Tải bản đầy đủ (.docx) (45 trang)

Nâng cao chất lượng môn Chính tả lớp 1 cho học sinh dân tộc Bru Vân Kiều tại trường PTDTBT TH THCS Ba Rền bằng phương pháp dạy học tích cực

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (256.22 KB, 45 trang )

MỤC LỤC

1


A. PHẦN MỞ ĐẦU.
1. Lí do chọn đề tài.
Tiếng Việt là ngôn ngữ thống nhất trên toàn bộ lãnh thổ Việt Nam. Trong cuộc
sống hàng ngày, để giao tiếp ngoài ngôn ngữ nói còn có ngôn ngữ viết. Ngôn ngữ viết
đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong giao tiếp của các quốc gia nói chung cũng như
Việt Nam nói riêng. Yêu cầu đầu tiên, đặc biệt quan trọng của ngôn ngữ viết là phải
viết đúng chính tả. Chính tả có thống nhất thì việc giao tiếp bằng ngôn ngữ viết mới
không bị cản trở giữa các địa phương trong cả nước, cũng như giữa các thế hệ đời
trước và đời sau.
Chữ viết có vai trò rất quan trọng đối với con người, cố Thủ tướng Phạm Văn
Đồng đã nói “Chữ viết là một sự biểu hiện của nết người, dạy cho học sinh viết đúng,
viết cẩn thận, viết đẹp là góp phần rèn luyện các tính cẩn thận, tính kỉ luật và lòng tự
trọng". Vì vậy chữ viết cần phải đúng, đẹp, chữ viết sai chính tả hiệu quả giáo dục sẽ
giảm xuống, hậu quả khó lường trước được. Chữ viết là kí hiệu bằng hình ảnh, thị giác
ghi lại bằng tiếng nói, mỗi đường nét tương ứng với một âm thanh có ý nghĩa của tiếng
nói. Một tổ hợp gồm chuỗi các hình nét được liên kết theo những cách thức nhất định
để ghi lại lời nói âm thanh và trở thành phương tiện truyền đạt nội dung.
Trường tiểu học là nơi đào tạo thế hệ trẻ trở thành những con người mới có trình
độ văn hoá và cũng là nơi có trách nhiệm rèn luyện cho các em việc giữ gìn và sử dụng
đúng ngôn ngữ Tiếng Việt. Chính từ nơi đây nhà trường đã đào tạo nền móng đầu tiên
cho học sinh biết giữ gìn, biết bảo vệ và phát triển ngôn ngữ của dân tộc. Vì vậy dạy
cho học sinh về tiếng Việt một cách cơ bản có hệ thống là một điều hết sức quan trọng.
Trong quá trình giảng dạy môn Tiếng Việt điều cơ bản nhất là làm thế nào cho học
sinh, đọc đúng biết dùng từ chính xác, đặt câu đúng ngữ pháp. Biết sử dụng đúng nội
dung để diển đạt những điều mình muốn nói bằng các ngôn ngữ thích hợp, chính xác
làm cho người đọc, người nghe hiểu được dể dàng.


Vì vậy trang bị cho học sinh một hệ thống tri thức ngôn ngữ của Tiếng Việt qua các
kĩ năng nghe, đọc, nói, viết để làm công cụ cho các môn khoa học khác, làm công cụ
giao tiếp trong xã hội; Tình trạng học sinh phát âm chưa được chuẩn,việc rèn cho học
2


sinh viết đúng chính tả để diển đạt nội dung đúng là một điều hết sức quan trọng. Tình
trạng viết sai lỗi chính tả của học sinh còn nhiều nguyên nhân là do các em phát âm
không chuẩn, không đúng, nghe không chính xác dẫn đến viết sai lỗi chính tả.
Làm thế nào để các em biết phát âm đúng, viết đúng chính tả, viết đúng ngữ pháp
Tiếng Việt. Biết phân biệt nghĩa được các từ đó là điều băn khoăn, lo lắng đối với
người làm công tác giáo dục. Vậy việc rèn luyện chính tả cho học sinh là vấn đề cần
thiết nhất tạo cho học sinh viết đúng chữ viết. Hiện nay trình độ học sinh nắm và viết
Tiếng Việt còn thấp. Bên cạnh những học sinh viết đúng nói rõ ràng mạch lạc, còn có
học sinh chưa biết dùng và viết đúng Tiếng Việt một cách thành thạo để diễn đạt ý nghỉ
của mình, nhiều em phát âm sai, viết sai chính tả, dùng từ không đúng, không biết đặt
câu, chấm câu do không nắm vững Tiếng Việt, nên lời nói, lời văn của các em còn rời
rạc vì vậy rèn cho học sinh kĩ năng viết đúng chính tả là một việc làm cấp thiết và hết
sức cần thiết.
Lớp 1 là lớp đầu cấp nên việc dạy đọc, viết cho học sinh vô cùng quan trọng trong
việc tạo nền tảng, tiền đề để các em tìm tòi, phát hiện kiến thức trước mắt cũng như
trong tương lai. Ở lớp 1, các em học tốt thì khi chuyển sang học các lớp tiếp theo các
em mới nắm bắt được những yêu cầu cao hơn của môn Tiếng Việt, thuận lợi cho việc
học tập các môn khác. Để học sinh lớp 1 đạt được điều đó thì người giáo viên cần phải
có cách tổ chức, hướng dẫn học sinh học tập theo một quy trình khoa học, tích cực hóa
được các hoạt động của các em nhằm khơi dậy sự tò mò, sáng tạo, chủ động của các
em. Từ đó giúp các em từng bước tự điều chỉnh chính mình trong việc tự tìm tòi khám
phá tri thức chứ không ai có thể làm thay được.
Các em học sinh lớp 1 từ Mầm non lên, trong việc học tập cũng như các hoạt động
thì các em còn rụt rè và việc thích ứng với môi trường học mới còn chậm, trong việc

học tập của các em còn lúng túng, khó hiểu và chưa phát huy hết được năng lực học
tập của học sinh.
Hiện nay, chất lượng dạy học môn tiếng Việt nói chung và phân môn Chính tả nói
riêng ở trường PTDTBT TH & THCS Ba Rền trong những năm qua vẫn còn là điều
trăn trở. Điều đó cũng ảnh hưởng nhiều đến việc học tập các môn học khác. Nếu
3


không có những biện pháp khắc phục kịp thời thì sẽ làm mất đi sự thống nhất của tiếng
Việt. Cụ thể là trên địa bàn trường PTDTBT TH & THCS Ba Rền, hiện tượng học sinh
nói, viết không đúng câu, chữ và đặc biệt là hiện tượng học sinh viết sai chính tả chiếm
một tỷ lệ không nhỏ. Vấn đề này có nhiều nguyên nhân, nhưng một trong những
nguyên nhân cơ bản và quan trọng nhất là do tiếng Việt không phải tiếng mẹ đẻ nên
khiến các em gặp nhiều khó khăn trong việc học tập môn chính tả. Bên cạnh đó, về
phương pháp, một số giáo viên chưa chú ý áp dụng phương pháp hợp lý khi dạy chính
tả.
Trường PTDTBT TH & THCS Ba Rền nằm trên địa bàn của bản Khe Ngát, một
bản làng vùng cao của huyện Bố Trạch nên học sinh và người dân chịu ảnh hưởng
nhiều của phương ngữ. Tâm lí học sinh dân tộc rụt rè, hay xấu hổ, các em chưa có thói
quen nói tiếng Việt nên thường ngại nói, khi có cơ hội các em thường quay về với
tiếng mẹ đẻ quen thuộc của mình, kể cả trong lớp học. Học sinh dân tộc vì chưa làm
chủ được tiếng Việt nên thiếu chủ động, thường thụ động trả lời câu hỏi, không mấy
khi dám đặt câu hỏi.
Đối tượng của phân môn Chính tả là cấu trúc ngữ âm, quy trình dạy, phần vần,
công đoạn dùng mẫu và lập mẫu. Học sinh nắm chắc ngữ âm, luật chính tả, phân biệt
rõ đâu là nguyên âm, phụ âm, âm đầu, âm đệm, âm chính, âm cuối. Phát huy được tính
tích cực, chủ động trong học tập.
Được sinh ra và lớn lên trên mảnh đất Bố Trạch, được sống gần với địa bàn sinh
sống của người dân tộc Bru – Vân Kiều nên tôi đã có điều kiện để tiếp xúc và giao tiếp
với các em học sinh người dân tộc Bru - Vân Kiều. Qua đó, tôi nhận thấy rằng, các em

