Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

Kinh nghiem giang day bai phan xa khong dieu kien vaphan xa co dieu kien TD cầm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (108.28 KB, 14 trang )

MỤC LỤC
Nội dung

Trang

PHẦN I : ĐẶT VẤN ĐỀ

1

I. Lí do chọn đề tài:

1

1.Cơ sở lí luận:

1

2. Cơ sở thực tiễn

2

3.Tính cấp thiết.

2

4. Năng lực nghiên cứu của bản thân.

2

II. Mục đích, bản chất của việc nghiên cứu.


2

III. Đối tượng nghiên cứu của đề tài.

3

IV. Phương pháp nghiên cứu.

3

V. Giới hạn về không gian của đối tượng nghiên cứu.
VI. Phạm vi và kế hoạch nghiên cứu.
PHẦN II : NỘI DUNG ĐỀ TÀI.

3
3
3

I : Cơ sở lý luận khoa học của đề tài.

3

II. Thực trạng vấn đề nghiên cứu.

4

III. Mô tả phân tích cụ thể các giải pháp.

5


IV. Giải pháp mới sáng tạo.

12

V. Kết quả khi áp dụng đề tài.

12

PHẦN III: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

13

I. Kết luận.

13

II. Kiến nghị.

14

TÀI LIỆU THAM KHẢO ĐỂ XÂY DỰNG SÁNG KIẾN

1

15


SOẠN VÀ DẠY BÀI “PHẢN XẠ KHÔNG ĐIỀU KIỆN
VÀ PHẢN XẠ CÓ ĐIỀU KIỆN” (SINH HỌC LỚP 8)
THEO PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TÍCH

I. Lí do chọn đề tài:
1.Cơ sở lí luận:
Sinh học là một trong những bộ môn khoa học, có vị trí vô cùng quan trọng.
Sinh học nghiên cứu tìm hiểu thế giới sinh vật trên trái đất. Để kế tiếp nguồn
khoa học cho thế hệ trẻ được xác lập trên cơ sở phương pháp dạy học của giáo
viên . Trong quá trình giảng dạy giáo viên phải căn cứ vào mục tiêu đào tạo thế
hệ trẻ của nhà trường xã hội chủ nghĩa. Nội dung chương trình sinh học giúp các
em tiếp thu nguồn tri thức sinh học từ đó vận dụng vào thực tiễn đời sống.
Để thực hiện tốt việc đổi mới phương pháp dạy học đối với các cấp học nói
chung, hay việc đổi mới phương pháp dạy đối với môn sinh học nói riêng, người
giáo viên phải tuân thủ theo nguyên tắc “ thầy thiết kế, trò thi công” hay nói
cách khác “thầy tổ chức trò hoạt động”. Phải làm sao cho mỗi tiết học trên lớp
trở thành 45 phút say sưa, sôi nổi, hào hứng, chứa chan niềm hi vọng và niềm tin
của những người khám phá và làm chủ tri thức. Trong tiết học đó, học sinh phải
phát huy cao độ tính tích cực vốn có của mình, được bộc lộ mọi năng lực của
bản thân và được khẳng định mình trong các hoạt động của nhóm, hoạt động tập
thể. Bằng suy nghĩ tích cực, học sinh có thể tìm tòi, khám phá các kiến thức sinh
học, rồi sử dụng chính các kiến thức đó thành công cụ suy nghĩ, tìm tòi và sáng
tạo.
Sinh học là một môn khoa học thực nghiệm , kiến thức môn sinh học được
chia thành nhiều dạng khác nhau như : khái niệm sinh học, quá trình sinh học,
quy luật sinh học…..do đó việc giảng dạy các dạng kiến thức sinh học có những
phương pháp đặc thù riêng. Trong một tiết học không chỉ có một dạng kiến thức
mà có thể tổ hợp của nhiều dạng kiến thức khác nhau, đối tượng học sinh ở các
lớp cũng có sự khác nhau. Trong chương trình sinh học lớp 8 có nhiều tiết học
nội dung kiến thức tương đối dài, khó và có nhiều dạng kiến thức. Do vậy trong
một tiết học giáo viên vừa phải đảm bảo việc truyền đạt hết nội dung kiến thức,
vừa phải đảm bảo phương pháp truyền đạt mang tích tích cực nhưng phải đạt
hiệu quả cao. Việc lựa chọn phương pháp dạy học sao cho phù hợp với kiểu bài ,
phù hợp với đối tượng học sinh và sự phối hợp nhịp nhàng các phương pháp dạy

học với nhau một cách nhuần nhuyễn là một vấn đề rất quan trọng. Đó cũng là
nghệ thuật sư phạm của người giáo viên.
Thực tế của quá trình dạy và học trong thời đại bùng nổ thông tin hiện nay
đòi hỏi người dạy nói chung và dạy môn Sinh nói riêng cần phải có những đổi
mới về mặt phương pháp dạy học sao cho phù hợp với yêu cầu lấy học sinh làm
trung tâm. Do vậy đổi mới phương pháp giảng dạy môn Sinh, đặc biệt là học
2


