Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

BÀI TIỂU LUẬN TRIETHOC MAC TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN, VAI TRÒ, CHỨC NĂNG VÀ GIÁ TRỊ PHƯƠNG PHÁP LUẬN CỦA NÓ TRONG ĐỜI SỐNG XÃ HỘI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (435.17 KB, 23 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CỬU LONG
KHOA KẾ TOÁN - TÀI CHÍNH - NGÂN HÀNG
******

BÀI TIỂU LUẬN
ĐỀ TÀI: TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN, VAI TRÒ,
CHỨC NĂNG VÀ GIÁ TRỊ PHƯƠNG PHÁP LUẬN
CỦA NÓ TRONG ĐỜI SỐNG XÃ HỘI

GVHD: PGS.TS. LƯƠNG MINH CỪ
SVTH: NGUYỄN THỊ PHƯƠNG MY
MSSV: 1411043005
LỚP: CAO HỌC TÀI CHÍNH B

Vĩnh Long, năm 2018


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU..................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài.......................................................................................1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài.......................................................................2
3. Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu của đề tài................................2
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của tiểu luận..........................3
4.1. Phương pháp.......................................................................................3
4.2. Phương pháp luận...............................................................................3
4.3 Phương pháp lịch sử............................................................................3
4.4. Phương pháp lôgíc..............................................................................4
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của tiểu luận.................................................4
6. Kết cấu của tiểu luận.................................................................................5
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ TRIẾT HỌC MÁC –


LÊNIN..................................................................................................................6
I. SỰ RA ĐỜI CỦA TRIẾT HỌC VÀ ĐỊNH NGHĨA TRIẾT HỌC..............6
1. Sự ra đời của triết học Mác Lênin.............................................................6
2. Định nghĩa triết học...................................................................................6
II. TRIẾT HỌC VỚI TƯ CÁCH LÀ MỘT KHOA HỌC................................7
1. Đối tượng của Triết học.............................................................................7
2. Phương pháp nghiên cứu...........................................................................7
3. Vấn đề cơ bản của Triết học:.....................................................................8
4. Hệ thống các phạm trù và các quy luật.....................................................8
III. ĐẶC ĐIỂM CỦA KHOA HỌC TRIẾT HỌC...........................................9
1. Triết học tồn tại như một hình thái ý thức xã hội......................................9
2. Triết học là hệ thống tri thức chung nhất...................................................9
3. Triết học mang tính giai cấp....................................................................10


CHƯƠNG II: VAI TRÒ, CHỨC NĂNG CỦA TRIẾT HỌC MÁC –
LÊNIN TRONG ĐỜI SỐNG XÃ HỘI...........................................................11
2.1 Mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn...................................................11
2.1.1. ý Thức xã hội triết học có thể vượt trước hoặc lạc hậu hơn tồn tại
xã hội.......................................................................................................11
2.1.2. Tư tưởng triết học tác động trở lại đời sống xã hội.......................12
2.2. Vai trò và chức năng của triết học trong đời sống xã hội.....................12
2.2.1. Chức năng thế giới quan và chức năng phương pháp luậ của triết
học...........................................................................................................13
2.2.2 Chức năng phản ánh hiện thực của đời sống xã hội và chức năng
động lực cho sự phát triển xã hội............................................................15
CHƯƠNG 3: Ý NGHĨA VÀ BÀI HỌC LỊCH SỬ TRIẾT HỌC
MÁC - LÊNIN...................................................................................................17
3.1 Ý nghĩa khoa học của triết học Mác - Lênin.........................................17
3.2 Ý Nghĩa thưc tiễn của triết học Mác - Lênin.........................................17

3.3 Bài học lịch sử của triết học Mác - Lênin.............................................18
KẾT LUẬN........................................................................................................19
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Không phải ngẫu nhiên có người coi triết học Mác Lênin như là khoa học
của mọi khoa học. Cũng không phải ngẫu nhiên trong lịch sử, nhà triết học được
gọi là nhà thông thái, nhà hiền triết, người nắm đước bí mất của sự vật thậm chí
trong lịch sử nhân loại, có thời kỳ mà xã hội đặt nhà triết học vào vị trí cao nhất,
có nhà cải tạo đặt nhà triết học vào vị trí cao nhất của cơ cấu tổ chức xã hội
(Platon với mô hình "Nhà nước lý tưởng")
Kể từ khi ra đời trải qua nhiều giai đoạn phát triển đạt được nhiều thành
tựu rực rỡ thì triết học luôn phản ánh sự phát triển trí tuệ loài người và thúc đẩy
tư duy loài người, đôi khi còn trở thành vũ khí sắc bén nhất cho những gì tiến bộ
của sự phát triển đó. Ngày nay triết học đã thực sự trở thành khoa học, đã hoàn
chỉnh hơn vì vậy ý nghĩa là động lực cho sự phát triển của đời sống xã hội càng
rõ nét hơn, con người càng được hoàn thiện hơn về tư duy lý luận.
Đó là mặt tác động đến đời sống xã hội từ bản thân khoa học triết học Mác
Lênin. Ngày nay, mặc dù sự phát triển như vũ báo của khoa học kỹ thuật, sự
phát triển về mặt vật chất của đời sống xã hội… cũng không hề làm giảm đi tính
chất kì bí và vai trò đối với thực tiễn của triết học, mà vấn đề là phải có một tư
duy lý luận, đúng đắn để không bị "lạc lối" trong sự phát triển đó, hơn nữa, sự
phát triển về mặt xã hội của khoa học kỹ thuật… cũng tác động ngược trở lại
khoa học triết học: chứng minh hay bác bỏ những quan điểm triết học, nhận
chân được những tư tưởng đúng đắn
Vì vậy em chọn đề tài: “Triết học Mác – Lênin, vai trò, chức năng và giá
trị phương pháp luận của nó trong đời sống xã hội”. Với vai trò to lớn của
triết học với sự phát triển tư tưởng xã hội và với thực tiễn đời sống xã hội như

vậy, tiểu luận này chỉ mong tổng hợp lại một số vai trò đã được thừa nhận của
triết học trong đời sống xã hội.

