Tải bản đầy đủ (.doc) (98 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ vai trò hệ thống chính trị tỉnh BÌNH PHƯỚC trong công tác đối ngoại NHÂN dân HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.14 MB, 98 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Lịch sử dân tộc Việt Nam gắn liền với những cuộc chiến đấu ngoan
cường chống lại giặc ngoại xâm để giữ vững độc lập chủ quyền của đất nước,
song cũng đã luôn luôn chú trọng đến kế sách thêm bạn bớt thù thông qua con
đường đối ngoại. Đây là một truyền thống và mang bản sắc độc đáo đầy hào
khí, giàu tính nhân văn, hoà hiếu của dân tộc: “Đem đại nghĩa để thắng hung
tàn, mở nền muôn thuở thái bình…”. Đó là những tư tưởng, triết lý ngoại giao
vượt thời đại của các thế hệ ông cha để lại vẫn còn nguyên giá trị. Những
truyền thống và bản sắc tốt đẹp ấy càng được bồi đắp, phát huy và toả sáng
trong thời đại Hồ Chí Minh, đã hình thành nền đối ngoại nhân dân Việt Nam
gắn với tư tưởng và phong cách đối ngoại nhân dân Hồ Chí Minh. Cùng với
các mặt trận chính trị, quân sự, kinh tế, văn hoá…, mặt trận đối ngoại luôn
đóng vai trò trọng yếu trong sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta, góp phần
tạo nên những thắng lợi hết sức to lớn, làm rạng rỡ lịch sử của dân tộc. Đối
ngoại nhân dân đã trở thành một “binh chủng” quan trọng, một lực lượng có
vai trò quan trọng trực tiếp tham gia hoạt động đối ngoại nhân dân đó là hệ
thống chính trị cấp tỉnh.
Hiện nay, những diễn biến phức tạp của tình hình thế giới và khu vực
đang tác động sâu sắc, toàn diện đến sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa nói chung và ở tỉnh Bình Phước nói
riêng. Quá trình toàn cầu hoá, hội nhập quốc tế, phát triển kinh tế tri thức,
cuộc cách mạng công nghiệp thứ tư, những tranh chấp, chủ quyền lãnh
thổ, trên đất liền và ở Biển Đông đang diễn biến phức tạp, đe dọa đến nền
hòa bình, ổn định của Khu vực Đông Nam Á và của Việt Nam. Bên cạnh
đó, các thế lực thù địch và cơ hội chính trị đang triệt để lợi dụng những
chuyển biến lớn của tình hình thế giới và khu vực, đặc biệt là khai thác
các vấn đề tôn giáo, dân tộc, dân chủ, nhân quyền, đa nguyên chính trị, đa
đảng đối lập, an ninh phi truyền thống, khủng bố quốc tế và những vấn đề



toàn cầu để chống phá Việt Nam... Vì thế, việc phát huy vai trò của công tác đối
ngoại nói chung trong đó có đối ngoại nhân dân cần được xem như là phương
thức quan trọng để bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, đảm bảo cho sự phát triển ổn
định của đất nước trong tình hình hội nhập quốc tế, phát triển toàn diện hiện nay.
Hệ thống chính trị cấp tỉnh có vai trò quan trọng đối với công tác đối
ngoại nhân dân. Bởi vì, đối ngoại nhân dân là một trong ba trụ cột của công
tác đối ngoại, đối ngoại nhân dân đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của
nhà nước, với sự tham gia của các tổ chức chính trị - xã hội, đoàn thể nhân
dân. Nhận thức về vai trò của HTCT trong công tác đối ngoại nhân dân, trong
những năm qua các cấp ủy Đảng, chính quyền, ban, ngành, đoàn thể ở tỉnh
Bình Phước đã quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức và đổi mới, nâng cao chất
lượng công tác đối ngoại nhân dân. Tỉnh Bình Phước là một tỉnh miền núi, có
260,433 km biên giới với Campuchia, có 41 dân tộc anh em sinh sống, hầu hết
là mới di cư đến từ sau năm 1975 đến nay, các thế lực thù địch đang ra sức kích
động tư tưởng kỳ thị dân tộc, gây chia rẽ phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc
trên địa bàn và với nước bạn Campuchia để thực hiện âm mưu “Diễn biến hòa
bình” bạo loạn lật đổ.
Thực trạng những năm qua, hệ thống chính trị cấp tỉnh ở tỉnh Bình
Phước đã thực hiện vai trò trong công tác đối ngoại nhân dân đạt được những
thành tựu, nhưng cũng còn có những bất cập. Việc nghiên cứu làm rõ cơ sở lý
luận, thực tiễn và đề ra giải pháp sẽ góp phần nâng cao chất lượng công tác đối
ngoại nhân dân ở tỉnh là cấp thiết. Với những lý do trên đây, tác giả đã lựa
chọn đề tài “Vai trò của hệ thống chính trị tỉnh Bình Phước trong công tác đối
ngoại nhân dân hiện nay” làm đề tài luận văn cao học.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Nghiên cứu về vai trò của HTCT đối với hoạt động nào đó đã có nhiều
công trình, đề tài tiếp cận ở những hướng khác nhau. Nhưng nghiên cứu về
phát huy vai trò của HTCT đối với công tác đối ngoại nhân dân ở một địa
phương cụ thể là tỉnh Bình Phước thì chưa có nhiều. Do đó, để xác định
2



