Tải bản đầy đủ (.docx) (105 trang)

luận văn HIỆP ĐỊNH THƯƠNG MẠI TỰ DO VIỆT NAM – LIÊN MINH KINH TẾ Á ÂU: CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC CỦA XUẤT KHẨU NÔNG SẢN VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (519.54 KB, 105 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
-------------- -------------

LUẬN VĂN THẠC SĨ

HIỆP ĐỊNH THƯƠNG MẠI TỰ DO VIỆT NAM –
LIÊN MINH KINH TẾ Á ÂU: CƠ HỘI VÀ THÁCH
THỨC CỦA XUẤT KHẨU NÔNG SẢN VIỆT NAM

Chuyên ngành: Kinh tế quốc tế

LÊ THỊ THU NHÀN

Hà Nội - Năm 2017

1


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
-------------- -------------

LUẬN VĂN THẠC SĨ

HIỆP ĐỊNH THƯƠNG MẠI TỰ DO VIỆT NAM –
LIÊN MINH KINH TẾ Á ÂU: CƠ HỘI VÀ THÁCH
THỨC CỦA XUẤT KHẨU NÔNG SẢN VIỆT NAM
Ngành: Kinh tế học
Chuyên ngành: Kinh tế quốc tế
Mã số: 60310106



Học viên: LÊ THỊ THU NHÀN
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS NGUYỄN VĂN HỒNG

2


Hà Nội - Năm 2017

3


MỤC LỤC

4


LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi. Tôi xin cam đoan rằng số
liệu và kết quả nghiên cứu trong luận này là trung thực và không trùng lặp với các
đề tài khác. Tôi cũng xin cam đoan rằng mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn
này đã được cảm ơn và các thông tin trích dẫn trong luận văn đã được ghi rõ nguồn
gốc. Kết luận khoa học trong luận văn là kết quả quá trình nghiên cứu khoa học
nghiêm túc của tôi, trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình
nào khác.

Hà Nội, Ngày …… tháng …… năm 2017
Tác giả luận văn

Lê Thị Thu Nhàn



LỜI CẢM ƠN
Trước hết, tôi xin gửi lời cảm ơn tới Ban giám hiệu Trường Đại học Ngoại
Thương, Quý thầy cô Khoa sau đại học cũng toàn thể các thầy cô trong trường đã
tạo điều kiện cho tôi học tập, nghiên cứu và hoàn thành khóa học cũng như bài
Luận văn tốtnghiệp.
Đồng thời, Tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến PGS.TS Nguyễn Văn Hồng,
người đã dành nhiều thời gian và tâm huyết hướng dẫn, giúp đỡ, góp ý tận tình cho
tôi trong quá trình thực hiện luận văn này.

Hà Nội, ngày … tháng … năm 2017

Tác giả luận văn

Lê Thị Thu Nhàn


TÓM TẮT KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU LUẬN VĂN
Luận văn nghiên cứu đề tài: “Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam – Liên
minh Kinh tế Á Âu: Cơ hội và thách thức của xuất khẩu nông sản Việt Nam” với ba
nội dung chính
Trước tiên, Ở chương 1, bài luận văn giới thiệu tổng quan về Liên minh kinh
tế Á Âu và trình bày nội dung cơ bản của Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam –
Liên minh Kinh tế Á Âu và các cam kết về thuế quan mà hai bên sẽ áp dụng trong
thời gian Hiệp định có hiệu lực với tổng cộng trên 11.360 dòng thuế được đàm
phán. Cũng trong chương này, tác giả sẽ đưa ra những thông tin tổng quan về tình
hình kinh tế thị trường các nước thành viên Liên minh Kinh tế Á Âu trong một vài
năm trở lại đây. Từ đó, tác giả có cơ sở để đánh giá những tiềm năng đối với hoạt
động xuất khẩu nông sản của Việt Nam sang thị trường các nước này.

Tiếp theo trong chương 2, bài luận văn phân tích thực trạng hoạt động xuất
khẩu nông sản của Việt Nam nói chung và thực trạng hoạt động xuất khẩu nông sản
sang thị trường Liên minh Kinh tế Á Âu nói riêng trong giai đoạn 2012 – 2015.
Trên thực tế, thị trường các nước thành viên Liên minh Kinh tế Á Âu là những thị
trường truyền thống đối với hoạt động xuất khẩu của Việt Nam và đây cũng là một
thị trường tiêu thụ rất lớn, đặc biệt đối với các mặt hàng nông sản. Tuy nhiên, trong
những năm vừa qua, xuất khẩu nông sản của Việt Nam vẫn chưa phát huy hết tiềm
lực để khai thác tối đa thị trường tiềm năng này. Từ đó, tác giả chỉ ra những điểm
mạnh, điểm yếu đối với hoạt động xuất khẩu nông sản của Việt Nam và đánh giá
những cơ hội, thách thức mà Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam – Liên minh
kinh tế Á Âu đem lại cho xuất khẩu nông sản của Việt Nam trong thời gian tới.
Dựa vào kết quả nghiên cứu chương 1 và chương 2, ở phần cuối cùng, bài viết
tổng hợp các định hướng giải pháp nhằm hạn chế những khó khăn mà hoạt động
xuất khẩu nông sản Việt Nam đang gặp phải, đồng thời tận dụng được tối đa cơ hội
mà Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam – Liên minh Kinh tế Á Âu mang lại cho
hoạt động này. Từ đó, tác giả đề xuất hai nhóm giải pháp đó là: Nhóm giải pháp từ
phía cơ quan Nhà nước và Nhóm giải pháp từ phía các doanh nghiệp sản xuất và


xuất khẩu nông sản. Theo đó, vấn đề cấp bách cần cả Nhà nước lẫn các doanh
nghiệp cần giải quyết kịp thời và trước mắt đó là nâng cao nhận thức về các nội
dung của Hiệp định và đẩy mạnh kế hoạch thâm nhập thị trường các nước thành
viên để có thể tận dụng được tối đa cơ hội mà Hiệp định này mang lại đối với hoạt
động xuất khẩu nông sản trong thời gian tới.


