Tải bản đầy đủ (.pdf) (23 trang)

TÌM HIỂU ĐẤT NƯỚC champa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (858.76 KB, 23 trang )

MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU .............................................................................................................2
NỘI DUNG..................................................................................................................3
1. Lịch sử ...................................................................................................................3
1.1 Quốc gia của người Nam Đảo ......................................................................3
1.2 Thời tiền sử ....................................................................................................3
1.3 Văn hóa Sa Huỳnh ........................................................................................... 3
1.4 Lâm Ấp (192 - 757 ) .........................................................................................4
1.5 Hoàn Vương (757 – 859) ..............................................................................6
1.6 Chiêm Thành (875 - 1471) ...........................................................................6
1.7 Panduranga (1471 - 1832 ...............................................................................8
2. Địa lý .....................................................................................................................9
2.1 Cương vực .........................................................................................................9
2.2 Các địa khu ....................................................................................................10
3. Những dấu ấn trong văn hóa Chăm Pa ................................................................ 10
3.1 Tôn giáo : .........................................................................................................10
3.2 Chữ viết ..........................................................................................................14
3.3 Văn học – Nghệ thuật ......................................................................................15
4. Di sản ngày nay ....................................................................................................20
5. Nhận xét .................................................................................................................21
KẾT LUẬN ...................................................................................................................22
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................................. 23

1


LỜI NÓI ĐẦU
Trong quá khứ, trên dãy đất Việt Nam này có sự tồn tại một nền văn minh: Vương
quốc Champa. Vương quốc Champa có lãnh thổ trải dài từ mũi Hoành sơn phía bắc,
nam giáp Đồng Nai, tây giáp nam Lào, đông giáp biển Đông, thuộc miền Trung ngày
nay. Hầu hết lãnh thổ trải dài theo dãy Trường sơn và biển Đông. Có những cánh đồng


nhỏ nằm dọc theo những con sông đổ ra biển. Phía tây dãy trường sơn là những bình
nguyên Tây nguyên rộng lớn. Khí hậu có hai mùa mưa và nắng rỏ rệt. Vương quốc
Champa chuyên canh cây lúa, đậu, ngô, mía… dọc theo những con sông từ Tây
nguyên đổ ra biển. Vùng Tây nguyên có những tài nguyên quí giá như: trầm hương,
mun, tre… Ngoài ra Tây nguyên Champa còn cung cấp nhiều khoáng sản quí như:
vàng, bạc, đồng, sắt. Động vật gồm: voi, tê giác, sư tử, hưu trắng…nhiều vô kể.
Vương quốc Champa hiện tại tuy nó đã được sát nhập vào nước Việt Nam, nhưng
chúng ta không thể phủ nhận sự ảnh hưởng của nền văn hóa Champa, trong quá khứ
cũng như hiện tại, đối với tổng thể văn hóa 54 dân tộc anh em Việt Nam. Nhất là văn
hóa tộc người Champa có ảnh hưởng rất lớn. Văn hóa Champa đã phát triển một nền
văn minh rực rở, bậc nhất Đông Nam Á suốt gần 18 thế kỷ. Bởi quá trình tồn tại, định
hình lịch sử và văn hóa phát triển, có bề dày đáng kể trên bốn ngàn năm (Từ người
Champa cổ Bàu Trá thời đại đá, văn hóa Sa Huỳnh thời đại kim khí, cho đến ngày hôm
nay). Thời gian thấm thoát trôi, đã qua rồi cái thời gánh con vượt dải Trường Sơn, cái
thời dong buồm thách thức con sóng dữ của biển cả để đi tránh cơn binh đao. Giờ đây
họ đã được yên vui sống trên mảnh đất được gọi nôm na là quê hương thứ hai , mặc dù
có những nơi họ sống trước kia từng là làng quê, đất tổ, là đất nước của họ. Còn gì xót
lại ở họ ngoài dòng máu đỏ và chút ít ngữ vựng trong ngôn từ. Các tôn giáo lớn trong
khu vực du nhập ngày càng mạnh, làm đảo lộn trật tự xã hội Champa có từ lâu đời.
Xung đột giữa ấn giáo, đạo hồi và nho giáo lên đến đỉnh điểm. Phân biệt tôn giáo đã
làm mất đi tính tự hào dân tộc, mất đi sự đoàn kết thiết yếu để bảo vệ dân tộc Champa.
Sao con người không quan tâm đến nó để kéo lại gần sau hàng thế kỉ xa cách. Xin
đừng đổ thừa tôn giáo, tính phân biệt luôn không chấp nhận những gì hơi xa lạ đối với
mình. Một cộng đồng tan rã, bị dẫm nát qua thời gian theo dòng lịch sử đau buồn, cần
lắm những bàn tay xoa dịu để chữa lành vết thương bao năm tháng…
Ở Việt Nam cũng như nhiều nước trên thế giới cũng đã có nhiều tác phẩm nghiên
cứu về nền văn hóa của quốc gia Chăm Pa như tác phẩm : Người Chàm Hồi giáo miền
Tây Nam phần (1974) của tác giả Nguyễn Văn Luận, ). Hay tư liệu cổ nhất của người
Châu Âu viết về người Chăm có lẽ là của một người gốc Italia tên là Marco Polo. Ông
làm quan dưới triều đại Mông-Nguyên của Hốt Tất Liệt. Năm 1298, sau một lần được

cử đi làm sứ giả ở một số nước Đông Nam Á, trong đó có Chăm Pa, ông đã ghi chép
khá tỉ mỉ về người Chăm và đời sống của họ trong cuốn Lelivre de Marco Polo (cuốn
sách của Marco Polo) (Phan Quốc Anh, 2006, tr.18)…

2


NỘI DUNG
1. Lịch sử
1.1 Quốc gia của người Nam Đảo
Lịch sử vương quốc Chăm Pa được khôi phục dựa trên ba nguồn sử liệu chính:
 Các di tích còn lại bao gồm các công trình đền tháp xây bằng gạch còn nguyên
vẹn cũng như đã bị phá hủy và cả các công trình chạm khắc đá.
 Các văn bản còn lại bằng tiếng Chăm và tiếng Phạn trên các bia và bề mặt các
công trình bằng đá
 Các sách sử của Việt Nam và Trung Quốc, các văn bản ngoại giao, và các văn
bản khác liên quan còn lại.
Vương quốc Chăm Pa không phải là một quốc gia có thể chế chính trị "Trung ương
tập quyền" mà là một dạng nhà nước liên bang gồm tộc người Chăm theo Đạo
Bàlamon, Phật giáo và Hồi giáo chiếm đa số và một số tộc người nhỏ hơn ở vùng núi
Tây Nguyên điển hình cùng ngôn ngữ như Ê đê, Giarai đã từng là cư dân vùng trung
Chămpa duy trì tín ngưỡng dân gian Nam Đảo bản địa, nay hầu hết chuyển sang Ki Tô
giáo từ giữa thế kỷ 19. Có những nguồn tài liệu cho biết Chăm Pa có thể được kết hợp
từ bốn tiểu quốc là Amaravati, Vijaya, Kauthara và Panduranga. Mỗi Tiểu quốc đều có
thể chế chính trị theo hình thức tự trị và có quyền ly khai khỏi liên bang để xây dựng
quốc gia riêng độc lập. Vương quốc Chăm Pa đã trải qua nhiều triều đại với nhiều lần
dời đô từ Bắc vào Nam và ngược lại.
Dân tộc chính của Chăm Pa là tộc người Chăm được chia thành hai nhóm: Chăm ở
phía Bắc và Chăm ở phía Nam. Nhóm Nam Chăm thuộc bộ tộc Cau (Kramuta Vanusa)
và Nhóm Bắc Chăm thuộc bộ tộc Dừa (Naeikela Vanusa). Hai bộ tộc này vừa liên

minh với nhau, vừa cạnh tranh nhau quyền đứng đầu Vương quốc Chăm Pa.
1.2 Thời tiền sử
Người dân Chăm Pa có nguồn gốc Malayo-Polynesian di cư đến đất liền Đông Nam
Á từ Borneo vào thời đại văn hóa Sa Huỳnh ở thế kỷ thứ 1 và thứ 2 trước Công
nguyên. Qua quan sát đồ đất nung, đồ thủ công và đồ tùy táng đã phát hiện thấy có
một sự chuyển đổi liên tục từ những địa điểm khảo cổ như hang động Niah ở Sarawak,
Đông Malaysia. Các địa điểm văn hóa Sa Huỳnh rất phong phú đồ sắt trong khi
nền văn hóa Đông Sơn cùng thời kỳ ở miền Bắc Việt Nam và các nơi khác trong khu
vực Đông Nam Á lại chủ yếu là đồ đồng. Ngôn ngữ Chăm thuộc ngữ hệ Nam Đảo
(Austronesian).