1


2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Ở Việt Nam từ trước đến nay đã có nhiều tác phẩm, các bài viết, chuyên mục,
tạp chì bàn về con người ở nhiều khìa cạnh khác nhau. Những năm về trước, dưới
góc độ triết học con người thường được bàn đến với tư cách là con người mới xã hội
chủ nghĩa mà ở đó chủ yếu đề cập đến nghĩa vụ của công dân đối với đất nước. Vấn
đề quyền lợi, sự công bằng xã hội cũng được đề cập nhưng còn mang tình tư biện, ìt
gắn liền với thực tế. Những nhu cầu tự nhiên, tất yếu của con người chưa được quan
tâm thìch đáng. Trong những năm gần 5 đây kể từ đại hội Đảng lần thứ VI, trong các
nghị quyết của các kỳ đại hội, Đảng đã đặt con người vào vị trì trung tâm của mọi
chình sách kinh tế - xã hội thí việc nghiên cứu về con người ngày càng được chú
trọng hơn. Các công trính nghiên cứu con người đã đề cập đến nhiều mặt, nhiều khìa
cạnh khác nhau. Chủ đề thường được chú ý đến trong các công trính nghiên cứu là
nguồn gốc, bản chất con người, nhân tố con người trong lực lượng sản xuất, quyền
con người, mối liên hệ giữa con người và tự nhiên, yếu tố sinh học và yếu tố xã hội
trong con người. Do đó triết học Mác - Lênin có vai trò quan trọng trong đời sống xã
hội con người việt nam.
3. Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu của đề tài
Mục đìch tiểu luận tập trung phân tìch quan điểm triết học Mác – Lênin về con
người - thực thể thống nhất giữa cái sinh học và cái xã hội, từ đó tiểu luận cho thấy
triết học Mác - Lênin có vai trò và chưc năngquan trọng trong đời sống xã hội.
Để đạt được mục đìch đó, luận văn có nhiệm vụ:
- Làm rõ quan điểm của triết học Mác – Lênin về con người - thực thể thống
nhất giữa cái sinh học và cái xã hội.
- Luận giải mối liên hệ giữa các yếu tố sinh học, xã hội và quá trính đời sống xã

hội con người.
- Nêu ra một số ý nghĩa của triết học với sự phát triển tư tưởng xã hội và với
thực tiễn đời sống xã hội .
Phạm vi nghiên cứu dựa vào cơ sở lý luận của học thuyết Mác – Lênin,
quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam, tư tưởng Hồ Chì Minh về con người
2


và phát triển con người. Đồng thời luận văn cũng tham khảo các tài liệu, các
công trính nghiên cứu, các bài viết của các tác giả trong và ngoài nước về vấn đề
này
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của tiểu luận
4.1. Phương pháp
- Theo quan điểm khoa học, phương pháp là hệ thống những nguyên tắc được
rút ra từ những tri thức về các quy luật khách quan để điều chỉnh hoạt động nhận
thức và hoạt động thực tiễn nhằm thực hiện những mục đích đã đặt ra.
Như vậy, các quy luật khách quan chính là cơ sở, nền tảng để rút ra hệ thống
các nguyên tắc chỉ đạo chủ thể trong hoạt động thực tiễn và hoạt động nhận thức
nhằm đạt được mục đích đề ra một cách hiệu quả nhất.
- Cơ sở của phương pháp chính là tri thức về các quy luật khách quan, vì vậy,
chỉ có phương pháp đúng đắn khi dựa trên những tri thức đúng đắn, khoa học; ngược
lại phương pháp sẽ sai lầm khi dựa trên cơ sở của tri thức sai lầm, phản khoa học...
4.2. Phương pháp luận
- Phương pháp luận hiểu theo cách thông thường là lý luận về phương pháp.
Theo nghĩa khoa học là hệ thống các quan điểm và nguyên tắc trong việc chỉ đạo chủ
thể lựa chọn và sử dụng có hiệu quả các phương pháp (về phạm vi ứng dụng, cách
thức ứng dụng, giới hạn vận dụng...).
Ý nghĩa phương pháp luận: Trong nhận thức và hoạt động thực tiễn phải biết
vận dụng sáng tạo các phương pháp; Trong quá trình nhận thức và hoạt động thực
tiễn phải biết điều chỉnh các phương pháp một cách linh hoạt; Trong mỗi giai đoạn

của hoạt động nhận thức cũng như hoạt động thực tiễn phải biết tổng kết thực tiễn,
rút kinh nghiệm cho giai đoạn tiếp theo.
4.3 Phương pháp lịch sử
Cần phân biệt hai khái niệm: “phương pháp lịch sử” và “cái lịch sử”. Cái lịch
sử là lịch sử được nhận thức chứ không phải là lịch sử tự nó.

