến trong điêu khắc Chăm vào thế kỷ XII-XIV. Đài thờ xứng đáng
là một kiệt tác của điêu khắc Chăm, thể hiện ảnh hưởng của tín ngưỡng phồn thực và xã
hội mẫu hệ
Đài thờ(tế kỉ xii)
Ápsara cùng Kinnara
Ápsara tiếng Phạn có nghĩa là dòng suối mát. Ápsara chỉ một trong những vị nữ thần
sông suối, cây sỏ xinh đẹp sống ở thiên đường Indra(6).
Những vị thần này được coi là những thiên thần múa hát trên trời, dâng hương hoa để
khánh chúc thần linh. Hình tượng này khá phổ biến trong nghệ thuật điêu khắc Champa.
Tượng Kinnara là vũ nữ thiên thần và những Apsara đang bay lượn trên trời. Đặc biệt là
tượng Apsara được thể hiện với tư thế quỳ, hai tay đang chấp một búp hoa hoặc một loại
quả, với động tác dâng cúng thần linh, bên cạnh là hình đám mây. Tuy với khối đá nhỏ,
nhưng người nghệ nhân đã thể hiện được sự khái quát tính không gian đạt trình độ cao,
tạo cảm giác mênh mông của không giới.
Sư tử (Trà Kiệu – Quảng Nam, thế kỷ X – XI)
Sư tử, người Chăm gọi là “Srin”là hình tượng phổ biến trong điêu khắc Champa, đặc
biệt là ở kinh đô Simhapura (thành phố Sư tử) – Trà Kiệu. Sư tử là con vật không có ở
Champa nhưng vua chúa Champa lại dùng sư tử biểu hiện cho vương quyền. Theo quan
niệm của người Chăm sư tử biểu tượng cho quý tộc, cho sức mạnh vì theo truyền thuyết,
sư tử là một trong mười kiếp hóa thân của thần Vishnu và đã giết được quỷ Hiraya
Kapipu.
Sư tử Champa thường được tạo thân hình vạm vỡ với các tư thế đứng, ngồi, quỳ, phổ
biến là tư thế đứng. Nghệ nhân thể hiện sư tử không hoàn toàn đúng theo đời thường
nhưng lại được mang rất nhiều đồ trang sức.
Trừ một đầu sư tử có nguồn gốc tại Chiên Đàn và một tượng sư tử ở Tháp Mẫm, những
tượng sư tử còn lại trong sưu tập có nguồn gốc ở Trà Kiệu. Hầu hết sư tử đều là sư tử
đực, hình thức thể hiện ở hai dạng phù điêu nổi và tượng tròn, tất cả đều ở tư thế đứng
với hai biến thể: loại thứ nhất chân phải bước lên, khớp gối hơi gấp cong chân trái duỗi
thẳng, loại kia thì ngược lại. Cả hai loại đều thể hiện chi trước giơ lên ngang đầu, lòng
“bàn tay” ngửa về phía trước. Miện trên đầu trang trí những hình lá đề nhiều tầng.
Trang phục trên mình sư tử là một loại “áo giáp”, ở ngực có những hình như dải yếm
xếp từng lớp với vạt dưới nhọn, phía dưới là một loại quần cụt ngang ống chân.
Tượng sư tử Tháp Mẫm có trang sức, trang phục và hoa văn trang trí gần giống như ở
chim thần Garuda Thấp Mẫm.
Bò Nandin
Theo thần thoại Ấn Độ thì kiếp trước của thần Shiva là con bò. Sau khi Shiva hóa thân
thành người thì con bò là vật cưỡi của thần Siva. Do vậy quan niệm của Ấn Độ giáo thì
con bò là vật cưỡi của thần Siva, cho nên tượng bò Nandin thường gắn với thần Siva.
Trong điêu khắc đá Champa, khá nhiều tượng bò Nandi được thể hiện dưới dạng tượng
tròn và ở tư thế nằm. Tượng này cũng vậy, xét ở góc độ hình thái cơ thể học, bức tượng
đã đạt trình độ cao trong nghệ thuật tả thực.
Voi
Là hình tượng khá phổ biến và sớm có mặt trong nghệ thuật điêu khắc Champa trên mọi
loại hình. Ngoài yếu tố là con vật quen thuộc có nhiều trên địa bàn cư trú, được sớm
thuần dưỡng, thì voi cũng là biểu tượng của vật linh trong Ấn Độ giáo. Voi là vật cưỡi
của thần Indra (thần sấm sét, thần chiến tranh hay thần hộ mệnh) gọi chung là Dikapala.
Song hành với việc tôn thờ Voi theo giáo lý người Chăm còn coi Voi là bạn hoặc ân nhân
cứu con người.
