Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

Tiểu luận Triết học :Ảnh hưởng của tư tưởng chính trị nho giáo trong đới sống xã hội việt nam với việc hình thành tư tưởng XHCN và hướng khắc phục

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (209.55 KB, 29 trang )

MỤC LỤC
Trang

A. PHẦN MỞ ĐẦU:……………………………………………………
..................................................................................................................…………...1
1. Lý do chọn đề tài…………………………………………………...……….
….1
2. Tình hình nghiên cứu:…………………………………………………
.........................................................................................................…………..2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu:……………………………………
.........................................................................................................…………..2
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:……………………………………
........................................................................................................…………...2
5. Phương pháp nghiên cứu:…………………………………………………
..............................................................................................................…….....3
6. Kết cấu của đề tài..........................................................................................3
B. NỘI DUNG:……………………………………………………………
...........................................................................................................………....4
Chương I: Vài nét về tư tưởng chính trị của Nho giáo…………………….
..............................................................................................................…..…...4
1.1 Đường lối trị nước (Đức trị):………………………………………………
...........................................................................................................……..4
1.1.1.Nhân Trị:…………………………………………………...……………
.................................................................................................................…..…5
1.1.2. Lễ Trị:……………………………………………………………………
......................................................................................................................….6
1.1.3. Chính Danh:……………………………………………………………
....................................................................................................................…...7
Chương II: Ảnh hưởng của tư tưởng Chính trị Nho giáo đối với đời sống
Xã hội Việt Nam:……………………………………………………………..
….................................................................................................................…..8



1


2.1 Ảnh hưởng đối với Chính trị:……..
……………………………………….......................................................……8
2.2 Đối với Đạo đức:………………………………………………………..…
...................................................................................................................……9
2.3. Đối với Kinh tế:
……………………………………………………………….........................14
2.4. Đối với Gia đình:…………………………………………………………
................................................................................................................…….15
2.5. Đối với giáo dục:…………………………………………………………
................................................................................................................…….17
Chương III: HƯỚNG KHẮC PHỤC:………………………………………
...............................................................................................................…..…20
3.1. Nắm vững Chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh…………
..............................................................................................................……...20
3.2. Hoàn thiện nhà nước pháp quyền, xây dựng XHCN…………………
...........................................................................................................………..20
3.3. Thực hiện dân chủ hóa:…………………………………………….……
...............................................................................................................……..21
3.4. Phát triển kinh tế hành hóa nhiền thành phần……………………….…
.............................................................................................................………22
3.5 Đẩy mạnh Xây dựng nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc…………….…
................................................................................................................…….22
3.6. Chú trọng giáo dục đạo đức………………………………………………
.................................................................................................................……23
3.7. Giáo dục pháp luật…………………………………………………….…
................................................................................................................…….24

C. KẾT LUẬN:………………………………………………………………
................................................................................................................….…25

2


A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Văn minh Trung hoa là một trong những nền văn minh xuất hiện sớm
nhất trên thế giới với hơn 4000 năm phát triển liên tục với nhiều phát minh vĩ
đại trong lịch sử trên nhiều lĩnh vực khoa học. Có thể nói văn minh Trung
Hoa là một trong những cái nôi văn minh của nhân loại. Bên cạnh nhiều phát
minh, phát kiến về khoa học, văn minh Trung Hoa còn là nơi sản sinh ra
nhiều học thuyết, tư tưởng có ảnh hưởng lớn đến văn minh thế giới.
Trong số các học thuyết, tư tưởng lớn đó phải kể đến tư tưởng Nho giáo.
Nho giáo là tư tưởng quan trọng nhất của Trung Quốc trong hơn 2000 năm
lịch sử và Người đặt cở sở đầu tiên cho tư tưởng này là khổng Tử.
Nho giáo là một di sản văn hóa, với tư cách là học thuyết chính trị - Đạo
đức xuất hiện ở Trung Quốc và đã du nhập vào Việt Nam từ thời Tây Hán do
người phương Bắc truyền vào, tư tưởng này đã có mặt ở Viêt Nam hàng
nghìn năm.
Từ thế kỷ X đến thế kỷ XIX Nho giáo đã ảnh hưởng sâu đậm trong xã
hội Việt Nam góp phần tạo dựng diện mạo của dân tộc Việt Nam.
Ngay từ đầu các triều đại phong kiến đã giành cho Nho giáo địa vị ngày một
quan trọng trong hệ tư tưởng chính thống của quá trình hình thành và phát
triển của xã hội phong kiến Việt Nam.Các triều đại phong kiến Việt Nam đã
tiếp nhận và chủ yếu sử dụng nho giáo làm hệ tư tưởng và công cụ trị nước,
đào tạo những con người phù hợp với yêu cầu và mục đích của giai cấp phong
kiến thống trị.
Những năm gần đây, trước những biết động hệt sức phức tạp của đời

sống xã hội, việc nhìn nhận đánh giá về sự thể hiện của Nho giáo ở Việt Nam
trong lịch sử và hiện nay có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cấp bách đối với sự
nghiệp Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, góp phần giải quyết đúng đắn
mối quan hệ biện chứng giữa truyền thống và hiện Đại, nhân tố thúc đẩy sự
3


phát triển của xã hội Việt Nam ngày nay. Nghiên cứu tư tưởng chính trị của
Nho giáo đề nhận định, đánh giá rõ hơn những yếu tố không phù hợp, và kế
thừa những tinh hoa của nó trong sự nghiệp đổi mới.
Chính vì vậy mà Em xin chọn đề tài: “ Ảnh hưởng của tư tưởng
chính trị Nho giáo trong đới sống xã hội Việt Nam với việc hình thành tư
tưởng XHCN và hướng khắc phục”. làm đối tượng nghiên cứu của bài tiểu
luận.

2. Tình hình nghiên cứu
Nho giáo là đề tài được nhiều nhà khoa học trong nước và ngoài nước
nghiên cứu. Cho đến ngày nay vẫn còn nhiều vấn đề đặt ra, đòi hỏi phải có sự
đi sâu và khám phá nhằm tìm ra những ảnh hưởng tiêu cựu và tích cực để
khắc phục.
Với hy vọng góp phần tiếng nói của mình làm sáng tỏ thêm những gì
mà các nhà khoa học đã nghiên cứu.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục Đích
Để hiểu đầy đủ, toàn diện và hệ thống hơn về tư tưởng Nho Giáo trong
đời sống xã hội Việt Nam hiện nay với việc hình thành tư tưởng xã hội chủ
nghĩa. Tìm ra những mặt tích cực và tiêu cực nhằm khắc phục những tiêu cực
phát huy mặt tích cực, thúc đẩy sự phát triển của đất nước.
3.2. Nhiệm vụ

Để đạt được mục tiêu, tiểu luận tập trung làm rõ những nội dung chủ
yếu sau:
- Trình bày ảnh hưởng của nho giáo ở Việt Nam
- Những giải pháp khắc phục tư tưởng đó.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu là nội dung cơ bản trong tư tưởng Nho giáo và
sự biểu hiện nó trong xã hội Việt Nam

4


Phạm vi nghiên cứu: Quan niệm của nhà Nho, nhà tư tưởng Việt Nam
về Nho giáo cũng như thái độ và sự tiếp nhận Nho giáo trong việc cai trị, xây
dựng, phát triển đất nước và khai thác giá trị truyền thống Nho giáo phục vụ
sự phát triển của đất nước trong điều kiện toàn cầu hóa.
5. Phương pháp nghiên cứu.
Phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong tiểu luận này là phương
pháp luận chung của triết học Mác – Lênin về con đường và xã hội, hệ tư
tưởng. Trong đó kết hợp một số phương pháp như: Lịch sử và lô gích, phân
tích tổng hợp, so sánh, khái quán hóa, phương pháp đối chiếu, trừu tượng hóa.