trong quá trình học tập và sử dụng ngôn ngữ hàng ngày còn mắc nhiều lỗi chính tả.
Xuất phát từ những lí do trên, tôi chọn đề tài: “Nâng cao chất lượng môn chính tả lớp
1 cho học sinh dân tộc Bru - Vân Kiều tại trường PTDTBT TH & THCS Ba Rền bằng
phương pháp dạy học tích cực” để nghiên cứu, cũng là nêu lên thực tế và biện pháp
nâng cao chất lượng dạy và học, với mong muốn là đưa các em học sinh người dân tộc
Bru - Vân Kiều thu hẹp khoảng cách về nhận thức đối với học sinh là người dân tộc
Kinh.
4


2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề.
Qua thực tế tìm hiểu, bản thân tôi nhận thấy đã có một số đề tài nghiên cứu về vấn
đề này và tất cả các đề tài đều không nằm ngoài mục đích nâng cao chất lượng dạy
học. Từ thực tế, tôi thiết nghĩ những sáng kiến phải đáp ứng được yêu cầu cơ bản, đó
là: Tìm ra được biện pháp sửa sai trong quá trình viết đúng chính tả tiếng Việt cho học
sinh lớp 1 dân tộc thiểu số, chủ yếu là nắm được quy tắc chính âm, chính tả kết hợp
với sử dụng khẩu hình để uốn nắn học sinh. Tính sáng tạo khắc phục được những lỗi
mà học sinh thường mắc phải để mỗi giáo viên có hướng rèn luyện, bồi dưỡng hiệu
quả việc viết sai tiếng Việt của học sinh dân tộc Bru Vân Kiều khi bắt đầu bước vào
lớp đầu cấp… Các tác giả với các bài viết đã đề cập tới nhiều khía cạnh, phương diện
khác nhau.
Giáo trình “Phương pháp dạy học tiếng Việt cho học sinh dân tộc cấp Tiểu học’’
của Bộ Giáo dục – Đào tạo, dự án phát triển giáo viên tiểu học, Nhà xuất bản Giáo
dục, Hà Nội (2006), tác giả đã đề cập tới những mục tiêu cơ bản của dạy môn Chính tả
cho học sinh dân tộc thiểu số, chỉ ra một hạn chế trong việc thực hiện các yêu cầu phân
môn Chính tả ở vùng dân tộc. Tài liệu còn đề cập đến những nguyên nhân cơ bản nhất
của việc mắc lỗi chính tả của học sinh dân tộc thiểu số.
Trong cuốn “Ngữ âm học hiện đại”, Cù Đình Tùng, Hoàng Văn Thung, Nguyễn
Nguyên Trứ, nhà xuất bản Giáo Dục (1978), các tác giả đã đề cập đến vấn đề chính âm
và chính tả tiếng Việt, từ đó đề ra các phương pháp dạy học chính tả. Đặc biệt là các

tác giả đã tiến hành phân loại các lỗi chính tả để tìm ra biện pháp khắc phục cụ thể,
thích hợp với mỗi loại.
Công trình “Vui học tiếng Việt”- Trần Mạnh Hưởng, tập 1 (2002), nhà xuất bản
Giáo dục, tác giả nhấn mạnh những kiến thức tiếng Việt cơ bản giúp học sinh luyện tập
thành thạo các kĩ năng nghe, nói, đọc, viết, các em sẽ suy nghĩ mạch lạc, diễn đạt trong
sáng, có khả năng làm chủ được tiếng nói và chữ viết của dân tộc.
Giáo trình “Dạy học chính tả ở tiểu học” , Hoàng Văn Thung, Đỗ Xuân Thảo
(2002), nhà xuất bản Giáo dục, tác giả đã đề cập đến khái niệm chính tả, vị trí của
phân môn Chính tả, những nhiệm vụ và mục tiêu của phân môn Chính tả ở Tiểu học.
5


Giáo trình “Chữ viết và dạy chữ viết ở tiểu học” Lê A (1982), nhà xuất bản Đại
học sư phạm, tác giả đã đề cập tới vị trí, tính chất, nhiệm vụ của phân môn chính tả ở
tiểu học, cơ sở khoa học của việc dạy học chính tả, chương trình sách giáo khoa dạy
chính tả.
Trong cuốn “Tiếng Việt thực hành”, Nguyễn Minh Tuyết, Nguyễn Văn Hiệp, nhà
xuất bản Giáo dục (1997). Tác giả đã đưa ra những vấn đề thiết thực nhất đối với việc
tiếp nhận và tạo lập văn bản viết trong nhà trường, việc rèn luyện kĩ năng dùng từ và kĩ
năng chính tả, các lỗi dùng từ, các mẹo chữa lỗi về chính tả. Giáo trình giúp sinh viên
phát triển các lĩ năng sử dụng tiếng Việt.
Công trình nghiên cứu “Đổi mới phương pháp dạy học tiểu học” của Bộ giáo dục
đào tạo, dự án phát triển giáo viên tiểu học, nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội, (2005), tác
giả đã chỉ ra những đổi mới trong nội dung và phương pháp bài dạy phân môn chính tả
theo chương trình sách giáo khoa mới. Nắm được bản chất và phương pháp dạy học
chính tả theo hướng tích cực hóa hoạt động của học sinh.
Các công trình nghiên cứu trên là những tiền đề lí luận quý báu để tôi thực hiện đề
tài "Nâng cao chất lượng môn chính tả lớp 1 cho học sinh dân tộc Bru Vân Kiều tại
trường PTDTBT TH & THCS Ba Rền bằng phương pháp dạy học tích cực”.
3. Mục đích nghiên cứu.

Phân môn chính tả là một phân môn đặc biệt quan trọng trong chương trình tiểu
học nói chung. Song chất lượng dạy học chính tả ở những trường miền núi nói chung
và trường PTDTBT TH & THCS Ba Rền nói riêng còn ở mức thấp, tình trạng học sinh
viết sai lỗi chính tả còn khá phổ biến.
Do đó, tôi hi vọng có thể đề xuất biện pháp thích hợp nhằm nâng cao chất lượng
học tập môn chính tả cho học sinh lớp 1 trường Tiểu học nói chung và Trường
PTDTBT TH & THCS Ba Rền nói riêng.

6


4. Khách thể và đối tượng nghiên cứu.
4.1. Đối tượng nghiên cứu.
Đề tài tập trung nghiên cứu về phương pháp dạy học tích cực đối với việc học tập
môn Chính tả của học sinh lớp 1 Trường PTDTBT TH & THCS Ba Rền – Bố Trạch –
Quảng Bình.
4.2. Khách thể nghiên cứu.
Đề tài áp dụng cho học sinh lớp 1 là đối tượng học sinh dân tộc Bru Vân Kiều tại
trường PTDTBT TH & THCS Ba Rền.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu.
Tiến hành đề tài tác giả thực hiện nhiệm vụ:
- Tìm hiểu cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn của việc dạy học chính tả ở trường Tiểu
học nói chung.
- Khảo sát, thống kê phân loại lỗi chính tả, chỉ ra thực trạng mắc lỗi của học sinh
lớp 1 trường PTDTBT TH & THCS Ba Rền.
- Đề xuất một số biện pháp sửa lỗi chính tả cơ bản cho học sinh dân tộc Bru Vân
Kiều.
- Tiến hành thiết kế giáo án và thực nghiệm dạy học.
- Tổng hợp, so sánh, đối chiếu kết quả bước đầu thể nghiệm và rút ra tính khả thi
của vấn đề nghiên cứu.