Chim thần Garuda
Là vật cưỡi của thần Visnu, loại hình này khá phổ biến trong điêu khắc đá Champa. Hiện
nay Bảo tàng Lịch sử Việt Nam – thành phố Hồ Chí Minh còn lưu giữ ba tiêu bản: Hai
thuộc loại hình Trà Kiệu và một thuộc loại hình Tháp Mẫm.
Loại hình Trà Kiệu với phong cách thể hiện rõ nét là loài có lông vũ, mỏ. Hình thức thể
hiện mũ hay miện trên đầu là những hình lá đề được xếp thành từng tầng. Kiểu mũ hay
miện này cũng là một trong những đặc trưng của phong cách Trà Kiệu.
Tiêu bản Garuda Tháp Mẫm với phong cách thể thiện cách điệu cao (giống như con thú).
Hoa văn trang trí cầu kỳ, hoa nhiều cánh, những hình xoắn móc, dây lưng thường được
đính những hạt viền tròn, v.v… cũng là nét đặc biệt của phong cách Tháp Mẫm.
Theo thần thoại Ấn Độ, vì mẹ của loài rắn Naga đã giết mẹ của loài chim thần Gadura,
do đó giữa hai loài này có mối thù truyền kiếp, vì thế chim thần Garuda thường bắt hoặc
giết loài rắn Naga, đề tài này được thể hiện trong điêu khắc đá Champa khá phổ biến.
Hai tiêu bản trong sưu tập này cũng thể hiện chim thần Garuda đang bắt những con rắn
Naga.
Đài thờ Trà Kiệu (thế kỷ VII-VIII) gồm hai phần, phần bên trên gồm hai thớt tròn, được
trang trí với những cánh hoa sen cách điệu trên và dưới đối xứng nhau. Thớt phía trên
thể hiện Yoni, với rãnh và vòi dẫn nước, ôm lấy một linga; Phần bên dưới là một đế thờ
hình vuông gồm bốn mặt với vô số hình người được chạm khắc tinh xảo.
Hiện có nhiều ý kiến xoay quanh ý nghĩa của đài thờ này. Năm 1930, Przyluski cho rằng
những trang trí trên bốn mặt của đài thờ minh họa truyền thuyết việc thành lập nước Phù
Nam. Một năm sau đó, Coedes đã bác bỏ giả thuyết này, và cho rằng các cảnh của đài
thờ thể hiện những giai đoạn khác nhau của cuộc đời thần Krishna như được kể trong
Bhagavata Puruna. Cũng có nhiều ý kiến khác cho rằng đài thờ kể chuyện một trích
đoạn trường ca Ramayana, chủ đề là lễ cưới của nàng Sita với hoàng tử Rama.
Từ những hình tượng nhân vật được điêu khắc, chạm trổ rất trau chuốt, đều đặn, đặc biệt
là hình ảnh mười một vũ nữ Apsara nhảy múa vô cùng mềm mại, uyển chuyển, gợi cảm
đến những kiểu trang phục, trang sức, kiểu tóc được thể hiện rất tỉ mỉ, tác phẩm hoàn
toàn xứng đáng là một trong những kiệt tác nghệ thuật điêu khắc Chăm. Đài thờ được
đưa về bảo tàng năm 1901.
Vật trang trí gắn ở góc tháp
Đây là hình tượng một mảng mây. Mây là một biểu tượng “không giới” nơi ngự trị của
các vị thần linh, mô típ này cũng khá phổ biến ở điêu khắc Champa. Hình ngọn lửa
thường gắn ở đỉnh tháp thường gắn ở góc tháp. Lửa là yếu tố liên quan nhiều đến thần
thoại và tôn giáo. Thần thoại Ấn Độ gọi thần lửa là A-nhi, (Agni) lửa cũng là hình thức
khởi phát của thần Siva. Lửa còn được coi là có vai trò môi giới giữa người trần tục và
cõi thần linh trong những lễ cúng tế..
Vũ điệu cung đình trong các tác phẩm điêu khắc:
Trong nghệ thuật điêu khắc đá Chămpa, hình tượng người múa được khắc tạc nhiều.
Loại hình này thường được gắn ở trán cửa hay trên các dải băng trang trí của những
ngôi tháp Chàm… Bình Định từng là một trong những trung tâm lớn của vương quốc
Chămpa cổ (trung tâm Vijaya). Nằm chung trong truyền thống của nền văn hóa này,
giống như những nơi khác, hầu hết các tượng đều thể hiện những điệu múa mang hình
thái tôn giáo, tín ngưỡng (các thần) và múa cung đình (lễ nghi, chúc tụng, đón khách).