6. Kết cấu của đề tài.
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo thì nội
dung của tiểu luận gồm có 3 chương
Chương I: Vài nét về tư tưởng chính trị của Nho giáo.
Chương II: Ảnh hưởng tư tưởng chính trị của Nho giáo đến Việt Nam
Chương III: Hướng khắc phục

5



B. NỘI DUNG
CHƯƠNG I
VÀI NÉT VỀ TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ CỦA NHO GIÁO
Nho giáo là một học thuyết chính trị - đạo đức xã hội do Khổng Tử
sáng lập. Khổng Tử sinh năm 551 trước công nguyên. Tên thật là Khâu, tự gọi
là Trọng Ni, người ấp Tâu, nước Lỗ ( Nay là Khúc Phụ, Sơn Đông, Trung
Quốc). Thủa nhỏ Ông mở trường dạy học, sau đó làm một chức quan nhỏ.
Ông là nhà tư tưởng, nhà chính trị, nhà giáo dục nổi tiếng ở Trung Quốc. Tư
tưởng chính trị của ông trước hết là sự bình ổn xã hội – một xã hội “thái bình
thịnh trị”. Khổng Tử mất năm 479 trước công nguyên, thọ 72 tuổi. Những lời
dạy của ông được chép lại thành sách Luận Ngữ.
Trong lịch sử của chế độ phong kiến Việt Nam, đến thế Kỷ XI trở đi,
nhằm xây dựng, củng cố chế độ phong kiến Trung ương, duy trì trật tự, kỷ
cương xã hội và thực hiện những nhiệm vụ thực tiễn của công cuộc giữ nước
và phát triển đất nước và phát triển đất nước về mọi mặt, giai cấp phong kiến
Việt Nam đã tiếp thu, khai thác tư tưởng Đức trị và thực hiện tư tưởng đó
trong việc cai trị, quản lý xã hội.
Do hoàn cảnh lịch và điều kiện lịch sử cụ thể, do phải thực hiện những
nhiệm vụ thực tiễn và đáp ứng nhu cầu cai trị và quản lý xã hội giai đoạn phát
triển đất nước, của chế độ phong kiến mà mức độ, phạm vi, tính chất của tư
tưởng Đức trị được giai cấp phong kiến vận dụng ít nhiều có khác nhau.
Hơn 2000 năm của chế độ phong kiến Trung Quốc các triều đại nối tiếp
nhau đều xem Nho giáo là cơ sở cho tư tưởng Đức trị. Tư tưởng Đức trị là
những quan niệm đường lối trị nước, quản lý xã hội dựa trên cơ sở những
chuẩn mực đạo đức. Coi đạo đức là công cụ, phương tiện chủ yếu nhất, hữu
hiệu nhất để đạt được những mục đích chính trị.

6



1.1. ĐƯỜNG LỐI TRỊ NƯỚC (Đức trị ).
Tư tưởng Đức trị là những quan niệm về đường lối trị nước, quản lý xã
hội, dựa trên cơ sở những chuần mực đạo đức.
Nho giáo đã vạch rõ con đường cai trị: Cai trị con người, xã hội không
phải chủ yếu dựa vào vũ lực, thần quyền, của cải mà cai trị bằng giáo dục,
giáo dưỡng bằng thu phục nhân tâm. Theo Khổng Tử thì đạo đức là là biện
pháp hiệu quả nhất trong việc phục vụ nhân tâm, nhân lực, trong việc “bình
thiên hạ”. Ông từng nói: “Làm chính trị bằng đức, thì tự mình sẽ giống
như sao Bắc Đẩu, ở nguyên một chỗ, mà mọi vì sao khác chầu quanh
mình”[2, tr.244]. Hạt nhân, trung tâm của Nho giáo là Nhân - Lễ - Chính
danh. Trong đó Nhân và Lễ là hai phạm trù trung tâm và cơ bản nhất của Nho
giáo và là biện pháp thi hành đường lối đức trị.
1.1.1. Nhân trị.
Nhân : là Người, là lòng người, là thương người. Đạo nhân là cái mà
trời phú cho con người, ở cái tâm của con người. “ Nhân là mình muốn lập
thân thì cũng mong muốn giúp người lập thân, mình muốn thành đạt thì
cũng muốn giúp người thành đạt” và “điều gì mình không muốn thì chớ
đem đối xử với người”. Nhân là đức tính hoàn thiện, là cái gốc đạo đức của
con người nên nhân chính là đạo làm người.
Theo Khổng Tử, Người muốn đạt nhân phải là người có “trí”, “dũng”.
Trí không tự nhiên mà có, nó chỉ có được trong quá trình con người học tập
và tu dưỡng. Mục đích của việc học không phải là để biết “đạo” mà để ra làm
quan, tham gia chính trị, bảo vệ cho giai cấp thống trị.
Và muốn đạt được “nhân” thì phải có “dũng”. Dũng là người xả thân vì
nghĩa, khi thiếu thốn không nao núng không mất ý trí, khi đầy đủ sung túc thì
không xa rời đạo lý.
Khổng Tử quan niệm rằng: chỉ có người quân tử mới có “nhân”. Trong
kinh điểm nho giáo, những gì tốt đẹp, tiêu biểu của con người đều quy vào

người quân tử. Còn đám đông tiểu nhân là những người không có trí tuệ,
7


không có đạo đức, vất vả chân lấm tay bùn để phục vụ cho người quân tử thi
không có “nhân”.
Cũng như Không Tử, Mạnh tử khi bản về tu đức cũng nhấn mạnh sự tu
dưỡng đạo đức bản thân. Ông cho rằng con người sinh ra vốn có tính thiện
“nhân chi sơ tính bản thiện”, có lòng trắc ẩn, lòng hổ thẹn, lòng cung kính,
lòng phân biệt thị phi. Bốn tính đó được gọi là bốn mối của nhân, lễ, nghĩa,
trí, đòi hỏi con người phải nuôi dưỡng nó, làm cho nó phát triển lớn mạnh.
Ông viết: “ lòng trắc ẩn thuộc về nhân, lòng hổ thẹn thuộc về nghĩa, lòng cung
kính thuộc về Lễ, lòng phân biệt thị phi thuộc về trí. Nhân lễ nghĩa trí chẳng
phải người nào đem đến cho ta, mà là có sẵn ở nơi bản tính của mình vậy.
Chẳng qua là ta không tưởng nghĩ đến nó mà thôi [1. tr.153].
Chính trị là sự tiếp tục của đạo đức, phải lấy đạo đức là gốc. Tuy nhiên
hạn chế ở đây là: Xây dựng Chính trị trên nền đạo đức một cách thái quá. Nho
giáo đã duy trì xã hội phương đông trong trạng thái trì trệ, bảo thủ suốt mấy
ngàn năm lịch sử.
1.1.2. Lễ Trị:
Lễ là một phần rất quan trọng trong toàn bộ Khổng học. Riêng về lễ, có
cả một kinh gọi là Lễ kí trong suốt thời kì Tây chu, từ Chu Công Đán về sau,
những quy định về lễ rất nhiều, rất tỉ mỉ và chặt chẽ. Trước bối cảnh “lễ hư
nhạc hỏng”, Khổng Tử muốn dùng lễ để khôi phục trật tự phép tắc đưa xã hội
trở về với đạo. “ Lễ trị ”. “ Không nhìn cái không hợp lễ, không nghe cái
không hợp lễ, không nói điều không hợp lễ, không làm điều không hợp lễ” [3,
tr.53]. Đến triều Nguyễn nhằm rằng buộc mọi người với khuôn mẫu của Nho
giáo, đặc biệt là đào tạo ra lớp người sống vì nhà vua, chết vì nhà vua. Triều
Nguyễn quy định: “ Người từ 8 tuổi trở lên thì vào các trường tiểu học rồi đến
học sách Hiếu Kinh, Trung Kinh; 12 tuổi trở lên, trước học Luận Ngữ, Mạnh