6. Giả thuyết khoa học.
Phương pháp dạy học tích cực góp phần nâng cao hiệu quả dạy học chính tả cho
học sinh dân tộc Bru Vân Kiều lớp 1 nói riêng và trong nhà trường Tiểu học nói chung.
7. Phương pháp nghiên cứu.
Trong quá trình nghiên cứu đề tài “ Nâng cao chất lượng môn chính tả lớp 1 cho
học sinh dân tộc Bru Vân Kiều tại trường PTDTBT TH - THCS Ba Rền bằng phương
pháp dạy học tích cực”. Tôi sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu hỗ trợ nhau. Song

7


một số phương pháp đặc trưng được sử dụng nhiều nhất trong suốt quá trình nghiên
cứu là:
7.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận.
Đọc tài liệu, sách tham khảo, sách giáo khoa có liên quan đến việc dạy học chính
tả.
7.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn.
- Phương pháp quan sát: Quan sát các giờ dạy và học chính tả của học sinh để phát
hiện những biến đổi trong bài viết của học sinh về số lượng và chất lượng do tác động
của phương pháp giảng dạy. Qua đó rút kinh nghiệm và đánh giá thực trạng chất lượng
của học sinh.
- Phương pháp trò chuyện: Trao đổi với giáo viên và học sinh để timg hiểu thực
trạng dạy và học trong nhà trường.
- Phương pháp điều tra: Khảo sát nội dung sách giáo khoa, năng lực viết chính tả
của học sinh.
7.3. Phương pháp thống kê, so sánh đối chiếu.
Phương pháp này nhằm thống kế các lỗi chính tả của học sinh thường mắc phải, so
sánh cách dạy thông thường và cách dạy đang nghiên cứu và đối chiếu.
7.4. Phương pháp phân tích tổng hợp.
Phân tích thực tiễn chương trình, sách giáo khoa, tìm ra những điểm tích cực và

hạn chế của chương trình sách giáo khoa.
8. Đóng góp của đề tài.
- Đề xuất phương pháp dạy học tích cực cho học sinh lớp 1 trường PTDTBT TH
& THCS Ba Rền.
- Đề tài sẽ là tài liệu tham khảo bổ ích cho giáo viên, cán bộ quản lý của trường
PTDTBT TH &THCS Ba Rền.

8


9. Cấu trúc của đề tài.
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, cấu trúc đề tài gồm
có 3 chương.
Chương 1: Cơ sở lí luận chung.
Chương 2: Thực trạng việc học tập môn Chính tả lớp 1 hiện nay của học sinh
trường PTDTBT TH & THCS Ba Rền.
Chương 3: Phương pháp dạy học tích cực đối với hoạt động học tập môn Chính tả
lớp 1 trường PTDTBT TH & THCS Ba Rền.

9


B. PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ KHOA HỌC.
1.1. Cơ sở lí luận chung.
1.1.1. Một số khái niệm.
1.1.1.1. Khái niệm chính tả.
Chính tả là hệ thống các quy tắc về cách viết thống nhất cho các từ của một ngôn
ngữ. Nói cách khác chính tả là những chuẩn mực của ngôn ngữ viết được thừa nhận
trong ngôn ngữ toàn dân. Nó là phương tiện thuận lợi cho việc lưu truyền thông tin,

đảm bảo cho người viết, người đọc thống nhất những điều đã viết.
Chính tả là sự quy định có tính chất xã hội bắt buộc gần như tuyệt đối, nó không
cho phép con người vận dụng quy tắc một cách linh hoạt có tính chất sáng tạo.
Một ngôn ngữ văn hóa không thể không có chính tả thống nhất, chính tả thống nhất
thì việc giao tiếp bằng ngôn ngữ không bị trở ngại giữa các địa phương trong cả nước,
cũng như giữa các thế hệ đời trước với đời sau. Chính tả thống nhất là một trong
những biểu hiện của trình độ văn hóa phát triển của một dân tộc.
Nôi dung chính tả tiếng Viêt bao gồm một số vấn đề cơ bản sau:
- Cách viết tên tác phẩm, văn bản.
- Cách viết tên riêng nước ngoài và thuật ngữ khoa học.
- Cách dùng số và chữ biểu thị số.
- Cách viết một số từ có nhiều dạng phát âm khác nhau.
- Cách viết tắt.
- Cách viết tên riêng Việt Nam.
- Cách viết tên cơ quan, tổ chức kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội.
1.1.1.2. Khái niệm chuẩn chính tả.
Chuẩn chính tả là việc chuẩn hóa hình thức chữ viết của ngôn ngữ. Chuẩn chính tả
phải được quy định rõ ràng, chi tiết tới từng từ của tiếng Việt và phải được mọi người
tuân theo. Vấn đề đặt ra là chuẩn chính tả phải được xây dựng sao cho hợp lí, có độ tin
10


cậy và sức thuyết phục cao. Chuẩn chính tả có tính chất bắt buộc gần như tuyệt đối,
chẳng hạn không thể viết là “viên cẹo” mà phải viết là “viên kẹo”…
Chuẩn chính tả có tính chất ổn định cao, rất ít thay đổi, thường giữ nguyên trong
thời gian dài nên thường tạo thành thói quen, tạo nên tâm lí trong lối viết của người
bản ngữ. Đặc điểm đầu tiên của chuẩn chính tả là tình chất bắt buộc gần như tuyệt đối
của nó. Chữ viết có thể chưa hợp lí nhưng khi đã được thừa nhận là chuẩn chính tả thì
người cầm bút không được tự ý viết khác đi. Ai cũng biết rằng viết “nghe”, “nghiêng”
không hợp lý và tiết kiệm bằng “nge”, “ngiêng” nhưng chỉ có cách viết thứ nhất mới

được coi là đúng chính tả. Vì vậy nói đến chuẩn chính tả là nói đến tính chất pháp
lệnh. Trong chính tả không có sự phân biệt hợp lý hay không hợp lý, hay hay dở, mà
chỉ có sự phân biết đúng – sai, lỗi – không lỗi. Đối với chính tả, yêu cầu cao nhất là
cách viết thống nhất trong mọi văn bản, mọi người, mọi địa phương.
Mặc dù vậy, chuẩn chính tả không phải là bất biến, khi chuẩn chính tả đã lỗi thời sẽ
dần dần được thay thế bằng nhưng chuẩn chính tả mới.
Ví dụ: Chuẩn chính tả cũ: Đày tớ, trằm trồ,...
Chuẩn chính tả mới: Đầy tớ, trầm trồ …
Cũng như chuẩn ngôn ngữ khác chuẩn ngôn ngữ chính tả là kết quả của sự lựa
chọn giữa nhiều hình thức chính tả đang cùng tồn tại.
1.1.1.3. Khái niệm kỹ năng viết chính tả.
Sự vận dụng những tri thức về chữ viết cùng với sự sáng tạo trong nhận thức để
viết chữ và viết văn bản thực hiện nhiệm vụ của phân môn Chính tả đề ra gọi là kỹ
năng viết chính tả.
Kỹ năng viết chính tả đối với học sinh Tiểu học ở mức độ thấp là chép lại, ghi các
văn bản đã có theo lời người khác đọc hoặc dựa vào trí nhớ một cách chính xác, khoa
học. Đó là loại bài chính tả. Kỹ năng viết chính tả được rèn luyện suốt đời.
Các kỹ năng chính tả được hình thành và thuần thục từ văn bản viết. Muốn có lỹ
năng viết chính tả, học sinh không chỉ biết lý thuyết mà chủ yếu phải thông qua hoạt
động viết, viết nhiều và viết đúng chính tả. Kĩ năng viết chính tả đó là sự thể hiện chữ
11


viết một cách chính xác, thành thục, đúng với âm chuẩn, phân biệt được các âm vần đễ
lẫn lộn, nắm vững cách viết hoa, nắm được các quy tắc chính tả tiếng Việt. Khi kĩ năng
viết chính tả đạt đến mức thành thạo, thuần thục thì gọi là kĩ xảo chính tả. Hình thành
cho học sinh kĩ xảo chính tả nghĩa là giúp học sinh viết đúng chính tả một cách tự
động hóa, không phải trực tiếp nhớ tới các quy tắc chính tả, không cần đền sự tham gia
của ý chí.
1.1.2. Tầm quan trọng của phân môn Chính tả ở Tiểu học.