1.3 Văn hóa Sa Huỳnh

3


Văn hóa Sa Huỳnh là xã hội tiền sử
thuộc thời đại kim khí tại khu vực ven
biển miền Trung Việt Nam. Năm 1909,
đã phát hiện khoảng 200 lọ được chôn ở
Sa Huỳnh, một làng ven biển ở
nam Quảng Ngãi. Từ đó đến nay đã phát
hiện được rất nhiều hiện vật ở khoảng 50
địa điểm khảo cổ. Sa Huỳnh có đặc điểm
văn hóa thời đại Đồng Thau rất đặc trưng
với phong cách riêng thể hiện qua các
hiện vật như rìu, dao và đồ trang sức.
Đồ gốm – văn hóa Sa Huỳnh
Việc định tuổi theo phương pháp phóng
xạ carbon đã xếp văn hóa Sa Huỳnh đồng thời với văn hóa Đông Sơn, tức khoảng

thiên niên kỷ thứ nhất trước Công nguyên. Người Chăm bắt đầu cư trú tại đồng bằng
ven biển miền Trung Việt Nam từ khoảng năm 200 sau công nguyên. Lúc này người
Chăm đã tiếp thu các yếu tố của văn hóa tôn giáo và chính trị của Ấn Độ. Các nghiên
cứu khảo cổ học của các tác giả Việt Nam đã cho thấy người Chăm chính là hậu duệ
về mặt ngôn ngữ và văn hóa của người Sa Huỳnh cổ. Các hiện vật khảo cổ của người
Sa Huỳnh đã cho thấy họ đã là những người thợ thủ công rất khéo tay và đã sản xuất ra
nhiều đồ trang sức và vật dụng trang trí bằng đá và thủy tinh. Phong cách trang sức Sa
Huỳnh còn phát hiện thấy ở Thái Lan, Đài Loan và Philippinescho thấy họ đã buôn
bán với các nước láng giềng ở Đông Nam Á cả bằng đường biển và đường bộ. Các nhà
khảo cổ cũng quan sát thấy các hiện vật bằng sắt đã được người Sa Huỳnh sử dụng
trong khi người Đông Sơn láng giềng vẫn còn chủ yếu sử dụng đồ đồng.
Ngoài ra, ở thời kì này người chết được chôn trong vò đất nung (có hình trứng hay
hình trụ, đáy cong, cái lớn đường kính từ 80 – 100 cm, cái nhỏ từ 40 -50 cm), đã sử
dụng hình thức cải tang và hỏa tang, trong các vò chôn có mảnh thủy tinh màu, mã
não, … có thể người Sa Huỳnh đã biết chế tạo thủy tinh, nhưng không hoàn toàn là
vậy, vì các mảnh thủy tinh có nguồn gốc từ nước ngoài và được mài dũa lại khi đến
đây. Bên cạnh đó, người ta còn tìm thấy trong các mộ còn có đồ trang sức pendant
hình đầu thú và trang sức vỏ sò của người Nam Đảo, điều này chứng tỏ sự hòa hợp
cộng cư là có thật.
1.4 Lâm Ấp (192 - 757 )
Theo sử liệu Trung Quốc, quốc gia cổ Chăm Pa đã được biết đến đầu tiên với sự ra
đời và tồn tại của Vương triều Sinhapura hay còn gọi là vương quốc Lâm Ấp (Liu) mà
vị vua đầu tiên là Khu Liên, bắt đầu từ năm 192 ở khu vực Huế ngày nay, sau cuộc
khởi nghĩa của người dân địa phương chống lại nhà Hán. Trong nhiều thế kỷ sau đó,
quân đội Trung Quốc đã nhiều lần cố gắng chiếm lại khu vực này nhưng không thành
công. Vào thế kỷ 4, từ nước láng giềng Phù Nam ở phía tây và nam, Lâm Ấp nhanh
chóng hấp thu nền văn minh Ấn Độ. Đây chính là giai đoạn mà người Chăm đã bắt
4



đầu có các văn bản mô tả trên đá bằng chữ Phạn và bằng chữ Chăm, và họ đã có bộ
chữ cái hoàn chỉnh để ghi lại tiếng nói của người Chăm.
Trong thời kì này, văn hóa Ấn
Độ đã ảnh hưởng sâu sắc đến văn
hóa cổ của vương triều Chăm Pa.
Hai đặc điểm nổi bật nhất cho sự
giao lưu văn hóa này đó chính là
chữ Chăm cổ và kiến trúc. Chữ
Chăm là một trong những hệ
thống chữ viết đầu tiên bắt nguồn
từ chữ viết Brahmi ở Nam Ấn
Độ khoảng năm 200. Giống như
tất cả các chữ viết thuộc nhóm
ngôn ngữ Brahmi, chữ Chăm ghi
lại âm tiết (có chữ cái chỉ nguyên
âm, nhưng các chữ cái ghi lại phụ
Hình 2: Chữ viết của người Chăm
âm có nguyên âm đi kèm luôn
trong đó). Chữ này viết hàng ngang, từ trái sang phải như chữ Latinh. Bên cạnh đó còn
phải kể đến một công trình kiến trúc độc đáo mà người Chăm đã để lại và được
UNESCO công nhận là du sản văn hóa thế giới đó chính là các tháp Chăm ở Thánh địa
Mỹ Sơn. Vào nửa cuối thế kỷ thứ VII, các ngôi đền của hoàng gia bắt đầu được xây
dựng tại Mỹ Sơn. Tôn giáo chính lúc này là thờ thần Shivanhưng các ngôi đền cũng
thờ cả thần Vishnu. Các học giả gọi phong cách kiến trúc thời kỳ này là phong cách
Mỹ Sơn E1, để chỉ các di tích ở Mỹ Sơn điển hình theo phong cách này. Các công
trình còn đến nay của phong cách này bao gồm bệ đá hình linga được biết với tên gọi
là bệ đá Mỹ Sơn E1 và phần trán tường có hình Brahma được sinh ra từ hoa sen nở từ
rốn của thần Vishnu đang ngủ.
Vị vua đầu tiên được mô tả trong văn bia là Bhadravarman, cai trị từ
năm 349 đến 361 ở kinh đô Kandapurpura thuộc Huế ngày nay. Tại thánh địa Mỹ Sơn,

vua Bhadravarman đã xây dựng nên ngôi đền thờ thần có tên là Bhadresvara, cái tên là
sự kết hợp giữa tên của nhà vua và tên của thần Shiva, vị thần của các thần trong Ấn
Độ giáo. Việc thờ vua như thờ thần, chẳng hạn như thờ với tên thần Bhadresvara hay
các tên khác vẫn tiếp diễn trong các thế kỷ sau đó.
Đầu năm 2013, các nhà khảo cổ công bố phát hiện khu di tích thành cổ tại làng Viên
Thành, thôn Trung Đông, xã Duy Trung, huyện Duy Xuyên. Đoạn tường thành dài
khoảng 20 m, bề ngang 2 m đắp bằng đất sét; cùng các hiện vật khác như Kendi.
Nhóm khảo cổ nhận định đây là khu thành bao bọc quanh kinh đô Sinhapura của
Vương quốc Chăm Pa, được xây dựng thế kỷ thứ 4, 5.
Vào khoảng những năm 620, các vua Lâm Ấp đã cử nhiều sứ thần sang nhà Đường và
xin được làm nước phiên thuộc của Trung Quốc. Các tài liệu Trung Quốc ghi nhận cái
5


chết của vị vua cuối cùng của Lâm Ấp là vào khoảng năm 756 sau Công nguyên. Vào
cuối thời kỳ này, sử sách Trung Quốc vẫn ghi Chăm Pa là Lâm Âp, tuy nhiên, những
cái tên như vậy đã được người Chăm sử dụng muộn nhất là từ năm 629, và người
Khmer đã dùng muộn nhất là từ năm 657.
1.5 Hoàn Vương (757 – 859)
Hoàn Vương Quốc là sự kế tiếp của vương quốc Lâm Ấp từ năm 750 đến năm
850. Gọi là vương triều Panduraga – Ninh Thuận với thành phố là Virapura. Đồng thời
sử dụng Virapura để gọi vương triều phía Nam thường gọi là Nam Chăm, tiếp nối
Sinhapura, nhưng cái nguyên nhân để họ đột ngột chuyển từ miền Bắc về miền Nam
thì chưa chắc chắn, lí thuyết được nhiều người chấp nhận là Sinhapura e ngại sức
mạnh của nhà Đường. Nhưng cho dù nguyên nhân họ quyết định chuyển về phía Nam
là như thế nào đi nữa thì ta vẫn thấy có sự tiếp nối văn hóa và cái gì đó của một vương
quốc Champa. Cụ thể như thế nào thì cần đi vào tiến trình lịch sử và những tác động,
nguyên nhân của cả một quá trình, một giai đoạn Virapura. Đến lúc này Virapura
chính là trung tâm chính trị và Po Nagar là trung tâm tâm linh – tín ngưỡng hay gọi là
thánh địa tôn giáo, nhưng không hoàn toàn là vậy mà còn có vùng Kauthara. Triều đại

Virapura tuy tồn tại trong một thế kỉ sau khi bị Java tấn công, tuy vậy giai đoạn này
của Champa đã tạo nên nhiều đặc điểm thú vị.
Mở đầu cho vương triều ở Nam Champa là vị vua Rudravarman II từ năm 750 đến
năm 756, sau đó là thờ kì trị vì của Prithivindravarman, rồi đến Satyavarman tại ngôi
khoảng năm 774 đến năm 784, tiếp tục là vua Indravarman I trị vì khoảng năm 801 –
năm 817, cuối cùng là vua Vikrantavarman II ở ngôi từ năm 829 – năm 854. Các di chỉ
và đền tháp thời kì này tập trung chủ yếu ở Phan Rang, Phan Thiết, vùng Ninh Thuận,
Bình Thuận.
1.6 Chiêm Thành (875 - 1471)
Năm 875, vua Indravarman II đã xây dựng nên triều đại mới ở Indrapura (làng
Đồng Dương, huyện Thăng Bình, Quảng Nam ngày nay). Indravarman là vị vua Chăm
đầu tiên theo Phật giáo Đại thừa và xem đây là tôn giáo chính thức. Ở trung tâm của
Indrapura, ông đã xây dựng một tu viện Phật giáo (vihara) để thờ Bồ Tát Quán Thế
Âm(Avalokiteśvara). Các vua của triều đại Indrapura đã xây dựng ở Mỹ Sơn một số
đền tháp vào thế kỷ thứ 9 và thứ 10. Thời kỳ Phật giáo ảnh hưởng ở Chăm Pa kết thúc
năm 925, bắt đầu nhường bước với sự phục hồi của đạo thờ thần Siva[12], với sự
chuyển đổi tôn giáo từ Phật giáo trở về Siva giáo vào khoảng thế kỷ thứ 10, trung tâm
tôn giáo của người Chăm cũng chuyển từ Đồng Dương trở về Mỹ Sơn[13], đây là thời
kỳ văn minh Chăm Pa đạt đến đỉnh cao. Các yếu tố dẫn đến sự suy yếu của Chăm Pa ở
các thế kỷ sau này chính là ở vị trí lý tưởng nằm trên các tuyến thương mại, dân số ít
và thường xuyên có chiến tranh với các nước láng giếng là Đại Việt ở phía Bắc
và Chân Lạp ở phía tây Nam. Các cuộc chiến tranh với Chân Lạp đã dẫn tới có hai giai
đoạn Chăm Pa thuộc sự cai trị của người Khmer, đó là các giai đoạn 1145–1149 và
giai đoạn 1190-1220, tiếp đó là cuộc chiến thành công chống lại đạo quân xâm lược
6


của đế quốc Nguyên Mông vào năm 1283 do tướng Sogetu cầm đầu. Tuy nhiên dấu ấn
mạnh nhất vẫn là các cuộc chiến tranh với Đại Việt, không như các cuộc chiến với
Chân Lạp và Trung Quốc, những cuộc chiến tranh với người Việt đã làm vương quốc