sinh đại trà đang là yêu cầu cấp bách và nhiệm vụ nặng nề đối với người thầy
không chỉ để thực hiện những chỉ thị mà là nhằm đáp ứng được nhu cầu chính
đáng của người học và của công tác đào tạo trong tình hình hiện nay.
2. Cơ sở thực tiễn
Việc soạn và dạy theo phương pháp giảng dạy tích cực của học sinh đại trà
nhằm phát triển, nâng cao nhận thức cho học sinh. Vì vậy đây là công việc diễn
ra thường xuyên hàng năm, là một công tác trọng tâm ở các nhà trường. Song
một khó khăn lớn đối với các nhà trường là tất cả những học sinh có năng khiếu
đều được tuyển chọn vào trường cụm, số còn lại phần nhiều là học sinh trung
bình, học sinh yếu .
Một khó khăn nữa của giáo viên đó là vấn đề tài liệu, nhất là phương pháp,
hình thức giảng dạy. Kinh nghiệm thì chưa có là bao, những chuyên đề về vấn
đề này còn quá ít.
Là một giáo viên dạy môn Sinh, tôi hết sức trăn trở trước những vấn đề nêu
trên nên bản thân tôi luôn cố gắng sưu tầm qua sách vở, học hỏi kinh nghiệm
qua các giờ giảng mẫu ở tổ chuyên môn, ở truyền hình, ở các đợt thao giảng, hội
giảng cụm và đã tự rút ra được một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng giờ
lên lớp theo hướng ''Hai tích''.
3.Tính cấp thiết.
Bản thân tôi là một giáo viên dạy môn Sinh học thường xuyên được giao
nhiệm vụ bồi dưỡng học sinh giỏi sinh học 8, 9 theo phương pháp giảng dạy tích

cực cấp THCS đặc biệt là phương pháp giảng dạy tích cực một cách hiệu quả
nhất, phát huy được niềm đam mê dạy sinh. Mặt khác cũng đáp ứng được yêu
cầu tự bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ hằng ngày của bản thân cũng như đáp
ứng được việc nâng cao chất lượng học sinh đại trà .
4. Năng lực nghiên cứu của bản thân.
Tôi tốt nghiệp trường Cao đẳng Sư phạm Phú Thọ khoa Thể dục – Sinh – Kĩ
thuật khóa 1994-1997, đã thực dạy 17 năm ở môi trường giáo dục THCS, luôn
không ngừng tự học hỏi, được Trường THCS Nhạo Sơn giao cho trách nhiệm
giảng dạy môn sinh học lớp 8 - 9 theo phương pháp giảng dạy tích cực nên tôi
có đủ tự tin để nghiên cứu đề tài này.
II. Mục đích, bản chất của việc nghiên cứu.
- Điều đó đã thôi thúc tôi đi nghiên cứu đề tài : Soạn và dạy bài “ phản xạ
không điều kiện và phản xạ có điều kiện” theo phương pháp dạy học tích cực
Công tác soạn và dạy bài : phản xạ không điều kiện và phản xạ có điều
kiện là một công tác khó khăn và phức tạp. Vì vậy, tôi nghiên cứu đề tài này với
mục đích tìm ra những giải pháp, hình thức giảng dạy nhằm đạt hiệu quả cao.
Đồng thời còn nâng cao chất lượng giảng dạy, trình độ chuyên môn nghiệp vụ
3


cho giáo viên. Làm tốt công tác này, sẽ kích thích mạnh mẽ ý thức tự giác, lòng
say mê và ý chí vươn lên trong học tập, tu dưỡng của học sinh nói chung .
III. Đối tượng nghiên cứu của đề tài.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài ở đây là Phương pháp dạy học tích cực
môn sinh học 8 THCS nói chung và phương pháp giảng dạy học sinh môn sinh
học lớp 8A, B trường THCS Nhạo Sơn nói riêng.
IV. Phương pháp nghiên cứu.
Phương pháp nghiên cứu chủ yếu là dạy học theo phương pháp dạy học tích
cực, nắm bắt tình hình thực tiễn và đúc rút kinh nghiệm thực tiễn giảng dạy, kết
quả giảng dạy hàng năm để tìm ra phương pháp chung .