DANH MỤC TỪ NGỮ VIẾT TẮT
I.
1.
II.

1.
2.
3.
4.
5.
6.
7.
8.
9.
10.
11.
12.
13.
14.
15.
16.
17.
18.
19.
20.

Tiếng việt
XNK: Xuất nhập khẩu
Tiếng anh
ASEAN: Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á
C/O: Giấy chứng nhận xuất xứ
D/P: Nhờ thu kèm chứng từ
EAEC: Cộng đồng Kinh tế Á Âu
EAEU: Liên minh Kinh tế Á Âu
EOCVS: Hệ thống xác minh và chứng nhận xuất xứ điện tử

EIF: Thuế quan ngay khi Hiệp định có hiệu lực
EU: Liên minh Châu Âu
FTA:Hiệp định Thương mại tự do
GAP: Tiêu chuẩn thực hành nông nghiệp tốt
GDP: Tổng sản phẩm quốc nội
SNG: Cộng đồng các quốc gia độc lập (thuộc Liên Xô cũ)
SPS: Các biện pháp kiểm dịch động thực vật
SWOT: Phương pháp phân tích các điểm Mạnh, điểm Yếu, Cơ hội và Thách thức
TBT: Hàng rào kỹ thuật trong thương mại
TFP: Yếu tố năng suất tổng hợp
TPP: Hiệp định Đối tác Kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình Dương
T/T: Chuyển tiền bằng điện
VAC: Hàm lượng Giá trị gia tăng
VCUFTA: Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh Hải quan NgaBelarus-Kazakhstan

21. WTO: Tổ chức thương mại Thế giới


DANH MỤC BẢNG, BIỂU ĐỒ


LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài

Trong bối cảnh xu thế hợp tác song phương trên thế giới và trong khu vực diễn
ra ngày càng mạnh mẽ, ngày 05/10/2016 vừa rồi, Hiệp định Thương mại tự do Việt
Nam - Liên minh kinh tế Á Âu (EAEU) đã chính thức có hiệu lực. Hiệp định này
hứa hẹn sẽ mang lại nhiều cơ hội trong quan hệ hợp tác kinh tế, kim ngạch xuất
khẩu hai chiều và giao lưu văn hóa giữa Việt Nam và các quốc gia thành viên nói
riêng.

Việt Nam là một nước nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa với dân số
chủ yếu tham gia vào hoạt động sản xuất nông nghiệp, với diện tích 330,363 km2,
tiềm năng đất nông nghiệp của nước ta là 10 – 11.16 triệu ha với 8 triệu ha cây
trồng hàng năm (đất trồng lúa khoảng 5.4 triệu ha, 2.3 triệu ha trồng cây lâu năm)
hiện nay nước ta mới chỉ sử dụng 65% quỹ đất nông nghiệp. Chưa kể đến những lợi
thế về mặt khí hậu, nguồn nhân lực trẻ…, Đảng và Chính phủ còn đưa ra những
chính sách, chủ trương cụ thể để tạo động lực phát triển mạnh mẽ cho ngành sản
xuất nông nghiệp trong từng thời kỳ và vẫn luôn xác định nông sản là những mặt
hàng xuất khẩu chiến lược. Sau hơn 20 năm thực hiện theo đường lối đổi mới,
ngành nông nghiệp nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, hoạt động xuất
khẩu hàng nông sản nói riêng đã có những chuyển biến lớn với tốc độ tăng trưởng
khá nhanh và ổn định, đặc biệt là ở các mặt hàng Gạo, cà phê, cao su.
-

Đối với mặt hàng gạo, mặc dù năm 2016 xuất khẩu gạo của Việt Nam đã có những
dấu hiệu sụt giảm đáng kể về mặt số lượng, tuy nhiên, Việt Nam vẫn đứng vị trí thứ
3 trên thế giới về số lượng xuất khẩu, chỉ đứng sau Thái Lan và Ấn Độ và con số
này vẫn tăng trưởng đều ở một số thị trường lớn như Indonexia, Ghana;

-

Cà Phê Việt Nam hiện nay đang vượt Indonexia về số lượng xuất khẩu, vươn lên
đứng vị trí số 2 trong số các nước xuất khẩu, chỉ đứng sau Brazil;

-

Cao su cũng đứng vào danh sách 10 nước xuất khẩu hàng đầu của thế giới.

11



Cùng với sự tăng lên về số lượng, chất lượng hàng xuất khẩu ngày càng được
cải thiện đáng kể do chịu sự tác động lớn của tình hình cung, cầu hàng nông sản
trên thị trường thếgiới.
Hiện nay nông sản của Việt Nam đã có mặt tại rất nhiều thị trường trên Thế
giới và một trong những thị trường xuất khẩu truyền thống đối với mặt hàng nông
sản của nước ta từ trước đến nay là Nga và các quốc gia thuộc Liên Xô cũ (Belarus,
Kazakhstan…). Đặc biệt, việc Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam – Liên minh
Kinh tế Á Âu chính thức có hiệu lực vào ngày 05/10/2016 vừa qua sẽ mở rất nhiều
cơ hội cho xuất khẩu Việt Nam nói chung và đối với các mặt hàng nông sản của
Việt Nam nói riêng vào thị trường các nước thành viên. Nổi bật trong số đó là thị
trường Liên bang Nga, Nga là một thị trường có sức tiêu thụ nông sản (Gạo, Cà phê,
Chè …) rất tốt, kim ngạch xuất khẩu nông sản hàng năm của Việt Nam sang Nga và
các nước SNG lên đến 60-90 triệu USD. Tuy nhiên, Theo ông Sitnikov A.T - Đại
diện thương mại Nga tại Việt Nam, mặc dù nhu cầu của Nga là rất lớn nhưng Việt
Nam mới chỉ đáp ứng được rất ít, trong khi nông sản Việt Nam lại chưa phát huy
được hết tiềm năng. Chính vì thế, kỳ vọng về những lợi ích mà Hiệp định Việt Nam
- Liên minh kinh tế Á Âu mang đến được đặt vào hoạt động xuất khẩu nông sản là
rất lớn, đặc biệt là sang thị trường các nước thành viên của Liên minh kinh tế Á Âu
– Một thị trường vô cùng tiềm năng đối với hoạt động xuất khẩu nông sản của Việt
Nam.
Tuy nhiên, khi mà Hiệp định Việt Nam - Liên minh kinh tế Á Âu vừa mới
chính thức có hiệu lực kể từ tháng 10/2016, nhận biết của doanh nghiệp về cơ hội
cũng như thách thức mà Hiệp định này mang lại chắc hẳn là chưa được toàn diện và
đầy đủ. Trong quá trình thực hiện, cả nhà nước và các doanh nghiệp có thể gặp phải
không ít những thiếu xót, sai lầm, dẫn đến những hậu quả không đáng có.
Vậy câu hỏi đặt ra là “Những thách thức và cơ hội mà Hiệp định này mang lại
cho hoạt động xuất khẩu nông sản của Việt Nam sang các nước thành viên của Hiệp
định là gì?”. Bài luận văn “Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam- Liên minh kinh
tế Á Âu: Cơ hội và thách thức của xuất khẩu nông sản Việt Nam” hy vọng sẽ góp