hướng đi, tác giả chia theo tuyến vấn đề nghiên cứu để có cái nhìn toàn diện
tổng thể về vai trò HTCT trong công tác đối ngoại nhân dân.
* Nhóm công trình nghiên cứu về hệ thống chính trị
Hệ thống chính trị và vai trò của nó trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội là một vấn đề chính trị - xã hội nổi bật hiện nay. Xoay quanh vấn đề
này, các nhà khoa học, các nhà quản lý đã đề cập, tiếp cận nghiên cứu trên
nhiều phương diện khác nhau.
Đã có các công trình nghiên cứu về về khái niệm, chức năng, đặc điểm
của HTCT như: Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt của HTCT cấp tỉnh,
thành phố (Qua kinh nghiệm của Hà Nội) của Thạc sĩ Cao Khoa Bảng, Nxb
CTQG, 2008; đã nghiên cứu sâu về đối tượng đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt
của Hà Nội, từ đó đề ra luận cứ khoa học và kinh nghiệm thực tiễn góp phần
nâng cao chất lượng công tác xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo của HTCT
thuộc diện Ban Thường vụ Thành ủy Hà Nội quản lý trong giai đoạn hiện nay.
GS.TSKH Vũ Minh Giang, Những đặc trưng cơ bản của bộ máy quản lý nhà
nước và hệ thống chính trị nước ta trước thời kỳ đổi mới, Nxb CTQG, Hà Nội,
2008. Vũ Hoàng Công (2009), Các mô hình HTCT; trong quyển “Chính trị học
- Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb CTQG, Hà Nội. Đây là những công
trình nghiên cứu những vấn đề cơ bản nhất của HTCT đã được giải quyết, dựa
vào những nghiên cứu này có thể xác định chính xác khái niệm HTCT là gì.
Nghiên cứu HTCT về các yếu tố cấu thành; vị trí, vai trò của các bộ
phận có các công trình, bài báo tiêu biểu như: Nguyễn Thị Doan (2004),
“Tăng cường công tác giám sát trong Đảng”, Tạp chí Cộng sản, số 22-2004
và “Một số vấn đề đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng”, Tạp chí Cộng
sản, số 777, 2007; PGS.TS. Lê Minh Thông, Cơ sở lý luận về tổ chức và hoạt
động của HTCT trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb
CTQG, 2007; Nguyễn Hữu Đổng (2008): “Vị trí, vai trò của Đảng trong cơ
chế kiểm soát quyền lực nhà nước”, Tạp chí Lý luận chính trị, số 11-2008;