3


4.4. Phương pháp lôgíc
- “Phương pháp lôgíc” là phương pháp được rút ra từ những tri thức về chính
lôgíc khách quan của bản thân sự vật, của bản thân lịch sử. Phương pháp này có cơ
sở là lôgíc khách quan của sự vật, của lịch sử, nhưng không đồng nhất hoàn toàn với
bản thân lôgíc của sự vật, của lịch sử.
“Lôgíc khách quan của sự vật, của lịch sử” -> “Các tri thức về lôgíc khách quan
của sự vật, của lịch sử” -> “Phương pháp lôgíc” (Nguyên tắc chỉ đạo) chỉ đạo nhận
thức và thực tiễn.
- Phương pháp lôgíc gạt bỏ cái ngẫu nhiên, bề ngoài, cái không bản chất, cái
không tất yếu, nó vạch ra bản chất, tính tất nhiên, tính quy luật của sự vận động, phát
triển của các sự vật, hiện tượng, các vấn đề triết học...
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của tiểu luận
Triết học Mác - Lênin có vai trò quan trọng trong đời sống xã hội. Trong công
cuộc đổi mới đất nước hiện nay, yêu cầu học tập, nghiên cứu kinh tế chính trị Mác Lênin càng được đặt ra một cách bức thiết, nhằm khắc phục sự lạc hậu về lý luận
kinh tế, sự giáo điều, tách rời lý luận với cuộc sống, góp phần hình thành tư duy kinh
tế mới.
Nước ta đang xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, do đó những kiến thức, khái niệm, phạm trù, quy luật... của kinh tế thị
trường mà kinh tế chính trị đưa ra là cực kỳ cần thiết không chỉ đối với quản lý kinh
tế vĩ mô, mà còn cần thiết cho việc quản lý sản xuất - kinh doanh của các doanh
nghiệp và các tầng lớp dân cư.

Đối với sinh viên ở các trường kinh tế, học tập kinh tế chính trị Mác - Lênin để
có cơ sở lý luận và phương pháp luận nhằm học tập tốt các môn khoa học kinh tế
khác vì các môn kinh tế khác đều phải dựa vào các kiến thức, các phạm trù kinh tế và
các quy luật mà kinh tế chính trị Mác - Lênin nêu ra.

4


6. Kết cấu của tiểu luận
Vì đề tài mang tính chất dẫn phương hướng học môn Triết học tôi nghĩ cần nêu
rõ ràng các khái niệm tiêu biểu và tác dụng của từng phần được nói đến trong đề tài .
Luận văn gồm: phần mở đầu, phần nội dung và phần kết luận.
Phần nội dung gồm 3 chương
 Chương 1: Khái quát về cơ sở lý luận triết học Mác Lênin
 Chương 2: Vai trò chức năng của triết học Mác Lênin trong đời sống xã
hội
 Chương 3: Ý nghĩa và bài học lịch sử triết học Mác Lênin

5


Chương I: CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN
I. SỰ RA ĐỜI CỦA TRIẾT HỌC VÀ ĐỊNH NGHĨA TRIẾT HỌC.
1. Sự ra đời của triết học Mác Lênin
Triết học ra đời ở cả phương Đông và phương Tây gần như cùng một thời
gian (khoảng từ thế kỷ thứ VIII đến thế kỷ VII trước công nguyên).
tại một số trung tâm văn minh cổ đại của nhân loại như Trung Quốc, ấn Độ,
Hi Lạp.
Theo người Trung Quốc, thuật ngữ triết học có nguồn gốc ngôn ngữ là chữ
triết và khoa học này hiểu theo nghĩa là sự truy tìm bản chất của đối tượng, triết

học chính là trí, là sự hiểu biết sâu sắc của con người.
Theo người ấn Độ, triết học được coi là Danshana, có nghĩa là chiêm
ngưỡng nhưng mang hàm ý là trí thức dựa trên lý trí, là con đường suy ngẫm để
dẫn dắt con người đến với lẽ phải.
ở phương Tây thuật ngữ triết học suất hiện ở HiLạp, theo tiếng HiLạp triết
học là Philosophia, nghĩa là yêu mến sự thông thái, nó là khoa học vừa mang
tính định hướng vừa nhấn mạnh đến khát vọng tìm kiếm chân lý của con người.
Như vây, cho dù ở phương Đông hay phương Tây, ngay từ đầu triết học đã
là hoạt động tinh thần biểu hiện khả năng nhận thức, đánh giá của con người, nó
tồn tại với tư cách là một hình thái ý thức xã hội.
2. Định nghĩa triết học.
Đã có rất nhiều cách định nghĩa khác nhau về triết học, nhưng đều bao hàm
những nội dung giống nhau:
Triết học nghiên cứu thế giới với tư cách là một chỉnh thể, tìm ra những
quy luật chung nhất chi phối sự vận động của chỉnh thể nói chung, của xã hôi
loài người, của con người trong cuộc sống cộng đồng nói riêng và thể hiện nó
một cách có hệ thống dưới dạng duy lý.
Vậy: Triết học là hệ thống trí thức lý luận chung nhất của con người về thế
giới, về vị trí vai trò của con người trong thế giới ấy.
6


II. TRIẾT HỌC VỚI TƯ CÁCH LÀ MỘT KHOA HỌC.
Ngày nay, Triết học không còn là bí mật mà chỉ những nhà Triết học mới
biết nữa (Ph.Ăngghen, "Chống Đuy-rinh") nó từ "Hhoa học của các khoa học"
đã trở thành một môn khoa học độc lập.
Là một môn khoa học độc lâp, Triết học cần phải có: Đối tượng riêng của
nó, phải có phương pháp nghiên cứu (gần phương pháp luận và phương pháp
riêng); có các vấn đề cơ bản; có các khái niệm và các phạm trù; các quy luật.
1. Đối tượng của Triết học.