1.1.2.1. Mục tiêu, nhiệm vụ của phân môn chính tả ở Tiểu học.
Mục tiêu của phân môn Chính tả là sự cụ thể hóa mục tiêu của phân môn Tiếng
Việt ở Tiểu học, hình thành và phát triển học sinh năng lực sử dụng tiếng Việt ( đặc
biệt là kĩ năng viết) góp phần rèn luyện cho học sinh những thao tác tư duy cơ bản,
cung cấp cho học sinh những hiểu biết sơ giản về tự nhiên, xã hội để góp phần giáo
dục và hình thành nhân cách cho học sinh .
Cùng với phân môn Tập viết, phân môn Chính tả có nhiệm vụ là giúp học sinh nắm
vững quy tắc chính tả, hình thành kĩ năng chính tả, nói cách khác là giúp học sinh hình
thành năng lực và thói quen viết đúng chính tả, củng cố và hoàn thiện các tri thức cơ
bản về hệ thống ngữ âm và chữ viết tiếng Việt, trang bị cho học sinh công cụ để học
tập và giao tiếp xã hội. Ngoài ra phân môn còn rèn cho học sinh một số kĩ năng, phẩm
chất tốt như: tính cẩn thận, chính xác, bồi dưỡng cho học sinh lòng yêu quý tiếng Việt
và chữ viết của tiếng Việt.
1.1.2.2. Vị trí, tính chất của dạy học chính tả ở trường Tiểu học.
Bốn hoạt động vô cùng quan trọng trong hoạt động ngôn ngữ của con người là
nghe, nói, đọc và viết. Xét dưới góc độ chức năng giao tiếp thì nói và viết là hoạt động
tạo lập lời nói, còn nghe và đọc là hoạt động tiếp nhận lời nói. Còn xét dưới góc độ
phương diện giao tiếp thì nghe và nói là hoạt động âm thanh, đọc và viết là hoạt động
bằng chữ viết. Cả bốn hoạt động này luôn có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, thực hiện
hoạt động này là tiền đề thực hiện những hoạt động kia và ngược lại.

12


Tuy nhiên, ở trong mỗi hoạt động lại có những đặc điểm riêng, giữ vị trí riêng
trong hoạt động chung của mỗi con người cũng như trong dạy học ở nhà trường, trong
đó là một kĩ năng vô cùng quan trọng là rèn luyện cho học sinh.
Trong thực tiễn dạy học Chính tả cùng với tập viết, tập đọc, tập nói giúp cho người
đọc chiếm lĩnh được tiếng Việt văn hóa, công cụ để giao tiếp, tư duy và học tập. Từ đó
hình thành và phát triển ở học sinh năng lực sử dụng tiếng Việt (đặc biệt là kĩ năng

viết) góp phần rèn luyện cho học sinh thao tác tư duy cơ bản, cung cấp cho học sinh
những hiểu biết sơ giản về tự nhiên xã hội để góp phần giáo dục và hình thành nhân
cách cho học sinh.
Tính thực hành là đặc trưng nổi bật của dạy học Chính tả, thông qua việc thực hành
luyện tập học sinh được hình thành các kĩ năng, kĩ xảo chính tả. Trong phân môn
Chính tả, các đơn vị kiến thức lí thuyết, quy tắc chính tả không được dạy riêng mà dạy
tổng trong hệ thống bài tập chính tả. Nội dung, cấu trúc của bài chính tả trong sách
giáo khoa Tiếng Việt tiểu học mới thể hiện rõ tính chất thực hành, điều này cũng thể
hiện rõ khuynh hướng giao tiếp của sách giáo khoa trong chương trình mới; Tính thực
hành của việc dạy Tiếng Việt ở trường Tiểu học quy định chi phối toàn bộ việc lựa
chọn nội dung và yêu cầu về kĩ năng chính tả khi tổ chức dạy Chính tả cho học sinh.
Chính tả còn có vị trí hết sức quan trọng là rèn cho học sinh biết quy tắc chính tả
và có thói quen viết chữ, ghi tiếng Việt đúng và chuẩn. Đồng thời khi học sinh hình
thành được kỹ năng đọc thông viết thạo là một tiền đề quan trọng trong việc lĩnh hội
kho tàng tri thức và văn hóa của nhân loại được lưu trữ và ghi lại trong sách vở. Đối
với học sinh tiểu học, biết viết là điều kiện để các em học tập các môn học khác trong
chương trình.
Đối với người sử dụng tiếng Việt, viết đúng chính tả là chứng tỏ người đó có trình
độ văn hóa về mặt ngôn ngữ. Viết đúng chính tả giúp học sinh có điều kiện sử dụng
tiếng Việt đạt hiệu quả cao trong việc học tập các môn văn hóa, trong việc viết các văn
bản, thư từ …
Như vậy, rõ ràng bộ môn chính tả có vị trí đặc biệt quan trọng trong hoạt động làm
giàu tri thức của các em. Việc viết đúng chính tả không chỉ đơn giản là viết để viết,
13


viết xong để đấy mà sâu hơn nữa còn phải giúp các em hiểu được nội dung văn bản,
biết được mình đang viết gì và cần viết cái gì để nắm được cái hay, cái đẹp trong câu
chữ, trong ngôn ngữ tiếng Việt và hiểu được ý nghĩa của chúng.
Chính tả mang tính chất thực hành. Thông qua luyện tập liên tục kết hợp với việc

ôn tập các quy tắc chính tả học sinh sẽ có kĩ năng viết đúng các chữ ghi tiếng Việt. Do
đó không có tiết học quy tắc chính tả riêng, các quy tắc đều được học thông qua các
hoạt động thực tiễn để hình thành kỹ năng, kĩ xảo chính tả cho học sinh.
1.1.3. Cơ sở tâm sinh lý.
Mục đích của việc nghiên cứu cơ sở tâm lý học là hình thành năng lực viết thành
thạo, thành thục chữ viết tiếng Việt theo các chuẩn chính tả đến giúp hình thành các kĩ
xảo chính tả, "kĩ xảo là những yếu tố tự động hóa của hoạt động có ý thức được tạo ra
trong quá trình thực hiện hoạt động đó", việc hình thành kĩ xảo chính tả là giúp viết
đúng chính tả một cách tự động hóa không cần trực tiếp nhờ tới các quy tắc chính tả,
không cần đến sự tham gia của ý chí. Được chia thành hai con đường có ý thức và
không có ý thức trong dạy chính tả.
Cách không có ý thức (máy móc, cơ giới) dạy chính tả không cần đến sự tồn tại
quy tắc chính tả. Không cần hiểu mối quan hệ giữa các ngữ âm và chữ viết, những cơ
sở từ và ngữ pháp của chính tả, mà chỉ đơn thuần là việc viết đúng từng trường hợp,
từng từ cụ thể. Nhưng cách này thông thường chỉ áp dụng cho những lớp đầu cấp.
Chính vì vậy việc giảng dạy chính tả không có ý thức có tồn tại một số hạn chế như:
tốn nhiều thời gian, công sức, không phát triển được tư duy, chỉ củng cố trí nhớ máy
móc ở một mức độ nhất định.
Bên cạnh đó, việc dạy chính tả còn bằng con đường có ý thức hay còn gọi là ý thức
tự giác. Bắt đầu từ việc nhận thức các quy tắc, các mẹo chính tả từ đó tiến hành luyện
tập và từng bước đạt kĩ xảo chính tả. Chính vì vậy con đường có ý thức này được áp
dụng ở những lớp cuối cấp và việc dạy chính tả một cách có ý thức vừa tiết kiệm được
thời gian, công sức và là con đường ngắn nhất, có hiệu quả nhất.
Các nhà khoa học đã chỉ rõ rằng về mặt sinh lý, ở trẻ Tiểu học, khối lượng bộ não
đã đạt tới 90%. Sự chín muồi về mặt sinh lý cùng với sự phát triển của những quá trình
14


