Tải bản đầy đủ (.docx) (4 trang)

Phân tích nỗi cô đơn buồn tủi của người chinh phụ qua 8 câu thơ đầu đoạn trích tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (23.99 KB, 4 trang )

Phân tích nỗi cô đơn buồn tủi của người chinh phụ qua 8 câu thơ đầu đoạn trích
Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ
Nỗi cô đơn, buồn tủi của người chinh phụ trong đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của
người chinh phụ (trích Chinh phụ ngâm khúc – Đặng Trần Côn)
Mở bài
Chinh phụ ngâm là một trong những đỉnh cao của văn học Việt Nam thế kỉ XVIII
do Đặng Trần Côn sáng tác bằng chữ Hán, Đoàn Thị Điểm diễn Nôm. Vào nửa đầu
thế kỉ XVIII, chế độ phong kiến đi vào cuộc khủng hoảng trầm trọng. Các tập đoàn
phong kiến phân tranh quyền lực, xâu xé lẫn nhau. Khắp nơi diễn ra giao tranh,
khói lửa không ngừng khiến cho dân tình rơi vào cảnh khốn khổ cùng cực. Nông
dân bất bình nổi dậy khởi nghĩa ở khắp nơi. Nhân dân sống trong cảnh loạn li nồi
da nấu thịt, cha mẹ xa con, vợ xa chồng. Cảm thương nỗi thống khổ của con người,
Đặng Trần Côn rơi lẹ viết Chinh phụ ngâm khúc. Đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của
người chinh phụ, tiêu biểu là tám câu thơ đầu thể hiện rõ nét tâm trạng cô đơn và
khát khao đồng cảm của người chinh phụ trong thời gian chồng đi đánh trận, không
rõ ngày trở về:

Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước,
Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen.
Ngoài rèm thước chẳng mách tin,
Trong rèm, dường đã có đèn biết chăng?
Đèn có biết dường bằng chẳng biết,
Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi.
Buồn rầu nói chẳng nên lời,
Hoa đèn kia với bóng người khá thương.

Thân bài


Sau khi tiễn chồng ra trận, người chinh phụ trẻ phải sống trong sống cảnh cô đơn,
lẻ bóng với bao nỗi khắc khoải, mong chờ:



Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước,
Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen.

Người chinh phụ đi đi lại lại ngoài hiên vắng “thầm gieo từng bước”. Nàng hết dạo
ngoài hiên vắng rồi lại vào phòng, cuốn rèm lên rồi lại buông rèm xuống không
biết bao nhiêu lần “rủ thác đòi phen”. Những hành động của người chinh phụ
chứng tỏ nàng không tự chủ được bản thân vì nỗi sầu triền miên, da diết, không
biết san sẻ cùng ai, chỉ một mình một biết một mình mình hay và cũng cho thấy
người chinh phụ như đang chờ đợi một tin tốt lành từ người chồng nơi phương xa.
Qua đó, ta cảm nhận được tâm trạng cô đơn, vò võ của người chinh phụ.

Nàng càng mong ngóng tin tức của chồng mình bao nhiêu thì lại thất vọng bấy
nhiêu vì “thước chẳng mách tin”. Trong đêm tối phong không gối chiếc, người
chinh phụ khát khao một sự đồng cảm, sẻ chia nên đã tìm đến vật vô tri, vô giác.
Nàng bày tỏ nỗi ưu tư với ngọn đèn nhưng rồi cũng vô ích. Cuối cùng, thấy mình
và ngọn đèn có cùng cảnh ngộ, đó là nỗi cô đơn, buồn tủi hắt hiu:

Ngoài rèm thước chẳng mách tin,
Trong rèm, dường đã có đèn biết chăng?
Đèn có biết dường bằng chẳng biết,
Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi.

Bằng cách sử dụng điệp ngữ bắc cầu “ngoài rèm, “trong rèm” kết hợp với câu hỏi
tu từ “Trong rèm, dường đã có đèn biết chăng?” vang lên da diết, diễn tả cõi lòng


cô đơn, trống vắng, làm lời than thở, nỗi chờ đợi và hi vọng trong nàng day dứt
không yên. Tâm trạng nhân vật trữ tình đã chuyển giọng tự nhiên từ lời kể bên
ngoài thành lời độc thoại nội tâm da diết, gợi sự ngậm ngùi của người chinh phụ.


Trong im lặng dằng dặc, dưới ánh đèn thăm thẳm, người chinh phụ trẻ chỉ còn
thầm lặng chuyện trò với ngọn đèn, với cái bóng của chính mình, làm cho cảnh
làm thêm trống vắng, mênh mông, con người đơn chiếc, thiếu vắng hạnh phúc.Cả
vũ trụ lặng im, lạnh lùng mặc nhiên cho nỗi buồn diễn biến. Lấy hình ảnh ngọn đèn
diễn tả nỗi buồn không thấu của người phụ nữ trong đêm buồn vắng vốn rất quen
thuộc. Ca dao có bài Chiếc khăn cugnx nhắc đến hình ảnh ấy, nỗi buồn ấy:

Đèn thương nhớ ai
Mà đèn không tắt
Mắt thương nhớ ai
Mắt ngủ không yên.

Người thiếu phụ trong Chuyện người con gái Nam Xương cũng đã từng nhiều đêm
vò võ bên ngọn đèn dầu ôm con chờ chồng. Ngọn đèn như là chứng nhân của nỗi
sầu bất tận của lòng người. Thúy Kiều khi bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích cũng
từng đêm thương nhớ bên ngọn đèn:

Bẽ bàng mây sớm đèn khuya,
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.


(Kiều ở lầu Ngưng Bích, Truyện Kiều – Nguyễn Du)

Ngọn đèn và ánh trăng ấy, ánh sáng của niềm tin giờ đây lại cắt cứa vào trong lòng,
gây ra những vết thương khủng khiếp đối với người chinh phụ. Càng chờ đợi, càng
thấy bặt tăm. Càng nhơ nhung lại càng thêm đau khổ:

Buồn rầu nói chẳng nên lời,
Hoa đèn kia với bóng người khá thương.


Tám câu thơ đầu đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ là bức tranh tâm
trạng sống động với các cung bậc cảm xúc của người chinh phụ: vừa cô đơn, vừa
khát khao được đồng cảm, sẻ chia, được sống trong hạnh phúc lứa đôi.

Kết bài
Chinh phụ ngâm là tác phẩm thấm đẫm tinh thần nhân đạo và giá trị nhân văn cao
cả. Tác phẩm là tiếng nói khao khát hạnh phúc, khao khát hòa bình của dân tộc
trong thời đại nhất định. Chinh phụ ngâm góp phần vào cuộc đấu tranh cho quyền
sống, quyền hưởng hạnh phúc của con người, đấu tranh chống lại chiến tranh phi
nghĩa. Tám câu thơ đầu đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ đánh thức
nỗi niềm cảm thương của con người trước nghịch cảnh đáng thương của người
chinh phụ.



×