Theo Ph.ăngghen: "Triết học là khoa học về các quy luật chung nhất sử sự
vận động và phát triển của thế giới; từ tự nhiên, xã hội và cả tư duy", (Ph. ăng
ghen, "chóng Đuy-rinh")
Như vậy có thể coi đối tượng của Triết học là tự nhiên, xã hội và tư duy của
con người: nhưng Triết học không phải là khoa học tự nhiên, khoa học về xã hội,
khoa học về tư duy (logic học) mà là khoa học chung nhất, nó coi thế giới là
"một chỉnh thể thống nhất " các mặt trên.
2. Phương pháp nghiên cứu.
- Có một điều đặc biệt của khoa Triết học, đó là, với khoa học này thì sự
khác nhau về phương pháp luật là cơ sở để phân biệt các trường phái Triết học
(siêu hình hay biện chứng), thể hiện tính khoa học hay phản động của một hệ
thống Triết học. Nguyên nhân của hiện tượng này xuất phát từ đối tượng của
Triết học: Coi thế giới như là một chỉnh thể, nghiên cứu bao trùm thế giới: tự
nhiên, xã hội, tư duy.
- Triết học nghiên cứu thế giới bằng phương pháp của riêng mình khác với
mọi khoa học cụ thể: Nó xem xét thế giới như một chỉnh thể và tìm cách đưa ra
một hệ thống các quan niệm về chỉnh thể đó. Điều đó chỉ có thể thực hiện được
bằng cách tổng kết toàn bộ lịch sử của khoa học và lịch sử của bản thân Triết
học

7


3. Vấn đề cơ bản của Triết học:
Triết học cũng như những khoa học khác phải giải quyết rất nhiều vấn đề
có liên quan với nhau, trong đó vấn đề cực kỳ quan trọng là nền tảng và là điểm
xuất phát để giải quyết những vấn đề còn lại được gọi là vấn đề cơ bản của Triết
học. Theo Ph. ăngghen "vấn đề cơ bản lớn của mọi Triết học, đặc biệt là Triết
học hiện đại, là vấn đề quan hệ giữa tư duy và tồn tại.
Giải quyết vấn đề cơ bản của Triết học không chỉ xác định được nền tảng

và điểm xuất phát để giải quyết các vấn đề khác của Triết học mà nó còn là tiêu
chuẩn để xác định lập trường, thế giới quan của các Triết gia và học thuyết của
họ.
Vấn đề cơ bản của Triết học có hai mặt mỗi mặt phải trả lời cho một câu
hỏi lớn:
Mặt thứ nhất: giữa ý thức và vật chất thì cái nào có trước, cái nào có sau,
cái nào quyết định cái nào?.
Mặt thứ hai: con người có khả năng nhận thức được thế giới hay không?
Trả lời cho hai câu hỏi trên liên quan mật thiết đến việc hình thành các
trường phái Triết học và các học thuyết về nhận thức của Triết học.
4. Hệ thống các phạm trù và các quy luật.
Mỗi bộ môn khoa học đều có một hệ thống phạm trù riêng của mình phản
ánh những mặt, những thuộc tính, những mối liên hệ cơ bản và phổ biến thuộc
phạm vi khoa học đó nghiên cứu.
Với các khoa học chuyên ngành các phạm trù chỉ phản ánh những mối liên
hệ chung trên một lĩnh vực nhất định của hiện thực thuộc phạm vi nghiên cứu
của môn khoa học chuyên ngành đó. Khác với điều đó, các phạm trù của phép
biện chứng duy vật như:"(vật chất", "ý thức", "vận động", "đứng im", "mâu
thuẫn" là những khái niệm trung nhất phản ánh những mặt những thuộc tính,
những mối liên hệ cơ bản và phổ biến nhất không phải chỉ của một lĩnh vực nhất
định nào đấy của hiện thực, mà của toàn bộ thế giới hiện thực, bao gồm cả tự
nhiên, xã hội và tư duy. Mọi sự vật, hiện tượng đều có nguyên nhân xuất hiện,
8


đều có quá trình vận động biến đổi, đều có mâu thuẫn... nghĩa là đều có những
mặt, những thuộc tính, những mối liên hệ được phản ánh trong các phạm trù của
Triết học.
- Khi Triết học duy vật biện chứng ra đời; nó trở thành vũ khí lý luận sắc
bén cho giai cấp tiến bộ, nó kết tinh mọi tinh hoa của tư tưởng nhân loại, vì vậy

nó là "khoa học nhất"; là "triệt để và hoàn mỹ nhất", là "sâu sắc và toàn diện
nhất" (V.I. Lênin; "Ba nguồn gốc của chủ nghĩa Mác"). Vì vậy có thể coi các
quy luật của Triết học duy vật biện chứng là quy luật cơ bản của khoa học Triết
học. Triết học duy vật biện chứng gồm ba quy luật cơ bản:
+ Quy luật mâu thuẫn: nói lên nguồn gốc và động lực vận động và phát
triển của thế giới, cả về các mặt: tự nhiên, xã hội, và tư duy.
+ Quy luật về mối quan hệ giữa mặt lượng với mặt chất
Nói lên cách thức của sự phát triển.
+ Quy luật phủ định của phủ định: nói lên con đường tất yếu của sự phát
triển.
III. ĐẶC ĐIỂM CỦA KHOA HỌC TRIẾT HỌC
1. Triết học tồn tại như một hình thái ý thức xã hội
Như các hình thái ý thức xã hội khác (đạo đức, tôn giáo, khoa học… ) Thì
triết học cũng tồn tại với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, từ là có đặc tính
biến đổi phụ thuộc vào sự biến đổi của tồn tại xã hội và tác động trở lại những
điều kiện nhất định. Tuy nhiên, triết học là một hình thái ý thức xã hội đặc biệt:
nó không phải là một bộ phận trong hình thái ý thức xã hội khoa học vì bản chất
nó cũng là một hình thái ý thức xã hội; nó không giống như tôn giáo, là hình thái
ý thức xã hội ra đời ngay từ thời nguyên thủy. Triết học chỉ ra đời khi con người
đã có một vốn hiểu biết nhất định và đạt đến khả năng rút ra được cái chung
trong muôn vàn những sự kiện, hiện tượng riêng lẻ và khi xã hội đã phát triển
đến thời kỳ hình thành tầng lớp lao động trí óc.
2. Triết học là hệ thống tri thức chung nhất
Điều này thể hiện qua định nghĩa về triết học và đối tượng của nó.
9