Chăm Pa lần lượt mất lãnh thổ và dần suy yếu dẫn tới sụp đổ.
Bức phù điêu mô tả trận thủy chiến trên hồ Tonle Sap giữa thủy binh Rang Đêy của
Champa với quân Khmer cuối năm 1177 tại đền Bayon -Siêm Riệp).
Năm 938 người Việt đã giành được
độc lập từ tay người Trung Quốc.
Năm 982, vua Lê Hoàn của Đại Cồ
Việt mở cuộc nam chinh đầu tiên,
quân Đại Việt đã đánh chiếm và tàn
phá kinh đô Indrapura, giết vua
Parameshvaravarman. Họ mang về
nước rất nhiều nhạc công và vũ công
Chăm, chính những người này về sau
đã ảnh hưởng đến sự phát triển nghệ
thuật của Đại Việt. Do hậu quả để lại
của việc tàn phá, người Chăm đã rời
Bức phù điêu mô tả trận thủy chiến trên hồ
bỏ Indrapura vào khoảng năm 1000.
Tonle Sap giữa thủy binh Rang Đêy của
Trung tâm của Chăm Pa được chuyển
Champa với quân Khmer cuối năm 1177 tại
xuống Vijaya ở phía nam nằm trên
đền Bayon -Siêm Riệp).
đất tỉnh Bình Định ngày nay mà
người Việt bắt đầu gọi là Đồ Bàn hoặc Chà Bàn. Trong 5 thế kỷ tiếp theo giữa Chăm
Pa và Đại Việt đã xảy ra rất nhiều các cuộc chiến tranh, Chăm Pa đã chịu các đợt tấn
công của Đại Việt năm 1021, 1026, 1044. Tiếp đó, vào năm 1069 quân Việt tấn công
Chăm Pa. Vua Rudravarman bị bắt làm tù binh và sau đó đã đổi ba châu Địa Lý, Ma
Linh và Bố Chính ở phía bắc gần biên giới với Đại Việt để lấy tự do. Vào năm 1307
khi quan hệ giữa Cham Pa và Đại Việt tương đối tốt đẹp, vua Jaya Simhavarman
III (Chế Mân), đã nhượng hai châu Ô, Lý ở phía bắc cho Đại Việt làm của hồi môn để

cưới công chúa Huyền Trân nhà Trần. Sau sự kiện này, Chăm Pa chỉ còn lại lãnh thổ
từ sông Thu Bồn trở vào.
Vị vua hùng mạnh cuối cùng của người Chăm là Che Bonguar (Chế Bồng Nga) lên
ngôi năm 1360, từ năm 1371 đến 1389, ông tổ chức nhiều cuộc tấn công ra Thăng
Long kinh đô của Đại Việt, ông đã bị chết trong lần tấn công cuối cùng năm 1389 và
một vị tướng của ông là La Ngai (La Khải) rút về Vijaya và lên ngôi thay thế. Sau thời
kỳ Chế Bồng Nga, đến lượt Chăm Pa liên tục bị các vương triều Đại Việt tấn công và
bị mất dần lãnh thổ. Sau các cuộc tấn công vào các năm 1402 và 1446, tới năm 1471
vua Lê Thánh Tông chỉ huy tấn công Chăm Pa, phá hủy kinh đô Vijaya, vua Chăm
là Trà Toàn bị bắt sống và chết trên đường tới Thăng Long[18]. Lê Thánh Tông đã sáp
nhập các địa khu Amaravati và Vijaya và lập nên thừa tuyên Quảng Nam.
7


Theo sử Việt Nam, sau khi mất vùng Vijaya, một tướng Chăm là Bô Trì Trì chạy vào
nam chiếm vùng Panduranga xưng làm vua của người Chăm xin nộp cống xưng thần
với Đại Việt. Vua Lê Thánh Tông cũng phong vương cho tiểu vương xứ Kauthara
(Hoa Anh) tức là vùng đất tỉnh Phú Yên và Khánh Hòa ngày nay và nước Nam
Bàn (sau này là hai nước Thủy Xá và Hỏa Xá mà ngày nay là đất các tỉnh Gia
Lai, Kon Tum và Đăk Lăk tức miền đất Tây Nguyên). Chính thất bại này đã dẫn đến
việc người Chăm lần đầu tiên di cư với số lượng lớn sang Campuchia và Malacca.
1.7 Panduranga (1471 - 1832
Phần đất còn lại của vương quốc Chăm Pa từ sau năm 1471 mà sách sử người Việt
gọi là Chiêm Thành chỉ từ đèo Cả ngày nay trở về Nam gồm hai địa khu Kauthara và
Panduranga. Năm 1594 vua Chăm là Po At đã gửi lực lượng sang giúp Sultan xứ Johor
để tấn công quân Bồ Đào Nha ở Malacca.
Năm 1611 Nguyễn Hoàng đã thực hiện cuộc Nam tiến đầu tiên sau khi trấn giữ Thuận
Quảng. Tiến chiếm đất từ đèo Cù Mông (bắc Phú Yên) đến đèo Cả (bắc Khánh Hòa)
của vương quốc Chăm Pa khi đó đã suy yếu rất nhiều, lập thành phủ Phú Yên gồm hai
huyện Tuy Hòa và Đồng Xuân, giao cho Văn Phong trấn giữ.

Năm 1629, Văn Phong liên kết với người Chăm Pa nổi lên chống lại chúa Nguyễn.
Chúa Sãi cử Phó tướng Nguyễn Hữu Vinh đem quân dẹp yên, và đổi phủ Phú Yên
thành dinh Trấn Biên.
Năm 1631, chúa gả con gái là Ngọc Khoa (có sách gọi là Ngọc Hoa) cho vua Chăm Pa
là Po Rome. Cuộc hôn phối này làm quan hệ Việt - Chăm diễn ra tốt đẹp
Năm 1653, Bà Thấm quấy nhiễu ở đất Phú Yên, chúa Hiền cho 3000 quân sang đánh,
quân Nguyễn hạ được thành. Bà Thấm trốn chạy, sau phải dâng thư xin hàng, vùng
phía Đông sông đến địa đầu Phú Yên (vùng Kauthara) bị mất vào tay chúa Nguyễn,
chỉ còn phần phía Tây sông (vùng Panduranga) là thuộc về Chăm Pa.
Tới năm 1693, tướng Nguyễn Hữu Cảnh tấn công vào Panduranga, bắt vua Po Sout
đưa về Phú Xuân và đưa em trai của Po Sout là Po Saktiray Da Patih (Kế Bà Tử) lên
làm vua, Panduranga được đổi thành Thuận Thành Trấn và vua Chăm được gọi là Trấn
Vương cai trị Thuận Thành Trấn với sự giám sát chặt chẽ của các quan lại của chúa
Nguyễn. Chế độ tự trị này được duy trì cho đến tận năm 1832 qua các đời chúa
Nguyễn, thời Tây Sơn và thời kỳ đầu triều đại nhà Nguyễn. Tuy nhiên, các đời chúa
Chăm sau Po Saktiray Da Patih không còn duy trì được mối quan hệ trực tiếp với các
chúa Nguyễn và mọi công việc của Thuận Thành Trấn được tiến hành thông qua phủ
Bình Thuận.
Ngay sau khi Minh Mạng lên ngôi, ông phân bố lại hành chính, chia Bình Thuận trấn
thành 2 phủ Ninh Thuận và Hàm Thuận. Minh Mạng hạn chế hơn nữa quyền lực của
hoàng gia Chăm. Năm 1822, Chánh Chưởng (Cơng Can), vị vua cuối cùng của
Champa rời kinh đô Bal Canar (Tịnh Mỹ - Phan Rí) lưu vong tại Campuchia.
8


Năm 1832 người Chăm lại nổi dậy chống lại vua Minh Mạng nhân dịp có cuộc khởi
nghĩa Lê Văn Khôi ở phía Nam nhưng không thành công. Chính quyền tự trị hạn chế
của người Chăm chấm dứt tồn tại vào năm 1832, khi Hoàng đế Minh Mạng đổi Thuận
Thành thành phủ Ninh Thuận và đặt quan lại cai trị trực tiếp[26]. Lịch sử vương quốc
Chăm Pa chính thức dừng lại ở đây.