3


TS. Nguyễn Hữu Đông, Đảng và các tổ chức chính trị xã hội trong HTCT
Việt Nam hiện nay, Học viện CTQG Hồ Chí Minh, Viện Chính trị học, Hà
Nội, 2009; PGS.TS. Lê Minh Quân, Nhà nước trong HTCT ở Việt Nam hiện
nay, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Viện chính trị
học, Nxb CTQG, Hà Nội, 2010. Những công trình, đề tài khoa học trên đã đi
sâu nghiên cứu dưới những góc độ khác nhau của hệ thống chính trị và bước
đầu đã làm rõ về khái niệm, đặc điểm, cấu trúc, vai trò của HTCT; chỉ ra
những xu hướng vận động chủ yếu và đề xuất những giải pháp cơ bản xây
dựng và phát huy vai trò của HTCT trên một số lĩnh vực của đời sống xã hội.
* Nhóm công trình nghiên cứu về đối ngoại nhân dân
Nghiên cứu có liên quan đến công tác đối ngoại nhân dân có một số công
trình tiêu biểu như:
Trần Đắc Lợi (2013), “Đổi mới nâng cao công tác đối ngoại nhân dân
trong tình hình mới”, Tạp chí Mặt Trận, số 11 (7. 2013). Bài viết đã khẳng
định, công tác đối ngoại nhân dân đã góp phần tích cực vào việc củng cố môi
trường hoà bình, quan hệ hữu nghị và hợp tác giữa Việt Nam với các nước,
bảo vệ lợi ích và củng cố hình ảnh của đất nước trên trường quốc tế, góp phần
vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc,
dân chủ và tiến bộ xã hội, vì phát triển công bằng và bền vững, đóng góp tích
cực vào những thành tựu của công tác đối ngoại chung và sự nghiệp xây
dựng, bảo vệ Tổ quốc. Đồng thời, chỉ ra phương hướng, nhiệm vụ cho công
tác đối ngoại nhân dân trong thời kỳ mới là phải tăng cường công tác thông
tin, giáo dục quốc tế cho quần chúng nhân dân để góp phần nâng cao bản lĩnh
hội nhập, tạo được nhận thức chung và sự đồng thuận xã hội về các vấn đề
quốc tế và đối ngoại; phối hợp với Liên hiệp các tổ chức hữu nghị Việt Nam
và các đoàn thể nhân dân khác để sớm xúc tiến hình thành cơ chế phối hợp
thống nhất chung của các tổ chức nhân dân Việt Nam trong mặt trận đối ngoại

nhân dân; tăng cường phối hợp với Liên hiệp các tổ chức hữu nghị Việt Nam
4


và các tổ chức liên quan trong công tác bồi dưỡng, nâng cao trình độ, năng
lực cho đội ngũ cán bộ đối ngoại nhân dân; trao đổi thông tin, kinh nghiệm
trong hoạt động đối ngoại nhân dân.
Trần Thị Thuý Hà (2014), “Hoạt động đối ngoại nhân dân trong đời
sống chính trị Việt Nam và thế giới những năm đầu thế kỉ XXI”, Tạp chí
Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn, Số 4 (2014). Tác giả đã
tập trung làm rõ, những năm đầu thế kỷ XXI, toàn cầu hóa cùng những thay
đổi mạnh mẽ, phức tạp khó lường đòi hỏi các quốc gia phải xây dựng cho
mình “sức mạnh thông minh” (smart power). Trong hệ thống các phương tiện
để có được sức mạnh thông minh đó có đối ngoại nhân dân (people to people
relations). Đối ngoại nhân dân đã đi vào từ điển từ vựng ngoại giao thế kỷ
XXI. Đối ngoại nhân dân ngày càng trở thành một thành tố quan trọng, lồng
ghép vào tất cả các lĩnh vực của hoạt động đối ngoại. Ở Việt Nam, đối ngoại
nhân dân là một trong ba trụ cột của ngoại giao hiện đại. Thấm nhuần tư
tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đối ngoại nhân
dân đã, đang và sẽ tiếp tục khẳng định vị trí, vai trò quan trọng của mình
trong nền ngoại giao đổi mới, giúp củng cố và tăng cường quan hệ hợp tác với
các quốc gia, các vùng lãnh thổ, các tổ chức, cá nhân, nhân dân các nước,
nâng cao vị thế Việt Nam trên trường quốc tế cũng như trong khu vực.
Lê Xuân Khanh (2016), “Tăng cường công tác đối ngoại nhân dân
trong tình hình mới”, Tạp chí quốc phòng toàn dân điện tử, ngày 23 tháng
5 năm 2016. Trong bài viết tác giả đã khẳng định: Vai trò, vị trí và tầm
quan trọng của đối ngoại nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Trên cơ sở phân tích, đánh giá tình
hình thế giới, khu vực, trong nước có những diễn biến phức tạp tác động
mạnh đến môi trường an ninh, phát triển của các quốc gia, đến phong trào

nhân dân thế giới và công tác đối ngoại nhân dân, Mặt trận Tổ quốc, các
đoàn thể và tổ chức nhân dân coi trọng và nỗ lực quán triệt chủ trương,
5


đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước, hoàn thành khối lượng lớn
công việc đối ngoại nhân dân, góp phần thiết thực vào thành tích đối
ngoại chung của cả nước. Tác giả đã nêu bật những thành tựu của công tác
đối ngoại nhân dân trong thời gian qua, chỉ ra phương hướng, nhiệm vụ
của công tác đối ngoại nhân dân trong thời gian tiếp theo: Nâng cao hiệu
quả các hoạt động đối ngoại nhằm góp phần thực hiện thắng lợi Nghị
quyết Đại hội XII của Đảng, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, bảo
vệ độc lập, chủ quyền, an ninh quốc gia; củng cố quan hệ hữu nghị và nâng
cao vị thế quốc tế của Việt Nam.
Những công trình trên ở khía cạnh nào đó đã cung cấp cho tác giả
những cơ sở lý luận và thực tiễn quan trọng để tác giả kế thừa, đồng thời,
nghiên cứu, tiếp cận, tìm ra những nét đặc thù của công tác đối ngoại nhân
dân ở tỉnh Bình Phước. Từ đó, góp phần tích cực vào hoạt động xây dựng,
phát triển kinh tế, xã hội địa phương của tỉnh nhà. Do đó, lựa chọn vấn đề
nghiên cứu: “Vai trò hệ thống chính trị cấp tỉnh Bình Phước trong công tác
đối ngoại nhân dân hiện nay” của tác giả không trùng lặp với bất kỳ công
trình nào đã công bố trước đó.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Làm rõ một số vấn đề lý luận và thực tiễn về vai trò HTCT cấp tỉnh
Bình Phước trong công tác đối ngoại nhân dân; trên cơ sở đó đề xuất yêu
cầu, giải pháp chủ yếu nhằm phát huy hơn nữa vai trò HTCT cấp tỉnh Bình
Phước trong công tác đối ngoại nhân dân hiện nay.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
Làm rõ quan niệm, nội dung biểu hiện vai trò của HTCT cấp tỉnh Bình

Phước trong công tác đối ngoại nhân dân.
Đánh giá thực trạng thực hiện vai trò của HTCT cấp tỉnh Bình Phước
trong công tác đối ngoại nhân dân hiện nay.
6


Đề xuất một số yêu cầu và giải pháp chủ yếu phát huy vai trò của HTCT
cấp tỉnh Bình Phước trong công tác đối ngoại nhân dân hiện nay.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
Vai trò HTCT cấp tỉnh Bình Phước trong công tác đối ngoại nhân dân hiện nay.
* Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi về nội dung: Làm rõ biểu hiện, đánh giá thực trạng và đề
xuất yêu cầu, giải pháp phát huy vai trò HTCT cấp tỉnh Bình Phước trong
công tác đối ngoại nhân dân hiện nay.
Phạm vi về không gian khảo sát: Trong luận văn này tác giả chủ yếu
khảo sát phân tích đánh giá hoạt động thực hiện vai trò của HTCT cấp Tỉnh
(Đảng bộ, chính quyền, các tổ chức chính trị - xã hội) trong công tác đối
ngoại nhân dân trên địa bàn tỉnh Bình Phước.
Phạm vi về thời gian: Luận văn sử dụng các tài liệu, số liệu từ 2011 đến nay.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận
Đề tài nghiên cứu dựa trên những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác
- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quán triệt những mục tiêu, quan điểm cơ bản
của Đảng Cộng sản Việt Nam về vai trò của quần chúng, của chính quyền về
công tác đối ngoại nhân dân...
* Cơ sở thực tiễn
Là hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức tiến hành công tác đối ngoại
nhân dân của tổ chức đảng, chính quyền, đoàn thể chính trị - xã hội tỉnh Bình
Phước qua các báo cáo tổng kết, đánh giá và các tư liệu, số liệu của Tỉnh ủy,

Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân, Mặt trận tổ quốc và tổ chức chính trị xã hội tỉnh, kết quả khảo sát thực tế, điều tra xã hội học của tác giả luận văn.
* Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin; luận văn sử dụng tổng hợp
7


các phương pháp nghiên cứu của chuyên ngành và liên ngành KHXH&NV
như phương pháp phân tích với tổng hợp, kết hợp lôgíc với lịch sử, hệ thống,
so sánh, điều tra xã hội học...
6. Ý nghĩa của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần cung cấp những luận cứ
khoa học cho công tác lãnh đạo, chỉ đạo và tiến hành công tác đối ngoại
nhân dân cho các tổ chức chính trị - xã hội của hệ thống chính trị cấp tỉnh;
đề xuất yêu cầu và giải pháp phát huy hơn nữa vai trò HTCT cấp tỉnh
Bình Phước trong nâng cao chất lượng công tác đối ngoại nhân dân của
tỉnh Bình Phước thời gian tới.
Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho giảng dạy, nghiên cứu các
vấn đề có liên quan đến HTCT cấp tỉnh, công tác đối ngoại nhân dân trong
nhà trường quân đội và trường đại học trong cả nước.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn gồm: Phần mở đầu, 3 chương (6 tiết), kết luận, danh mục tài
liệu tham khảo và phụ lục.

8


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ
TỈNH BÌNH PHƯỚC TRONG CÔNG TÁC ĐỐI NGOẠI

NHÂN DÂN HIỆN NAY
1.1. Hệ thống chính trị cấp tỉnh và đặc điểm hệ thống chính trị cấp
tỉnh Bình Phước hiện nay
1.1.1. Quan niệm về hệ thống chính trị
Trong quá trình hoạt động nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn phong
trào cộng sản và công nhân quốc tế thông qua các bài nói, bài viết của mình
C.Mác, Ph.Ăngghen đã đề cập đến các thuật ngữ có liên quan đến HTCT như:
Hình thức chính trị, thiết chế chính trị, cơ cấu chính trị, thể chế xã hội và chính trị,
cơ cấu nhà nước dân chủ, chuyên chính vô sản, Nhà nước chuyên chính vô sản,
công xã...Các ông khẳng định: “Nhà nước của thời kỳ ấy không thể là cái gì khác
hơn là nền chuyên chính cách mạng của giai cấp vô sản” [18, Tr.456].
V.I.Lênin là người kế thừa, bổ xung, phát triển và cụ thể hóa hơn nữa
quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen đưa ra quan niệm về: “Hệ thống chuyên
chính vô sản”, Nhà nước chuyên chính vô sản “...quản lý nhà nước trong thời
kỳ chuyên chính vô sản phải chiến thắng giai cấp tư sản trong các lĩnh vực...có
tính chất toàn dân” [16, Tr.230]. Thực tiễn xây dựng CNXH cho thấy, ngoài
công đoàn ra, trong xã hội còn xuất hiện một loạt tổ chức chính trị - xã hội khác
của nhân dân như các tổ chức Đoàn thanh niên cộng sản, phụ nữ, nông dân, tri
thức... Các tổ chức đó cũng có vai trò hết sức quan trọng trong việc thực hiện
những nhiệm vụ của chuyên chính vô sản.
Từ những năm 80 (thế kỷ XX) thuật ngữ HTCT bắt đầu được sử dụng ở
Liên Xô và sau đó là ở các nước XHCN trên cơ sở đổi mới tư duy và dần phát
triển tư duy lý luận. Khái niệm HTCT phát triển và thay thế khái niệm hệ thống
chuyên chính vô sản. Hệ thống chính trị là một tổng thể các thiết chế chính trị
hợp pháp của một chế độ xã hội nhất định cùng mối quan hệ qua lại và cơ
chế vận hành của chúng nhằm bảo đảm thực hiện quyền lực chính trị của giai
9