tử tới Trung Dung, Đại Học; 15 tuổi trở lên, trước học Thi thư sau học Dịch
lễ, Xuân Thu, học kèm Chư Tử và sử” [8. tr, 574 - 575].

8


Có thể nói, lễ là cái lưới bủa ra rất rộng và xiết lại hết sức chặt chẽ. Trải
qua hàng nghìn năm lịch sử, các xã hội theo nho giáo được ổn định trong gia
đình và ngoài trật tự xã hội.
Tuy nhiên Lễ trị của Nho giáo cũng đã kìm hãm cuộc sống của con
người một cách dai dẳng, đặc biệt là đối với phụ nữ và đông đảo nhân dân lao
động dưới thời phong kiến.
1.1.3. Chính danh.
Sự phát triển của những mâu thuẫn giai cấp: giữa nông dân với lãnh
chúa phong kiến; địa vị của bọn chúa phong kiến bị lung lay, quan hệ dối
loạn. trước tình hình đó, các nhà nho chủ trương lấy thuyết “chính danh” làm
vũ khí để củng cố trật tự, ổn định xã hội, bảo vệ địa vị thống trị. Khổng Tử
cho rằng muốn cứu vãn được nguy cơ chính trị thời đó, trước hết phải khôi
phục uy quyền của lãnh chúa tối cao, ngăn chặn những việc vượt quyền, mỗi
người phải giữ danh phận của mình mới có thể gây lại nền chính trị, phải
“chính danh” để xác định lại danh phận, đẳng cấp… đó là vấn đề căn bản
chính trị thời bấy giờ.
Ai ở vị trí nào thì làm tròn bổn phận ở vị trí ấy “Quân quân, thần
thần, phụ phụ, tử tử” (Vua phải giữ đúng đạo vua, Tôi phải giữ đúng đạo
tôi, Cha phải giữ đúng đạo Cha, Con phải giữ đúng đạo con).
Tóm Lại:
Nhân - lễ - chính danh không chỉ là đường lối trị nước của nho giáo.
Nhân là gốc. lễ là ngọn, nhân để khôi phục lễ, để trở về với chính danh, xã hội
trở về đạo, trở về một xã hội phong kiến có kỷ cương, thái bình thịnh trị.
Suốt hơn 2000 năm thống trị, tư tưởng nho giáo đã góp phần quan trọng

xây dựng nên nhà nước Trung Quốc và các nước lân cận trong đó có Việt
Nam. Tuy nhiên trên thực tế tư tưởng này cũng có nhiều hạn chế được khắc
phục, loại bỏ, kế thừa những tinh hoa mang tính tích cực.

9


CHƯƠNG II:
ẢNH HƯỞNG CỦA TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ NHO GIÁO
ĐẾN VIỆT NAM.
Nho giáo thống lĩnh tư tưởng văn hóa Việt Nam từ thế kỷ XV đến thế
kỷ XIX, suốt hai triều đại Lê - Nguyễn. Nho giáo Việt Nam về cơ bản là sự
tiếp thu Nho giáo Trung Quốc, nhưng không còn giữ nguyên trạng thái
nguyên sơ của nó nữa mà có những biến đổi nhất định. Quá trình du nhập và
tiến tới xác lập vị trí Nho giáo trong đời sống xã hội Việt Nam cũng là quá
trình tiếp biến hết sức sáng tạo của người Việt Nam trong suốt chiều dài lịch
sử dựng nước và giữ nước. Ảnh hưởng đó có phạm vi rộng khắp trên nhiều
lĩnh vực: chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội.
2.1. ĐỐI VỚI CHÍNH TRỊ.
2.1.1. Ảnh hưởng tích cực.
Nho giáo xây dựng nền chính trị vì dân: Có thể nói Đức trị là một học
thuyết chính trị - đạo đức đầu tiên đặt vấn đề con người, làm cơ sở cho tư
tưởng chính trị. Vận dụng xây dựng nền chính trị vì dân là tư tưởng nhất
quán, xuyên suốt qua trình lãnh đạo và cách mạng Việt Nam.
Trong thời kỳ phong kiến: do đất nước phải chống lại giặc ngoại xâm
hung bạo, nên Nguyễn Trại đã lấy phạm trù Nhân - Nghĩa làm nền tảng, cơ sở
để xây dựng nên những quan hệ đạo đức, nhằm ổn định trật tự xã hội.
Nhân của Nguyễn Trãi là “ Khử bạo cho dân ”, ở ông Nhân không phải là
thứ đạo đức chung chung trừu tượng mà chính là yêu nước, nhân đạo. Cứu nước
trước hết phải cứu dân, đó là tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi. Ông nói: “

Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân”. “Đại đức thính cho người ta sống, thần vũ
không hay giết người, đem quân nhân nghĩa đi đánh dẹp cốt để yên dân”. “ Quân
của vương giả chỉ có dẹp yên mà không đánh chém” [1. tr, 115]. hay:
“…Đem đại nghĩa để thắng hung tàn
Lấy chí nhân để thay cường bạo…”
10