Lịch sử miền đất Tây Nguyên ngày nay sau khi tách khỏi lịch sử Chăm Pa vào năm
1471 còn chưa được các học giả quan tâm nghiên cứu. Mối quan hệ lịch sử giữa Chăm
Pa (trước thời Lê), Nam Bàn (thời Lê) và hai nước Thủy Xá, Hóa Xá (thời Nguyễn)
còn chưa được chứng minh. Tuy nhiên theo Cương mục thì vua Lê Thánh Tông phong
cho dòng dõi chúa Chăm Pa làm Nam Bàn quốc vương, đây là một quốc gia cổ sơ khai
của người Giarai và Ê đê và đất đai Nam Bàn chính là đất phụ thuộc Chăm Pa xưa
(trước thời Lê) và vào thời Nguyễn đấy chính là đất của hai nước Thủy Xá và Hỏa Xá
(tức Tây Nguyên ngày nay). Sau khi Chăm Pa bị sáp nhập hoàn toàn vào Việt Nam thì
hai nước Thủy Xá và Hỏa Xá của người Ê đê và Giarai tức miền đất Tây Nguyên ngày
nay vẫn giữ được độc lập nhưng trở thành phiên thuộc của nhà Nguyễn cho đến thời
Pháp thuộc.
2. Địa lý
2.1 Cương vực
Từ thế kỷ thứ 10 đến thế kỷ thứ 15, lãnh thổ của vương quốc Chăm Pa có nhiều
biến động về biên giới phía bắc với Đại Việt. Lãnh thổ Chăm Pa ban đầu là vùng mà
ngày nay bao gồm các tỉnh từ Quảng Bình, Quảng Trị cho đến Ninh Thuận, Bình
Thuận. Đến năm 1069, vua Rudravarman (Chế Củ) của Chăm Pa đã nhượng ba châu
Địa Lý (Lệ Ninh, Quảng Bình ngày nay), Ma Linh (Bến Hải, Quảng Trị ngày nay) và
Bố Chính (các huyện Quảng Trạch, Bố Trạch, Tuyên Hóa tỉnh Quảng Bình ngày nay)
cho vua Lý Thánh Tông của Đại Việt và lãnh thổ Chăm Pa chỉ còn từ nam Quảng
Trị ngày nay trở xuống.[32] Đến năm 1306, vua Jayasimhavarman III (Chế Mân)
nhượng hai châu Ô, Lý cho nhà Trần. Nhà Trần đổi hai châu này thành hai châu
Thuận và châu Hóa nay là vùng từ nam Quảng Trị cho đến Đà Nẵng, Điện Bàn. Đến
năm 1471, vua Lê Thánh Tông sau khi đánh bại quân Chiêm và sáp nhập phần lớn
lãnh thổ Chiêm đã xác lập lãnh thổ Chiêm chỉ bao gồm các tỉnh Phú Yên – Khánh
Hòa và Ninh Thuận – Bình Thuận ngày nay.
Về phía Tây, tuy lãnh thổ Chăm Pa bao gồm cả Tây Nguyên và đôi khi còn mở rộng
sang tận Lào ngày nay, nhưng người Chăm vẫn duy trì lối sống của những người đi
biển với các hoạt động thương mại đường biển, và chỉ định cư ở khu vực đồng bằng
ven biển miền Trung Việt Nam. Năm 1471, vua Lê Thánh Tông tách phần đất thuộc

Tây Nguyên ngày nay thành nước Nam Bàn[35] thành tiểu quốc gia sơ khai riêng cho
người Giarai và Ê đê và từ đây miền đất này không còn thuộc cương vực của Chăm
Pa.
9


2.2 Các địa khu
Kể từ năm 757, trên lãnh thổ Champa hiện diện 5 địa khu với tên gọi phát xuất
từ lịch sử Ấn Độ. Vị trí và cương vực của mỗi lãnh địa như sau:
 Indrapura (757 - 1471): Nay là làng Đồng Dương, huyện Thăng Bình,
tỉnh Quảng Nam.
 Amaravati (757 - 1471): Nay là thành phố Đà Nẵng và tỉnh Quảng Nam. Địa
khu này có hai trung tâm là thành phố Indrapura nằm ở khu vực Đồng Dương,
thuộc địa phận huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam và thành
phố Sinhapura nằm ở Trà Kiệu huyện Duy Xuyên, Quảng Nam ngày nay.
Và thánh địa Mỹ Sơn nằm ở cách Trà Kiệu khoảng 25 km về hướng tây nam,
nơi vẫn còn nhiều di tích đền tháp của người Chăm. Địa khu này lúc mở rộng
nhất còn bao gồm 5 châu: Bố Chính, Địa Lý, Ma Linh, và Ô, Rí mà sau này sáp
nhập vào Đại Việt qua hai đợt, tương ứng với thừa tuyên Thuận Hóa, ngày nay
là các tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị, và Thừa Thiên–Huế.
 Vijaya (757 - 1471): Thủ phủ cũng là thành phố cùng tên Vijaya mà trong sách
sử của người Việt gọi là Chà Bàn (thời Lê) mà sách sử Việt viết nhầm thành Đồ
Bàn [36]nằm ở gần Quy Nhơn thuộc tỉnh Bình Định ngày nay. Địa khu này bao
gồm toàn bộ khu vực tỉnh Bình Định và phần nào tỉnh Quảng Ngãi ngày nay.
 Kauthara (757 - 1653): Thủ phủ là thành phố Kauthara, nay là Nha
Trang thuộc tỉnh Khánh Hòa. Địa khu này bao gồm hai tỉnh mà ngày nay là
Khánh Hòa và Phú Yên
 Panduranga (757 - 1832): Thủ phủ là thành phố Panduranga ngày nay là thị xã
Phan Rang thuộc tỉnh Ninh Thuận. Địa khu này bao gồm hai tỉnh mà ngày nay
là Ninh Thuận và Bình Thuận. Panduranga là lãnh thổ Champa cuối cùng bị

Đại Việt sáp nhập. Dưới thời các chúa Nguyễn cũng như đầu thời Nguyễn được
gọi là Thuận Thành.
3. Những dấu ấn trong văn hóa Chăm Pa
3.1 Tôn giáo :
 Ân Độ giáo :
Ấn Độ giáo được du nhập vào Chămpa cùng với Phật giáo vào đầu công nguyên,
được nhân dân và triều đình tiếp nhận. Dựa vào các bia ký, các công trình kiến trúc,
các tác phẩm điêu khắc Chăm chúng ta có thể khẳng định cư dân Chăm theo Ấn Độ
giáo.
Các bia ký trước thế kỷ VII cho chúng ta biết nhiều về Balamôn giáo . Bốn bia ký
bằng chử Phạn Pallaya tìm thấy ở Quảng Nam và Phú Yên của vua Bhadravarman có
ghi chép về vị thần Bhadresvaramin. Ba trong bốn bia ký đó có ghi nhận lãnh địa dành

10


cho vị thần này. Còn bia ký ở Mỹ Sơn thì nói đến sự thành kính dành cho Mahesvara,
Uma, Brahma, Visnu…
Từ đầu thế kỷ VII, chúng ta biết về tôn giáo Chămpa qua những bia ký của vua
Sambhuvarman. Theo các chuyên gia, dưới thời Vua này trị vì, một thánh đường (hoặc
lãnh địa) thần của các thần (deva devàlaya) nghĩa là của Bhadresvara đã bị đốt phá và
được vua phục hồi lại. Từ đây, vị thần được đổi tên lại là Sambhubhadresvara, còn
thánh đường thì trở thành thánh đường quốc gia của nước Chămpa. Bia ký nói rằng
Sambhubhadresvara có thể “đem lại hạnh phúc cho đất nước Chămpa” (ghi chép xưa
nhất về cái tên Chămpa trong bia ký), một bia ký khác nói tới việc xây dựng một bàn
thờ, một bệ (vedi) bằng gạch bọc bạc và ở trên có đặt một bức tượng của Laksmi. Như
vậy, cho đến thế kỷ VII, Ấn Độ giáo mà chủ yếu là Siva giáo đã trở thnàh tôn giáo
chính thống của các vua chúa Chămpa, đã ra đời cả một thánh địa tôn giáo – khu Mỹ
Sơn, đã mọc lên nhiều đền thờ các thần Ấn giáo và nhiều tượng thần dưới những hình
dáng khác nhau được làm ra để thờ phụng.

Sau thời vua Sambhuvaman (595-629), đất nước Chămpa trải qua một thời kỳ bất ổn,
đến thời vua Vikrantavarman I (653-685) thì Chămpa mới ổn định và phát triển, sự
thịnh đạt của Chămpa kéo dài qua thời kỳ của vua Vikrantavarman II (686-731). Qua
những bia ký còn lại của hai vị vua này, chúng ta biết thêm nhiều về những ảnh hưởng
của Ấn Độ đối với tôn giáo Chămpa. Các bia ký còn chứng minh tầm quan trọng của
khu vực Mỹ Sơn và tiếp tục nhấn mạnh tầm quan trọng của Siva: “đáng kính trọng hơn
Brahma, Visnu, Indra, Surya, Asura, hơn những vị Bàlamôn và hơn những Rsi, các
vua chúa”. Và các bia ký thời vua Vikrantavaman I và II, chúng ta còn biết được,
Visnu giáo tồn tại song song với Siva giáo. Có 2 bia ký nói tới Visnu Purusottama
(đấng tối cao), “vị thầy của các thế giới được dựng lên theo lệnh nhà vua”. Bia ký tìm
thấy ở Trà Kiệu thì thuật lại việc xây dựng lại một thánh đường của đại Rsi Valmiki
(tác giả của bộ sử thi Ramayana).
Qua những bia ký thể hiện những hình ảnh của Ấn Độ giáo trong tôn giáo của người
Chămpa đã phần nào khẳng định được sự tồn tại khá quan trọng trong sự tín ngưỡng
tôn giáo của người Chăm, không chỉ vậy mà người Chăm còn cải biến cho phù hợp với
nền văn hóa bản địa. Trong quá trình tồn tại, tôn giáo này đã phát triển riêng trong
hoàn cảnh riêng của người Chăm và tương ứng với sự phát triển của lịch sử-văn hóaxã hội Chămpa.
Tiếp theo là những bia ký của Satyvarman và Vikrantavarman III ở Pô Nagar (Nha
Trang) có nói tới một linga được trang trí của người thầy của nữ thần Bhagavati. Ba
bia ký (hai của Indravaman I và một của Vikrantavarman III ) tìm thấy ở Phan Rang
nói nhiều tới Visnu giáo. Nhà vua còn so sánh mình với Vikrama.
Ngoài bia ký của vua, bia ký của các triều thần cũng cung cấp cho chúng ta nhiều tài
liệu quý về tôn giáo Chămpa thời Hoàn Vương. Quan trọng nhất vẫn là tấm bia ký của
Senapati Par – Tổng đốc tỉnh Pandurangapura – được tìm thấy ở Pô Nagar. Bia ca ngợi

11


vị tổng đốc “như một Narayana (Visnu) hiện thân” và cánh tay của ông được so với
“con rắn nâng cái dĩa trái đất chìm đắm trong đại dương của thời đại Kali”.