tâm lý (như tri giác, trí nhớ, tư duy, chú ý,...) đã tạo điều kiện để các em thực hiện
được hoạt động học tập. Tuy vậy, ở giai đoạn học sinh Tiểu học, các cơ quan của cơ

thể chưa phát triển đầy đủ khả năng mã hóa các đơn vị ngôn ngữ âm thanh thành chú
viết còn chậm, viết thiếu từ hay mắc một số lỗi như lỗi không nắm vững chính tự (viết
nhầm các phụ âm đầu), lỗi không nắm vững cấu trúc âm tiết của tiếng Việt, không hiểu
cấu trúc nội bộ của âm tiết tiếng Việt... Thêm nữa, do hệ thần kinh phát triển chưa ổn
định nên các em dễ bị phân tán bởi các điều kiện ngoại cảnh.
Để viết được chữ và viết đúng chính tả con người phải vận dụng hai yếu tố chính
đó là vận dụng cơ bắp và thao tác trí óc của người viết. Kĩ năng chính tả là phối hợp
thuần thục: ngón tay, bàn tay, cổ tay, cánh tay để sử dụng bút thể hiện đúng các chữ
đảm bảo sự khu biệt và tốc độ chữ viết nhanh. Hình thành kĩ năng chính tả là khẳng
định vai trò của ý thức, sự thuần thục của chính tả không phải là sự suy tính cần phải
đặt những chữ cái phù hợp những vị trí nào. Đành rằng đó cũng là kết quả dạy học
cuối cùng đạt được. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là con đường hình thành kĩ xảo
là con đường vô thức.
Kĩ năng chính tả là hoạt động có ý thức đạt tới mức tự động hóa một cách tự giác
mức độ thông thạo viết đúng các chữ cái ở mọi vị trí cần thiết của chúng, nó phụ thuộc
vào hoạt động cơ bắp và thần kinh của các bộ phận cơ thể trực tiếp tham gia vào các
hoạt động.
Chính tả tiếng Việt là chính tả ngữ âm, viết chính tả tiếng Việt chủ yếu là ghi âm
tiết thể hiện các thành phần âm vị đoạn tính hay siêu đoạn tính trong cấu trúc âm tiết
thành chữ các biểu tượng về âm tiết và cách viết các âm tiết. Viết chính tả là sự tái tạo
mẫu chữ, là kĩ năng hoạt động ghi nhớ các biểu tượng về âm tiết và cách viết âm tiết.
Học sinh Tiểu học thường hiếu động, chóng nhớ, chóng quên, do đó giáo viên cần
hình thành cho các em kĩ xảo chính tả một cách tự động hóa, không cần phải nhờ đến
những quy tắc chính tả, không cần sự tham gia của ý chí. Để đạt điều này có thể tiến
hành theo hai cách: Có ý thức và không có ý thức, với cách không có ý thức thường
tốn thời gian, công sức, giáo viên phải luyện cho học sinh thường xuyên qua đó củng
cố trí nhớ máy móc ở mức độ nhất định. Với cách có ý thức, giáo viên cần cho học
15



sinh bắt đầu từ việc nhận thức các quy tắc, các “mẹo” luật chính tả. Nội dung kiến thức
phải bắt đầu từ dễ đến khó, tránh nhàm chán mà phải học mà chơi chơi mà học. Thông
qua luyện tập dần dần hình thành những kỹ xảo chính tả bằng con đường có ý thức, đó
là con đường ngắn nhất, có hiệu quả cao. Cần vận dụng cả hai phương pháp để rèn
luyện chính tả cho học sinh tiểu học. Trong đó cách không có ý thức thường được sử
dụng đối với các lớp đầu cấp, cách có ý thức thường sử dụng ở các lớp cuối cấp.
Học sinh Tiểu học không phải lúc nào cũng viết đúng, đọc đúng. Do những yếu tố
ảnh hưởng đến khả năng viết đúng chính tả (yếu tố sinh lí, yếu tố xã hội) nên hầu như
các em đều viết chính tả theo cảm tính, mặt khác do kĩ năng viết chính tả còn ít, hạn
chế nên việc viết đúng, chính xác còn khó khăn. Đây là cơ sở để tôi đề xuất phương
pháp dạy học tích cực trong hoạt đông giảng dạy môn Chính tả lớp 1 trường PTDTBT
TH & THCS Ba Rền.
1.1.4. Cơ sở ngôn ngữ học.
Các lĩnh vực ngôn ngữ như ngữ nghĩa học, ngữ pháp học, phong cách học đều có
những đóng góp về mặt lý luận để các nhà khoa học giáo dục biên soạn chương trình
học tiếng việt cho từng cấp học. Nói riêng về phân môn chính tả ở bậc tiểu học, có thể
nói các lĩnh vực của ngôn ngữ học đều có sự đóng góp hình thành cơ sở khoa học của
phân môn chính tả. Chẳng hạn như ngữ pháp văn bản giúp cho việc xác định rõ nghĩa
của từ trong văn bản, giúp cho học sinh xác định rõ các âm tiết của từ đó mà viết đúng
chính tả. Riêng lĩnh vực ngữ âm học cơ sở lý luận gắn bó mật thiết với vấn đề chính tả.
Từ cơ sở sinh lí học đã nêu trên, để hạn chế được lỗi chính tả cho học sinh, người
giáo viên cần nắm chắc, hiểu, vận dụng và giảng dạy cho học sinh một số nguyên tắc
chính tả tiếng Việt sau đây:
Về cơ bản, chính tả Tiếng Việt là chính tả ngữ âm, nghĩa là mỗi âm vị được ghi
bằng một con chữ. Theo nguyên tắc này chính tả phải biểu hiện đúng âm hưởng của từ,
phát âm thế nào thì viết thế ấy. Giữa cách đọc và cách viết phải thống nhất với nhau,
được nghe đọc đúng thì học sinh sẽ viết đúng, nếu đọc sai sẽ dẫn đến viết chữ sai.
Trong giờ học chính tả, học sinh sẽ xác định được cách viết đúng bằng việc tiếp nhận
chính xác âm thanh của lời nói. Bởi vậy tiếng Việt là chữ ghi âm vị nên nguyên tắc này
16