V. Giới hạn về không gian của đối tượng nghiên cứu.
Không gian của đối tượng nghiên cứu là học sinh THCS nói chung, đặc
biệt là học sinh đại trà môn Sinh học khối 8 trường THCS Nhạo sơn - huyện
Sông Lô - tỉnh Vĩnh Phúc nói riêng.
VI. Phạm vi và kế hoạch nghiên cứu
Phương pháp dạy học tích cực là một việc làm cần thiết đối với tất cả các
khối lớp trong nhà trường THCS, ở đây tôi chỉ nghiên cứu trong phạm vi hẹp.
Đó là bàn về một số biện pháp, hình thức soạn và dạy học tích cực.
1. Pham vi và đối tượng nghiên cứu
- Được thực hiện trong một khối học.
- Học sinh lớp 8 trường THCS Nhạo Sơn.
2. Thời gian tiến hành:
- Tiến hành thử nghiệm trong năm học 2017- 2018 , 2018 - 2019.
PHẦN II : NỘI DUNG ĐỀ TÀI
I : Cơ sở lý luận khoa học của đề tài
- Bài “phản xạ không điều kiện và phản xạ có điều kiện” là một bài vừa dài,
lại vừa khó, kiến thức được trình bày dưới dạng kênh chữ và kênh hình.
- Mục tiêu của bài học này là học sinh phải: phân biệt được phản xạ không
điều kiện về khái niệm và tính chất, nêu được ý nghĩa của phản xạ có điều kiện
trong đời sống, trình bày được quá trình hình thành các phản xạ mới và ức chế
các phản xạ cũ, nêu được các điều kiện cần khi thành lập các phản xạ có điều
kiện.
Trong những năm qua, từ việc thăm lớp dự giờ đồng nghiệp, nhất là những
giáo vên chưa có kinh nghiệm, chưa tiếp thu được các phương pháp dạy theo
sách giáo khoa mới và phương pháp dạy học tích cực nên rất lúng túng khi dạy
bài này, do đó khi dạy bài này thường mắc phải một số hạn chế sau:
- Một bộ phận giáo viên khi lên lớp nghiên cứu bài chưa kỹ, do vậy không
hiểu hết ý đồ của người viết sách giáo khoa nên họ chưa hiểu sâu, cặn kẽ về
4



kiến thức. Từ đó việc dẫn dắt, hình thành kiến thức bài học cho học sinh đôi khi
còn thiếu tính hệ thống. Khai thác chưa đúng mức các thông tin ở kênh chữ và
kênh hình, nên bài dạy có những biểu hiện như:
+ Thiếu chặt chẽ, có tính áp đặt.
+ Dàn trải, ghi nhiều.
+ Thiếu khắc sâu kiến thức, đồng thời đi kèm với nó là thiếu sự củng cố
và mở rộng kiến thức cấn thiết cho học sinh.
+ Thiếu sự liên hệ thực tế.
- Giáo viên không đặt bài học trong mối quan hệ với bài trước nên bài học
thiếu tính hệ thống và khó hiểu.
- Việc hướng dẫn của giáo viên chưa rõ ràng, do đó học sinh chưa được định
hướng đúng khi khai thác thông tin. Mặt khác hệ thống câu hỏi dẫn dắt có khi
chưa được chọn lọc, thiếu câu hỏi gợi mở từ những câu lệnh của sách giáo khoa,
diễn đạt câu hỏi không thoát ý. Làm cho học sinh khó hiểu ít tham gia xây dựng
bài và tiết học nặng nề.
- Khâu kiểm tra đánh giá vừa ôm đồm vừa phiến diện.
- Giáo viên chưa hướng dẫn học sinh việc chuẩn bị bài ở nhà, cũng như cách
học bộ môn.
- Từ những hạn chế trên, tôi mạnh dạn đưa ra một số đề xuất sau để khắc
phục và hạn chế các tồn tại không chỉ áp dụng cho bài học này mà cả chương
trình môn sinh học cấp trung học cơ sở.
II. Thực trạng vấn đề nghiên cứu
- Để có một tiết dạy học đem lại hiệu quả cao thì giáo án là điều kiện cần
thiết. Nếu giáo án được chuẩn bị kỹ lưỡng, chu đáo trước khi lên lớp thì nhất
định cách dạy của thầy giáo sẽ chủ động, tự tin, linh hoạt và đạt chất lượng cao
hơn. Vì vậy ở từng năm học, mỗi thầy cô giáo đều phải thực hiện nghiêm túc
việc soạn giáo án theo quy định các bước lên lớp đã được phổ biến. Trong bài
soạn cần chú ý những vấn đề sau:
- Xác định mục tiêu của bài học: Mục tiêu của bài học cần cụ thể mức độ

cần đạt được đối với chuẩn kiến thức, kỹ năng và phát triển tư duy của học sinh
ở ba mức độ cụ thể là: nhận biết, thông hiểu và vận dụng.
- Xác định được những hoạt động trong quá trình dạy học.
- Lựa chọn các kiến thức cơ bản, nâng cao và cập nhật theo một cấu trúc
hợp lý không nhất thiết phải thực hiện tuần tự theo sách giáo khoa.
- Lựa chọn các phương pháp và phương tiện gắn với từng nội dung cụ thể
giúp học sinh chủ động khai thác tự chiếm lĩnh từng đơn vị kiến thức đặt ra.
- Chuẩn bị nội dung bài giảng theo hệ thống câu hỏi dưới dạng các vấn đề
mà giáo viên nêu ra. Để thiết kế câu hỏi giáo viên phải nắm bắt được mục tiêu
của bài học, ý đồ của người viết sách. Trong mỗi giáo án phải thể hiện được
5