Tấm bia ở Bò Mưng xuất xứ từ một lâu đài đã bị phá hủy cách Đà Nẵng 15 km của vị
thượng thư của vua Indravarnam II tên là Manicaitya. Văn bản tấm bia mang màu sắc
Siva giáo. Nội dung tấm bia nói rằng vị thượng thư đã dựng một Mahalingadeva (thần
đại linga) thờ cha ông và một tượng Mahàdevi (đại nữ thần) cho Mẹ ông. Rõ ràng là
bia ký đã nói tới những cơ sở tôn giáo dành cho tổ tiên và ngẫu tượng để thờ phụng.
Những vị vua tiếp theo sau Jaya Paramesvaravarman là Bhadravarman III và
Ruđravarman III cũng có những tấm bia ký như bia ký ở Pô Nagar của Rudravarman
III có niên đại 1064 kể về những tặng phẩm của vua dâng cho vị thần Yan Pu Nagara.
Ngoài ra, vua còn cho xây cho thần một bên tượng, một cổng (torana), và đã cầu
nguyện Bhagavati – nữ thần của đô thị , “người vợ thần thánh có trăng lưỡi liềm tỏa
sáng” (vợ Siva).
Từ năm 1074, khi Harivarman IV lên ngôi, ông đã cho lập nhiều đền thờ ở Mỹ Sơn.
Bia Mỹ Sơn D3 ca ngợi và so sánh vua với các vị thần Ấn Độ: Krisna, Kama, Indra,
Brahama và Siva – gần hết các vị thần chính của Ấn Độ giáo (cả Siva và Visnu).
Không chỉ vua mà ngay cả Pô Nagar – nữ thần bản đại cao nhất của Chămpa cũng
được thờ phụng như một người vợ của Siva – nữ thần Bhagavati.
Những bia ký, những đền đài tượng thờ cũng đã phần nào thể hiện rõ được màu sắc
tôn giáo của Chămpa là Ấn độ giáo, nó được du nhập vào Chămpa và trở thành tôn
giáo chính của quốc gia cổ đại này. Tuy chưa tìm thấy được con đường du nhập những
phải khẳng định đó là quốc giáo của Chămpa trong cả một thời kỳ dài, điều đó cho
thấy được văn hóa Chămpa có sự giao lưu với văn hóa Ấn Độ.
 Phật giáo
Cũng như Ấn Độ giáo thì Phật giáo cũng được du nhập vào Chămpa từ Ấn Độ chứ
không phải từ Trung Quốc.
Bằng chứng đầu tiên để cho thấy Phật giáo đã có mặt ở Chămpa rất sớm, đầu tiên đó là
tấm bia Võ Cạnh (gần Nha Trang) có niên đại thế kỷ III – IV. Chỉ qua vài dòng chữ
Phạn viết theo kiểu chữ Amaravati như “Lokasyàya gatàgati” (sự chết hoặc sự phục
sinh của thế giới này) hay “Prajànàn kaura” (từ bi trắc ẩn đối với chúng sinh), các nhà
khoa học cho rằng , nội dung của tấm bia toát lên tư tưởng của Phật giáo. Với tấm bia
Võ Cạnh, chúng ta có một bằng chứng vật chất đầu tiên và cổ nhất ở Đông Nam Á nói

về Phật giáo ở khu vực này.
Bằng chứng thứ hai về Phật giáo thời kỳ đầu ở Chămpa là pho tượng Phật bằng đồng
có niên đại từ thế kỷ IV đến đầu thế kỷ VI tìm thấy ở Đồng Dương. VÌ pho tượng gần
như giống hoàn toàn với phong cách tượng Phật Amaravati của Ấn Độ, nên các nhà
nghiên cứu còn nghĩ rằng tượng Phật Đồng Dương có thể đem từ Ấn Độ tới.

12


Ngoài tượng Phật Đồng Dương, còn tìm được thân tượng Phật ở Quảng Khê (Quảng
Bình) và hình Phật trên phù điêu ở Phước Tịnh (phú Yên). Thân tượng ở Quảng Khê
gần với kiểu tượng Ấn Độ thế kỷ IV – VI ở Bagh II và Ajanta X, còn phù điêu Phước
Tịnh cũng thuộc thế kỷ IV – VI và gần với nghệ thuật tượng Phật Môn – Dvaravati.
Các sử liệu Trung Quốc còn
cho ta biết đôi điều về Phật
Giáo ở Chămpa buổi đầu. Nhà
sư Nghĩa Tịnh đã coi Chămpa
thế kỷ VII là một quốc gia kính
mến học thuyết Phật thích ca.
Vào đời nhà Tùy năm Đại
Nghiệp thứ nhất 605, Lưu
Phương đem quân từ Giao
Châu đi đánh Lâm Ấp và chiếm
được quốc đô. Lưu Phương vào
thành bắt hết người Chăm, thu
Các tượng phật ở bảo tàng Chăm – Đà Nẵng.
được 18 thần chủ bằng vàng
thờ trong miếu, hơn 1350 bộ
kinh Phật và nhiều sách viết bằng chữ Chiêm bà. Cho đến vương triều đầu tiên của
vương quốc Chămpa – vương triều Gangaraji (cuối thế kỷ II – đầu thế kỷ X), Phật

Giáo đã phổ biến rộng rãi ở khu vực phía Bắc (vùng Amaravati xưa) của Chămpa.
Thời Indrapura có để lại một số bia thuần mang nội dung Phật Giáo đại thừa. bia thứ
nhất trong số này là bia An Thái (Quảng Nam) có niêm đại năm 902 của một vị triều
thần tên là Sthavira Nagapuspa. Mục đích dựng bia là việc cúng hiến một Lokanatha
cho tu viện Pramuditalokesvara. Đoạn trình bày về tôn giáo ca ngợi Avalokitesvara
xuất hiện như một đấng đại từ bi trắc ẩn đã cho phép tất cả những người phạm tội thoát
khỏi địa ngục để Vajrapani giải phóng cho họ và đưa họ vào con đường của Phật.
Tấm bia ký thứ hai hoàn toàn mang tư tưởng Phật giáo đại thừa là bia ký Kon klor, có
niên đại 914, của một triều thần tên là Mahindravaman, bia ký nói về một cơ sở Phật
giáo của ông có tên là Mahindra – Lokesvara.
Từ sau thế kỷ X, Phật giáo đã giảm dần ảnh hưởng trước Ấn giáo, nhất là ở Phía nam,
tập trung nhiều hơn ở phía Bắc vương quốc Chămpa.
Dựa vào hình thức thể hiện thì Chămpa đã tiếp nhận gần như trọn vẹn cả hai tôn giáo
lớn của Ấn Độ là Ấn Độ giáo và Phật giáo. Hầu như các vị thần chính của Ấn giáo là
Siva, Visnu, Brahama đều được thờ phụg ở Chămpa. Theo Paul Mus thống kê trong
tổng số 128 bia ký quan trọng nhất tìm thấy ở Chămpa thì 21 bia không đề cặp đến
một vị thần nào, 92 bia nói về Siva và các thần Siva giáo, 3 bia nói về Visnu, 5 bia
Brahma, và 7 bia nói về Phật.
Nói chung, từ những khái quát về lịch sử du nhập cũng như sự tiếp nhận những tôn
giáo Ấn Độ ở Chămpa trong suốt quá trình lịch sử thì có thể nói rằng:
13


Suốt hơn 12 thế kỷ tồn tại, Chămpa liên tục lấy những tôn giáo Ấn Độ làm tôn giáo
của mình.
Ở Chămpa không có kỳ thị tôn giáo, mà nó bao trùm lịch sử lên lịch sử của quốc gia
cổ này. Người Chămpa tiếp nhận cả đức hiếu sinh, từ bi của Phật giáo, tình thương của
Visnu và cả tính hung bạo và quyền lực của Siva giáo.
Tuy nhiên, người dân Chămpa không bao giờ từ bỏ tất cả những gì mình có để theo
các tôn giáo Ấn Độ một cách thụ động. Ngay từ những ngày đầu lập quốc, người dân

Chămpa đã dùng những hình thức của tôn giáo Ấn Độ phủ lên những tín ngưỡng tôn
giáo bản địa của mình để tạo ra một thứ tôn giáo khá riêng cho Chămpa, mà một trong
những biểu hiện rõ nét là việc thờ phụng tổ tiên và các vị thần bản địa dưới dạng các vị
thần của Ấn Độ.
3.2 Chữ viết