phần đánh giá được một cách toàn diện về những ảnh hưởng hai mặt của hiệp định

12


đối với hoạt động xuất khẩu nông sản của Việt Nam, đồng thời đưa ra những kiến
nghị giải pháp để tối đa hóa cơ hội, giảm thiểu hóa thách thức đó.
2. Tình hình nghiên cứu

Một số nghiên cứu liên quan đến Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam –
Liên minh Kinh tế Á Âu và tác động của những hiệp định tới hoạt động xuất khẩu
của Việt Nam:
Nghiên cứu của Vụ Thị trường Châu Âu – Bộ Công thương (2015) với chủ đề
“Thị trường các nước thành viên Liên minh Kinh tế Á – Âu và cơ hội đẩy mạnh
xuất khẩu thông qua FTA Việt Nam - Liên minh Kinh tế Á – Âu” đã phân tích rất cụ
thể tình hình Kinh tế - Chính trị - Xã hội của các nước thành viên Liên minh Kinh tế
Á Âu. Bài viết đã chỉ ra được những khó khăn trong việc tiếp cận thị trường chiếm
tỷ trọng lớn nhất là Liên bang Nga như Các rào cản kỹ thuật, thuế suất cao, chi phí
vận chuyển lớn … và cơ hội đối với hoạt động xuất khẩu thông qua Hiệp định
Thương mại tự do Việt Nam – EAEU mà Việt Nam được hưởng.
Nghiên cứu của ThS Thái Kiên Quyết và Nguyễn Thị Minh Tâm (2016) với
chủ đề “Phát triển quan hệ thương mại với các nước trong Liên minh kinh tế Á - Âu
trong bối cảnh thực hiện FTA Việt Nam - Linh minh kinh tế Á – Âu” tập trung
nghiên cứu về thị trường các nước thành viên Liên minh Kinh tế Á Âu và phân tích
thực trang mối quan hệ thương mại giữa Việt Nam và các nước thành viên của Liên
minh. Bài viết đã chỉ ra được mối quan hệ truyền thống tốt đẹp giữa Việt Nam với
Liên bang Nga và các nước thành viên còn lại của Liên minh kinh tế Á Âu. Theo
nhận đính của tác giả, thị trường các nước thành viên EAEU là một thị trường tiêu
thụ rất tiềm năng, đặc biệt, khi Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam – EAEU
chính thức có hiệu lực và Việt Nam là đối tác thứ 3 đầu tiên của khu vực Liên minh

kinh tế Á Âu sẽ tạo ra cơ hội rất lớn đối với hoạt động xuất khẩu của Việt Nam.
Nghiên cứu của ThS Đinh Dương Thùy (2016) với đề tài “Hiệp định thương
mại tự do Việt Nam - liên minh kinh tế Á - Âu: cơ hội và thách thức cho các doanh
nghiệp Việt Nam” đã đánh giá được Thực trạng quan hệ kinh tế quốc tế giữa Việt
Nam với liên minh kinh tế Á Âu và chỉ ra những cơ hội, thách thức cho các doanh
nghiệp Việt Nam nói chung khi tham gia hiệp định. Theo đó, khi Hiệp định Thương
mại tự do Việt Nam – EAEU chính thức có hiệu lực sẽ đem lại cho các doanh
nghiệp sản xuất và xuất khẩu trong nước rất nhiều cơ hội để mở rộng thị trường,

13


đẩy mạnh hoạt động sản xuất trong nước. Tuy nhiên, hiệp định cũng gây ra không ít
thách thức khi các doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh trong nước sẽ phải chịu áp
lực cạnh tranh khá lớn.
Nghiên cứu của tác giả Trần Thị Như Quỳnh (2015) về đề tài “Ảnh hưởng của
Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện Việt Nam - Nhật Bản (VJEPA) đến hoạt động
xuất khẩu hàng nông sản Việt nam sang thị trường Nhật Bản giai đoạn 2008 –
2014” đã phân tích thực trạng hoạt động xuất khẩu nông sản của Việt Nam sang
Nhật Bản dưới tác động của Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện Việt Nam – Nhật
Bản. Theo đó, Hiệp định này có ảnh hưởng rất tích cực đối với hầu hết các mặt hàng
nông sản thế mạnh của Việt Nam như Rau quả, Cà phê, Hạt điều … trong giai đoạn
2008 – 2014. Mặc dù vậy, các doanh nghiệp xuất khẩu nông sản trong nước vẫn
chưa phát huy hết tiềm năng và tận dụng được tối đa những cơ hội mà Hiệp định
này mang lại.
Ngoài ra còn có một số nghiên cứu khác có liên quan như:
Nghiên cứu của ThS Nguyễn Thị Diễm Hương (2016) với đề tài “Phát triển
thương mại và đầu tư giữa Việt Nam và liên bang Nga, Belaeus và Kazakhstan
trong bối cảnh thực thị FTA giữa Việt Nam và liên minh kinh tế Á – Âu”
Nghiên cứu của ThS Nguyễn Thị Thanh (2015) với đề tài: “Phát triển quan hệ

thương mại Việt Nam - Liên bang Nga trong bối cảnh ký kết hiệp định thương mại
tự do giữa Việt Nam và liên minh thuế quan Nga - Belarus – Kazakhstan”
Nghiên cứu của ThS Nguyễn Linh Chi (2016) với đề tài “Khai thác những ưu
đãi của các Hiệp định thương mại tự do (FTA) nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng
nông sản và thủy sản của Việt Nam”
Nghiên cứu của tác giả Lục Văn Báo (2013) về đề tài “Tham gia đàm phán
hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP): cơ hội và thách thức cho hàng
nông sản xuất khẩu của Việt Nam”.
3. Mục đích của đề tài