Bên cạnh các điệu vũ của thần Siva, nữ thần Uma, nữ thần Sarasvati… thì vũ điệu tiên
nữ Apsara cũng là một hình tượng quen thuộc mà chúng ta thường bắt gặp.
Vũ nữ Trà Kiệu (thế kỷ VII-VIII): Hai mặt của đài thờ thể hiện vũ nữ Apsara trong tư thế
múa tribhanga với thân mình uốn cong mềm mại, uyển chuyển cùng nhạc công với vẻ
mặt tươi tắn chơi đàn Vina - một loại nhạc cụ truyền thống xuất xứ từ Ấn Độ.
Các Apsara mặc một loại váy bằng voan mỏng, bó sát người, có thể nhận biết được
thông qua chiếc nơ lớn được thắt lại ở cạnh hông sau lưng. Cổ, tay, vòng eo và bên
ngoài chiếc sampot là những chuỗi hạt ngọc. Phía sau nhạc công và vũ nữ là những cánh
hoa sen được cách điệu tạo thành những đường kỷ hà sắc nét làm tôn thêm vẻ quyến rũ
của các vũ nữ. Đài thờ còn lại hiện nay chỉ là 1/16 của đài thờ xưa kia.
3. Cảm hứng phồn thực trong điêu khắc Chămpa
Đài thờ Linga-Yoni (thế kỷ VII-VIII): Đài thờ gồm phần cột hình trụ bên trên, chia làm
ba phần gọi là Linga và phần bệ hình vuông có rãnh dẫn nước nằm bên dưới gọi là Yoni.
Linga theo tiếng Phạn cổ thường được hiểu là một hòn đá dựng lên tượng trưng cho
dương vật. Thần Siva có mười hai biểu tượng, trong đó Linga là biểu tượng nổi tiếng
nhất, tượng trưng cho năng lực sáng tạo siêu việt của thần.
Yoni cũng có nguồn gốc từ tiếng Phạn, nguyên nghĩa là “Bầu vú, nguồn gốc”. Trong
những đài thờ kết hợp Linga và Yoni, Linga tượng trưng cho nguyên lí dương và Yoni
tượng trưng cho nguyên lí âm. Sự giao hoà âm – dương là nguồn gốc của sự sinh sôi nảy
nở của vạn vật trong vũ trụ và cũng là một nét đặc trưng trong tập tục thờ cúng của các cư
dân nông nghiệp.
+ Ở Việt Nam có rất nhiều hình thức tín ngưỡng khác nhau như tín ngưỡng sùng bái tự
nhiên, tín ngưỡng thờ mẫu, tín ngưỡng phồn thực,…Các hình thức tín ngưỡng ấy có cùng
đặc điểm chung đều mang đặc trưng của văn hóa nông nghiệp với những ý nghĩa: tôn
trọng và gắn bó mật thiết với thiên nhiên , hài hòa âm dương (thể hiện ở các đối tượng
thờ cúng: Trời-Đất, TiênRồng, ), đề cao phụ nữ,…
Hình thức tín ngưỡng phồn thực của người Chăm cũng như người Việt đều dựa trên quan
niệm âm dương lưỡng hợp rất rõ nét. Đối với cư dân Chăm ước vọng về sự sinh sôi nảy
nở được phát triển thành một tinh thần phồn thực thể hiện khắp các mặt trong đời sống
như phong tục tập quán, lễ hội… Linga và yoni được tôn thờ như hai vị thần, hai nguyên
lý khởi nguyên của vũ trụ phân biệt và hòa hợp với nhau để sinh ra vạn vật. Nó được xem
như tư tưởng chủ đạo trong văn hóa Chăm. Đồng thời nó cũng là một nét văn hóa độc
đáo trong đời sống văn hóa của họ.
- Ngoài hình tượng yoni gắn liền với hình tượng linga trong các bệ thờ, dòng âm tính
trong điêu khắc Chăm còn thể hiện những phù điêu các vũ nữ Apsara, tượng vũ nữ
Aprasa với hình ảnh bầu ngực rất lớn nhưng bụng thon thể hiện khát vọng về sự dồi dào,
sinh sôi và no đủ của người Chăm.
- Ápsara tiềng Phạn có nghĩa là dòng suối mát. Ápsara chỉ một trong những vị nữ thần
sông suối, cây sỏ xinh đẹp sống ở thiên đường Indra Theo truyền thuyết, Apsara được coi
như là nữ thần biên giới, là vũ nữ của thần Indra, chuyên múa hát và dâng hoa cho các vị
thần. Apsara có biệt tài ca hát, nhảy múa có nghệ thuật yêu đương, là người bạn hay
người yêu của mục đồng thiên giới Gandhawa, đặc biệt có tài khêu gợi tình dục, thậm chí
phá được phép tu khổ hạnh của các tu sĩ đắc đạo và làm xiêu lòng biết bao thần thánh.