3. Triết học mang tính giai cấp
Mỗi tư tưởng triết học đều đại diện cho một giai cấp nhất định trong xã hội
và cũng mỗi tư tưởng triết học phản ánh một giai đoạn một trình độ nhận thức về

thế giới của mỗi thời đại nhất định.
Không có một thứ triết học phi giai cấp, một thứ triết học chung chung.
Mỗi hệ thống triết học đều có Chính Đảng của nó và trở thành vũ khí lý luận cho
một giai cấp nhất định thường là có vai trò nổi bật trong lịch sử ở mỗi thời đại.
Cứ như vậy "Triết học vẫn có tính đảng của nó trong suốt thời hơn 2000 năm
nay" (V.I. Lênin).

10


CHƯƠNG II: VAI TRÒ, CHỨC NĂNG CỦA TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN
TRONG ĐỜI SỐNG XÃ HỘI
2.1 Mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn
Như phần trên đã khẳng định, triết học là một hình thái ý thức xã hội. Vì
vậy nó mang đặc tính chung của các hình thái ý thức xã hội khi tác động trở lại
với thực tiễn đời sống, thể hiện rõ nhất ở các mặt: ý thức xã hội có thể "lệch
pha" với tồn tại của xã hội (có thể đi trước cả thực trạng xã hội , có thể lạc hậu
hơn tồn tại xã hội); ý thức xã hội tác động trở lại tồn tại xã hội.
2.1.1. ý Thức xã hội triết học có thể vượt trước hoặc lạc hậu hơn tồn tại
xã hội.
a. Tư tưởng triết học có thể lạc hậu hơn đời sống, kìm hãm sự phát triển
của xã hội:
ý thức xã hội nói chung và đặc biệt là triết học luôn gắn với lợi ích của
những tập đoàn người những giai cấp nhất định trong xã hội. Vì vậy, những tư
tưởng cũ, lạc hậu thường được các lực lượng xã hội phản tiến bộ lưu giữ và
truyền bá nhằm chống lại các lực lượng xã hội tiến bộ.
Những tư tưởng lạc hậu, thế giới quan phản động không mất đi một cách dễ
dàng. vì vậy trong sự nghiệp xây dựng xã hội mới phải thường xuyên tăng
cường công tác tư tưởng, đấu tranh chống lại những âm mưu và hành động phá
hoại của những lực lượng thù địch về mặt tư tưởng, kiên trì xoa bỏ những truyền

thống tư tưởng tốt đẹp.
b. Triết học có thể vượt trước trình độ hiện đại của tồn tại xã hội
Trong những điều kiện nhất định, tư tưởng của con người đặc biệt là những
tư tưởng khoa học tiên tiến có thể vượt trước sự phát triển của tồn tại xã hội,
vượt trước sự phát triển của tồn tại xã hội, chỉ đạo hoạt động thực tiễn của con
người, hướng hoạt động đó vào việc giải quyết những nhiệm vụ mới do sự phát
triển chín muồi của đời sống vật chất của xã hội đặt ra.

11


Triết học Mác - Lênin là hệ tư tưởng của giai cấp cách mạng nhất của thời
đại - giai cấp công nhâ, nó trang bị cho giai cấp công nhân và chính đảng cộng
sản vũ khí lý luận sắc bén để giải phóng mình và giải phóng nhân dân lao động,
các dân tộc bị áp bức bóc lột trên toàn thế giới, thoát khỏi ác nô dịch, bóc lột,
xây dựng một xã hội tốt đẹp. Vì vậy, chỉ nghĩa Mác - Lênin là hệ thống ưu việt
nhất, là con đường, sách lược tốt nhất cho sự phát triển xã hội loài người.
2.1.2. Tư tưởng triết học tác động trở lại đời sống xã hội
PH.Ăngghen viết:"Sự phát triển về mặt chính trị, pháp luật, triêt học, tôn
giáo, văn học, nghệ thuật…. đều dựa vào sự phát triển kinh tế. Nhưng tất cả
chúng có ảnh hưởng lẫn nhau và ảnh hưởng đến cơ sở kinh tế ".
Mức độ ảnh hưởng của tư tưởng nói chung và tư tưởng triết học nói riêng
đến sự phát triển xã hội phụ thuộc vào những điều kiện lịch sự cụ thể, vào tính
chất của các mối quan hệ kinh tế mà trên đó tư tưởng nảy sinh, vào vai trò lịch
sử của giai cấp mang ngọn cờ tư tưởng; vào mức độ phản ánh đúng đắng của tư
tưởng đối với các nhu cầu phát triển của xã hội; vào mức độ mở rộng của tư
tưởng quần chúng, cũng do đó, ở đây cần phân biệt vai trò của ý thức tư tưởng
tiến bộ và ý thức tư tưởng phản tiến bộ đối với sự phát triển của xã hội.
C.Mác khẳng định: "Lực lượng vật chất chỉ có thể bị đánh bại bởi lực
lượng vật chất" và một hệ tư tưởng tác động được tới quần chúng hay khi có

những điều kiện để biến thành lực lượng vật chất" (C.Mác) thì nó mới trở thành
động lực cho sự phát triển của xã hội.
2.2. Vai trò và chức năng của triết học trong đời sống xã hội
Triết học Mác - Lênnin kế thừa và phát triển những thành tựu quan trọng
nhất của tư duy triết học nhân loại. Nó được C.Mác và Ph. Ăngghen sáng tạo ra
và V.I.Lênin phát triển một cách xuất sắc. Đó là chủ nghĩa duy vật biên chứng
trong việc xem xét giới tự nhiên cũng như xem xét đời sống xã hội và tư duy
con người.
Vai trò của triết học trong đời sống xã hội đựơc thể hiện qua chức năng của
triết học. Triết học có nhiều chức năng như: Chức năng nhận thức, chức năn
12