Mục đích của đề tài là phân tích những thách thức và cơ hội mà Hiệp định
Thương mại tự do Việt Nam - Liên minh kinh tế Á Âu mang đến đối với hoạt đông
xuất khẩu nông sản của Việt Nam sang thị trường các nước thành viên, từ đó đưa ra
những kiến nghị và giải pháp trên cả phương diện vĩ mô và vi mô nhằm tận dụng tốt
những cơ hội mà hiệp định mang lại.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

14


Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các vấn đề về lý luận và thực tiễn trong
hoạt động xuất khẩu nông sản của Việt Nam sang thị trường một số nước thành viên
tiềm năng dưới ảnh hưởng của Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - Liên minh
kinh tế Á Âu, đánh giá những cơ hội và thách thức Hiệp định mang đến và biện
pháp để tận dụng cơ hội cũng như hạn chế những thách thức.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn: Mặt hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam
có rất nhiều nhưng trong phạm vi nghiên cứu của luận văn này tác giả chỉ tập trung
nghiên cứu một số mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ lực của Việt Nam sang thị
trường các nước Nga, Belarus, Kazakhstan là Gạo, Cà phê, rau quả, hạt tiêu, sao su,
gỗ và các sản phẩm từ gỗ.

5. Phương pháp nghiên cứu

Dựa trên cơ sở phương pháp luận cơ bản của chủ nghĩa duy vật biện chứng,
căn cứ vào đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu
-

của bài khóa luận bao gồm:
Phương pháp phân tích và tổng hợp
Phương pháp so sánh
Phương pháp phân tích, tổng hợp xuyên suốt bài luận văn để đánh giá thực
trạng hoạt động xuât khẩu nông sản của Việt Nam sang thị trường các nước thành
viên, những cơ hội, thách thức mà Hiệp định mang lại. Phương pháp so sánh được
áp dụng trong việc so sánh tình hình xuất khẩu của Việt Nam sang các quốc gia
trong khu vực Liên minh Kinh tế Á Âu.

6. Cấu trúc của đề tài

Ngoài phần mở đầu, kết luận chung và phần phụ lục, bài luận văn gồm ba
chương:
Chương I. Tổng quan về Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam – Liên minh
kinh tế Á Âu.
Chương II. Cơ hội và thách thức của xuất khẩu nông sản Việt Nam sang thị
trường một số nước thành viên tiềm năng.
Chương III. Giải pháp tận dụng tối đa Hiệp định Thương mại tự do Việt nam
– Liên minh kinh tế Á Âu

15


Mặc dù đã cố gắng, nhưng do những hạn chế về năng lực, trình độ cũng như

kinh nghiệm thực tiễn nên bài luận văn không thể tránh khỏi những thiếu sót. Rất
mong nhận được sự đóng góp ý kiến của quý thầy cô để luận văn được hoàn thiện
hơn.
Qua đây người viết xin được gửi lời cám ơn đến sự hướng dẫn, chỉ bảo tận
tình của PGS.TS Nguyễn Văn Hồng đã giúp tôi hoàn thành bài luận văn trong
suốt thời gian qua.

16


CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ HIỆP ĐỊNH THƯƠNG MẠI TỰ DO VIỆT
NAM – LIÊN MINH KINH TẾ Á ÂU.
1.1. Giới thiệu về Liên minh kinh tế Á Âu
1.1.1. Quá trình hình thành Liên minh kinh tế Á Âu
Sau khi kết thúc chiến tranh Lạnh và sự sụp đổ của Liên Xô, Nga và các nước
cộng hòa Trung Á đối mặt với việc nền kinh tế đang khủng hoảng trầm trọng và sự
sụt giảm tăng trưởng GDP. Ngay sau đó, nhiều nước cộng hòa thuộc Liên Xô cũ vẫn
giữ quan hệ gần gũi với Nga và hình thành các tổ chức đa phương như Cộng đồng
Kinh tế Á Âu, Nhà nước Liên minh Nga Belarus, Cộng đồng Liên minh thuế quan
kinh tế Á Âu Belarus, Kazakhstan, Nga, Liên minh Âu Á (thay thế Cộng đồng Kinh
tế Á Âu từ ngày 01/01/2015) nhằm tăng cường hợp tác kinh tế, an ninh, để từ đó cải
thiện được tình hình sụt giảm trầm trọng của nền kinh tế các nước trong khu vực.
Cụ thể, năm 1994, trong bài diễn văn tại Đại học Quốc gia Moskva, tổng
thống Kazakhstan, Nursultan Nazarbayev đã nêu ra ý tưởng về việc thành lập một
khu vưc mậu dịch tự do để kết nối và giúp tăng trưởng nền kinh tế giữa châu Âu
và Đông Á. Nó nhanh chóng được xem là một cách để thúc đẩy thương mại, thu hút
đầu tư và tạo ra đối trọng với liên minh kinh tế của phương Tây.
Năm 1999, Belarus, Kazakhstan, Nga, Kyrgyzstan và Tajikistan đã kí hiệp
định về Liên minh Thuế quan và Không gian kinh tế thống nhất vì các mục tiêu và
các chính sách mà các quốc gia đang theo đuổi để bước đầu hình thành nên Liên

Minh Thuế quan Á Âu và Không gian Kinh tế thống nhất
Để tiến xa hơn trong việc liên kết và hợp tác kinh tế, năm 2000, Belarus,
Kazakhstan, Nga, Kyrgyzstan và Tajikistan đã thành lập Cộng đồng Kinh tế Á
Âu (EurAsEC), Uzbekistan đã tham gia vào năm 2006. Mục tiêu nhằm thành lập
một thị trường chung thống nhất cho tất cả các nước thành viên. Cộng đồng Kinh tế
Á Âu được ra đời dựa trên khuôn mẫu của Cộng đồng Kinh tế châu Âu với quy mô
dân số trên 171 triệu dân (vào năm 2000). Đây là nền tảng để tiếp tục hoàn thành
tiến trình hội nhập tiến tới thành lập một thị trường chung thống nhất.