- Theo truyền thuyết Chămpa, tiên nữ Apsara là vũ nữ chuyên múa hát trên cõi trời do
thần Indra (thần sấm sét) cai quản. Vũ nữ Apsara với khuôn mặt đầy đặn, đầu đội mũ
Mrần kiểu Kirata – Mukata có nhiều tầng với hai mắt mở to, sóng mũi cao và nở rộng đó
là đặc trưng của điêu khắc Chămpa. Đi sâu vào bức tượng, ngắm nhìn, cố lọc ra những gì
tưởng chừng như không hợp lý, nhịp điệu của cơ thể giúp cho chúng ta đi vào bên trong
của sự kỳ diệu ấy. Toàn bộ khối hình của người vũ nữ là hai hình tam giác đối đỉnh nhau
tạo nên một cảm giác cân đối nhưng chông chênh. Các đường lượn của tay và đùi tạo
thành các đường gấp khúc uyển chuyển. Với cánh tay dài nõn nà mà có thể nói là quá khổ
uốn cong thành một động tác tưởng chừng như là phi lý, nhưng chính cánh tay trái này
làm thành một đường lượn kết nối hai phần của bức tượng, làm hai khối trở nên mềm mại
và tinh tế hơn.
- Qua vũ nữ Apsara trong nghệ thuật điêu khắc Chămpa đã tiếp thu văn hóa Ấn Độ một
cách sáng tạo những yếu tố truyền thống văn hóa dân tộc. Thông qua cải tiến những họa
tiết vốn có và bổ sung thêm những yếu tố mới đã góp phần làm phong phú về mặt nghệ
thuật văn hóa dân tộc. Tuy nhiên sự tiếp thu đó mang tính cách dung nạp rồi sau đó bản
địa hóa, địa phương hóa trở thành cái riêng của mình.
- Qua các pho tượng trên cho thấy tín ngưỡng phồn thực của người Chăm không chỉ
mang tính bản địa mẫu hệ mà còn thể hiện chất dương tính phụ hệ, không chỉ đơn thuần
là tín ngưỡng dân gian mà còn gắn liền, đi đôi với tôn giáo, ảnh hưởng đậm nét của tôn
giáo. Có lẽ đây chính là nét riêng biệt và độc đáo nhất của tín ngưỡng phồn thực Chăm.
Con trâu trong nghệ thuật điêu khắc Chămpa - Con trâu là động vật quen thuộc đối với
các cư dân vùng Nam Á và Đông Nam Á. Từ ngàn xưa, những cư dân cổ vùng nầy đã
biết thuần hóa những con trâu sống nơi hoang dã thành trâu nhà, sử dụng sức mạnh của
trâu vào việc cày bừa, kéo gỗ Gắn bó với loài người, trâu đã trở thành vật tổ hoặc biểu
tượng của một số dân tộc. Cũng như các cư dân cổ sống ở vùng đồng bằng Việt Nam ,
người Chăm biết trồng lúa nước, biết dùng sức kéo của trâu để cày bừa. Theo tín ngưỡng
của họ, con bò được coi trọng hơn trâu, bởi nó là con vật cưỡi của thần Siva - vị thần Hủy
diệt và Sáng tạo; hình tượng con trâu xuất hiện ít hơn, song vẫn có một vị trí đáng kể
trong điêu khắc Chăm.Tại Bảo tàng Điêu khắc Chăm Đà Nẵng đang trưng bày một pho
tượng Yama ngồi trên một chiếc bệ (ký hiệu 3.4) pho tượng nầy được tìm thấy tại khu
tháp Mỹ Sơn, chiếc bệ được chạm những đường kỷ hà giật cấp, phía trước thể hiện một
con trâu, theo thần thoại Ấn Độ, Yama là Thần Chết, vị thần trông coi hướng Nam trong
các Dikpakala (Thần Phương hướng), vật cưỡi của Thần là con trâu.
+Yama (Mỹ Sơn)
+Yama (Quá Giáng)
+Dvarapala Đồng Dương
4. Những hoạ tiết phổ biến trong nghệ thuật điêu khắc chăm
* Họa tiết hoa văn hình cúc
- Hoạ tiết hoa văn hình hoa cúc được người Chăm thể hiện nhiều trong kiến trúc đền tháp
và trong điêu khắc. Trên tác phẩm đài thờ Mỹ Sơn E1 (thế kỷ VII-VIII), ở tại Bảo tàng
điêu khắc Chăm Đà Nẵng, những đường viền chung quanh phần trên đài thờ là những dải
hoa cúc, lá và hoa được cách điệu khá tinh tế, hoa thường thể hiện 4 cánh, chính giữa có
nhị hoa, tuy thời gian và mưa gió đã bào mòn khá nhiều, nhưng nét chạm vẫn còn khá rõ.