đánh giá, chức năng giáo dục…. Nhưng quan trọng nhất kà chức năng thế giới
quan và chức năng phương pháp luận.
2.2.1. Chức năng thế giới quan và chức năng phương pháp luậ của triết
học
- Những vấn đề được triết học đặt ra và tìm lời giải đáp trước hết là những
vấn đền thuộc về thế giới quan. Thế giới quan đóng vai trò đặc biệt quan trọng
trong cuộc sống của con người và xã hội loài người. Tồn tại trong thế giới dù
muốn hay không con người cũng phải nhận thức thế giới và nhận thức bản thân
mình. Những tri thức này dần dần hình thành nên thế giới quan lại trở thành
nhân tố định hướng, thế giới quan nên thế giới quan. Khi đã hình thành, thế giới
quan trở thành nhân tố định hướng cho quá trình con người tiếp tục nhận thức
thế giới.
Như vậy, thế giới quan đúng đắn là tiền đề để xác lập nhân sinh quan tích
cực và trình độ phát triển của thế giới quan là tiêu chí quan trọng về sự trưởng
thành của mỗi cá nhân cũng như của mỗi cộng đồng xã hội nhất định.
Trong triết học Mác - Lênin, lý luận và phương pháp thống nhất hữu cơ với
nhau. Chủ nghĩa duy vật là chủ nghĩa duy vật biện chứng và phép biện chứng là

phép biện chứng duy vật. Sự thống nhất giữa chủ nghĩa duy vật và phép biện
chứng làm cho chủ nghĩa duy vật trở nên triệt để, và phép biện chứng trở thành
lý luận khoa học; nhờ đó triết học mácxít có khả năng nhận thức đúng đắn cả
giới tự nhiên cũng như đời sống xã hội và tư duy con người.
Triết học ra đời với tư cách là hạt nhân lý luận của thế giới quan, làm cho
thế giới quan phát triển như một quán trình tự giác dựa trên sự tổng kế kinh
nghiệm thực tiễn và tri thức do các khoa học đưa lại.
Phương pháp luận là lý luận về phương pháp, là hệ thống các quan điểm
chỉ đạo việc tìm tòi, xây dựng, lựa chọn và vận dụng các phương pháp.
Tuy không phải là một ngành khoa học độc lập nhưng phương pháp luận là
một bộ phận không thể thiếu được trong bất kỳ một ngành khoa học nào. Xét

13


phạm vi tác dụng của nó, phương pháp luân ngành; phương pháp luận chứng và
phương pháp luận chung nhất.
+ Phương pháp luận ngành là phương pháp luận của một ngành khoa học
cụ thể nào đó.
+ Phương pháp luận chung là phương pháp luận được sử dụng cho 1 số
ngành khoa học.
+ Phương pháp luận chung nhất là phương pháp luận được dùng làm
điểm xuất phát cho việc xác định các phương pháp luận chung, các phương pháp
hoạt động khác của con người.
Với tư cách là hệ thống tri thức chung nhất của con người về thế giới và vai
trò của con người trong thế giới đó; với việc nghiên cứu những quy luật chung
nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy triết học thực hiện chức năng phương pháp
luận chung nhất khẳng định điều này, Ph.Ăngghen viết - khi phê phán những
nhà khoa học tự nhiên siêu hình không thấy được mối quan hệ biện chứng các
ngành khoa học, không thấy được sự khác nhau giữa tư duy lý luận với tư duy

thực nghiệm.
"Những nhà khoa học tự nhiên tưởng rảng họ thoát khỏi triết học bằng cách
không để ý đến nó hoặc phỉ báng nó. Nhưng vì không có tư duy thì họ không thể
tiến lên được một bước nào và muốn tư duy thì họ cần có những phạm trù lôgíc,
mà những phạm trù ấy thì họ lấy một cách không phê phán, hoặc lấy trong cái ý
thức chung, thông thường của những người gọi là có học thức, cái ý thức bị
thống trị bởi những tàn tích của những hệ thống triết học lỗi thời hoặc lấy trong
những mảnh vụ của các giáo trình triết học bắt buộc trong các trường đại học
(đó không chỉ là những quan điểm rời rạc mà còn là một mớ hổ lớn những ý
kiến của những người thuộc các trường phái hết sức khác nhau và thường là
những trường phái tồi tệ nhất) Hoặc lấy trong những tác phẩm triết học đủ loại
mà họ đọc một cách không có hệ thống và không có phê phán. - Cho nên, dù
sao, rút cục lại, họ vẫn bị lệ thuộc vào triết học và đáng tiếc thường là thứ triết

14


học tồi tệ nhất. Những kẻ nô lệ của những tàn tích thông tục hoá, tồi tệ nhất của
những học thuyết triết học tồi tệ nhất.
Dù những nhà khoa học tự nhiên có làm gì đi nữa thì họ cũng vẫn bị triết
học chi phối, vấn đề chỉ ở chỗ họ muốn bị chi phối bởi một thức triết học tồi tệ
hợp mốt, hay họ muốn được hướng dẫn bởi một hình thức tư duy lý luận dựa
trên sự hiểu biết về lịch sử tư tưởng và những thành tự của nó ""
(PH.Ăngghen; "Biện chứng của tự nhiên")
Vì vậy, mỗi quan điểm lý luận của triết học đồng thời là một nguyên tắc
trong việc xác định phương pháp, là lý luận về phương pháp.
Những chức năng nói trên được thực hiện ở các học thuyết triết học khoa
học tạo nên khả năng cải tạo thế giới của học thuyết triết học đó, trở thành một
công cụ hữu hiệu trong hoạt động chế ngự giới tự nhiên và sự nghiệp giải phóng
con người của những lực lượng sản xuất.