phương pháp rõ ràng phù hợp với từng kiểu bài, từng đối tượng học sinh và làm
nổi bật được hoạt động giữa thầy và trò.
- Hướng dẫn học sinh học ở nhà , chuẩn bị bài học ở nhà.
- Đặc điểm của bài này là từ những kiến thức đã sẵn có, dưới sự tổ chức
hướng dẫn của giáo viên để học sinh tự rút ra kết luận . Do vậy để bài học thành
công thì bài học trước đó giáo viên cần hướng dẫn cho học sinh xem lại những
nội dung kiến thức có liên quan đã học để phục vụ cho bài học.
- Bài phản xạ không điều kiện và phản xạ có điều kiện là một dạng bài lí
thuyết và được chia thành 3 phần. Trong đó mỗi phần có dạng kiến thức và
nguồn cung cấp thông tin cho học sinh cũng khác nhau.
Ở phần 1 đề cập tới kiến thức khái niệm, nguồn cung cấp thông tin dưới
dạng kênh chữ. Để dạy phần này giáo viên đặt các câu hỏi gợi mở nhằm huy
động vốn kiến thức sẵn có của học sinh để hình thành khái niệm mới, cho học
sinh xác định các ví dụ để khắc sâu kiến thức về khái niệm mới được hình thành.
- Ở phần hai đề cập tới kiến thức quá trình và nguồn cung cấp thông tin là
kênh hình. Trong ba phần của bài học thì phần thứ hai là phần vừa dài lại có tính
trừu tượng cao. Do đó giáo viên cần xâu chuỗi các kiến thức tạo ra những hoạt

động chính, bao quát, tương thích với nội dung chương trình. Cuối cùng là việc
tổng kết hình thành mảng kiến thức cần thu nhận. Để làm được điều này, giáo
viên cần linh hoạt, biết phối hợp các hình thức dạy học, biết chớp thời cơ trong
quá trình học sinh tìm được kiến thức đúng. Biết lắp ghép để có mạch kiến thức
cần cho học sinh. Cần dự kiến các tình huống có thể xẩy ra trong các hoạt động,
hoạt động nào giải quyết nhanh và hoạt động nào cần cho học sinh suy nghĩ trao
đổi để có giải pháp cho kịp thời gian của tiết dạy. Giáo viên tổ chức, điều khiển
học sinh lĩnh hội từng vấn đề bằng cách: nêu vấn đề (dưới dạng những câu hỏi)
dẫn dắt học sinh đi từng kiến thức đã học để giải quyết các đơn vị kiến thức mới.
Trong quá trình giải quyết các đơn vị kiến thức mới giáo viên có thể gọi một vài
học sinh trả lời một câu hỏi và nhất thiết phải có sự nhận xét, đánh giá sau mỗi
câu trả lời của học sinh. Nếu học sinh trả lời đầy đủ giáo viên có thể nhân đó mà
đặt thêm câu hỏi khác hoặc có thể nhận xét và tóm tắt một cách ngắn gọn nội
dung trả lời. Giáo viên không nên thuyết trình dài dòng, không nên giành lấy
quyền kết luận mà để cho học sinh tự kết luận, giáo viên chỉ bổ sung hay xác
nhận.
III. Mô tả phân tích cụ thể các giải pháp
- Bài “ phản xạ không điều kiện và phản xạ có đều kiện” là bài gần cuối của
chương IX: “Thần kinh và giác quan” song lại liên quan rất mật thiết với các
bài 6, chương I; bài 47 chương IX trong chương trình Sinh học lớp 8, do đó nếu
giáo viên không chuẩn bị kỹ về kiến thức, không có phương pháp phù hợp sẽ
dẫn đến tình trạng học sinh hiểu bài một cách hời hợt, không thấy được bản chất,
cơ sở khoa học của phản xạ không điều kiện và phản xạ có điều kiện . Mục tiêu
6


của bài này là : Sau khi học xong, học sinh hiểu và trình bày được khái niệm
phản xạ không điều kiện và phản xạ có điều kiện. Trình bày quá trình hình thành
các phản xạ mới và kìm hãm phản xạ cũ. Nêu rõ các điều kiện cần khi thành lập
các phản xạ có điều kiện, phân biệt được phản xạ không điều kiện và phản xạ có

điều kiện và mối liên quan giữa hai loại phản xạ này.
Trước khi vào bài mới, giáo viên dành khoảng 5 phút để kiểm tra kiến thức cũ
và giới thiệu chương.
Hỏi: Em hãy nhắc lại phản xạ là gì? Cung phản xạ là gì?
Giáo viên tóm tắt nhấn mạnh về đường đi của luồng xung thần kinh trong một
phản xạ , vai trò của cơ quan thụ cảm và trung ương thần kinh trong phản xạ và
chuyển tiếp: “Phản xạ sẽ có những loại nào? Chúng được hình thành như thế
nào? Hôm nay chúng ta nghiên cứu bài:
Bài 52:
PHẢN XẠ KHÔNG ĐIỀU KIỆN VÀ PHẢN XẠ CÓ ĐIỀU KIỆN
Hoạt động 1: Hình thành khái niệm phản xạ không điều kiện và phản xạ có
điều kiện.
I-PHÂN BIỆT PHẢN XẠ CÓ ĐIỀU KIỆN VÀ PHẢN XẠ KHÔNG ĐIỀU
KIỆN:
- Thông thường ở phần này giáo viên yêu cầu học sinh nghiên cứu thông tin
sách giao khoa phần I hoạt động nhóm để hoàn thành bảng 52-1. “Các phản xạ
không điều kiện và phản xạ có điều kiện” để từ đó làm cơ sở để học sinh rút ra
khái niệm về phản xạ không điều kiện và phản xạ có điều kiện.
-Như vậy ở đây chúng ta thấy một sự nghịch lí là học sinh chưa hề có kiến
thức về phản xạ không điều kiện, cũng như phản xạ có điều kiện thì học sinh lấy
cơ sơ nào để xác định trong các ví dụ về phản xạ ở bảng 52-1 thì ví dụ nào
thuộc phản xạ không điều kiện, ví dụ nào thuộc phản xạ có điều kiện. Mặt khác
con đường để hình thành khái niệm sinh học cho học sinh với cách dạy như trên
là chưa đúng với phương pháp dạy khái niệm sinh học. Để hình thành được một
khái niệm sinh học phải trải qua 5 bước cơ bản sau:
+ Bước 1: Xác định nhiệm vụ nhận thức
+ Bước 2: Quan sát vật thật, vật tượng hình
.+ Bước 3: Phân tích dấu hiệu chung và bản chất của khái niệm
+ Bước 4 : Định nghĩa khái niệm
+ Bước 5: Đưa khái niệm vào hệ thống khái niệm đã học