Bia đá khắc chữ Phạn ở Mỹ Sơn

Qua những gì hiện còn và được biết,
chúng ta đã thấy chữ Phạn Sanskrit đã
được người Chămpa tiếp thu từ những
thế kỉ đầu công nguyên. Bia Võ Cạnh với
cách viết rất gần với kiểu viết của các bia
ký Amaravati ở Nam Ấn Độ đã được các
nhà nghiên cứu định niên đại ở thế kỉ IIIIV là bằng chứng đầu tiên về sự du nhập
chữ Phạn vào Champa. Từ thời điểm đó
cho tới khi vương quốc Champa chấm
dứt sự tồn tại của mình, chữ Phạn luôn là
chữ viết được dùng trong triều đại
Champa. Do chịu ảnh hưởng khá sâu sắc
của văn hóa Ấn Độ cho nên có một điều
rất đặc biệt là sự biến dạng tự chữ Phạn ở
Chămpa gần như đồng thời với sự biến đổi

ở Ấn Độ.
Nếu nhìn vào sự tiến triển của văn tự Sanskrit ở CHămpa, ta thấy từ trước thế kỷ IV –
bia Võ Cạnh là tài liệu duy nhất – chữ viết có dạng cong của Nam Ấn; rồi sau đó,
trong những thế kỷ VI -> VIII chử Phạn ở Chămpa lại có dạng tự vuông của Bắc Ấn;
rồi từ thế kỷ VIII trở đi, dạng tự chữ Phạn của Chămpa chuyển sang kiểu tròn của
Nam Ấn. Ngay từ sự diễn biến của chữ Phạn ở Chămpa cũng phần nào chứng tỏ giữa

Ấn Độ và Chămpa thời cổ luôn có sự giao lưu thường xuyên về văn hóa.
Vào thế kỷ IV, V, vua Bhadravarman đã cho khắc tấm bia (bia Đông Yên Châu) bằng
chữ Chămpa có nói về vị thánh Naga của nhà vua, xét về dạng từ, chữ Chămpa cổ
được viết theo dạng cong như của Nam Ấn. Và ở bia này thì cũng đã xuất hiện xu
hướng cải biến văn tự kiểu chữ thảo (chữ cong – akhar tharah) của Ấn Độ bằng cách
14


bỏ các ký hiệu phụ ghi âm vốn không có trong tiếng Chăm. Sau đó một số ký hiệu
được bổ sung, một số ký hiệu viết trên hoặc dước dòng được đưa về cùng hàng với ký
hiệu cơ bản. Theo các nhà nghiên cứu, tiếng Chăm có 65 ký hiệu, trong đó có 41 chữ
cái (6 nguyên âm và 35 phụ âm) và 24 chân chữ bắt nguồn từ hệ thống chử thảo (akhar
thrah) của Ấn Độ. Theo nhà nghiên cứu ngôn ngữ và chữ viết Chăm nổi tiếng A.
Cabaton cho rằng, trong suốt quá trình lịch sử, người Chăm đã dùng một số kiểu chữ
Ấn Độ như akhar rik (chữ thánh), akhar tapuk ( chữ sách), akhar ator (chữ treo), và
phổ biến hơn cả là chữ thảo (akhar thrah). Chữ thảo là loại chữ mà người Chăm hiện
nay còn sử dụng.
Do chịu sự ảnh hưởng khá sâu sắc của văn hóa Ấn Độ, cho nên, cũng như ở các nước
ĐNA khác, vua chúa Chămpa thường dùng chữ Phạn để bày tỏ ý tưởng của mình đối
với các thần linh. Các bia ký Chămpa bằng chữ Phạn được viết chủ yếu theo những thể
thơ phổ biến của Ấn Độ như: Arya, Slôca, Upajati, Malini, Sikharini, SardulaviKridita,
…Nói chung thì cũng như về đời sống chính trị, tôn giáo, hầu như tất cả những trước
tác về pháp luật, chính trị, tôn giáo của Ấn Độ đều đã có mặt ở Chămpa, được các vua
chúa Chămpa rất ưa thích. Và chìa khóa để đến với điều đó là chữu viết, vì vậy cho ta
thấy được cũng như tôn giáo thì chữ viết cũng ảnh hưởng từ Trung Quốc.
3.3 Văn học – Nghệ thuật
 Văn học
Do nhiều nguyên nhân lịch sử, mà chúng ta hiện nay không có một văn bản năn
học cổ nào của Chămpa. Nhưng bia kí và những tác phẩm nghệ thuật diêu khắc lại cho
biết hầu như tất cả tác phẩm văn học cổ đại nổi tiếng của Ấn Độ đều đã có mặt và

được biết đến ở Champa. Bia kí thế kỉ VII-VIII của hai vị vua Vikrantavarman I và II
có nói tới việc dựng đền thờ cho “đại Rsi Valmiki”, tác giả của bộ sử thi cổ đại nổi
tiếng Ramayana của Ấn Độ. Việc thờ Valmiki chứng tỏ ngay từ thế kỉ VII, tác Phẩm
Ramayana của Ấn Độ đã được biết đến ở Champa. Bằng chứng là, trong Lĩnh Nam
chích quái, tập truyện cổ dân gian thế kỉ XV của người Việt do Vũ Quỳnh – Kiều Phú
biên soạn có truyện Da Thoa hay còn có tên khác là Chiêm Thành truyện. Tuy rất ngắn
nhưng lại tóm tắt được hầu như toàn bộ nội dung sử thi Ramayana.
Có lẽ hiện vật vật chất duy nhất còn lại chứng tỏ sự hiện diện của sử thi Ramayana là
bốn bức phù điêu thế kỉ X (Bảo tàng Chăm Đà Nẵng) minh họa một vài cảnh được rút
ra từ sử thi, tuy không đầy đủ nhưng dễ nhận ra các nhân chính của sử thi là Rama,
Sita, Hanuman, Lashman,… trên bốn bức phù điêu của Champa.
Các bia kí ở Đồng Dương và Pô Naga nói tới các vị tổ huyền thoại của các vị vua
Champa là những người trong dòng họ Pandava đã phần nào nói lên sự phổ biến của
bộ sử thi nổi tiếng thứ hai của Ấn Độ - sử thi Mahabharata - ở Champa. Theo những
nghiên cứu gần đây, bức phù điêu mang kí hiệu 47-7 ở bảo tàng Chăm - Đà Nẵng có
xuất xứ từ thành Bình Định thể hiện cảnh Ácgiunna cùng hoàng tử Utara ra trận, một
trong những tình tiết quan trọng của sử thi Mahabharata. Những hình khắc trên bốn
15


mặt của bệ tượng Trà Kiệu (thế kỷ X) nổi tiếng thể hiện cảnh tượng tiêu biểu rút ra từ
bộ Bhagavata purana. Như vậy là không chỉ là các bộ sử thi mà các truyện cổ tích
(purana) của Ấn Độ đã có mặt ở Chămpa.
Ngoài những hình phù điêu thể hiện các nội dung một thần thoại hay truyền thuyết Ấn
Độ nào đó, hàng chục hình ảnh tượng trưng trên phù điêu đá của Chămpa cũng là hình
ảnh những vị thần của hệ thống thần thoại Ấn Độ, trên các điêu khắc Chămpa hình ảnh
của hầu như tất cả các vị thần lớn nhỏ của Ấn Độ: Brahama cùng vợ là Krisna; Siva
cùng các vợ là Uma, Bhagavati, Durga và các con là Skanda và Ganesa, các tiên nữ
Apsara và các nhạc công thiên giới Gandharva.
Như vậy, qua bia kí và những tác phẩm nghệ thuật điêu khắc, chúng ta thấy ở Champa

đã có mặt hầu như toàn bộ những tác phẩm văn học nổi tiếng cũng như các hệ thống
thần thoại và truyền thuyết thuộc những tôn giáo khác nhau của Ấn Độ.
 Nghệ thuật
-

Điêu khắc

Kiến trúc và điêu khắc ở
thân thápPoKlongGarai trong
thế kỷ 13

Ngay từ những thế kỷ đầu công nguyên , nghệ
thuật điêu khắc tôn giáo của Ấn Độ đã du nhập vào
Chămpa và được người Chăm pa tiếp nhận. Những
tác phẩm của phong cách Mỹ Sơn E1 phản ánh ảnh
hưởng nghệ thuật Dvaravati và miền Nam Ấn Độ.
Tiêu biểu cho phong cách Mỹ Sơn E 1 là ở bệ thờ
bên trong tháp làm bằng đá cát kết có hình dạng
linga tượng trưng cho ngọn núi là nhà của thần Siva, xung quanh có chạm các tu sĩ đang tu luyện
trong rừng núi hay hang động, với các hình dạng
như đang chơi các loại nhạc cụ khác nhau, đang
giáo hóa cho các loài vật và cả đang thư giãn. Một
công trình tiêu biểu nữa là phù điêu ở trên lối vào
chính chạm khắc buổi bình minh thời đại theo thần
thoại Ấn độ. Thần Visnu đang nằm ngủ ở dưới đáy
biển, trên giường là rắn thần Sesha. Một bông hoa
sen từ từ mọc lên từ rốn của thần. Thần Brahma từ
từ đứng lên trong bông hoa sen đó để tạo ra cả vũ

trụ này.