Đến khi nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời, Chủ tịch Hồ chí Minh
đã căn dặn cán bộ: “Nước ta là nước dân chủ, bao nhiêu lợi ích đều vì dân,
bao nhiêu quyền hạn đều của dân, chính quyền từ Xã đến Trung ương đều do
dân cử ra…, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân” [6. tr.698].
Trong suốt 64 năm qua nhà nước ta cho thấy, nhà nước đã phát triển từ
hình thức thấp đến cao, từ nhà nước dân chủ tiến dần lên chủ nghĩa nhà nước
kiểu mới XHCN, nhà nước của dân, do dân, vì dân .
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đã khẳng định: “ trong toàn bộ hoạt
động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng lấy dân làm gốc”, “ mọi chủ
trương, chính sách của đảng phải xuất phát từ lợi ích, nguyện vọng và khả
năng của nhân dân lao động, phải khơi dậy được sự đồng tình hưởng ứng của
quần chúng” [7. tr.29].
Tuy nhiên bên cạch những thành tựu đã đạt được của Đảng và nhà
nước ta trong việc áp dụng tư tưởng Chính trị của Nho giáo về việc xây dựng
và bảo vệ đất nước xã hội chủ Nghĩa (XHCN) thì nó cũng có nhiều tiêu cực
và hạn chế.
2.1.2. Ảnh hưởng tiêu cực:
Trong quá trình xây dựng nhà nước XHCN Việt Nam: Nhà Nước
pháp quyền là thành tựu chung của nhân loại, đó là phương tiện để giúp cho
con người vươn tới nhứng giá trị mới cao hơn, tốt đẹp hơn. Đối với nước ta,
xây dựng nhà nước pháp quyền thực chất là hình thức hoàn thiện nhà nước.
Quan điểm đổi mới của nhà nước khẳng định tại hội nghị đại biểu toàn quốc

khóa VII (1994) và hội nghị thứ 8 khóa VII (1995).
Ở nước ta, cách mạng tháng tám đã xóa bỏ chính quyền phong kiến
đồng thời xóa bỏ những tàn dư của tư tưởng đức trị, thy vào đó là đạo đức
cách mạng và pháp luật của chế độ dân chủ nhân dân. Tuy nhiên tư tưởng đạo
đức mới không dễ đi vào mọi mặt của đời sống xã hội. Tư tưởng đức trị đã ăn
sâu vào tiềm thức của nhân dân Việt Nam, là sự cản trở cho quá trình xây
dựng và phát triển nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.
11


Ảnh hưởng của tư tưởng đức trị của Nho giáo, ở nhiều nơi, nhân dân
vẫn chỉ quen sống theo lối đạo đức riêng của Làng, dòng họ nó đã trở thành
tập quán mà không sống theo quy định của pháp luật.
Vốn con người Việt Nam luôn coi trọng tình cảm (duy tình) hơn là
pháp luật (duy lý). Cái tình lấn áp cái Lý làm cho các công việc khi thực hiện
không phát huy được hiệu quả, nó còn gây ảnh hưởng đến quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Làm cho trì trệ trong nhận thức, tình trạng lịnh bợm cấp trên, dùng
những lời nói mật ngọt làm cho cấp trên không nhận ra được những khuyết
điểm, sai lầm của mình.
Tập quán “Phép vua thua lệ làng” là một tư tưởng ảnh hưởng tiêu cực
đến quá trình xây dượng và bảo vệ nhà nước XHCN hiện nay, chi phối suy
nghĩ và hành động của cán bộ, nhân dân các địa phương, cơ sở sẽ dẫn đến tình
trạng coi thường kỷ cương, phép nước. Đây cũng là một trong những nguyên
nhân dẫn đến việc hình thành các điểm nóng ở một số tỉnh, địa phương mà
tiêu biểu là: Hà Tây, Hải Dương, Thái Bình…trong những thời gian vừa
qua. Làm cho trật tự, kỷ cương nền nếp bị rối loạn.
Nước ta đã nhiều lần cải cách bộ máy nhà nước và đã có sự gọn nhẹ
hơn, hiệu quả hơn. Tuy nhiên xét một cách tổng thể thì bộ máy nước ta vẫn
còn cồng kềnh, vẫn còn tình trạng tham ô, cửa quyền, sách nhiễu nhân dân, xa

rời thực tế. Để việc quản lý thông suốt, có hiệu quả đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng
viên của bộ máy quản lý phải có những quyền hạn nhất định. Những quyền
hạn này không nằm ngoài mục đích ổn định và phát triển xã hội, vì lợi ích của
nhân dân.
Sau khi cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân thành công. (miền Bắc
từ 1954, từ 1975 trong cả nước), dưới sự lãnh đạo của đảng, nhân dân ta đã
từng bước tiền hành xây dựng một nền văn hóa dân chủ kiểu mới, nền dân
chủ XHCN. Tuy nhiên để xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ XHCN ở nước
ta còn là quá trình khó khăn, phức tạp và lâu dài. Quá trình đó đòi hỏi phải
12


tiếp tục khắc phục những ảnh hưởng tiêu cực của Nho giáo trong lối sống,
cách nghĩ, tâm lý, thói quen của một bộ phận không nhỏ trong các cán bộ,
đảng viên và người dân. Những người cán bộ lãnh đạo, quản lý có tư tưởng
địa vị, là người thường tự cho mình đứng trên tập thể, đối lập với tập thể. Vì
vậy thay vì tổ chức, lãnh đạo nhân dân thực hiện đường lối cách mạng của
đảng, họ lại sử dụng theo ý đồ của họ, để củng cố địa vị của họ. Nhân dân
không được thực hiện quyền bãi nhiệm của mình khi cán bộ nào đó mắc
khuyết điểm. Đây chính là tiền đề của nạn tham nhũng.
Như vậy:
Vấn đề về địa vị, đẳng cấp, tính gia trưởng chưa mất đi, trái lại nó còn
phát triển một cách dai dẳng trong xã hội Việt Nam. Đây là điều đáng lo ngại
bởi nó không chỉ gây tác động xấu đến nhận thức và hành động của cán bộ và
nhân dân mà còn cản trở quá trình thực hiện dân chủ hóa.
2.2. ĐỐI VỚI ĐẠO ĐỨC
2.2.1. Những ảnh hưởng tích cực.
Trong thì kỳ mà đất nước ta đang đi sâu vào quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước. Chúng ta rất tự hào về những chuyển biến đáng kể trên
tất cả các lĩnh vực.

Trong lịch sử tư tưởng Việt Nam, Hồ Chí Minh là người kế thừa văn
hóa dân tộc, trong đó có tinh hoa của Nho giáo, đặc biệt là vấn đề Đạo đức.
Tư tưởng đạo đức cách mạng của Người là: “Nhân - Nghĩa- Trí Dũng – Tín - Liêm”. Đây là tư tưởng mang giá trị đạo đức cơ bản nhất của
nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Theo Hồ Chí Minh: trong cuốn đạo đức cách mạng, người viết:

Nhân: “Tức là cần có lòng bác ái, yêu thương nước, yêu đồng bào.
Thật thà thương yêu, hết lòng giúp đỡ đồng bào và đồng chi. Vì thế mà kiên
quyết chống lại những việc có hại cho Đảng, đến nhân dân. Vì thế mà sẵn
lòng chịu khổ. Vì thế mà không ham sang, không e ngại cực khổ, không sợ uy
quyền”.
13


Nghĩa: Là thẳng thắn, không có tư tâm, không làm việc bậy,…Lúc
Đảng giao cho việc, thì bất kỳ to nhỏ, đều ra sức làm cho cẩn thận…Không sợ
người ta phê bình mình, mà phê bình người khác cũng luôn luôn đúng đắn.