Tuy nhiên với dạng khái niệm trên thì ta chỉ cần thực hiện bước 2 ,bước 3 và
bước 4.
7


- Mặt khác mục đích của việc xác định các ví dụ trong bảng 52-1 là để học
sinh khắc sâu kiến thức về hai loại phản xạ này.
Từ những tồn tại trên, tôi đã đầu tư suy nghĩ xây dựng cách dạy phần này như
sau:
- Giáo viên yêu cầu học sinh nêu một số ví dụ về phản xạ, thường thì học sinh
chỉ nêu được các phản xạ không điều kiện còn phản xạ có điều kiện học sinh ít
nêu do đó giáo viên nên gợi ý để học sinh nêu ví dụ như: khi có ai ở phía sau gọi
đúng tên mình thì lúc đó ta có phản xạ gì hoặc khi thầy, cô giáo vào lớp thì học
sinh có phản xạ gì, khi thầy giáo yêu cầu xác định phép tính: 1 + 1 thì ta sẽ được
kết quả như thế nào và ghi các phản xạ đó trên bảng theo 2 nhóm, mỗi nhóm sẽ
ghi khoảng 3 hoặc 4 phản xạ. Nhóm thứ nhất là các phản xạ không điều kiện và
nhóm thứ 2 là phản xạ có điều kiện.
Hỏi: Các phản xạ trong nhóm 1 có điểm gì giống nhau ? Các phản xạ thuộc
nhóm 2 có điểm gì giống nhau?
( Các phản xạ trong nhóm 1 giống nhau là sinh ra đã có, không cần phải học tập.
Các phản xạ trong nhóm 2 giống nhau là được hình thành trong đời sống cá thể,
là kết quả của quá trình học tập và rèn luyện)
Giáo viên giới thiệu các phản xạ trong nhóm 1 là các phản xạ không điều kiện
còn các phản xạ trong nhóm 2 là các phản xạ có điều kiện.
Hỏi: phản xạ không điều kiện là gì? phản xạ có điều kiện là gì?
(Phản xạ không điều kiện là những phản xạ sinh ra đã có, không cần phải học
tập. Phản xạ có điều kiện là những phản xạ được hình thành trong đời sống các
thể, là kết quả của quá trình học tập, rèn luyện)
Giáo viên vừa hỏi vừa ghi khái niệm lên bảng và phát phiếu học tập cho học
sinh làm bài tập 52-1 để khắc sâu kiến thức về phản xạ.

Hỏi: Theo em phản xạ tiết nước bọt khi ăn mơ và phản xạ tiết nước bọt khi
nghe hoặc nhìn thấy quả mơ khác nhau ở điểm nào?
Với cách dạy như trên sẽ phát huy được tính cực của học sinh trong việc tìm ra
kiến thức mới, khắc sâu được khái niệm về phản xạ và đồng thời học sinh dễ
dàng nhận biết và lấy được các ví dụ về phản xạ
Giáo viên chuyển mục 2 bằng cách đặt vấn đề: Vậy phản xạ có điều kiện
được hình thành như thế nào ? muốn thành lập phản xạ có điều kiện cần có
điều kiện gì?
Hoạt động 2: Tìm hiểu sự hình thành phản xạ có điều kiện
II-SỰ HÌNH THÀNH PHẢN XẠ CÓ ĐIỀU KIỆN.
Mục này trong SGK chia thành 2 phần nhỏ. Phần 1 hình thành phản xạ có
điều kiện, phần 2 ức chế phản xạ có điều kiện.
1. Hình thành phản xạ có điều kiện .
8


Ở phần 1 kiến thức của bài chứa đựng trong kênh hình từ hình 52-1→52-3
do đó khi dạy thì giáo viên sẽ khai thác kênh hình trên để hình thành kiến thức
cho học sinh. Đa số giáo viên, đặc biệt là giáo viên mới ra trường còn rất lúng
túng chưa biết nên khai thác kiến thức như thế nào từ những hình trên. Ở phần
này giáo viên giới thiệu cho học sinh là: để hiểu rõ quá trình thành lập phản xạ
có điều kiện diễn ra như thế nào thì chúng ta đi tìm hiểu thí nghiệm của Paplop
về phản xạ tiết nước bọt với ánh đèn, sau đó giáo viên giới thiệu về thí nghiệm
của Paplop trên tranh tranh và dạy theo gợi ý với hệ thống câu hỏi sau:
Hỏi: Khi cho chó ăn vùng nào bị hưng phấn? Đây là phản xạ không điều
kiện hay có điều kiện?
Hỏi: Khi bật đèn thì trung khu nào bị kích thích? Đây là phản xạ không điều
kiện hay có điều kiện?
Hỏi: Phản xạ tiết nước bọt với ánh đèn là phản không điều kiện hay có điều
kiện?