17


Đến ngày 01/01/2010, tiến trình hợp tác giữa các quốc gia này được tiến thêm
một bước nữa khi Liên minh Hải quan Á Âu (Eurasian Customs Union, viết
tắt: EACU) được chính thức thành lập. Liên minh ban đầu gồm Belarus,
Kazakhstan, và Nga, sau đó kết nạp thêm Armenia và Kyrgyzstan từ ngày 1 tháng 1
năm 2015.
Liên minh Hải quan được thành lập bước đầu sẽ như là một tổ chức giống
với Liên minh châu Âu. Các thành viên sẽ hội nhập nền kinh tế và gỡ bỏ hàng rào
thuế quan giữa các nước sau tháng 6 năm 2011. Ngày 19 tháng 11 năm 2011, các
nước thành viên đã đặt ra một nhiệm vụ chung trong việc liên kết các nền kinh tế,
kế hoạch thành lập Liên minh Kinh tế Á Âu vào năm 2015. Ngày 1 tháng 1 năm
2012, ba thành viên đã hình thành một không gian kinh tế chung để tiến tới thành
lập một liên minh kinh tế thống nhất.
Sự hình thành của Liên minh được xây dựng dựa trên 3 hiệp định vào các năm
1995, 1999 và 2007. Hiệp định đầu tiên vào năm 1995 quyết định việc thành lập
Liên minh, vào năm 1999 hiệp định thứ hai được kí kết nêu lên các thức tổ chức, và
cuối cùng vào năm 2007 chính thức tuyên bố việc thành lập một khu vực kinh tế
xóa bỏ hàng rào thuế quan và việc hình thành Liên minh.
Dựa trên cở sở thống nhất hai Tổ chức tiền thân là Cộng đồng kinh tế Á Âu và

Liên minh Hải quan Á Âu, một liên minh kinh tế giữa Armenia, Kazakhstan, Nga,
Belarus và Kyrgyzstan được chính thức ra đời vào ngày 29/05/2014 đó là Liên minh
Kinh tế Á Âu (Euroasian Economic Union viết tắt EAEU). Lễ ký kết Hiệp ước về
Liên minh Kinh tế Á-Âu được tổ chức tại Astana, Kazakhstanvào ngày 29 tháng 5
năm 2014.
1.1.2. Tổng quan về thị trường Liên minh kinh tế Á Âu
Liên minh Kinh tế Á Âu hiện có 5 thành viên chính thức là Liên bang Nga,
Cộng hòa Belarus, Cộng hòa Kazakhstan, Cộng hòa Armenia và Cộng hòa
Kyrgyzstan.

18


-

Tổng GDP tính đến cuối năm 2014 đạt 2,200 tỷ USD;

-

Dân số tính đến năm 2015 đạt khoảng 183.3 triệu người;

-

Liên minh giàu các tài nguyên thiên nhiện như dầu mỏ, khí ga, than đá, quặng
sắt, …

-

Tổng diện tích khoảng hơn 20 triệu km2
Những đối tác nhập khẩu chính của Liên minh là EU (chiếm khoảng 40-


50%), Trung Quốc, Thổ Nhĩ kỳ. Việt Nam đứng khoảng thứ 24 trong số các nước
nhập khẩu từ Liên minh.
Những đối tác xuất khẩu chính của Liên minh là EU (hơn 40%), Trung Quốc,
Hoa Kỳ. Việt Nam đứng khoảng thứ 11 trong số các nước xuất khẩu sang Liên
minh.
Những mặt hàng chủ yếu Việt Nam xuất khẩu sang Liên minh bao gồm: thiết
bị điện, điện tử, hàng dệt may, giày dép, cà phê, chè, trái cây, thực phẩm chế biến,
hạt điều…
Những mặt hàng Liên minh xuất khẩu chính sang Việt Nam bao gồm: nhiên
liệu khoáng sản, dầu mỏ, phân bón, máy móc thiết bị điện, lò phản ứng hạt nhân,
nồi hơi, thiết bị chụp ảnh, quang học, sắt thép, muối, lưu huỳnh, xi măng, ô tô, khí
ga tự nhiên…
Cơ chế điều phối các hoạt động hợp tác về thương mại và đầu tư giữa Việt
Nam và các nước thành viên Liên minh ở cấp Chính phủ là các Ủy ban liên Chính
phủ về hợp tác kinh tế - thương mại và khoa học – kỹ thuật. Ngoài ra, còn có các
Tiểu ban, các Tổ công tác chuyên ngành để trao đổi sâu hơn, cụ thể hơn về các dự
án chuyên ngành. Thông thường, các Ủy ban liên Chính phủ họp một năm một lần.
1.2. Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – Liên minh kinh tế Á Âu
1.2.1. Xu thế hợp tác song phương trên thế giới và khu vực

19


Những năm đầu của thập niên 1990, bên cạnh quá trình toàn cầu hóa là sự phát
triển mạnh mẽ của chủ nghĩa khu vực. Bước sang năm 2001, sau thất bại của vòng
đàm phán Đô-ha trong khuôn khổ Hiệp định chung về thuế quan và thương mại
(GATT) hệ thống thương mại đa phương dần bị mất lòng tin. Làn sóng hình thành
các FTAs song phương và nhiều bên diễn ra sôi động ở khắp mọi nơi với hai động
cơ cơ bản là động cơ kinh tế và động cơ chính trị.