2.2.2 Chức năng phản ánh hiện thực của đời sống xã hội và chức năng
động lực cho sự phát triển xã hội.
-Trong quan hệ với các khoa học cụ thể, mối quan hệ giữa triết học MácLênin và các khoa học cụ thể là mối quan hệ biện chứng, cụ thể là: các khoa học
cụ thể là điều kiện tiên quyết cho sự phát triển của triết học. Đến lượt mình, triết
học Mác- Lênin cung cấp những công cụ phương pháp luận phổ biến, định
hướng sự phát triển của các khoa học cụ thể. Mối quan hệ này càng đặc biệt
quan trọng trong kỷ nguyên cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghệ.
Chính vì vậy, để đẩy mạnh phát triển khoa học cụ thể cũng như bản thân
triết học, sự hợp tác chặt chẽ giữa những người nghiên cứu lý luận triết học và
các nhà khoa học khác là hết sức cần thiết. Điều đó đã được chứng minh bởi lịch
sử phát triển của khoa học và bản thân triết học.
Mỗi hệ thống triết học đều ra đời trong những hoàn cảnh xã hội nhất định,
phản ánh tư tưởng, địa vị, mong muốn của giai cấp mà nó phục vụ; mối hệ tư
tưởng Triết học đó đều là "tinh hoa của thời đại" đó.

15


C.Mác viết rằng: "Các Triết ra không mọc lên như nấm từ trái đất, họ là sản
phẩm của thời đại, của dân tộc mình, mà dòng sữa tinh tế nhất quý giá và vô
hình được tập trung lại trong những tư tưởng Triết học".
Hay như G.V. Hegel, ông coi sự ra đời của các học thuyết Triết học là "sự
tất yếu", coi "triết học là tinh hoa của thời đại mình, và do đó nó thực hiện chức
năng được xã hội phó thác trong phạm vi của thời đại và chỉ khi đó tính tích cực
của tư duy triết học mới được phát huy.
- Cùng với tư cách là một hình thái ý thức xã hội nhưng là hình thái ý thức
xã hội đặc biệt, chung nhất, Triết học, nếu phản ánh đúng xu thế của thời đại thì
nó sẽ là cơ sở lý luận cho giai cấp tiến bộ thực hiện sự nghiệp của mình, chỉ đạo
thực tiễn hoạt động trên tất cả các lĩnh vực của đới sống xã hội, từ đó nó trở
thành động lực về mặt tinh thần cho sự phát triển xã hội.


16


CHƯƠNG 3: Ý NGHĨA VÀ BÀI HỌC LỊCH SỬ TRIẾT HỌC
MÁC - LÊNIN
3.1 Ý nghĩa khoa học của triết học Mác - Lênin
Mác nghiên cứu xã hội giống như một nhà tự nhiên nghiên cứu tự nhiên và
phân tích chúng trên cơ sở phương pháp khoa học. Lênin cho rằng, tính chất
lôgíc đặc sắc và sự cố kết chặt chẽ trong tư tưởng của Mác đã hợp thành chủ
nghĩa duy vật hiện đại và CNXH khoa học hiện đại, và được coi là lý luận,
cương lĩnh của phong trào công nhân ở tất cả các nước văn minh.
Phân tích vấn đề bản chất khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin có ý nghĩa
gì đối với nước ta hiện nay? Chủ tịch Hồ Chí Minh rất tâm đắc với câu: Độc thư
bất vong cứu quốc, cứu quốc bất vong độc thư (Đọc sách không quên cứu nước,
cứu nước không quên đọc sách). Đọc sách là hình ảnh tiêu biểu của nhà trí thức,
biểu trưng của tính khoa học; cứu quốc là hình ảnh tiêu biểu của người cách
mạng. Như vậy, hình ảnh của người trí thức và người cách mạng, tính cách
mạng và tính khoa học liên hệ mật thiết với nhau, không tách rời nhau. Mục đích
cuối cùng của đọc sách là phải cứu nước, giúp đời; còn người cách mạng phải
nâng cao tầm hiểu biết của mình. Chính vì vậy, một mặt, Đảng ta luôn lấy chủ
nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng, kim chỉ nam cho hành động, khiến chúng ta
càng tin tưởng vững chắc vào con đường mà Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng đã
lựa chọn; mặt khác, trong thời đại kinh tế tri thức, thời đại thông tin, để đáp ứng
được yêu cầu thực tiễn của đất nước, Đảng ta chủ trương phải nâng cao tầm hiểu
biết, trí tuệ của toàn Đảng.
3.2 Ý Nghĩa thưc tiễn của triết học Mác - Lênin
Học thuyết của Mác ra đời từ sự kế thừa thẳng và trực tiếp học thuyết của
các đại biểu xuất sắc nhất trong triết học, kinh tế chính trị học và chủ nghĩa xã
hội. Chủ nghĩa Mác không chỉ kế thừa những tinh hoa của khoa học xã hội mà

còn tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa của khoa học tự nhiên đương thời. Theo
Ăngghen, muốn có một quan niệm vừa biện chứng, vừa duy vật về tự nhiên thì
người ta phải biết, phải thông thạo toán học và khoa học tự nhiên; và mỗi lần có
một phát minh vượt thời đại, chủ nghĩa duy vật buộc phải thay đổi hình thức của