Cũng như ở Ấn Độ, nghệ thuật điêu khắc Chămpa chủ yếu là nghệ thuật tôn giáo và
phục vụ cho việc thờ cúng thần linh. Thế nhưng ở Chămpa tôn giáo và vương quyền
gần như hòa quyện vào nhau, tôn thờ thần linh đồng nghĩa với tôn thờ vua. Vì vậy
nghệ thuật điêu khắc cổ Chămpa có thêm một chức năng mới: phụng sự vương quyền,
và do đó rất được vua chúa và tầng lớp trên coi trọng. Các vua Chămpa thường xuyên
dâng cúng tượng thờ cho các điện tháp và luôn quan tâm đến việc bảo vệ giữ gìn các
hình tượng thờ cúng. Đó chính là nguyên nhân quan trọng khiến cho nghệ thuật điêu
16


khắc mang tính tôn giáo của Ấn Độ có điều kiện nhanh chóng phát triển ở Chămpa. Vì
mang thêm chức năng phục vụ cho vương quyền, nên mặc dù vẫn tuân theo những
thánh thức của Ấn Độ, điêu khăc Chămpa đã chuyển sang một hướng mới: tập trung
thể hiện biểu tượng và các hìn ảnh của các vị thần, vì thần chính là vua là các tổ tiên
của hoàng gia.
Cũng như kiến trúc, trước thế kỷ VII điêu khắc Chăm pa rất gần gũi với phong cách
nghệ thuật Ấn Độ. Các tháp thuộc giai đoạn này đều đơn giản, làm bằng gạch nung
màu đỏ, có chân đế là một khối hình chữ nhật, các mặt tháp đều có bố trí mi cửa ẩn,
trừ hướng có cửa chính, trên đó có nhiều hình điều khắc của các vị thần. Mi cửa được
đỡ bằng bộ khung các trụ bổ tường cao và hẹp cùng các đầu cột xòe ngang. Cũng
chính các trụ bổ tường này đỡ vòm cửa. Trên vòm và trên các trụ bổ tường có chạm
khắc các phù điêu theo thần thoại Ấn độ, với các chạm khắc tập trung chính ở đầu cột.
Mái tháp thường gồm ba tầng, mỗi tầng đều có bao lơn nhỏ ở phía trên mi cửa. Bên
trong tháp đều có bệ thờ với hình ảnh triều đình theo kiểu Ấn độ.
Từ thế kỷ VII trở về sau, các nhà điêu khắc Chăm pa đã tạo cho mình những phong
cách riêng như Đồng Dương thì mạnh mẽ khỏe khoắn, trang nhã của Trà Kiệu, thô
phác và cầu kỳ của Tháp Mẫm, nhưng qua đó vẫn có những hình tượng và đề tài Ấn
Độ. Sự có mặt của tượng Phật ở Chăm pa trong giai đoạn Sinhapura, trong nhóm
“tượng Phật giáo” có những phù điêu tượng Phật ngồi trên gắn Nagar giữa hai stupa ở
Phước Tịnh, Phú Yên, được Pierre Dupont cho là có liên quan đến nghệ thuật

Dvaravati. Rồi như chiếc lá nhĩ ở Mỹ Sơn F1 thể hiện cảnh quỷ Ravana lay động núi
Kailasa là một trong những những chủ đề điêu khắc rất phổ biến của Ấn Độ.
Trước khi có sự ảnh hưởng của Ấn Độ, ở Chăm pa chưa có truyền thống xây dựng đền
tháp mang tính biểu tượng sâu sắc và bằng vật liệu bền, chưa quen việc thể hiện các
hình tượng lên trên mặt đá như ở Ấn Độ, nên người Chăm pa đã tiếp nhận một cách
triệt để nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc của người Ấn, hầu hết các mô hình đền tháp
cũng như các hình tượng thần linh... của kiến trúc và điêu khắc Chăm pa đều có nguồn
gốc từ Ấn Độ. Cũng như ở Ấn Độ, những đền tháp lớn của Chăm pa là hình ảnh cho
biểu tượng thần núi Mêru. Tuy nhiên dần về sau này, do bản địa hóa mà trong điêu
khắc của mình các nhà điêu khắc Chăm pa đã có những lối sáng tạo riêng, tuy nhiên
qua đó vẫn là những hình ảnh những câu chuyện của Ấn Độ vẫn được sử dụng trong
điêu khắc của người Chăm.
-

Âm nhạc

Cho đến nay không có 1 văn bản nào nói về âm nhạc của vương quốc Chămpa, vì vậy
mà nguồn tài liệu duy nhất giúp chúng ta hiểu về nền âm nhạc là chỉ qua những hình
điêu khắc đá. Đối với người Chăm, âm nhạc có vai trò rất quan trọng, nhất là đối với
các lễ nghi và lễ hội mang tính tôn giáo.
Ấn Độ có tác động mạnh mẽ đối với âm nhạc cổ Chămpa. Tuy không nhiều nhưng
những truyền thống âm nhạc xưa của Ấn Độ vẫn còn phảng phất ít nhiều trong âm
nhạc hiện đại của người Chăm.
17


Trong dàn nhạc truyền thống của người Chăm gần giống như ở Ấn Độ, các loại trống
bao giờ cũng giữ một vai trò quan trọng, hầu như xuất hiện trong mọi dàn nhạc lớn
nhỏ. Nếu phân tích kỹ hơn ta sẽ thấy trống kynăng của người Chăm có nhiều nét tương
đồng với trống tabla và trống mriđăng của Ấn Độ.

Trống mriđăng là kiểu trống cổ nhất ở Ấn Độ
(phổ biến ở miền Nam Ấn Độ), hiện nay trống
mriđăng được làm bằng gỗ, hai mặt trống bọc
bằng da dê và được giữ bằng dây da nối với nhau
qua tang trống, giữ một mặt trống được đắp nổi
một cái u bằng cơm dính, còn mặt kia để trơn.
Ngoài mriđăng, trong dàn nhạc còn có các loại
trống khác như Maddalam, Chela.

Dàn nhạc truyền thống Chăm

Trong khi đó ở Bắc Ấn Độ, lại phổ biến hai loại
trống Phavat và Tabla, phavat về cơ bản giống
trống mriđăng, còn tabla lại có cấu tạo hệt như
tách đôi hai mặt của mriđăng. Khi đánh nhạc công
dùng tay trái vỗ lên một mặt, tay phải vỗ lên mặt
kia.

Như trống mriđăng, trống kynăng có hai mặt định âm: mặt dương tạo âm vang khỏe,
mặt âm tạo âm đục, trầm: như tabla, trống kynăng được dùng theo từng cặp. Còn hai
thanh chính là “pìng” (trầm) và “pik” (bổng) của trống baranưng lại như mô phỏng
chức năng của hai mặt trống mriđăng.
Cả 2 loại trống mriđăng và tabla đều đã có mặt trên những hình khắc của Chămpa
(trống mriđăng ở các lá nhĩ Mỹ Sơn C1, A`1 và mriđăng ở nhà Chánh Lộ; trống tabla
ở phù điêu Phong Lệ).
Hiện vật tìm thấy là nhạc công ở bệ vũ nữ Trà Kiệu đang chơi một nhạc cụ 7 dây (đàn
thất huyền) mà tang là nữa quả bầu. Có thể nói, cũng như ở bệ tượng , vũ nữ và nhạc
công đang múa và đang chơi một nhạc cụ Ấn Độ-đàn vina. Đàn vina, ở Ấn Độ từ xưa
tới nay được coi là nhạc cụ truyền thống tiêu biểu nhất, và ở Chămpa, ta thấy xuất hiện
2 kiểu vina: kiểu cổ và kiểu mới, kiểu vina thụ cầm, như những tài liệu điêu khắc thể

hiện, có mặt ở Chămpa ngay ở giai đoạn trước thế kỷ VII (đài thờ Mỹ Sơn E1) và còn
tồn tạo cho đến thế kỷ X (lá nhĩ thể hiện Siva đang múa ở Phong Lệ). Ở thế kỷ X,
(nhạc công của phong cách Trà Kiệu), kiểu đàn vina mà bầu cộng hưởng tròn làm
bằng vỏ quả bầu và phím dài đã phổ biến trong các dàn nhạc Chămpa. Như vậy chỉ
qua cây đàn vina, ta đã thấy hai đợt ảnh hưởng của Ấn Độ tới Chămpa, là trước thế kỷ
VII và thế kỷ VIII.
Như đã thấy thì âm nhạc của Ấn Độ ảnh hưởng rất nhiều đến âm nhạc của Chămpa,
hầu như toàn bộ những nhạc cụ truyền thống của Ấn Độ đều có ở Chămpa và nó được
thể hiện qua các điêu khắc.
18


-

Múa

Có thể nói vì nghệ thuật múa Ấn Độ mang tính chất nhà nghề cao, nên hiện nay
trong nghệ thuật múa hiện đại người của người Chăm, chúng ta ít thấy những ảnh xạ
của truyền thống Ấn Độ. Và có một điều là múa Chămpa hiện nay còn không ít những
yếu tố của nguồn gốc từ Ấn Độ: vai trò của các vũ nữ tại các lễ hội ở các đền tháp (dấu
ấn của các vũ nữ chuyên phục vụ các thần của Ấn Độ giáo), tính độc diễn của từng vũ
nữ, tính chuyên nghiệp và có bài bản, ngôn ngữ hình tượng của các động tác tay, chân
và thân mình; vai trò của tiếng trống với các điệu múa, có thể là những gì còn lại của
truyền thống Ấn Độ xưa trong nghệ thuật múa hiện đại của người Chăm. Ví dụ ở Ấn
Độ có những điệu múa dân chài kolyahca và điệu múa karakun (múa đội hũ gạo lên
đầu) kiểu như múa vãi chài và múa đóa pu của người Chăm hiện đại.
Mặc dù chỉ được biết qua những hình ảnh khắc chạm trên đá, chúng ta đã thấy phần
nào vai trò to lớn như thế nào của truyền thống Ấn Độ đối với nghệ thuật âm nhạc và
múa của Champa. Ở đài thờ Mỹ Sơn E1 có hình hai nhạc công: một thổi sáo và một
đánh thụ cầm, và hình ba vũ nữ đang múa, trên mặt đứng của bậc tam cấp, ba vũ nữ