Động cơ kinh tế là yếu tố đóng vai trò quyết định trong việc xác lập nội dung
và hình thức của các liên kết FTAs. Tùy thuộc vào đặc điểm và trình độ phát triển
của các bên tham gia, các đàm phán FTAs sẽ xác lập lợi ích cân bằng và đưa ra
những thỏa thuận tương đương. Những thỏa thuận này thông thường là các cam kết
cắt giảm thuế quan giữa hai hay nhiều bên tham gia. Ở mức độ cao hơn có thể bao
hàm cả các vấn đề về tự do hóa dịch vụ, đầu tư và các thỏa thuận hợp tác kinh tế
khác. Một số nền kinh tế như Sing-ga-po, Bru-nay, Hồng Kông chịu sự ảnh hưởng
lớn từ hoạt động ngoại thương và đầu tư nước ngoài nên mục đích tham gia các
FTAs thường để củng cố vị thế của mình trong các liên kết kinh tế khu vực. Một số
FTAs được thiết lập giữa các nước trong một khối và một quốc gia ngoài khối thì lại
nhằm mục đích thiết lập kênh nhập khẩu nguyên nhiên liệu, máy móc, thiết bị…ổn
định phục vụ cho mục tiêu tăng trưởng và phát triển kinh tế. Còn các nước đang
phát triển thì chủ yếu tập trung đàm phán các FTAs với các nước là phát triển nhằm
mở rộng thị trường xuất khẩu. Trong khi đó các nước phát triển với lợi thế về công
nghệ và vốn như Nhật Bản, EU, Hoa Kỳ lại luôn có chủ trương tìm kiếm lợi ích từ
các FTAs trong hoạt động đầu tư các ngành chế tạo, dịch vụ từng bước gây dựng và
đa dạng hóa các chuỗi cung ứng phạm vi khu vực và toàn cầu, thông qua đó đẩy
biên giới kinh tế đi xa khỏi biên giới hải quan truyền thống, duy trì mối liên hệ bền
chặt với các nền kinh tế của các đối tác. Ngoài ra, các FTAs cũng là biện pháp giúp
các nước này kiểm soát các vấn đề về vệ sinh an toàn thực phẩm, tiêu chuẩn kỹ
thuật, thậm chí kể cả tiêu chuẩn về môi trường, an ninh, chất lượng lao động vốn
không thuộc phạm vi điều chỉnh của WTO nhưng rất được quan tâm.
Bên cạnh tính chất quyết định của các động cơ kinh tế, động cơ chính trị cũng
là yếu tố không thể thiếu trong bất cứ FTA nào. Các nước luôn mong muốn nâng
cấp mối quan hệ ngoại giao, chính trị bằng cách dành cho nhau sự đối xử tốt hơn

20


trong quan hệ kinh tế và thương mại thông qua các FTAs, đặc biệt là khi xu thế đối

đầu trực tiếp được dần thay thế bằng xu thế hòa hoãn, đối thoại trên thế giới. Ở giai
đoạn trước đây, các FTA thường diễn ra giữa các quốc gia có sự tương đồng nhất
định về chế độ chính trị, trình độ phát triển, đặc điểm khu vực, cấu trúc thị trường
như Khu vực thương mại tự do ASEAN (AFTA), Khối thị trường chung Nam Mỹ
(Mecorsur)…Tuy nhiên trong thời gian gần đây, với tâm lý thiết lập FTA để duy trì
sức mạnh cạnh trạnh và tầm ảnh hưởng với các đối tác, các FTAs đã không những
vượt trên những khác biệt về địa lý, quan điểm chính trị mà còn có sự đan xen chặt
chẽ giữa nhiều nền kinh tế khác nhau, đặc biệt là các nền kinh tế lớn và mới nổi như
Trung Quốc, Ấn Độ, Nga, Bra-sil…Tuy nhiên, dù diễn ra dưới hình thức nào thì
khởi đầu của các FTAs luôn là mục đích chính trị hoặc dựa trên một nền tảng quan
hệ ngoại giao tốt đẹp.
Như vậy, xét trên bình diện thế giới việc thiết lập các FTAs không chỉ là một
hiện tượng mang tính tạm thời trong bối cảnh hệ thống thương mại đa biên của
WTO đang bế tắc mà sẽ trở thành một xu thế không ngừng biến đổi về cả nội dung,
hình thức, đặc tính pháp lý để thích nghi và đáp ứng với yêu cầu phát triển.
1.2.2. Tiến trình đàm phán
Trong bối cảnh các nước và các khu vực trên thế giới đang đặc biệt quan tâm
đến đẩy mạnh phát triển hợp tác với các nước thuộc khu vực châu Á – Thái Bình
Dương, trong đó có Việt Nam, Liên minh kinh tế Á Âu cũng đã nhận ra tiềm năng
phát triển của thị trường Việt Nam cũng như những nguồn lực về tài nguyên thiên
nhiên và nguồn nhân công dồi dào. Ngược lại, khu vực Á Âu từ trước đến nay vẫn
luôn được đánh giá là một thị trường lớn và đầy tiềm năng với trên 180 triệu dân,
trữ lượng tài nguyên thiên nhiên phong phú, với tổng GDP đạt trên 2,000 tỷ USD,
kim ngạch ngoại thương đạt khoảng 1,000 tỷ USD. Nhận ra được những tiềm lực
phát triển của đôi bên, Việt Nam và Liên minh Kinh tế Á Âu đã cùng thống nhất để
đi tới quá trình đàm phán hợp tác và thúc đẩy quan hệ kinh tế giữa các nước trong
khu vực, Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – Liên minh Kinh tế Á Âu là một
trong những hiệp định đánh dấu sự bắt đầu cho tiến trình đó.
Bắt đầu cho tiến trình đàm phán giữa Việt Nam và Liên minh kinh tế Á Âu
hiện nay, ngày 28/03/2013 Hiệp định thương mại tự do (FTA) giữa Việt Nam và