là nguyên tắc cơ bản nhất. Nó thể hiện ở chỗ cách viết của mỗi từ thể hiện đúng âm
cần đọc của từ. Quan hệ giữa âm và chữ là quan hệ 1-1 nguyên tắc này đòi hỏi giáo
viên phải phát âm chuẩn thì học sinh mới viết đúng. Nếu với nguyên tắc này ở một số
địa phương phát âm lệch chuẩn, học sinh không thể dựa hoàn toàn vào cách phát âm
thực tế của địa phương nhất định nào đó vì phát âm sai lệch so với chính âm. giáo viên
phải sửa chữa, vạch rõ cách phát âm sai lệch phương ngữ để các em hiểu rõ và tự sửa
chữa.
Cơ chế của cách viết đúng là xác lập được mối liên hệ giữa âm thanh và chữ viết.
Giữa đọc và viết, giữa tập đọc và viết chính có mối quan hệ mật thiết với nhau, nhưng
lại có quy trình hoạt động trái ngược nhau. Nếu tập đọc là sự chuyển hoá văn bản viết
thành âm thanh thì chính tả lại là sự chuyển hoá văn bản dưới dạng âm thanh thành
văn bản viết. Tập đọc có cơ sở chuẩn mực là chính âm, còn tập viết (viết chính tả) có
cơ sở là chính tự (chính tự là biểu hiện của quy tắc chính tả ở một đơn vị “từ,...” một từ
xét về mặt chính tả được gọi là một chính tự). Ta thường nói rằng chính tả Tiếng Việt
là chính tả ngữ âm học, giữa cách đọc và cách viết thống nhất với nhau là nói về
nguyên tắc chung, còn trong thực tế, sự biểu hiện của mối quan hệ giữa đọc (phát âm)
và viết (viết chính tả) khá phong phú và đa dạng, mà chính tả Tiếng Việt không dựa
hoàn toàn vào cách phát âm thực tế của các phương ngữ đều có những sai lệch so với
chính âm, nên không thể thực hiện phương châm “Nghe như thế nào, viết như thế ấy”
được.
Mặc dù chính tả Tiếng Việt là chính tả ngữ âm học nhưng trong thực tế muốn viết
đúng chính tả thì việc nắm nghĩa của từ rất quan trọng. Hiểu nghĩa của từ là một trong
những cơ sở giúp người học viết đúng chính tả: Ví dụ: Nếu giáo viên đọc một từ có
hình thức ngữ âm là “Za” thì học sinh có thể lúng túng trong việc xác định hình thức
chữ viết của từ này. Nhưng nếu đọc là “gia đình” hoặc “da thịt” (đọc trọn vẹn từ, mỗi
từ gắn với một nghĩa xác định) thì học sinh dễ dàng viết đúng chính tả. Vì vậy, có thể
hiểu rằng chính tả Tiếng Việt còn là loại chính tả ngữ nghĩa. Đây là một đặc trưng quan
trọng về phương tiện ngôn ngữ của chính tả Tiếng Việt.


17


1.1.5. Một số nguyên tắc cơ bản trong dạy học Chính tả.
1.1.5.1.Nguyên tắc chính âm - chính tả - ngữ nghĩa.
Chữ viết của Tiếng Việt là chữ viết ghi âm nên nguyên tắc chính tả chủ yếu của
tiếng Việt là nguyên tắc ngữ âm học, nghĩa là mỗi âm vị được thể hiện bằng một tổ
hợp chữ cái, mỗi âm tiết, mỗi từ có một cách viết nhất định. Do đó việc viết đúng phải
dựa trên đọc đúng, đọc đúng là cơ sử viết đúng. Để phát huy một cách có ý thức. Đặc
biệt là những vùng phương ngữ, việc dạy chính tả phải theo sát nguyên tắc này. Nghĩa
là phải tôn trọng việc phát âm, lấy phát âm để điều chỉnh chữ viết.
Ngữ âm học thực hành chủ yếu tập trung vào rèn luyện phát âm đúng. Phát âm
đúng gắn liền với viết đúng (chính âm gắn liền với chính tả). Do đó cơ chế của việc
viết đúng phải dựa trên đọc đúng, đọc đúng là cơ sở viết đúng. Để phát huy một cách
có ý thức, đặc biệt là vùng phương ngữ việc dạy chính tả cần phải theo sát nguyên tắc
này. Nghĩa là phải tôn trọng việc phát âm, lấy phát âm để điều chỉnh chữ viết.
- Mạch kiến thức về quy tắc chính tả
Hệ thống hoá những hiểu biết về cách viết đúng các âm đầu, vần, thanh điệu của
các từ thuộc vốn từ đã học theo chủ điểm. Hệ thống hoá về quy tắc viết tên người, tên
địa lý Việt Nam và nước ngoài.
- Mạch kỹ năng viết chính tả: nghe - viết, nhớ - viết một đoạn văn hoặc đoạn thơ,
trình bày bài viết theo quy định.
+ Viết đúng các từ ngữ dễ sai lẫn trong các bài chính tả nghe - viết, nhớ viết, cụ thể
là:
- Các từ có âm đầu hoặc âm chính có nhiều cách viết
- Các từ có vần khó xuất hiện trong các bài chính tả.
- Các từ mà phát âm của tiếng địa phương lệch so với chuẩn.
+ Các tên người, tên địa lý Việt Nam và nước ngoài
Việc một học sinh hoàn thành một bài chính tả trọn vẹn (không mắc bất kì một lỗi

chính tả nào) được hoàn thiện dần từ lớp1 đến lớp 3. Nhưng thực tiễn dạy học cho thấy
trong day học chúng ta không nên biến những kiến thức đơn giản thành những kiến
18


thức phức tạp mà nên đơn giản hoá những kiến thức phức tạp để học sinh dễ tiếp cận
và tiếp thu hơn. Đối với học sinh lớp 1 cũng vậy, dù yều cầu của một tiết Chính tả còn
ở mức đơn giản nhưng người dạy không nên chỉ chờ đợi vào những điều tốt đẹp ngày
mai, mà ngay từ hôm nay, ngay từ lúc này cần phải biết sửa chữa những sai sót, phải
biết giúp học sinh ghi nhớ những quy tắc chính tả đơn giản đầu tiên ấy để làm tiền đề
vững chắc cho sự hoàn thiện ở các lớp học tiếp theo.
1.1.5.2. Sự kết hợp 4 kĩ năng: nghe - nói - đọc - viết.
Như chúng ta đã biết, ở Tiểu học có nhiệm vụ hết sức quan trọng đó là việc hình
thành bốn kĩ năng: nghe - nói - đọc - viết cho học sinh. Từ vị trí và nhiệm vụ của phân
môn ở tiểu học; chính tả được dạy, được chú ý trên tất cả các phân môn Tiếng Việt như
Tập đọc, Tập làm văn, Từ ngữ, Ngữ pháp,... và còn dạy với tính cách là một phân môn
độc lập. Chính vì vậy, để giúp các em học tốt phân môn Chính tả hay nói cách khác là
để giúp học sinh nói, viết hiểu đúng Tiếng Việt thì GV phải giải quyết hai phần việc
liên quan chặt chẽ với nhau đó là dạy lý thuyết và dạy cả thực hành cho các em, để từ
đó tạo cho các em năng lực thực hành đồng thời rèn luyện kỹ năng nghe - nói- đọc viết đúng tiếng Việt.
Ngoài ra, việc dạy học phân môn chính tả phải đảm bảo hầu hết các nguyên tắc của
giáo dục học một cách khoa học. Nếu dựa vào tâm lý của trẻ việc dạy học phải phù
hợp theo từng lứa tuổi, theo từng đối tượng một cách chặt chẽ.
Bên cạnh đó GV phải chú ý vận dụng các kết quả của tâm lý học như các quy luật
tiếp thu tri thức, hình thành kĩ năng, kĩ xảo... để từ đó khi dạy học chính tả có thể biết
được sản phẩm của lời nói được sản sinh ra như thế nào, vai trò của ngôn ngữ trong sự
phát triển tư duy để hình thành kĩ năng nói, viết ra sao.
1.1.5.3. Nguyên tắc dạy chính tả theo khu vực.
Dạy chính tả theo khu vực nghĩa là nội dung giảng dạy về chính tả phải sát hợp với
địa phương. Nói cách khác xuất phát từ tình hình thực tế mắc lỗi chính tả của học sinh