trình diễn điệu múa nào đó với chiếc khăn trong tay dang rộng giơ lên cao với đôi chân
hoặc choãi rộng ra ở vũ nữ trung tâm hoặc một chân choãi một chân gập ở hai vũ nữ
hai bên, các vũ nữ mặc y phục, động tác và tư thế vặn mình thành tam khúc của các vũ
nữ là rất Ấn Độ.
Và ở Mỹ Sơn C1 và A`1 ta thấy thần Siva đang múa vũ điệu Tandava thần thánh, cùng
với sự có mặt của rắn Naga trên tay thần, của Parvati (vợ thần), Skanda, ganesa (con
thần)… cho biết vũ điệu Tandava mà vị vua vũ đạo đang múa là điệu múa tượng trưng
cho sự sáng tạo. Theo thần thoại Ấn Độ, trong vũ điệu tandava này, Siva là hiện thân
cho cội nguồn muôn loài, điệu múa của thần là khởi dầu cho sự chuyển động, lời của
thần hát là tất cả của mọi âm thanh của thế giới. Bằng vũ điệu của mình, Siva đã sáng
tạo ra thế giới, tiêu diệt điều ác và sự mê muội, giải thoát linh hồn của những người
chết khỏi sự lừa dối của những cảm xúc và ảo ảnh trần tục. Ngoài ra, 2 lá nhĩ Mỹ Sơn
C1 và A`1 rất gần với phong cách cũng như hình tượng Siva múa ở Badami và Elora
của Ấn Độ, người đệm nhạc cho Siva múa ở hai bức phù điêu này là thiên nhân
Bhangi gày gò đang đánh trống.
Và ở thế kỷ X có một số bức phù
điêu vào loại đẹp nhất của điêu
khắc cổ Chămpa lại là những hình
thể hiện các nhạc công và vũ nữ, đó
là bệ tượng Trà Kiệu có 4 mặt chạm
khắc minh họa tác phẩm
Bhayavatapurana của Ấn Độ. Theo
nhà nghiên cứu J. Boisselier, hầu
như tất cả những Apsara Trà Kiệu
đều mang dấu ấn của nghệ thuật Ấn
Nhạc công ở bệ tượng vũ nữ Trà Kiệu19


Độ: kiểu quần cụt, đồ trang sức, tiêu chuẩn về cái đẹp của phụ nữ (cặp vú nở nang,
háng rộng, nét thanh tú và hấp dẫn của cơ thể), tư thế và động tác nhảy múa. Tuy đầu

và mình các Apsara có quay theo hướng khác nhau nhưng các tư thế và động tác tay
gần như thống nhất: hai chân chùng xuống rồi dạng hai đầu gối về hai bên, tay trái gập
lại để tì bàn tay lên bấp vế trái, tay phải gập lại đầu bàn tay lên cao ngang đỉnh đầu.
Ở bệ vũ nữ Trà Kiệu, cô vũ nữ cũng mặc chiếc quần cụt như các Apsara ở bệ tượng,
nhưng động tác múa có hơi khác. Nhạc công ở bệ vũ nữ Trà Kiệu đang chơi một loại
nhạc cụ 7 dây (đàn thất huyền) mà tang là nửa quả bầu. Có thể nói, cũng như ở bệ
tượng, vũ nữ và nhạc công ở bệ vũ nữ dang múa theo kiểu Ấn Độ và đang chơi một
loại nhạc cụ Ấn Độ - một kiểu đàn Vina.
Sang thế kỷ XI, phong cách nghệ thuật điêu khắc Chánh Lộ, có một số hình khắc thể
hiện múa và dàn nhạc. Lá Nhĩ Chánh lộ thể hiện Siva với 4 tay đang múa, lá nhĩ Thu
Bồn thể hiện Siva múa trên lưng bò Nanin. Ngoài ra còn một lá Nhĩ thể hiện Sarasvati
(vợ thần Brahma- nữ thần học vấn , trí thức, nghệ thuật và thơ ca) đang múa trong một
tư thế đẹp: chân trái chùng xuống đạp lên mặt đất làm điểm tựa, chân phải hơi co lên
chi để đầu mút các ngón chân chạm đất, tay trái khuỳnh ra và tựa bàn tay vào hông, tay
phải cũng khuỳnh ra nhưng tựa vào bắp vế rồi xòe bàn tay ra, đầu và thân mình thẳng
đứng.
Mặc dù, chỉ được biết qua những hình ảnh chạm khắc trên đá, nhưng chúng ta đã phần
nào thấy được vai trò to lớn như thế nào của truyền thống Ấn Độ đối với nghệ thuật
âm nhạc và múa của Chămpa. Có thể nói Champa đã tiếp nhận một cách có bài bảng
và nghiêm túc những hình tượng về âm nhạc và vũ đạo của Ấn Độ đến nỗi chúng ta
khó có thể tìm ra cái gì là yếu tố bản địa trong từng động tác múa hay từng nhạc cụ đã
được ghi lại trên những hình chạm khắc còn lại của người Chăm.
4. Di sản ngày nay
Rất nhiều tháp cổ của người Chăm vẫn còn ở miền Trung Việt Nam. Một điển hình
về kiến trúc là thánh địa Mỹ Sơn gần Hội An. Thánh địa Mỹ Sơn bị bom Mỹ hủy hoại
nặng nề trong chiến tranh nhưng đã được phục chế lại sau chiến tranh từ thập niên
1980 với những đóng góp to lớn của kiến trúc sư Ba Lan Kazimierz Kwiatkowski
(1944-1997). Năm 1999, thánh địa Mỹ Sơn được UNESCO công nhận là di sản văn
hóa thế giới.
Ngoài ra còn có các di tích tháp Chăm ở miền Trung vẫn được cộng đồng người Chăm

hiện nay sử dụng để thờ tự như:





Tháp Po Nagar (Khánh Hòa)
Tháp Po Klong Garai (Ninh Thuận)
Tháp Po Rome (Ninh Thuận)
Tháp Po Sha Inư (Bình Thuận)
20


Các hiện vật điêu khắc Chăm phong phú nhất có tại Bảo tàng Chăm Đà Nẵng (trước
đây là "Musée Henri Parmentier") ở thành phố biển Đà Nẵng. Viện bảo tàng được
thành lập từ năm 1915 bởi học giả người Pháp và đến nay vẫn được xem là một trong
những bảo tàng lớn ở Đông Nam Á. Các hiện vật Chăm cũng có mặt tại các viện bảo
tàng khác như:
 Bảo tàng Mỹ thuật, Hà nội
 Bảo tàng Lịch sử, Hà nội
 Bảo tàng Mỹ thuật, TP HCM
 Bảo tàng Lịch sử, TP HCM
 Bảo tàng Guimet, Paris
5. Nhận xét
Vương quốc Chămpa xưa là một quốc gia cổ thuộc khu vực Đông Nam Á. Do có vị
trí đặc biệt thuận lợi nên đây được coi là nơi giao lưu của các nền văn hóa lớn như
Trung Hoa, Java... và đặc biệt là Ấn Độ . Văn hóa Ấn Độ có ảnh hưởng đến hầu hết
các phương diện về văn hóa vật chất và tinh thần của người Chăm ở vương quốc cổ
này. Dấu ấn của văn hóa Ấn Độ được thể hiện trên các khía cạnh: tôn giáo (Ấn Độ
giáo và Phật giáo), chữ viết, văn học nghệ thuật (điêu khắc, âm nhạc, múa). Trải qua

quá trình lịch sử dài lâu, Chămpa là nơi lưu giữ những giá trị văn hóa của Ấn Độ ổn
định và rộng khắp các yếu tố của nền văn hóa đó. Và cũng chính vì vậy mà những ảnh
hưởng của văn hóa Ấn Độ trở nên bền vững và trở thành một yếu tố quan trọng cấu
thành nền văn hóa Chăm cũng như sự hình thành và phát triển của vương quốc Chăm
pa.

21


KẾT LUẬN
Với điều kiện vị trí địa lý thuận lợi, Chămpa đã là nơi qua lại của nhiều thương
nhân cũng như là các nhà truyền giáo, trong đó Ấn Độ đã đến với Chăm pa, tuy chưa
có những chứng cứ để xác định được việc truyền bá văn hóa Ấn Độ vào Chăm pa,
nhưng những ảnh hưởng của của Ấn Độ đã phần nào phản ánh được tình trạng đó.
Ảnh hưởng của Ấn Độ vào Chămpa chủ yếu là vương quyền, và cũng chính vì là
vương quyền nên những ảnh hưởng của Ấn Độ không chỉ có đất bén rễ mà còn được
thúc đẩy phát triển nhanh hơn, toàn diện hơn và rộng khắp hơn. Vì vậy mà ở Chăm pa,
những ảnh hưởng khá rõ nét của Ấn Độ được phản ánh trong tất cả những gì còn để
lại. Và cũng vì vậy mà toàn bộ những nền văn hóa như tôn giáo, chữ viết, văn học,
nghệ thuật đều có những ảnh hưởng rất đa dạng trong cách thể hiện của bản thân nền
văn hóa Chămpa.
Do nhiều hoàn cảnh địa lý, lịch sử và văn hóa chi phối, Chămpa là nơi lưu giữ những
giá trị văn hóa của Ấn Độ ổn định và rộng khắp các yếu tố của nền văn hóa đó. Và
cũng chính vì vậy mà những ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ trở nên bền vững và trở
thành một yếu tố quan trọng cấu thành nền văn hóa Chăm.

22


TÀI LIỆU THAM KHẢO

A. Tài liệu sách:
1. Ngô Văn Doanh, Văn hóa chămpa, Văn hóa thông tin, Hà Nội, 1994
2. Nguyễn Đình Đầu, ViệtNam quốc hiệu và cương vực qua các thời đại, Nxb
TpHCM, 2005
3. Lê Bá Thảo, ViệtNam lãnh thổ và các vùng địa lý, Nxb Thế giới, 2001
4. Trần Ngọc Thêm, Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb Tổng hợp Tp HCM,
2007
5. Trần Quốc Vượng, Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo dục, HN, 1998
B. Tài liệu từ các Website:
1. />2. />3. />4. />5. />6. />
23



×