21


Liên minh thuế quan Nga – Belarus – Kazakhstan (Tiền thân của Liên minh Kinh tế
Á Âu) chính thức được khởi động quá trình đàm phán. Hiệp định ban đầu đưa ra
đàm phán những nội dung chính là: Thương mại hàng hóa; Quy tắc xuất xứ; Phòng
vệ thương mại; Thương mại dịch vụ; Đầu tư; Sở hữu trí tuệ; Các biện pháp vệ sinh
an toàn thực phẩm và kiểm dịch động thực vật (SPS); Hàng rào kỹ thuật trong
thương mại (TBT); Công nghệ điện tử trong thương mại; Cạnh tranh; Pháp lý và thể
chế.Trong đó, nội dung quan trọng của các vòng đàm phán Hiệp định là các cam kết
mở cửa thị trường hàng hóa của cả hai bên, cụ thể:

- Khởi động Đàm phán FTA Việt Nam – Liên minh hải quan: Theo Vụ Thị trường
châu Âu, Bộ Công Thương, ngày 28-3 tại Hà Nội, Việt Nam và Liên minh Hải quan
(gồm Nga, Belarus, Kazakhastan) đã đưa ra tuyên bố chính thức khởi động đàm
phán hiệp định thương mại tự do. Phạm vi và lĩnh vực điều chỉnh của hiệp định sẽ
bao gồm thương mại hàng hóa, thương mại dịch vụ, đầu tư, các quy tắc, hợp tác
kinh tế và các vấn đề khác. Ngoài ra, tại vòng đàm phán đầu tiên này, các nước sẽ
thảo luận chi tiết về phạm vi và lĩnh vực điều chỉnh của hiệp định, cơ cấu và
phương thức đàm phán;

- Phiên đàm phán thứ hai Hiệp định FTA Việt Nam– Liên minh Hải quan: Từ ngày
20-25/6/2013, Phiên đàm phán thứ hai Hiệp định Thương mại tự do giữa Việt Nam
và Liên minh Hải Quan Belarus, Kazakhstan và Nga đã được diễn ra tại Matxcova,
Liên bang Nga. Tại Phiên đàm phán thứ hai, Trưởng đoàn đàm phán cấp kỹ thuật,
ông Đặng Hoàng Hải- Bộ Công Thương Việt Nam và ông A. V. Tochin, Ủy ban
Kinh tế Á – Âu cùng 10 nhóm công tác đã thảo luận các nội dung của Hiệp định,
bao gồm thương mại hàng hóa, thương mại dịch vụ, đầu tư, hợp tác hải quan, SPS,
TBT, pháp lý - thể chế…; tìm hiểu kỹ phương pháp tiếp cận đàm phán của từng bên.

Trên tinh thần hợp tác, thẳng thắn, cởi mở và hiểu biết lẫn nhau, hai bên đã đạt được
thống nhất bước đầu tại các chương về hàng hóa, dịch vụ, đầu tư và di chuyển thể
nhân, quy tắc xuất xứ, hợp tác về hải quan…Hai bên cũng đã thống nhất thúc đẩy
quá trình tham vấn giữa hai bên và tham vấn nội bộ để tiếp tục đàm phán tại Phiên
thứ 3;

22


- Phiên đàm phán thứ ba Hiệp định FTA Việt Nam – Liên minh Hải quan: Trong 5
ngày làm việc, 10 nhóm đàm phán của các bên đã tích cực thảo luận các vấn đề:
thương mại hàng hóa, quy tắc xuất xứ hàng hóa, thương mại dịch vụ, quản lý hải
quan và thuận lợi hóa thương mại, dịch vụ đầu tư, sở hữu trí tuệ, các vấn đề pháp
lý-thể chế, phòng vệ thương mại... Đặc biệt trong phiên đàm phán này, các bên đã
hoàn tất cơ bản một số chương của Hiệp định mà hai bên không còn khác biệt. Việt
Nam và Liên minh hải quan đã thống nhất phần lớn văn hiệp định tại các nội dung
như: cạnh tranh, hàng rào kỹ thuật trong thương mại, tiêu chuẩn an toàn thực phẩm
và kiểm dịch động, thực vật, hải quan và phát triển bền vững. Chiều 13/9, tại thủ đô
Minsk của Belarus, phiên đàm phán thứ ba Hiệp định thương mại tự do Việt NamLiên minh hải quan (gồm Nga, Kazakhstan, Belarus) đã kết thúc tốt đẹp sau 5 ngày

-

làm việc;
Phiên đàm phán lần 4 FTA Việt Nam – Liên minh hải quan: Sau bốn ngày diễn ra
phiên khai mạc, hai bên đã đạt được mục tiêu kết thúc phần lớn lời văn của Hiệp
định vào cuối năm 2013 và hướng tới kết thúc đàm phán Hiệp định FTA Việt NamLiên minh Hải quan Belarus, Kazakhstan và Nga vào cuối năm 2014. Bên cạnh đó,
Các nhóm đàm phán về thương mại hàng hóa; phòng vệ thương mại; quy tắc xuất
xứ; quản lý hải quan và thuận lợi hóa thương mại; TBT; SPS; dịch vụ, đầu tư và di
chuyển thể nhân; sở hữu trí tuệ; các vấn đề khác; mua sắm chính phủ và pháp lýthể chế đã thể hiện nỗ lực và sự linh hoạt cao nhất nhằm hoàn thành cơ bản các
chương Hiệp định tại phiên đàm phán thứ tư. Chiều 14/02, phiên đàm phán thứ tư

cấp Bộ trưởng Hiệp định Thương mại tự do (FTA) giữa Việt Nam và Liên minh Hải
quan Belarus, Kazakhstan và Nga tại thành phố Đà Nẵng đã kết thúc dưới sự chủ trì
của Bộ trưởng Bộ Công Thương Việt Nam;

- Phiên đàm phán FTA thứ 5 Việt Nam – Liên minh Hải quan: Từ ngày 31/03/2014
đến 04/04/2014, phiên đàm phán thứ 5 Hiệp định Thương mại tự do (FTA) giữa Việt
Nam và Liên minh Hải quan - gồm ba nước Belarus, Kazakhstan và Nga - đã diễn
ra tại thành phố Almaty của Kazakhstan. Các nhóm tham gia đàm phán gồm
Thương mại hàng hóa; Phòng vệ thương mại; Quy tắc xuất xứ; Quản lý hải quan và
thuận lợi hóa thương mại; Dịch vụ, đầu tư và di chuyển thể nhân; Sở hữu trí tuệ;

23


Công nghệ điện tử trong thương mại; Mua sắm Chính phủ và Pháp lý-thể chế. Đồng
thời, hai bên đã tiếp tục trao đổi sâu và cụ thể về bản Phụ lục của hiệp định, đặc biệt
là trong các lĩnh vực Thương mại hàng hóa và Quy tắc xuất xứ.Nhằm thúc đẩy tiến
độ đàm phán chung, hai bên đã thống nhất tổ chức phiên họp giữa kỳ cho các nhóm
Thương mại hàng hóa; Phòng vệ thương mại; Quy tắc xuất xứ; Dịch vụ, đầu tư và
di chuyển thể nhân; Sở hữu trí tuệ...