Hỏi: Bản chất của phản xạ có điều kiện là gì?
Hỏi: Để thành lập phản xạ có điều kiện cần trải qua những bước nào?
Với cách dạy như trên thì giáo viên chưa khai thác hết hệ thống kênh hình
trong sách giáo khoa , việc khai thác kiến thức từ hệ thống kênh hình còn vụn
vặt chưa có hệ thống do đó học sinh chưa thể trả lời được câu hỏi 3 và 4, cũng
như chưa hiểu rõ được thực chất của quá trình thành lập phản xạ có điều kiện là
gì.
- Cách dạy mới:
Để học sinh hiểu được thực chất của quá trình thành lập các phản xạ có điều
kiện là gì. Ở mục này chúng tôi sẽ giới thiệu lần lượt từng bước trong quá trình
thành lập phản xạ có điều kiện của Paplop trên tranh và tương ứng với mỗi hình
sẽ đặt câu hỏi định hướng :
+Hình 52-1 giới thiệu các yếu tố như ánh đèn, đường đi của luồng xung
thần kinh trong phản xạ và đặt câu hỏi như sau:
Hỏi: Khi bật đèn không cho chó ăn ở chó xẩy ra phản xạ gì? Phản xạ này
thuộc loại không điều kiện hay có điều kiện? Hãy mô tả luồng xung thần
kinh trong phản xạ ?
(Ở chó xẩy ra phản xạ định hướng với ánh đèn, đây là phản xạ không điều
kiện, khi ánh sáng tác động vào cơ quan thụ cảm của mắt xuất hiện xung thần
kinh truyền về vùng thị giác thuỳ chẩm làm vùng này bị hưng phấn, từ đây sẽ có
luồng xung thần kinh đi tới cơ cổ và làm co cơ này)
+Hình 52-2 giới thiệu các yếu tố như: Thức ăn, đường đi của luồng xung
thần kinh trong phản và đặt câu hỏi như sau:
Hỏi: Khi cho chó ăn ở chó xẩy ra phản xạ gì? Phản xạ này thuộc loại không
điều kiện hay có điều kiện? Hãy mô tả luồng xung thần kinh trong phản xạ ?
9


(Ở chó xẩy ra phản xạ tiết nước bọt với thức ăn, đây là phản xạ không điều
kiện, khi thức ăn tác động vào cơ quan thụ cảm của lưỡi xuất hiện xung thần

kinh truyền về trung khu tiết nước bọt ở hành não, từ đây sẽ xuất hiện luồng
xung thần kinh truyền lên vùng ăn uống ở vỏ não làm vùng này bị hưng phấn và
luồng xung thần kinh truyền xuống tuyến nước bọt gây ra tiết nước bọt )
+Hình 52-3A đặt câu hỏi như sau:
Hỏi: Khi bật đèn và đồng thời cho chó ăn thì trên vỏ não chó sẽ có những
vùng nào bị hưng phấn ? Nếu cứ bật đèn rồi lại cho chó ăn nhiều lần trên vỏ
não sẽ hình thành nên yếu tố nào?
(Trên vỏ não có hai vùng bị hưng phấn là vùng thị giác và vùng ăn uống, nếu
hiện tượng hưng phấn cứ diễn ra liên tục thì sẽ hình thành nên đường liên hệ tạm
thời nối hai vùng đó với nhau)
Giáo viên liên hệ thực tế : Có hai nhà cách nhau một vùng đất hoang có
nhiều cây cối nếu chúng ta thường xuyên đi lại giữa hai nhà thì lâu ngày trên
vùng đất đó sẽ hình thành con đường nối hai nhà với nhau.
+Hình 52-3B đặt câu hỏi như sau:
Hỏi: Khi đường liên hệ thần kinh tạm thời đã hình thành bật đèn và không
cho chó ăn thì ở chó hình thành phản xạ gì ? Đây là phản xạ không điều kiện
hay có điều kiện?
Hỏi: Phản có điều kiện được hình thành khi nào? Nhờ vào đâu?
Giáo viên nhận xét câu trả lời và nhấn mạnh đây chính là bản chất của phản
xạ có điều kiện và ghi bảng theo sơ đồ sau:
Bản chất của phản xạ có điều kiện : quá trình học tập và rèn luyện→ Hình
thành đường liên hệ thần kinh tạm thời nối các vùng vỏ não với nhau→ Phản xạ
có điều kiện mới được thành lập
Giáo viên nêu thêm trong thí nghiệm về sự thành lập phản xạ có điều kiện tiết
nước bọt với ánh đèn thì thức ăn là kích thích không điều kiện còn ánh đèn là
kích thích có điều kiện.
Hỏi: Để thành lập được phản xạ tiết nước bọt với ánh đèn thì cần có điều
kiện gì?
Hỏi: Để thành lập một phản xạ có điều kiện cần trải qua những bước nào?
(Cần lần lượt thực hiện ba bước sau: Xác định phản xạ muốn thành lập, tìm