Trí: “là sáng suốt. Vì không có việc tư túi nó làm mù quáng, cho nên
đầu óc trong sạch, minh mẫn…Vì vậy, mà biết việc làm, tránh việc có hại cho
Đảng, biết vì Đảng cân nhắc người tốt, việc tốt, đề phòng người gian”

Dũng: “là dũng cảm, gan góc. Gặp việc phải quả quyết, phải có gan
làm, nhưng không làm liều, thấy khuyết điểm phải sửa chữa. Cực khổ, khó
khăn có gan chịu”

Tín: “Nói cái gì phải nói cho tin. Nói và làm phải nhất trí. Làm thế nào
cho dân tin, dân phục, dân yêu”

Liêm : “là không tham lam địa vị, không tham tiền, không tham người

ta tang bốc mình”.
Với Người khái niệm “Trung”: là trung với nước, hiếu với dân, người
“đảng viên phải là công bộc của nhân dân”. Đòi hỏi người cách mạng phải
“ Cần, kiệm, liêm, chính, chí, công, vô tư ”. Muốn nhà nước không quan liêu,
tham ô, lãng phí thì cần phải có 4 đức tính: “ Cân - Kiệm - Liêm - Chính”. Đó
là những phẩm giá tốt đẹp nhất của người can bộ, đang viên, Người nói:
“ Trời có bốn mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông
Đất có bốn phương Đông, Tây, Nam, Bắc
Người có bốn đức Cần, Kiệm, Liêm, Chính
Thiếu một mùa không thành trời
Thiếu một phương không thành đất
Thiếu một đức không thành người".
Người đề cao vai trò của nhân dân: “ Nước lấy dân làm gốc… gốc có
vững thì cây mới bền, xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân”.
Như vậy Đạo đức ta tiếp thu Nho giáo tư tưởng “Tu Nhân” là để dạy bảo
con người phải làm ăn lương thiện, để không biến thoái bởi sức mạnh của
14


đồng tiền, không bị mặt trái của cơ chế thị trường làm ăn mất đi lương tâm,
nhân phẩm để góp phần xây dựng nhà nước vững mạnh, phồn vinh.
Tuy nhiên Tư tưởng Đạo đức này cũng có những ảnh hưởng tiêu cực.
2.2.2. Ảnh hưởng tiêu cực:
Đạo đức xưa đã nêu ra cần, kiệm, liêm, chính thực chất nhằm phục vụ
cho lợi ích của giai cấp thống trị. Ngày nay chúng ta đề ra cần, kiệm, liêm,
chính để làm lợi cho nước cho dân. Nhưng nếu cán bộ thực hiện không
nghiêm túc, để đầu óc chi phối thì cũng rơi vào tình trạng đạo đức giả. Đạo
đức giả là: một hiện tượng phổ biến trong nhiều chế độ xã hội và gắn với chủ
nghĩa cá nhân.
Chế độ đức trị đã sản sinh nhiều kẻ đạo đức giả, những kẻ bề ngoài nói

điều nhân nghĩa nhưng bên trong đầy rẫy tật xấu.
Ảnh hưởng của thói đạo đức giả đối với con người Việt Nam hiện nay
có thể thấy.
Những Người mắc phải thói đạo đức giả là người không trung thực
trong công tác. Họ thường trình lên cấp trên những báo cáo không trung thực
thổi phồng thành tích, che đậy khuyết điểm. Hậu quả của nó gây ra không chỉ
là những hậu quả kinh tế trực tiếp, mà còn là những hậu quả kinh tế xã hội lâu
dài. Bởi vì khi đã xâm nhập vào đường lối chính sách của Đảng, của Nhà
nước, nó sẽ ảnh hưởng rộng lớn, thậm chí ở tầm vĩ mô, chiến lược.
Hồ Chí Minh đã nói rõ : “không có đạo đức cách mạng thì dù có tài
giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân, không hoàn thành nhiệm vụ
cách mạng vẻ vang. Suy thoái về đạo đức thường là khởi đầu suy thoái về bản
lĩnh chính trị, phai nhạt và phản bội lí tưởng cách mạng”. vì vậy phải ngăn
chặn loại trừ thói đạo đức giả đang là một yêu cầu bức xúc, cấp bách của xã
hội trong thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

15


2.3. ĐỐI VỚI KINH TẾ
Nho giáo là học thuyết về chính trị - xã hội, đạo đức nên ít bàn về kinh
tế mà chủ yếu bàn về con người. Nhưng không phải có nghĩa phủ nhận vai trò
của kinh tế. Con đường đi lên CHXN ở Việt Nam hiện nay đòi hỏi phải tiếp
thu khai thác những giá trị tích cực đồng thời loại bỏ những mặt tiêu cực của
Nho giáo đối với quá trình phát triển kinh tế.
2.3.1. Ảnh hưởng tích cực.
Theo tư tưởng của Tuân Tử ông cho rằng: “Nếu như hết sức làm việc
nông, lại tiết kiệm tiêu dùng thì trời chẳng bao giờ làm mình đói”.
Thực hiện theo tư tưởng của Tuân Tử. Điều này phù hợp với điều
kiện kinh tế nước ta. Nước ta là một nước mà nông nghiệp chiếm phần lớn,

lao động nông nghiệp chiếm 70%. Vì vậy chúng ta nhất thiết cần phải cần
kiệm để công nghiệp hóa, khắc phục những xu hướng chạy theo lối sống xa
hoa, lãng phí.
Đất nước ta đang trong thời kỳ phất triển công nghiệp hóa, hiện đại
hóa. Để đạt được các mục tiêu đó, chúng ta không thể coi trọng ưu tiên phát
triển kinh tế. Chúng ta không thể không coi trọng ưu tiên phat triển kinh tế.
Chúng ta tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa cúng để làm cho dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh. Đó là tiền đề để đảm bảo
cho sự ổn định chính trị xã hội. Cần kiệm đi đôi với chống tham nhũng và lãng
phí, dồn sức đầu tư cho sự phát triển của đất nước trong hiện tại và tương lai.
Tuy nhiên bên cạnh những mặt tức cực đó thì tư tưởng của Nho giáo
cũng chứa nhiều tiêu cực.
2.3.2. Ảnh hưởng tiêu cực.
Với tư tưởng “Trọng nông ức thương” (coi trọng nông nghiệp hơn
công nghiệp), nho giáo đã từng kìm hãm công nghiệp và kinh tế hàng hóa
phát triển, về mặt sản xuất, Nho giáo từng kìm hãm công ngiệp và kinh tế
hàng hóa phát triển, về mặt sản xuất, Nho giáo giáo coi thường khoa học kỹ