ở từng khu vực, từng vùng để hình thành nội dung giảng dạy, phải xác định được các
trọng điểm chính tả cần dạy cho học sinh ở từng khu vực, từng địa phương. Từ đó tập
trung vào các lỗi phát âm ở từng địa phương mà lưu ý để viết cho đúng. Bởi như ta đó
19


biết cách phát âm địa phương có ảnh hưởng trực tiếp đến việc viết chính tả. Đối chiếu
với âm, ta thấy cách phát âm của ba vùng phương ngữ đều còn có những chỗ chưa
chuẩn xác, còn sai lệch.
Với nguyên tắc này yêu cầu giáo viên trước khi dạy cần tiến hành điều tra cơ bản
để năm lỗi chính tả phổ biến của học sinh, từ đó lựa chọn nội dung giảng dạy phù hợp.
(Nhất là đối với chính tả so sánh). Nguyên tắc này cũng lưu ý giáo viên cần tăng
cường sự linh hoạt, sáng tạo trong giảng dạy, cụ thể trong việc xây dựng nội dung bài
sao cho phù hợp với học sinh lớp mình dạy, có thể lược bớt những nội dung trong sách
giáo khoa xét thấy không phù hợp với đối tượng học sinh, đồng thời bổ sung những
nội dung dạy cần thiết mà sách giáo khoa chưa đề cập đến.
1.1.5.4. Nguyên tắc kết hợp chính tả có ý thức và chính tả không có ý thức.
Trong quá trình dạy chính tả cho học sinh, giáo viên không chỉ sử dụng một
phương pháp mà phải sử dụng phối hợp hai phương pháp; có ý thức và không có ý
thức một cách hợp lý nhằm đạt tới hiệu quả dạy học cao. Trong nhà trường, việc sử
dụng phương pháp có ý thức vẫn được coi là chủ yếu, nhưng cũng không phủ nhận
phương pháp không có ý thức. Phương pháp này được khai thác, sử dụng hợp lý ở các
lớp đầu cấp, gắn liền với các kiểu bài như tập viết, tập chép...Các kiểu bài này nhằm
giúp học sinh nhanh chóng làm quen với hình thức của các con chữ, hình thức chữ viết
của các từ. Đây là những tiền đề, những xuất phát cần thiết đối với học sinh mới làm
quen với hệ thống chữ viết Tiếng Việt.
Phương pháp không có ý thức còn phát huy tác dụng khi giáo viên hướng dẫn học
sinh ghi nhớ các hiện tượng chính tả có tính chất võ đoán, hoặc không gắn với một quy
luật, một quy tắc nào như: Viết phân biệt (r/d/gi, ch/tr, l/n...).
Đối với phương pháp có ý thức giáo viên cần sử dụng, khai thác tối đa phương

pháp này. Muốn vậy chúng ta phải biết vận dụng những kiến thức về ngữ âm học
Tiếng Việt vào việc phân loại lỗi chính tả, phát hiện đặc điểm của từng loại lỗi nhất là
việc xây dựng các quy tắc chính tả, các “mẹo” chính tả, giúp học sinh ghi nhớ cách
viết một cách khái quát và có hệ thống.
Ví dụ: Xây dựng các quy tắc chính tả.
20


- Khi đứng trước nguyên âm: i, iê, e, ê thì âm “cờ” viết là “k”, âm “gờ” viết là
“gh”, âm “ngờ” viết là “ngh”.
- Khi đứng trước các nguyên âm: u, ô, o, a, ă, a thì âm “cờ” viết là “c”, âm “gờ”
viết là “g”, âm “ngờ” viết là “ng”.
- Khi đứng trước âm đệm (âm đệm viết là u) thì âm “cờ” viết là “q”.
1.1.5.5. Nguyên tắc phối hợp giữa phương pháp tích cực với phương pháp tiêu
cực.
Việc hướng dẫn học sinh viết đúng chính tả cần tiến hành đồng thời với việc hướng
dẫn học sinh loại bỏ các lỗi chính tả trong các bài viết của mình. Để học sinh sửa các
lỗi chính tả theo hướng loại bỏ cái sai, xây dựng cái đúng. Giáo viên có thể nêu ra
những đoạn văn, đoạn thơ trong đó có nhiều từ viết sai lỗi chính tả để học sinh tự mình
phát hiện lỗi, tìm hiểu nguyên nhân sai và viết lại cho đúng.
Phương pháp tiêu cực giúp học sinh phát hiện óc phân tích, xét đoán, đồng thời
kiểm tra củng cố được kiến thức về chính tả của học sinh. Phương pháp tiêu cực chỉ
nên coi là thứ yếu có tính bổ trợ cho phương pháp tích cực. Trong quá trình giảng dạy
chính tả, giáo viên cần phối hợp một cách hợp lý, hài hoà và có hiệu quả hai phương
pháp này.
1.1.5.6. Những bất hợp lý của chữ quốc ngữ.
Ở tiếng Việt nguyên tắc cơ bản là nguyên tắc ngữ âm học. Ngoài ra chính tả tiếng
Việt còn được xây dựng trên một số nguyên tắc nữa như nguyên tắc truyền thống lịch
sử, nguyên tắc khu biệt... Những nguyên tắc này không đồng nhất với nguyên tắc ngữ
âm học, do vậy chính tả tiếng Việt còn có những hợp lý. Cụ thể trong tiếng Việt có

hiện tượng cách phát âm ở những vùng miền khác nhau (phương ngữ). Bên cạnh đó lại
có trường hợp từ mang hai biến thể phát âm, khó có thể nói biến âm nào là chuẩn.
Bản thân hệ thống âm vị tiếng Việt còn có một số âm vị không ghi thống nhất một
âm có thể ghi bằng nhiều con chữ, nghĩa là một cách phát âm nhưng lại có nhiều cách
viết. Ví dụ:

21


+ Âm vị /k/ trong chữ quốc ngữ của ta được ghi bằng ba con chữ khác nhau: c, k, q
( lại đặt ra vấn đề các từ cò kè, cáu kỉnh…là từ láy hay từ ghép?).
Lại có trường hợp một chữ cái lại biểu thị hai âm vị khác nhau. Ví dụ:
+ Chữ “g” có lúc ghi âm vị /g/ trong các từ gỗ, gà, lúc lại ghi âm vị /z/ trong từ
gì…
Lại thấy không có quan hệ 1=1 giữa âm vị - chữ cái trong rất nhiều các trường hợp
khác nữa. Ta thấy có lúc dùng 2,3 con chữ để ghi chỉ một âm vị như: ch, nh, th, ng, ph,
ngh... Do vậy xảy ra thừa con chữ ở một số trường hợp. Ví dụ :
+ Phát âm là /ng/ thì phải ghi là “ng”, nhưng thói quen chữ viết xưa một số từ vẫn
được viết là “ngh”.
Có lẽ trường hợp âm vị /i/ được ghi bằng chữ cái i/y là khá phức tạp của lối viết
không nhất quán có ngoại lệ này. Ta biết rằng i/y là hai âm vị. Tiếng việt ta có bán
nguyên âm (y) ở vị trí cuối âm tiết sau một nguyên âm, ở vị trí khác lẽ ra phải viết là
nguyên âm (i), nhưng chữ quốc ngữ hiện nay dùng “y” thay “i” và ngược lại. Cách ghi
này xa dần với nguyên tắc của lối ghi âm hiện đại…Trước những bất hợp lý trên, việc
xác định trọng điểm chính tả cần cho dạy học sinh vùng phương ngữ, một mặt phải coi
trọng hệ thống âm chuẩn toàn dân, mặt khác phải coi trọng những biển thể phát âm địa
phương, đồng thời phải dùng nghĩa để sử dụng dựa vào các văn cảnh.
Chữ quốc ngữ viết tách rời từng âm tiết giống như lối viết tách rời của chữ Nôm.
Theo thống kê, số lượng từ trên hai âm tiết trở lên chiếm hơn 80%. Hiện nay, từ đa âm
tiết phát triển càng nhiều. Như vậy cách viết tách rời các âm tiết không tiện lợi cho sự

phát triển của tiếng Việt trong nhịp điệu mới, trong việc chuyển thuật ngữ khoa học,
tên riêng…của các ngôn ngữ khác vào tiếng Việt.
Cho đến nay sau hơn ba thế kỉ, chữ quốc ngữ không có gì thay đổi đáng kể so với
những biến đổi ngữ âm của tiếng việt. Riêng những sai lầm của thời kì đầu chữ quốc
ngữ mà các nhà truyền giáo nước ngoài mắc phải, hiện nay hầu như vẫn đang ở
nguyên trạng trong chữ viết. Ngày nay, do sự phát triển của ngữ âm tiếng Việt, sự tiếp
xúc ngày càng nhiều, tiếng nước ngoài xuất hiện những phụ âm đơn và phụ âm ghép
22