Trên lanh tô của một cửa tháp ở nhóm tháp Mỹ Sơn A1 (thế kỷ X), dải hoa cúc lại được
chạm khắc một cách sắc sảo hơn, hoa có dạng hình tròn, chung quanh là lá và thân cây
được cách điệu một cách mềm mại, mang tính đối xứng, ở chính giữa hoa có nhị hoa và
nhiều cánh hoa lại chụm lại với nhau, giống như hoa đang ở độ búp mới xoè nở. 2. Họa
tiết hoa văn hình hoa sen
- Hoạ tiết hoa văn hình hoa sen được thể hiện khá nhiều trong điêu khắc và kiến trúc
Chăm, gần như ở hầu khắp các phong cách nghệ thuật. Trong tác phẩm Đản sinh thần
Brama ở phòng Mỹ Sơn, thể hiện thần Visnu cầm một cây sen đang nở, phía trên hoa đã
nở xoè với nhiều cánh, thần Brama ngồi trên các cánh sen, hoa sen được cách điệu. Trên
các đài thờ như đài thờ Trà Kiệu (thế kỷ X), đài thờ nữ thần Uroja (thế kỷ XII), hoa sen
được cách điệu bao quanh phần đế các đài thờ với những cánh hoa rất lớn, được chạm sắc
sảo, đường nét các gờ nổi rõ. Trên đài thờ Vũ nữ Trà Kiệu hoa sen lại được cách điệu
mạnh mẽ hơn, tạo thành các đường gờ lớn nhỏ, nhìn kỹ chúng ta mới biết được đó chính
là búp sen, các vũ nữ đứng tựa lưng vào các cánh sen múa hát uyển chuyển, tạo nên một
cảnh quang sinh động, có giá trị cao về nghệ thuật.
- Họa tiết hoa văn hình dây
+ Hoạ tiết hoa văn hình hoa dây được khắc chạm khá nhiều trên các đền tháp, kể cả trên
gạch và trên đá, cũng như trong các tác phẩm điêu khắc lớn nhỏ. Hoa dây thường thể hiện
trên các trụ cửa và thể hiện trên các tháp ở Khương Mỹ. Gọi là hoa dây vì hoa, lá và thân
hoà quyện vào với nhau rất khó phân biệt, các nét chạm khá sắc sảo, tinh tế tạo thành một
dải dài từ trên thân tháp xuống đến chân đế tháp, hoặc từ trên xuống dưới của một trụ
cửa.
- Họa tiết hoa văn hình con sâu
+Gọi là hình con sâu vì các hoạ tiết hoa văn trông giống hình con sâu đo. Những hoạ tiết
hoa văn này thường thấy trong các tác phẩm kiến trúc đền tháp và điêu khắc Đồng
Dương, thuộc phong cách nghệ thuật Đồng Dương (thế kỷ IX). Tuy nhiên, nếu nhìn thật
kỹ và phân tích chúng ta thấy rằng đây cũng chính là những dải hoa dây được chạm trổ
một cách khá rối rắm. 5. Họa tiết hoa văn hình sóng nước hay ngọn lửa
- Hoạ tiết hoa văn hình song nước hay ngọn lửa thường bắt gặp nhiều trong các tác phẩm
điêu khắc và kiến trúc thuộc phong cách nghệ thuật Tháp Mẫm (thế kỷ XII-XIV). Trên
các lanh tô của các đền tháp ở Tháp Mẫm (Bình Định) thường thể hiện các diềm trang trí
hình ngọn lửa hay hình song nước, xen kẽ với nó là hình các mặt nạ Kala hay các con
khỉ. Thật ra đây cũng là hình ảnh các hoa và lá cũng như than cây được cách điệu khá đặc
biệt, không mềm mại như ở phong cách Mỹ Sơn hay Khương Mỹ, không rối rắm như ở
phong cách Đồng Dương, mà lại thô ráp, to bè, nhìn trông giống như hình một ngọn lửa
đang cháy hay hình một đợt sóng cuộn lên ào ạt, thể hiện sức mạnh, sức sống tràn trề,
mang tính cách mạnh mẽ
- Họa tiết hoa văn hình học
+Đó là các hình tam giác, hình thoi, hình vuông, hình chữ nhật, hình viên bi (hình tròn)…
thể hiện qua những diềm hoa văn viền quanh các tác phẩm điêu khắc.