- Việt Nam – Liên minh Hải quan kết thúc vòng 6 đàm phán FTA: Tại vòng đàm phán
lần này diễn ra từ 16/6, các bên đã kết thúc được thêm phần lời văn của hai chương
là Thương mại hàng hóa và Mua sắm chính phủ, thu hẹp khoảng cách ở các chương
Hợp tác về hải quan, Quy tắc xuất xứ và Sở hữu trí tuệ. Các vấn đề phức tạp và kỹ
thuật như Quy tắc xuất xứ, Mở cửa thị trường hàng hóa, dịch vụ, đầu tư và di
chuyển thể nhân… tiếp tục đạt tiến triển. Đến ngày 20/06/2014, Kết thúc vòng đàm
phán, cả hai bên đều thể hiện tinh thần thiện chí, nỗ lực thúc đẩy đàm phán để có
thể sớm kết thúc quá trình đàm phán;


- Phiên đàm phán thứ 7 Hiệp định FTA Việt Nam – Liên minh Hải quan: được tiếp
tục tổ chức ở Nga từ ngày 15 - 19/9/2014. Trong vòng đàm phán lần này, Các đoàn
đàm phán cũng đã thống nhất được lời văn các chương của Hiệp định như thương
mại hàng hóa, cạnh tranh, các rào cản kỹ thuật đối với thương mại (TBT), các biện
pháp vệ sinh an toàn thực phẩm và kiểm dịch động thực vật (SPS), công nghệ điện
tử trong thương mại, phát triển bền vững, mua sắm Chính phủ. Trưởng đoàn đàm
phán từ hai phía đã trao đổi các vấn đề còn tồn tại trong các lĩnh vực thương mại
hàng hóa, quy tắc xuất xứ, thương mại dịch vụ, đầu tư và pháp lý - thể chế ;
- Phiên đàm phán thứ 8 của Hiệp định: Thống nhất các nội dung chính, chiều
14/12, phiên đàm phán thứ tám Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên
minh Hải quan Belarus – Kazakhstan – Nga đã thống nhất ký thông báo về kết thúc
cơ bản đàm phán. Cụ thể, một loạt các nhóm đã đạt được những mục tiêu cơ bản.
Với nhóm thủ tục hải quan, những vấn đề cuối cùng như trao đổi thông tin điện tử

24


thường xuyên, hai trưởng đoàn đàm phán cấp kỹ thuật đã trao đổi với nhau rất nhiều
và đã thống nhất đàm phán.
Nhóm thương mại hàng hóa là nhóm có nhiều vấn đề nhất, nhưng đã thống
nhất các vấn đề cơ bản, gồm cả hai gói nông nghiệp và phi nông nghiệp. Những vấn
đề khó trong nhóm này như sử dụng cơ chế bảo hộ thì đến phút cuối đã thống nhất
được về chỉ số và lời văn.
Tương tự, nhóm xuất xứ hàng hóa có rất nhiều vấn đề, chủ yếu liên quan đến
quy tắc hàng hóa cụ thể đã tiến hành đàm phán các bước dài. Nhóm này, ông Hải hi
vọng sẽ kết thúc sớm vào đầu năm 2015. Nhóm phòng vệ thương mại: đến nay đã
tìm ra được lời văn thỏa mãn hai bên; bước đầu các lời văn trong nhóm này đã có
thể kết thúc được. Với nhóm pháp lý và thể chế, các lời văn, các vấn đề lớn đã tìm
được tiếng nói chung. Các vấn đề pháp lý còn lại, hai bên sẽ tiến hành vào đầu năm
2015.

Sau tổng cộng 8 vòng đàm phán chính thức và nhiều vòng không chính thức,
chiều 14/12/2014, hai bên đã đã thống nhất ký thông báo kết thúc cơ bản đàm phán,
tiếp tục thúc đẩy quá trình trao đổi, tham vấn nội bộ để nhanh chóng hoàn tất những
vấn đề kỹ thuật còn lại nhằm có thể ký kết VCUFTA vào đầu năm 2015. Tuy nhiên,
trong quá trình đàm phán, vào ngày 29/05/2014, ba nước Nga – Belarus –
Kazakhstan đã thành lập Liên minh kinh tế Á Âu thay cho Liên minh thuế quan
giữa ba nước trước đây và kết nạp thêm hai thành viên mới là Cộng hòa Armenia và
Cộng hòa Kyrgyzstan. Sau đó tiến trình đàm phán cho Hiệp định giữa Việt Nam và
Liên minh Thuế quan Á Âu (hiện nay là Liên minh Kinh tế Á Âu) vẫn được tiếp
diễn theo đúng tiến độ, ngày 29/05/2015 Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam –
Liên minh Kinh tế Á Âu đã được hai Bên thông qua và ký kết chính thức. Sau
khoảng nửa năm đàm phán tích cực, dưới sự chỉ đạo sát sao của Chính phủ cũng
như Lãnh đạo Bộ Công Thương, Tổ Công tác đã hoàn tất đàm phán và các Trưởng
đoàn đàm phán đã ký tắt Nghị định thư về ô tô giữa Việt Nam và Nga vào ngày 15
tháng 01 năm 2016 tại Moskva, Nga và Nghị định thư về ô tô giữa Việt Nam và
Belarus vào ngày 20 tháng 1 năm 2016 tại Minsk, Belarus. Tiếp theo đó, lần lượt

25


×