16


thuật. Kinh tế Việt Nam không thể đổi mới phát triển nếu không gạt bỏ được
sự cản trở của Nho giáo.
Nền kinh tế mang tính bao cấp và những chính sách xã hội kèm theo nói
đã là một trong những nguyên nhân đưa nước ta tới khủng hoảng trầm trọng.
Sản xuất hàng hóa đòi hỏi phải khắc phục tình trạng chia cắt, khép kín,
trì trệ của sản xuất và lưu thông. Nhưng do ảnh hưởng cũ, tư tưởng “trọng
nông ức thương”, cùng nhiều tư tưởng khác mà nhiều địa phương vẫn còn xu
hướng biệt lập, không chú ý đến yêu cầu chung của đất nước. Nền kinh tế
trong thời kỳ quá độ ở nước ta còn chịu những ảnh hưởng tiêu cực của Nho

giáo chi phối. Ta biết rằng đặc điểm của nền kinh tế nổi bật của Việt Nam
truyền thống là sản xuất nhỏ và tâm lý người tiểu nông in dấu sâu sắc lên mọi
mặt của xã hội Việt Nam cổ truyền và ảnh hưởng đến ngày nay.
Nền sản xuất nhỏ tồn tại lâu đời trong xã hội xã hội Việt Nam cùng với
ảnh hưởng của tư tưởng nho giáo đã tạo nên tâm lý cục bộ, bản vị… Khi nước
ta bước vào thời kỳ quá độ lên CNXH, tư tưởng bình quân đã trở thành lực
cản lớn trong quá trình phát triển kinh tế cũng như các mặt khác của đời sống
xã hội
Từ thực tiễn đã giúp Đảng ta nhận thức sâu hơn về CNXH, về con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Sự phát triển nền kinh tế trong thời kỳ đổi mới
ở nước ta đòi hỏi phải khác phục những ảnh hưởng tiêu cực của nho giáo,
phát huy tính tích cực của nó.
2.4. ĐỐI VỚI GIA ĐÌNH
2.4.1. ảnh hưởng tích cực:
Nho giáo đã coi gia đình là cơ sở của xã hội : “gốc của nước là nhà”.
Chính vì vậy Nho giáo đã chú trọng xây dựng những mối quan hệ chặt chẽ
trong gia đình theo ba quan hệ đó là: “Cha - con, chồng - vợ, anh - em”.
Trong những mối quan hệ ấy, quan hệ cha- con, anh- em được Nho giáo đề
cao bằng chữ “Hiếu”, “Một giọt máu đào hơn ao nước lã ”. Hiếu là “nết
đầu trong trăm nết”. người con hiếu có ý thức đầy đủ về tình cảm và bộn phận
17


của mình đối với Cha , Mẹ. đó là sự biết ơn, là ý nguyện thường xuyên làm
sao để Cha - Mẹ được vui sướng, làm vinh hiển cho Cha Mẹ và làm đúng
phận đạo làm con.
Nho giáo khẳng định rằng : sự giáo dục từ trong gia đình có tác động
mạnh mẽ, thậm chí quyết định sự thành công trong việc trị nước.
Khi kinh tế thị trưởng phát triển, cuộc sống mỗi gia đình được đổi mới.
Đó cũng là một trong những tiền đề tốt đẹp để gia đình Việt Nam hoàn thành

tốt chức năng đối với xã hội.
Ở Việt Nam, từ trước đến nay vẫn đề cao việc chăm sóc con cái và con
cái có hiếu với Ông - Bà, Cha - Mẹ. Đó là truyền thống, là nét đặc sắc của văn
hóa gia đình Việt Nam.
Chúng ta đã biết “Gia đình là tế bào của xã hội”, là một nhân tố không
thể nào thiếu được, đặc biệt là trong thời kỳ mà đất nước đang phát triển, đẩy
mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước thì yếu tố của mỗi gia
đình càng ảnh hưởng ngày một rõ nết hơn.
2.4.2. Ảnh hưởng tiêu cực:
Bên cạnh những mặt tích cực thì về gia đình của nho giáo cũng ảnh
hưởng nhiều đến đời sống xã hội Việt Nam.
Thứ nhất: Trong đời sống xã hội thì thường xuyên phải phụ thuộc vào
tình cảm. Tình cảm anh - em, cha - con, dòng họ, bằng hữu, tình làng nghĩa
xóm và nhiều mối quan hệ khác. Ở nhiều nơi vẫn còn tình trạng cán bộ lợi
dụng quyền lực mà đưa người thân mình vào cac cơ quan, trong khi trình độ
hộc vấn, đạo đức vẫn chưa đủ năng lực. Hay nói cách khác vẫn còn tư tưởng
là: “Một người làm quan cả họ được nhờ”.
Thứ hai: Biến quan hệ cơ quan thành quan hệ gia đình. Làm mất đi
tính dân chủ, mất đoàn kết.
Hồ Chí Minh đã từng nói: tình trạng kéo bè kéo cánh, đưa bà con thân
thích không có tài năng gì vào tổ chức này hay tổ chức kia mà quên mất rằng
việc là việc công chứ không phải là việc riêng của dòng họ. Nhân dân ta đã đổ
18


bao mồ hôi, xương máu để giành lại được độc lập, tự do, xây dựng một cuộc
sống bình đẳng và dân chủ. Gia đình phải là nền tảng mới, phải góp phần bảo
vệ những thành quả đã đạt được. Sự quan tâm của Đảng, Nhà Nước đối với
gia đình vừa phất huy được truyền thống tốt đẹp của gia đình cũ vừa đáp ứng
được nhu cầu đổi mới đất nước.

2.5. ĐỐI VỚI GIÁO DỤC
Trong thời kỳ phong kiến, với phương châm “Trị nước thì gốc ở nhân
tài, hành chính thì nước lấy giáo hóa” là chính sách lớn của Nhà Nước phong
kiến đặc biệt quan tâm và đề cao vai trò của giáo dục và đào tạo con người.
Giáo dục là một trong những tư tưởng chủ yếu của nho giáo, là biện
pháp để tạo ra một mẫu người lý tưởng, là một trong những phương tiện chủ
yếu để truyền bá nho giáo, triển khai đường lối đức trị, lựa chọn nhân tài. Nền
giáo dục của Nho giáo ảnh hưởng đến Xã hội Viêt Nam.
2.5.1. Mặt tích cực:
Với phương châm “Trị nước thì gốc ở nhân tài, hành chính thì trước lấy
giáo hóa” [4, tr. 574], là chính sách lớn của nhà nước. Đặc biệt Việt Nam rất
coi trọng và đề cao vai trò của giáo dục.
Theo Khổng Tử. Ông là người rất trọng đạo đức, mà muốn tu dưỡng
đạo đức thì phải học tập bởi vì: “ Muốn nhân mà không muốn học thì cái
nhân bị che lấp mà thành ra làm hại. Muốn trực mà không muốn học thì
cái trực bị che lấp mà thành ra nóng nảy. Muốn dũng mà không muốn học
thì cái dũng bị che lấp mà thành làm loạn. Muốn cương mà không muốn
học thì cương bị che lấp mà thành ngông cuồng”[5,tr. 88].Ngoài mục đích
tu dưỡng đạo đức, việc hoc tập còn nhằm mục đích bồi dưỡng tài năng để ra
làm việc nước ( kinh bang tế thế, trị quốc bình thiên hạ). Trước tiên là phải
học lễ sau mới học văn hóa, học phải đi đôi với hành, phải thành thật trong
khả năng của nhìn nhận khả năng của mình. “ Biết thì nói biết, không biết thì
nói không biết, như vậy mới là biết”.