17


mình. Sau này, trong chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán của
Lênin cũng đã có sự kế thừa những thành tựu của khoa học tự nhiên, đặc biệt là
vật lý học cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX.
Lênin đã nghiên cứu những thành tựu của khoa học, đặc biệt là những phát
minh trong vật lý học; mặt khác, tổng kết thực tiễn phát triển của CNTB chuyển
sang giai đoạn đế quốc và phát triển chủ nghĩa Mác lên một tầm cao mới, hình
thành một giai đoạn mới, giai đoạn Lênin.
3.3 Bài học lịch sử của triết học Mác - Lênin
Triết học Mác – Lênin ra đời vào những năm 40 của thế kỷ XIX do C. Mác
và Ph. Ăngghen xây dựng, sau đó được V.I. Lênin phát triển vào đầu thế kỷ XX.
Đây là sự phát triển hợp với quy luật phát triển chung của tư tưởng triết học lịch
sử. Do thực tiễn cuộc đấu tranh cách mạng của giai cấp vô sản, những thành tựu
của khoa học tự nhiên và của tư duy lý luận trên lĩnh vực triết học, kinh tế chính
trị học và lý luận về chủ nghĩa xã hội đã tạo ra những điều kiện và tiền đề khách
quan cho sự ra đời của triết học Mác – Lênin. Nhờ khái quát được những thành
tựu của khoa học tự nhiên hiện đại, gắn với thực tiễn xã hội và kế thừa, phát
triển được những thành tựu của tư duy lý luận trong lịch sử.
Triết học Mác – Lênin với tư cách là hệ thống lý luận phản ánh thực tiễn
cuộc đấu tranh đó cũng phải không ngừng phát triển, phải được bổ sung bằng
những nội dung mới. Vì vậy triết học Mác – Lênin không những có tính khoa
học mà còn có tính cách mạng, tính nhân văn sâu sắc. Nội dung triết học Mác –
Lênin không phải là những khẳng định cứng nhắc như những giáo điều, mà nó

thường xuyên được kiểm nghiệm, mài sắc qua thực tiễn. Đây là một đặc điểm
quan trọng đảm bảo cho triết học Mác – Lênin trường tồn sức sống và ảnh
hưởng sâu rộng đến đời sống xã hội hiện nay.
Triết học Mác — Lênin quy định phương pháp nghiên cứu môn học này là
phải liên hệ thường xuyên với thực tiễn xã hội, với quá trình phát triển của các
ngành khoa học hiện đại cũng như với quá trình phát triển của chính triết học
trong lịch sử và các trào lưu triết học trên thế giới hiện nay.

18


KẾT LUẬN
Qua sự khảo sát sơ lược về vai trò của triết học trong đời sống xã hội, rút ra
một số nhận xét sau:
Nghiên cứu khái niệm và nguồn gốc của triết học cho chúng ta hiểu được
Triết học là hệ thống tri thức lý luận chung nhất của con người về thế giới; về vị
trí vai trò của con người trong thế giới đó. Triết học đóng vai trò hạt nhân lý luận
của thế giới quan, giữ vai trò định hướng cho quá trình củng cố và phát triển thế
giới quan của mỗi cá nhân, mỗi cộng đồng người trong lịch sử.
Nghiên cứu vấn đề cơ bản của triết học cho chúng ta hiểu được sự hình
thành các trường phái triết học duy vật và duy tâm trong lịch sử, cũng như hai
phương pháp nghiên cứu đối lập nhau trong lịch sử là phương pháp siêu hình và
phương pháp biện chứng, giúp chúng ta xây dựng được phương pháp biện chứng
trong nhận thức và cải tạo thế giới.
Với chức năng thế giới quan và phương pháp luận, triết học trở thành công
cụ đắc lực trong hoạt động chế ngự thiên nhiên và sự nghiệp giải phóng con
người của những lực lượng xã hội tiến bộ.
- Khi bàn về vai trò của Triết học trong đời sống xã hội, tác động của nó
đến hiện thực xã hội thì trước tiên phải quán triệt rằng: Triết học là môn khoa
học chân chính, chứ không phải là tập hợp những tư tưởng giải thích thế giới của

những Triết gia, những nhà tư tưởng, Những tư tưởng của họ không phải là xuất
phát từ hảo tâm hay thành ý của họ.
- Sự tác động của tư tượng triết học, vai trò của nó đối với đời
sốnglà:"không phải là giải thích thế giới mà vấn đề là ở chỗ cải tạo thế giới"
(C.Mác ), triết học phải là khoa học "giải thích thế giới thế tục chứ không phải là
thoát ly thế giới thế tục "(C Mác; "Lời nói đầu trang phê phán Nhà nước pháp
quyền của Hêghel ").
Triết học tác động đến đời sống hiện thực trên vị trí, tư cách đặc biệt. Nó là
hạt nhân cơ bản của thế giới quan.
19


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. PGS.TS Lương Minh Cừ, Triết học (2015), NXB Đại học quố gia TP
HCM.
2. PH.Ăngghen, Biện chứng của tự nhiên( 2005), NXB Chính trị quốc gia
Hà Nội
3. GS, TS Nguyễn Hùng Hậu, Bản chất khoa học của chủ nghĩa Mác –
Lênin (2015), NXB Học viện Chính trị quốc gia TP HCM.
4. 2. V.I. Lênin, Lênin toàn tập (2003), NXB Chính trị quốc gia Hà Nội.



×