- Họa tiết hoa văn hình động vật
+ Hoạ tiết hoa văn hình động vật thường trang trí các mặt nạ Kala, Makara, hình ảnh các
chú khỉ vui nhộn…với cách trang trí như vậy cũng tạo cho các tác phẩm điêu khắc Chăm
những nét đẹp hiếm thấy, những ấn tượng khác lạ trong nghệ thuật, tuy nhiên hình ảnh
các loài động vật cũng đã được cách điệu hoá cao. Những ảnh hưởng từ bên ngoài khi
vào Chăm Pa đều bị biến đổi theo những phong cách truyền thống Chăm. Những tác
phẩm điêu khắc khi vào Chăm Pa đều có xu hướng tượng tròn hoá, hoành tráng hoá theo
xu hướng của chủ nghĩa ấn tượng, không theo lối tả thực.
5. Nghệ thuật điêu khắc Chăm được thể hiện trong quần thể kiến trúc:
- Trong di sản văn hoá người Chăm hiện nay nổi bật nhất là hệ thống đền tháp, điêu khắc,
tượng thờ, thành quách, bia kí…Hầu hết từ Miền Trung cho đến Tây Nguyên, nơi nào có
người Chăm sinh sống thì họ đều xây dựng đền tháp để thờ thần. Điều đó cho ta thấy tầm
quan trọng đền tháp đối với người Chăm. Thế nhưng hiện nay, trong tổng số khoảng 250
di tích đã được người Pháp thống kê, chỉ còn 20 nhóm đền tháp với 40 công trình còn tạm
đứng vững.
- Điều đáng chú ý trước tiên, là các tác phẩm điêu khắc Chăm, tưởng như chỉ giới hạn ở
các pho tượng và phù điêu bằng đá sa thạch, ngoại trừ những bức tượng Phật, hoặc tượng
thần Ấn Độ giáo hiếm hoi được đúc bằng đồng mun (đôi khi được đúc ở tận Sri Lanka,
như bức tượng Phật tìm thấy ở Đồng Dương (thế kỷ 8-9), thực ra, nghệ thuật điêu khắc
Chăm còn được thể hiện ngay trên vật liệu gạch nung, ở mặt tiền của các ngôi tháp. Các
bức phù điêu được chạm khắc thẳng trên gạch nung. Đó cũng là một trong những nét đặc
thù của nghệ thuật Chăm, cho phép ta phân biệt dễ dàng các tác phẩm kiến trúc và điêu
khắc Chăm với các tác phẩm Khơme và Ấn Độ.
- Điểm thứ hai, đáng chú ý, là các tác phẩm điêu khắc Chăm tạc trên đá sa thạch (grès), tỏ
ra không được mịn màng, sắc nét, bằng những tác phẩm điêu khắc ở Angkor, hay ở các
đền tháp của người Ấn Độ, mặc dầu chất liệu của loại đá có hạt to này, qua thời gian, dãi
dầu nắng, mưa, sương, gió, vẫn có một vẻ đẹp riêng, đường nét và nhịp điệu của các pho
tượng lại rất sinh động, uyển chuyển.
- Nghệ thuật điêu khắc Chămpa đã đi sâu vào lòng người, sớm nhất vào khoảng đầu thế
kỷ 7, đã gây nên những ấn tượng khá sâu sắc tới nhiều người trong và ngoài nước. Có thể
nói công phát hiện đầu tiên là của các học giả, nhà nghiên cứu Pháp như: Parmentier,
Agmonier, G. Maspero. Tuy số nhà nghiên cứu không nhiều, nhưng với nghệ thuật điêu
khắc độc đáo và phong cách gắn với sắc thái dân tộc đã đóng góp một phần nào vào kho
tàng văn hóa của nhân loại. Điêu khắc Champa nói riêng, nghệ thuật Champa nói chung
đã hình thành, hưng thịnh và suy tàn trong vòng 10 thế kỷ từ thế kỷ VII đến thế kỷ XVI
- Điêu khắc Champa gắn liền với những công trình kiến trúc, đền đài, thành quách, tháp
thờ nằm rải rác suốt dọc miền Trung Việt Nam. Bằng tài năng điêu khắc tuyệt vời, các
nghệ nhân Champa cổ đã đánh thức dậy những tảng đá âm u, mịt mù thành hiện thực sinh
động trong nhận thức tôn giáo kỳ bí nhưng đã toát nên vẻ đẹp cường tráng, đầy sinh lực
dồi dào bất tận. Điêu khắc Champa tràn đầy vẻ đẹp con người được núp dưới những chủ
đề huyền thoại của thần linh và tôn giáo
(anh minh họa)
6. Các tác phẩm tiêu biểu
- Những tác phẩm điêu khắc ở thánh địa Mỹ Sơn - Những tác phẩm điêu khắc tìm thấy ở
Tháp Mẫm, có niên đại muộn hơn (thế kỷ XII-XIII). Hình dạng , tỷ lệ, và phong cách của
các mô-típ trang trí ở đây trông thô hơn hẳn, so với nghệ thuật ở các thời kỳ trước. Có
một cái gì đó như một sự suy đồi về phong cách. Những mô-típ thú vật thần thoại này
làm cho người ta không khỏi nghĩ đến những mô-típ điêu khắc bằng gốm nung khai quật
được gần đây ở di chỉ hoàng thành Thăng Long.