đầu. Ví dụ: phụ âm “p”trong cách đọc các từ : pin, apatít… cách đây không lâu không
thể đứng đầu âm tiết, nhưng hiện nay đã được mặc nhiên thừa nhận. Các nguyên âm
ghép như oong, oóc ( bù loong, rơ moóc..) đang được dùng như những khuôn vần để
khu biệt với -ong, -óc (vốn trước kia phát âm như nhau và xem như nhau). Những phụ
âm ghép đầu vốn chưa có trước kia như: br, cl, đr, xt…thì hiện nay xuất hiện khá
nhiều. Chữ viết hiện tại phân biệt được trường hợp phụ âm đầu d/gi nhưng cách phát
âm phổ biến hầu như không có sự phân biệt như trước kia. Các vần tạo âm tiết xét về
mặt ngữ âm học là như nhau nhưng chữ viết lại khác nhau: iêu/ươu…Điều này cũng
diễn ra ở các nguyên âm đôi trong tiếng Việt: ia/iê, ua/uô, ưa/ươ.
1.2. Cơ sở thực tiễn.
1.2.1. Thực trạng việc học tập môn chính tả lớp 1 hiện nay của học sinh
trường PTDTBT TH & THCS Ba Rền.
1.2.1.1. Trình độ và kinh nghệm của giáo viên.
Trình độ của giáo viên ảnh hưởng không nhỏ và là yếu tố trực tiếp tác động đến
chất lượng của học sinh. Đều là giáo viên Tiểu học và cùng giảng dạy một chương
trình như nhau nhưng thời gian được đào tạo của mỗi giáo viên ở mỗi trình độ khác
nhau, cụ thể: Thời gian đào tạo đối với giáo viên trình độ Đại học là 4 năm, còn thời
gian đào tạo đối với trình độ trung cấp và cao đẳng là 2-3 năm. Do vậy, trình độ giáo
viên không đồng đều tại các trường Tiểu học trên địa bàn tỉnh Quảng Bình là một trong
những nguyên nhân không nhỏ dẫn đến kết quả dạy và học chưa cao ở tất cả các môn

học cũng như phân môn Chính tả trong nhà trường Tiểu học.
1.2.1.2. Thực tiễn phương pháp dạy học Chính tả.
Hòa vào vào sự phát triển, đổi mới đất nước về mọi mặt, ngành giáo dục cũng có
những đổi mới nhất định. Phương pháp dạy học là một trong những nội dung quan
trọng nằm trong chương trình đổi mới của ngành giáo dục.
Thực tế cho thấy một bộ phận giáo viên vẫn duy trì và rập khuôn theo cách dạy
học truyền thống. Đó là sử dụng hình thức dạy học lấy giáo viên làm trung tâm, giáo

23


viên là người tổ chức toàn bộ các hoạt động trên lớp của học sinh, toàn bộ mạch liến
thức hầu như được giáo viên giới thiệu, xem xét, đánh giá, và kết luận.
Với hình thức dạy học này giáo viên giữ vai trò chủ đạo và trung tâm, còn học
sinh thì thụ động tiếp thu kiến thức của bài học, không tự mình tìm tòi, khám phá ra
cái mới. Do đó, việc truyền thụ kiến thức còn chưa được thực sự quan tâm đến đối
tượng học sinh, và việc lĩnh hội kiến thức của học sinh bị phụ thuộc nặng nề vào bài
giảng của giáo viên, học sinh không chịu khó suy nghĩ, ỷ lại, thụ động. Với cách dạy
này học sinh phải tuân theo khuôn mẫu đã vạch ra trong bài giảng của giáo viên , ít có
cơ hội bộc lộ năng lực của bản thân. Do vậy, hiệu quả mà giờ học mang lại của môn
học nói chung và phân môn Chính tả nói riêng rất thấp. Đặc biệt ở trường Tiểu học
tình trạng chấm bài Chính tả cho học sinh của giáo viên còn hạn chế và không thường
xuyên, dẫn đến việc học sinh không phát hiên được các lỗi chính tả mà mình gặp phải
để tìm cách khắc phục ở lần sau. Vì vậy, giáo viên cần phải chấm bài một cách đấy đủ
và thường xuyên từ đó các biện pháp khắc phục cho các em.
1.2.2. Những thuận lợi của giáo viên và học sinh.
Số lượng học sinh trong lớp ít dễ kèm cặp. Đa số các em ngoan hiền, lễ phép, quý
mến thầy cô.
Dạy học theo chương trình Tiếng việt Công nghệ giáo dục, giáo viên phát huy
được tính tích cực của học sinh, giờ học diễn ra sôi nỗi, hào hứng; học sinh nắm được

cách phân tích cấu trúc ngữ âm, xác định được các âm trong một tiếng như: âm đầu,
âm đệm, âm chính, âm cuối…
Giáo viên không phải soạn bài nên có thời gian để quan tâm đến học sinh nhiều
hơn, nghiên cứu tài liệu, để nắm quy trình dạy, cách tổ chức thực hiện lên lớp với học
sinh.
Tài liệu sách thiết kế chi tiết cho các dạng bài, các mẫu của từng tiết dạy.
1.2.3. Những khó khăn của giáo viên và học sinh.
Như đã nói ở trên, hầu hết học sinh nơi đây là học sinh dân tộc nên gặp nhiều khó
khăn về điều kiện sinh sống, học tập cũng như các hoạt động văn hoá xã hội, việc nắm
24


bắt các tri thức, các kỹ năng sống còn nhiều hạn chế. Thuộc diện hộ nghèo, bố mẹ lo
việc kiếm tiền do điều kiện kinh tế nghèo, cơ sở vật chất thiếu thốn, đồ dùng dạy học
còn thiếu nhiều..
Học sinh còn chưa nắm vững luật chính tả từ đó viết chính tả còn sai lỗi.
1.2.4. Một số lỗi học sinh thường mắc phải.
1.2.4.1. Lỗi về dấu thanh.
Tiếng Việt có 6 thanh (ngang, huyền, sắc, hỏi, ngã, nặng) thì nhiều học sinh không
phân biệt được. Những tiếng có thanh ngang học sinh thêm thanh nặng những tiếng có
thanh sắc học sinh đọc thành thanh nặng VD: sáu thành sạu, bọ ve học sinh viết thành
bọ vẹ
1.2.4.2. Lỗi về luật chính tả.
Học sinh quên các luật chính tả đã học như : Luật chính tả âm c, g, ng trước e, ê, i.
Luật chính tả về âm đệm. Đặc biệt là luật chính tả về nguyên âm đôi.
1.2.4.3. Lỗi âm cuối, vần.
- Học sinh thường viết lẫn lộn chữ ghi âm cuối trong các vần sau đây:
+ at/ac- ăt/ăc – ât/âc: mác mẻ, lường gạc, gặc lúa, nổi bậc, lấc phấc…
+ an/ang- ân/âng: cây bàn, bàng bạc, khoai lan, hụt hẫn, tần lầu...
+âu/ôi : ông Nậu (nội), cái gấu (gối)...

+ ên/ênh: bấp bên, nhẹ tên, ghập ghền, khấp khển…
+ư/ươi: con ngừ , hai mư...
1.2.4. Nguyên nhân khiến học sinh mắc lỗi chính tả.
1.2.5.1. Nguyên nhân về phía học sinh.
Học sinh Tiểu học dân tộc học tiếng Việt là học ngôn ngữ thứ hai. Mặc dù học sinh
đã trải qua các lớp ở bậc Mầm non nhưng đối với các em, trường Tiểu học vẫn là một
môi trường hoàn toàn mới, tiếng Việt là một ngôn ngữ hoàn toàn xa lạ. Sự tồn tại của
tình trạng này trong đời sống các em là do điều kiện sử dụng ngôn ngữ trong đời sống
sinh hoạt cộng đồng, là do tâm lý sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ rất tự nhiên, bản năng.
25


×