một kích thích tự nhiên có hiệu quả cao đối với phản xạ ta muốn dạy, kết hợp
nhiều lần hai loại kích thích trên)
Giáo viên nhận xét câu trả lời và nhấn mạnh đây cũng chính là các điều kiện
để thành lập một phản xạ có điều kiện đồng thời ghi bảng các điều kiện.
Giáo viên liên hệ thực tế về việc thành lập các phản xạ có điều kiện ở động
vật và ở người bằng các ví dụ về xiếc thú. Nhấn mạnh số lần kết hợp giữa 2 loại
kích thích càng nhiều hoặc tăng sức mạnh của kích thích không điều kiện thì
phản xạ có điều kiện càng chóng hình thành và bền vững. Trong giáo dục, nếu
10


dạy thật hấp dẫn những kiến thức thật hay, thì học sẽ dễ thuộc, nhớ lâu. Đó cũng
là cơ sở của câu: “trăm hay không bằng tay quen”.
GV chuyển ý sang mục tiếp theo. Bên cạnh quá trình thành lập phản xạ có
điều kiện sẽ có 1 quá trình luôn tồn tại song song vậy quá trình này là gì?
2. Ức chế phản xạ có điều kiện.
Giáo viên yêu cầu học sinh nghiên cứu thông tin để trả lời câu hỏi sau:
Hỏi: Sau khi phản xạ tiết nước bọt với ánh đèn được thành lập nếu chỉ bật
đèn mà không cho chó ăn thì sau một thời gian sẽ xẩy ra hiện tượng gì? Vì
sao?
(Chó ngừng tiết nước bọt do không được củng cố nên đường liên hệ tạm
thời mất dần)
Giáo viên thông báo cho học sinh hiện tượng này là ức chế phản xạ có điều
kiện dạng tắt dần ngoài ra còn có dạng ức chế dập tắt và lấy ví dụ minh họa cho
dạng ức chế này.
Giáo viên kết luận và ghi bảng sau đó liên hệ thêm: trong học tập nếu
chúng ta đã thuộc bài nhưng sau này mà không xem lại thì sẽ quên. Đây là cơ sở
của câu “văn ôn võ luyện”.
Giáo viên yêu cầu học sinh trình bày quá trình thành lập một phản xạ có
điều kiện cũ và ức chế phản xạ có điều kiện đã thành lập để thành lập một phản

xạ mới ở người qua một ví dụ tự chọn.
Hỏi: Sự thành lập và ức chế phản xạ có điều kiện có ý nghĩ gì?
Giáo viên nhấn mạnh đây chính là cơ sở để loại bỏ các thói hư tật xấu như
nghiện ma tuý, cờ bạc, trò chơi điện tử để hình thành phản xạ tốt hơn.
Với cách dạy như trên thì học sinh dễ dàng nhận thấy bản chất của phản xạ
có điều kiện là gì, cũng như dễ dàng lấy được các ví dụ về quá trình thành lập
phản xạ có điều kiện.
Giáo viên chuyển mục 3 bằng cách đặt vấn đề: Vậy phản xạ có điều kiện
và phản xạ không điều kiện chúng khác nhau ở điểm nào và có mối quan hệ
gì?
Hoạt động 3: Phân biệt các tính chất của phản xạ không điều kiện với phản
xạ có điều kiện.
III.SO SÁNH CÁC TÍNH CHẤT CỦA PHẢN XẠ KHÔNG ĐIỀU KIỆN VỚI
XẠ CÓ ĐIỀU KIỆN.
Giáo viên yêu cầu học sinh dựa vào phân tích các ví dụ ở mục I và những
hiểu biết qua ví dụ trình bày ở mục II hoạt động nhóm hoàn thành bảng 52-2.
Sau 3 phút giáo viên gọi đại diện của từng nhóm điền kết quả vào bảng phụ,
yêu cầu nhóm khác nhận xét bổ sung và giáo viên nhận xét bổ sung hoàn thành
bảng.

11


Hỏi: Để thành lập phản xạ có điều kiện tiết nước bọt với ánh đèn ở chó cần
phải có phản xạ không điều kiện nào trước?
Giáo viên nhận xét và bổ sung.
Hỏi: Phản xạ không điều kiện và phản xạ có điều kiện có mối quan hệ với
nhau như thế nào?
Giáo viên nhận xét và ghi bảng:
Phản xạ không điều kiện là cơ sở để thành lập phản xạ có điều kiện.