19


Trong thời kỳ phong kiến, các triều đại luôn coi trọng việc học tập, giáo
dục. Trong triều Nguyễn thì quy định quy định: “ Người từ 8 tuổi trở lên thì vào
các trường tiểu học rồi đến học sách Hiếu Kinh, Trung Kinh; 12 tuổi trở lên,

trước học Luận Ngữ, Mạnh tử tới Trung Dung, Đại Học; 15 tuổi trở lên, trước
học Thi thư sau học Dịch lễ, Xuân Thu, học kèm Chư Tử và sử” [8. tr, 574 –
575]. Hay chúng ta thường thấy những câu nói của người xưa nói về vai trò quan
trọng của giáo dục.
“Sang sông phải bắc cầu kiều
Muốn con hay chữ phải yêu lấy thầy”
Hồ Chí Minh đã từng nói: Muốn xây dựng CNXH trước hết phải có
những con đường XHCN. Con đường XHCN không phải tự nhiên mà có, pahir
trải qua quá trình rèn luyện. Học không phải là học sách vở mà học tập từ những
tri thức khoa học tiên tiến của thời đại.
Trong thời kỳ ngày nay, khi trí tuệ trở thành nhân tố quyết định không thể
thiếu được thì hình thức học tập của nho giáo càng có giá trị, nếu chúng ta biết
khai thác, kế thừa.
Tạo ra một truyền thống “tôn sư trọng đạo”, tinh thần ham học, hiếu học,
trọng người có học, tạo ra những nhân tài đóng góp vào việc giữ nước, xây dựng
và phát triển đất nước.
Với quan điểm coi văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hộ, văn hóa vừa là
mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy kinh tế phát triển xã hội. Coi giáo dục đào tạo
là quốc sách hàng đàu, Đảng ta chủ trương “ tiếp tục đổi mới nâng cao chất
lượng giáo dục toàn diện, đổi mới nội dung phương pháp dạy và học”. Là cây
phải có gốc, là sông phải có nguồn. Để trở thành một con người đúng nghĩa phải
có thầy . Nhớ công ơn thầy là đạo lý làm người của người dân Việt Nam,“nửa
chữ cũng là thầy, một chữ cũng là thầy”. Chính vì vậy mà Khi Việt Nam
thống nhất. Vào ngày 28 tháng 9 năm 1982, Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính
phủ) đã ban hành quyết định số 167-HĐBT thiết lập ngày 20 tháng 11 hằng năm
là ngày lễ mang tên "Ngày nhà giáo Việt Nam". Để thể hiện tinh thần quý
20


trọng và vai trò của giáo dục trong xã hội Việt Nam. Đặc Biệt là trong thời kỳ

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tuy nhiên bên cạnh đó nó cũng có nhiều tiêu
cực.
2.5.2. Ảnh hưởng tiêu cực:
Trong thời kỳ phong kiến Sự nghệp đổi mới đất nước ta bắt đầu trước hết
từ việc đổi mới tư duy. Trong khi đó lối tư duy mang nặng tính giáo điều, bảo
thủ của Nho giáo vẫn còn tồn tại ảnh hưởng không nhớ tới tư duy của đội ngũ
cán bộ nước ta. Điều đó gây trở ngại cho sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay.
Nho giáo chỉ dạy con người đạo đức mà không dạy cho con người tri thức
về khoa học tự nhiên, về làm ruộng, buôn bán.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đã nghiên khắc kiểm điểm và chỉ ra
rằng, sự lạc hậu về lý luận của cán bộ ta xảy ra trên một laotj vấn đè như quan
niệm về CHXN, về thời kỳ quá đôi lên CNXH, về cách thức và con đường xây
dựng CHXN, về cải tạo XHCN, về cơ chế quản lý kinh tế, phân phối lưu thông,
về các quy luật trong thời kỳ quá độ.
Trong qua trình xây dựng CNXH ở Việt Nam, do tuyệt đối hóa, bắt thực
tiễn tuân theo lý luận mà một số bộ phận cán bộ đã làm mất đi khả năng sáng tạo
của mình., bóp méo quy luật vốn có của nó.
Tính bảo thủ làm cho cán bộ ta chậm nhận ra những khoảng cách giữa lý
luận và thực tiễn, chậm nhận thức được sự không phù hợp của đường lối xây
dựng CNXH với yêu cầu thực tiễn khách quan của đất nước. Tính bảo thủ làm
cho cán bộ ta dè dặt với cái mới, không mạng dạng ủng hộ cái mới. Ngay cả khi
đường lối mới của Đảng đã hình thành, Một bộ phận cán bộ vẫn chưa nhận thức
được và chưa ủng hộ con đường đó. Ta có thể thấy rằng: về thực chất bệnh giáo
điều trong đội ngũ cán cộ đội ngũ nước ta là căn bệnh trong nhận thức. Bên cạnh
nguyên nhân là do nhận thức trình độ lý luận, tư duy còn hạn chế thì vẫn còn có
nguyên nhân của ảnh hưởng tiêu cực trong cách tư duy một chiều. lệ thuộc vào
sách vởi kiểu Nho giáo. Vì vậy việc khắc phục bệnh giáo điều, kinh nghiệm, bảo
thủ là đòi hỏi bức thiết gắn liền với đổi mới sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay.
21



CHƯƠNG III

HƯỚNG KHẮC PHỤC
3.1. VẬN DỤNG CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN VÀ TƯ TƯỞNG HỒ
CHÍ MINH
Chúng ta phải tìm hiểu cái cũ, không để quay về với cái cũ muôn đời,
cúng không phải là phủ nhận sạch trơn mà là để kế thừa. Đẳng ta đã đề ra việc
phê phán và kế thừa của tư tưởng Nho giáo.
Trên con đường cách mạng Việ Nam, Hồ Chí Minh đã kế thừa Nho giáo.
Năm 1948, Người nói : “ Nước lấy dân làm gốc”, “Gốc có vững thì cây mới
bền, xây lầu hạnh phúc trên nền nhân dân”.
Ngược lại với Nho giáo vốn coi nhân dân là cỏ rác, là đối tượng để sai
khiến, thực hiện mục đích của giai cấp thống trị. Thì Hồ Chí Minh đòi hỏi
người cán bộ phải là “ đầy tớ của nhân dân”. Như vậy chúng ta phải học tập
thái độ của Hồ Chí Minh với việc khai thác những nhân tố hợp lý của Nho
giáo.
Hiện nay: Đứng trước nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Kinh tế
thị trường lơi đánh giá khách quan sản phấm hàng hóa. Làm cho chủ thể phải
năng động, thường xuyên chú ý cải tiến kỹ thuật. Thực hiện phân phối theo
lao động sở hữu, để thực hiện tự do, bình đẳng.
3.2. HOÀN THIỆN NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN, XÂY DỰNG XHCN
Hơn một nghìn năm bắc thuộc cùng với ảnh hưởng của tư tưởng Đức trị
Nho giáo. Hình thành nên tập quán Lệ Làng chứ không theo pháp luật của nhà
nước Việt Nam. Khi đất nước giành được độc lập, nhà nước và pháp luật
phong kiến ở nhiều giai đoạn đã trở thành vũ khí áp bức bóc lột nhân dân lao
động. Cho đến ngày nay, nhân dân ta vẫn còn tồn tại thói quen sống theo công
thức đạo đức Nho giáo chứ không theo pháp luật. Để xây dựng được hoàn thiện
nhà nước nhà nước pháp quyền XHCN cần có những giải pháp để khắ phục.