-Viện Cổ Chàm - Viện Cổ Chàm tai Đà Nẵng hiện tại có khoảng gần 2.000 hiện vật lớn
nhỏ, trong đó có gần 500 hiện vật đang trưng bày bên trong nhà Bảo tàng (được phân
chia thành các phòng trưng bày gồm: Mỹ Sơn, Trà Kiệu, Đồng Dương, Tháp Mẫm và các
hành lang Quảng Trị, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Kon Tum, Quảng Bình và Bình Định),
một số hiện vật trưng bày ngoài sân vườn và hơn 1200 hiện vật hiện đang lưu giữ trong
kho. Hầu hết các tác phẩm điêu khắc hiện có tại bảo tàng là những tác phẩm nguyên bản
trên 3 chất liệu chính là sa thạch, đất nung và đồng, phần lớn là sa thạch, có niên đại từ
thế kỷ VII đến thế kỷ XV thuộc nhiều phong cách nghệ thuật khác nhau.
Đài thờ Mỹ Sơn E1 (Niên đại: Thế kỷ VII–VIII; chất liệu: sa thạch; nguồn gốc:
Mỹ Sơn – Quảng Nam). Đây là đài thờ của ngôi đền Mỹ Sơn E1. Đài thờ gồm
nhiều phiến đá ghép lại thành một bệ thờ hình vuông. Những phần được thu thập
về trưng bày tại Bảo tàng hiện nay gồm 14 phiến đá được chạm khắc tinh tế, miêu
tả sinh hoạt của các nhà tu khổ hạnh, nhạc công, vũ nữ và những người ngưỡng
mộ.
Mi cửa tháp Mỹ Sơn E1 (Niên đại: thế kỷ VII; chất liệu: sa thạch; nguồn gốc: Mỹ
Sơn – Quảng Nam). Đây là một tác phẩm điêu khắc trên một chi tiết kiến trúc tháp
– là mi cửa (còn gọi là trán cửa, vòm cửa), nội dung thể hiện một chủ đề quen
thuộc trong thần thoại Ấn Độ: Đó là cảnh thần Vishnu sinh ra thần Brahma từ
cuống rốn của mình.
Đài thờ (thế kỷ XII) là một thớt tròn, xung quanh được trang trí với 23 bầu vú phụ
nữ đầy đặn, căng tròn, đường kính mỗi bầu là 11cm. Phía trên và dưới của vòng
tròn vú là các đường xoắn chập hai đầu dây rất tỉ mỉ, theo phương thẳng đứng.Đài
thờ xứng đáng là một kiệt tác của điêu khắc Chăm, thể hiện ảnh hưởng của tín
ngưỡng phồn thực và xã hội mẫu hệ.
Đài thờ Linga-Yoni (thế kỷ VII-VIII): Đài thờ gồm phần cột hình trụ bên trên, chia
làm ba phần gọi là Linga và phần bệ hình vuông có rãnh dẫn nước nằm bên dưới
gọi là Yoni. Linga theo tiếng Phạn cổ thường được hiểu là một hòn đá dựng lên
tượng trưng cho dương vật. Thần Siva có mười hai biểu tượng, trong đó Linga là
biểu tượng nổi tiếng nhất, tượng trưng cho năng lực sáng tạo siêu việt của thần.
Yoni cũng có nguồn gốc từ tiếng Phạn, nguyên nghĩa là “Bầu vú, nguồn gốc”.
Trong những đài thờ kết hợp Linga và Yoni, Linga tượng trưng cho nguyên lí
dương và Yoni tượng trưng cho nguyên lí âm. Sự giao hoà âm – dương là nguồn
gốc của sự sinh sôi nảy nở của vạn vật trong vũ trụ và cũng là một nét đặc trưng
trong tập tục thờ cúng của các cư dân nông nghiệp.
Tympan thể hiện thần Brahma có 4 đầu (chiếc đầu thứ 4 không thể thấy được).