Để củng cố bài, giáo viên dùng bảng phụ với nội dung bao quát các kiến thức
cơ bản của bài học như sau:
Câu 1: Hãy đánh dấu (x) vào ô tương ứng với nội dung tương ứng trong bảng
sau:
Phản xạ
Phản xạ
Các ví dụ
không điều
có điều
kiện
kiện
1. Khi trời lạnh, nổi da gà
2. Nhắm mắt lại khi bị ánh sáng mạnh bắt ngờ
chiếu vào mắt
3. Ngửi thấy mùi thơm của thức ăn, tiết nước bọt
4. Rơi nước mắt khi nghe câu chuyện cảm động
5. Chảy nước mắt khi bóc hành khô
Câu 2: Tính chất của phản xạ có điều kiện:
1. Trả lời kích thích có điều kiện
2. Được hình thành trong cuộc sống
3. Không bền vững
4. Mang tính cá thể
5. Có đường liên hệ tạm thời
6. Cung phản xạ đơn giản
7. Số lượng hạn định
8. Trung ương thần kinh ở trụ não
9. Trung ương thần kinh ở đại não
Tổ hợp đúng là:
a) 1, 2, 3, 4, 5, 7, 8.
c) 1, 2, 3, 4, 6, 7, 8.


b) 1, 2, 3, 4, 5, 7, 9.
d) 1, 2, 3, 4, 6, 7, 9.

Câu3: Hãy chọn đúng(Đ), sai(S) trong các nội dung sau:
Đúng
Nội dung
1 Phản xạ không điều kiện không bền vững.
2 Sự hình thành phản xạ có điều kiện phải có đường liên hệ
12

Sai


tạm thời.
3 Phản xạ không điều kiện và phản xạ có điều kiện có liên
quan chặt chẽ với nhau
4 Nếu không được củng cố, phản xạ có điều kiện sẽ mất do
ức chế tắt dần.
5 Phản xạ có điều kiện dễ thay đổi, tạo điều kiện cho cơ thể
thích nghi với điều kiện sống mới.
Câu 4: Hãy chọn câu trả lời đúng.
Những điều kiện nào không đúng với sự hình thành phản xạ có điều kiện
a) Phải có sự kết hợp giữa kích thích có điều kiện với kích thích không điều
kiện
b) Kích thích có điều kiện phải được tác động trước
c) Kích thích có điều kiện phải được tác động sau
d) Quá trình kết hợp phải lặp đi lặp lại nhiều lần, thường xuyên đổi mới
IV. Giải pháp mới sáng tạo
Như đã nói ở trên, khó khăn lớn nhất của các giáo viên dạy theo phương pháp

dạy học tích là tài liệu, sách tham khảo còn quá nghèo nàn, vì vậy mà các giáo
viên phải mày mò sáng tạo ra những phương pháp cho phù hợp với từng bộ
môn. Qua nghiên cứu, tìm tòi sáng tạo, kết hợp với một số anh chị em đồng
nghiệp, tôi mạnh dạn đưa ra những hình thức, giải pháp dạy học tích cực mới,
sáng tạo sau:
- Tổ chức kiểm tra năng lực, năng khiếu của học sinh.
- Kiểm tra khả năng nắm kiến thức cơ bản của học sinh.
- Hướng dẫn học sinh phương pháp, kỹ năng quan sat trên kênh hình,
kênh chữ.
- Xây dựng hệ thống câu hỏi, bài tập để rèn luyện kỹ năng tư duy.
- Thảo luận trao đổi, giải đáp thắc mắc.
V. Kết quả khi áp dụng đề tài
Để kiểm tra tính thực tiễn của đề tài qua 2 năm thực hiện, tôi đã thu được kết
quả so với khi chưa áp dụng đề tài như sau:
Chưa áp dụng chuyên
đề
Tỷ lệ
Sĩ số 28 SL
(%)

Áp dụng chuyên đề
Năm 2017-2018
Năm 2018-2019
Tỷ lệ
Sĩ số 26
Tỷ lệ
Sĩ số 28
SL
SL
(%)

(%)
13


Giỏi
Khá
Trung bình
Yếu

2
6
16
4

7.1
21,5
57.1
14,3

Giỏi
Khá
Trung bình
Yếu

5
8
14
1

17,7

28,6
50,0
3,6

Giỏi
Khá
Trung bình
Yếu

4
7
14
1

15.4
26.9
53.9
3,8

Như vậy với suy nghĩ, cố gắng ban đầu tôi thấy rằng khi tập trung đầu tư
công sức, kiến thức theo phương pháp tích cực vào bài dạy, học sinh tiếp thu bài
một cách tích cực không thụ động và hứng thú hơn. Chính sự ham học của học
sinh lại là động lực thúc đẩy giáo viên cần phải đổi mới tư duy, phương pháp
dạy học phù hợp với SGK mới. Mỗi giờ học mà các em đạt kết quả cao đã thể
hiện được phần nào tâm huyết của người dạy.
Sau khi sử dụng phương pháp, nguyên tắc này trong giảng dạy, ở trường
THCS Nhạo Sơn, việc giảng dạy bộ môn gặp nhiều thuận lợi hơn, học sinh có
hứng thú học tập hơn đối với bộ môn.
Khi giảng dạy theo phương pháp này, cường độ dạy - học ngày một nâng
cao, sử dụng tốt quỹ thời gian, học sinh ham học hỏi hơn, và có xu hướng tìm

hiểu, thông tin về kiến thức có liên quan đến bộ môn.
Nhạo Sơn, ngày 28 tháng 11 năm 2018
Người viết

Bùi Thị Mỹ Cầm

14



×