22


Hệ thống pháp luật nước ta vừa phải thể hiện ý chí của đại đa số nhân
dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng cống sản, vừa phải ghi nhận đầy đủ
chính xác những giá trị mà xã hội có, xã hội cần và xã hội ủng hộ. Đó là các
giá trị đạo, những nét đẹp truyền thống, những tập quán tốt đẹp được kết tinh
từ hàng ngàn năm lịch sử. Các giá trị đó vừa là lợi ích ccs nhân, vừa của dân
tộc, vừa là của nhân loại, đồng thời phải “ đễ hiểu, dễ thực hiện, đảm bảo tính
khả thi cao”. Hệ thống pháp quyền đầy đủ và đồng bộ sẽ khắc phục tình trạng
thi hành pháp luật dựa theo những lẽ phải, sẽ không có kẽ hở để nhiều kẻ lợi
dụng, tăng cường hiệu quả nghiêm minh trong pháp luật.
3.3. THỰC HIỆN DÂN CHỦ HOÁ:
Nền dân XHCN vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát triển của xã hội
ta. Đó là yếu tố khách quan của quá trình cách mạng XHCN, đồng thời nền
dân chủ XHCN từng bước được xây dựng, hoàn thiện sẽ tạo điều kiện cho
việc đấu tranh khắc phục mọi ảnh hưởng tiêu cực của tư tưởng Nho giáo trong
đội ngũ cán bộ cũng như trong toàn xã hội.
Tác dụng của việc thực hiện dân chủ hóa ở chỗ: phải làm cho dân thực
thi đực quyền lực của mình. Mọi quyền đều xuất phát tử nhân dân, do dân và
vì dân.
Dân chủ hóa là quá trình pháp huy mọi năng lực sáng tạo, tích cực của
mội thành viên trong xã hội nên nó có khả năng chống lại mọi hiện tượng bảo
thủ, trì trệ…
Như vậy thực hiện dân chủ hóa XHCN tạo ra môi trường xã hội rộng
lớn để thực hiện dân chủ hóa đầy đủ hơn, vừa giáo dục dân chủ cho cán bộ và
nhân dân
Thực tiễn đất nước sau hơn 20 năm đổi mới đã chứng minh: Cùng với
sự nghiệp công nghiệp hóa toàn diện, dân chủ hóa XHCN đã đạt những bước
phát triển quan trọng, góp phần tạo ra môi trường xã hội tốt đẹp hơn, lành

mạnh hơn cho sự phát triển, văn hóa...

23


3.4. PHÁT TRIỂN NỀN KINH TẾ HÀNG HOÁ NHIỀU THÀNH PHẦN
Phát triển kinh tế hang hóa nhiều thành phần định hướng XHCN sẽ tạo
ra cơ sở khách quan để khắc phục những ảnh hưởng của Nho giáo, đồng thời
phát huy giá trị tích cực của nó trong giai đoạn hiện nay.
Phát triển dân chủ hóa tạo động lực mạnh mẽ cho quá trình dân chủ
hóa XHCN, khắc phúc tình trạng gia trưởng chuyên quyền độc đoán. Có thể
nói nền kinh tế hàng hóa mở ra cơ hội cho tất cả mọi người phát triển đồng
thời cho phép đánh giá con người một cách khách quan hơn và làm cho dấu
ấn của Nho giáo sẽ mất dần đi.
Phát triển kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa
về thực chất là quá trình đổi mới kinh tế, phát triển lực lượng sản xuất vừa tạo
nên quan hệ sản xuất mới.
Chính vì vậy xây dựng và phát triển kinh tế hành hóa nhiều thành
phần định hướng xã hội chủ nghĩa là yếu tố tiên quyết để cải tạo triệt để tồn
tại xã hội còn lạc hậu của nước ta và do đó là điều kiện để khắc phục tàn dư tư
tưởng chính trị của Nho giáo, xây dựng tư tưởng XHCN.
3.5. TIẾP TỤC ĐẨY MẠNH XÂY DỰNG NỀN VĂN HOÁ TIÊN
TIẾN ĐẬM ĐÀ BẢN SẮC DÂN TỘC
Trải qua hàng ngăn năm lịch sử, sự thành bại của dân tộc ta đều có sự
góp phần của tư tưởng Nho giáo.
Xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc góp phần vào
việc khi thác những giá trị tinh hoa của Nho giáo, đồng thời loại bỏ những
ảnh hưởng tiêu cực của nó trong đời sống xã hội Việt Nam.
Nền văn hóa tiên tiến là nền văn hóa thể hiện tinh thần yêu nước tiến bộ,
thể hiện tinh thần nhân văn cách mạng, mang tính dân chủ đồng thời mang

tính hiện đại. Tạo ra những phẩm chất đạo đức, lối sống của con người Việt
Nam. Góp phần hình thành bản lĩnh của con người Việt Nam, văn hóa Việt
Nam đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
và vững vàng trước những biến động của thời đại.
24


Bản sắc văn hóa Việt Nam được ban chấp hành Trung ương Đảng
khóa VIII khẳng định: “Những giá trị bền vững, những tinh hoa của cộng
đồng các dân tộc Việt Nam được vun đắt nên qua lịch sử hàng ngàn năm đấu
tranh dựng nước và giữ nước”. “ Đó là lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự
cường dân tộc, tinh thần đoàn kết…” Bản sắc đó chi phối toàn bộ đời sống
của dân tộc Việt Nam. Trải qua mấy ngàn năm lịch sử, bản sắc đó đã giúp cho
cộng đồng dân tộc tránh được âm mưu đồng hóa của mọi kẻ thù xâm lược.
Ngày năm văn hóa Việt Nam đang trở thành nền tảng tinh thần, là mục tiêu và
là động lực để nhân dân Việt Nam phấn đấu vì mục tiêu “ Dâu giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
3.6 CHÚ TRỌNG GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC
Ở nước ta, cần chú trọng giáo dục đạo đức kết hợp với giáo dục pháp luật.
về giáo dục đạo đức :
Mỗi con người Việt Nam, nhất là thế hệ trẻ đang lớn lên phải được
hình thành và củng cố lòng yêu nước, lòng tự hào dân tộc. từ đó, xây dựng ý
thức bảo vệ giữ gìn và phát huy các giá trị đạo đức. lòng nhân ái , bao dung
là nét đẹp cao quý trong tâm hồn mỗi con người Việt Nam, dân tộc Việt Nam.
Nó được hình thành trên cơ sở tiếp nối và phát huy giá trị truyền thống đặc
sắc của dân tộc, là tinh thần đoàn kết, gắn bó cộng đồng. Những phẩm chất
cao quý khác nhau như cần cù lao động, thong minh sáng tạo, dũng cảm bất
khuất trong đấu tranh đều được nảy sinh từ nguồn gốc đó.
Đó là những giá trị đạo đức, là văn hóa sâu sắc và bền vững của các
thế hệ người Việt Nam. Thông qua giáo dục đạo đức các giá trị đó được nhân

lên mãi mãi. Vì vậy ta cần chắt lọc những mặt tích cực của Lễ giáo, Nho giáo,
đưa vào đó những nội dung mới để nó trở thành quy phạm đạo đức của cuộc
sống, làm cho mọi người lễ phép với nhau, kính trên nhường dưới, tôn trọng
kỉ cương phép nước.
Trong nhà trường nên phát huy những mặt tích cực của “Lễ”, làm cho
truyền thống “tôn sư trọng đạo” được giữ gìn phát huy, làm cho mọi hành vi
25


×