Thần ngồi xếp bằng trên tòa sen, các cánh sen lật ra bên ngoài. Đầu đội Kiritamukuta, hai hàng lông mày mỏng, đôi mắt hình khuy áo không có con ngươi. Hai
tai đeo khuyên tai hình hoa như tượng thần Vishnu nói trên. Hai tay cầm hai đóa
sen, cổ đeo một vòng kiềng lớn, thân trên để trần, thân dưới mặc một sampot ngắn,
vạt trước có 2 múi cong về phía bên trái.
Phù điêu Vishnu (thế kỷ XI-XII): Theo Ấn độ giáo, Vishnu là vị thần bảo tồn, canh
giữ không trung. Trong thần thoại Ấn Độ, vị thần này có rất nhiều kiếp hóa thân
khác nhau. Tấm tympan với viền khung xung quanh hình lá đề, bên trong thể hiện
thần Vishnu ngồi xếp bằng theo kiểu Ấn Độ trên thân mình cuộn thành chín khúc
của rắn Naga.Phía sau lưng thần, rắn Naga mọc lên mười ba đầu tạo thành một tán
che cho thần. Bốn tay của thần cầm bốn vật tượng trưng gồm: chiếc gậy
Kaumodaki, chiếc tù và bằng ốc biển Shankha, chiếc đĩa rỗng đáy Sudarsana và
đoá hoa sen (đã gãy). Đề tài về thần Vishnu xuất hiện không nhiều trong điêu khắc
Champa, vì thế tác phẩm này rất quí hiếm và có giá trị trong việc tìm hiểu nghệ
thuật điêu khắc và tôn giáo của Champa.
Hình tượng Vũ Nữ Apsara được chạm khắc trên bệ thờ của di tích Trà Kiệu bằng
đá sa thạch. Bệ thờ này có niên đại từ thế kỷ thứ 10 hiện đang trưng bày tại bảo
tàng "Chăm" Đà Nẵng.
Tượng Skanda và tượng Ganesa trong tư thế đứng, ngồi. Tượng Skanda (trái) miêu
tả thần Skanda đang đứng trên một con công, các chi tiết trên thân hình và đuôi
con công được chạm trổ tinh tế, hoàn mỹ theo bút pháp tả thực. Tiếc là đầu con
công bị gãy nhưng toàn bộ thân hình và dáng đứng của con công vẫn toát lên vẻ
trang trọng vững chãi, tôn vinh vẻ đẹp của thần Skanda, một vị thần tượng trưng
cho sự trẻ trung và nhiều tài năng trong thần thoại Ấn Độ.
Tượng Ganesa được tìm thấy ở tháp E 5. Thần có bốn cánh tay, một tay cầm chén
có cắm cái vòi của thần, một tay cầm chuỗi hạt, hai tay khác đã gãy mất. Thần
mang nhiều đồ trang sức, ở cổ là một chiếc vòng nặng có hình những cánh hoa kết
xoắn xít. Thần mặc một chiếc sampot có thân buông xuống phía trước, thắt lưng
được buộc lại bằng một loại khoá chạm khắc thành hình hoa trước bụng. Choàng
qua vai thần là một sợi dây hình rắn, một dấu hiệu thường thấy ở các tượng thần
Siva.
Với thân hình tròn trĩnh, mập mạp, tượng thần Ganesa đứng trông rất vững chãi,
bệ vệ và thân thiện với mọi người. Thần Ganesha là con trai của thần Siva.
Ganesha là vị thần biểu trưng cho trí tuệ, hạnh phúc và may mắn. Thần được thờ
cúng sớm, rộng rãi và lâu dài tại Ấn Độ cũng như ở các quốc gia Ấn Độ hóa ở
Đông Dương và quần đảo Mã Lai.
……..
III. KẾT LUẬN
Cùng với nền điêu khắc của người Khmer và người Java, nền điêu khắc Chăm Pa là một
trong ba nền điêu khắc chịu ảnh hưởng của Ấn Độ đạt tới tầm cỡ thế giới. Tuy ảnh hưởng
nhiều từ nền điêu khắc Ấn Độ, Java và Khmer nhưng điêu khăc Chăm Pa vẫn có những
tính độc đáo riêng. Xu thế hướng tới tượng tròn của hầu như tất cả các hình chạm khắc
dưới dạng phù điêu, trong điêu khắc Chăm Pa rất ít có khung cảnh chung mà nhấn mạnh
vào từng hình tượng, ví dụ như bức phù điêu tiên nữ Apsara đang múa được tìm thấy ở
Trà Kiệu thể hiện bàn tay to, cánh tay cong. Chính vì thế nghệ thuật điêu khắc của Chăm
Pa mang tính ấn tượng nhiều hơn là tả thực, tính ấn tượng có thể nói là đặc điểm quan
trọng tạo nên vẻ đẹp độc đáo của nghệ thuật điêu khắc cổ Chăm Pa.