cấp thống trị và thúc đẩy sự phát triển xã hội phù hợp với lợi ích của giai cấp

đó. Hệ thống chính trị bao gồm toàn bộ các tổ chức chính trị, được lập ra để
thực hiện quyền lực chung của xã hội - quyền lực chính trị.
Ở Việt Nam hiện nay, HTCT xã hội chủ nghĩa là một trong những thành
quả vĩ đại nhất của tiến trình cách mạng Việt Nam, là sản phẩm của thắng lợi
Cách mạng tháng Tám giành chính quyền về tay nhân dân. Đây là một HTCT
kiểu mới, HTCT xã hội chủ nghĩa, mang bản chất cách mạng của giai cấp
công nhân, có tính nhân dân, tính dân tộc, dân chủ, tính kế thừa và phát triển
ngày càng hoàn thiện. Theo quy định của Hiến pháp năm 2013 hệ thống hành
chính của nhà nước ta hiện nay có bốn cấp, gồm: Cấp Trung ương, cấp tỉnh,
cấp huyện và cấp xã, trong đó cấp xã (gồm xã, phường, thị trấn) được xác
định là cấp cơ sở. Hệ thống chính trị cấu thành bởi ba bộ phận, gồm: Tổ chức
đảng, tổ chức chính quyền và các tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội. Các bộ
phận này có mối quan hệ mật thiết gắn bó với nhau và mỗi bộ phận có vai trò,
vị trí riêng được thể hiện trong cơ chế tổ chức và phương thức hoạt động của
từng bộ phận.
Hệ thống chính trị cấp tỉnh là cấp thứ hai trong HTCT ở nước ta, (cấp
Trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện và cấp cơ sở) bao gồm: Tổ chức đảng (Đảng bộ),
tổ chức chính quyền và các đoàn thể chính trị - xã hội được tổ chức chặt chẽ và
gắn bó hữu cơ với nhau, bảo đảm hoạt động theo nguyên tắc Đảng lãnh đạo, Nhà
nước quản lý, nhân dân làm chủ.
Ở Việt Nam tỉnh là đơn vị hành chính có vị trí vai trò quan trọng đối
với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tỉnh là nơi trực tiếp tiến hành các
mục tiêu kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng - an ninh và đối ngoại.
Sự phát triển bền vững của tỉnh là cơ sở là điều kiện quan trọng để quốc gia
phát triển gắn liền với các tổ chức hoạt động của cơ quan Nhà Nước Trung
ương. Bên cạnh đó, tỉnh là một thành tố cơ bản có mối liên hệ quan trọng giữa
nhân dân địa phương với Đảng, nhà nước Trung ương; đồng thời là cơ quan tổ
chức thực hiện các chủ trương, đường lối, chính sách, các chỉ thị, nghị quyết,
10



các quyết định của cơ quan Nhà nước cấp trên; đây cũng là trung tâm điều
hành, phối hợp hoạt động của tất cả các cơ quan Nhà nước thuộc địa phương
trên phạm vi lãnh thổ của tỉnh.
Hệ thống chính trị cấp tỉnh bao gồm Đảng bộ tỉnh, chính quyền tỉnh và
các tổ chức đoàn thể chính trị xã hội cấp tỉnh. Vai trò HTCT cấp tỉnh được thể
hiện rõ qua vai trò các thành tố cấu thành của nó. Cụ thể là:
Tổ chức đảng (Đảng bộ tỉnh) giữ vai trò lãnh đạo, chỉ đạo toàn diện các
lĩnh vực đời sống xã hội trên địa bàn, tổ chức nhân dân tiến hành thực
hiện thắng lợi các nhiệm vụ cách mạng. Triển khai, tổ chức thực hiện mọi
đường lối, chủ trương, chính sách của Bộ Chính Trị, Ban Chấp Hành
Trung ương. Tổ chức chính quyền tỉnh có vị trí vai trò là cơ quan thực thi
quyền lực của nhân dân, thực hiện đầy đủ các chức năng, nhiệm vụ của
mình tại địa phương. Dưới sự lãnh đạo của tổ chức Đảng, chính quyền
tỉnh còn là cơ quan tổ chức thực hiện nghị quyết; chỉ thị của Đảng bộ tỉnh
và cơ quan nhà nước cấp trên. Mặt trận tổ quốc và các tổ chức đoàn thể
chính trị - xã hội cấp tỉnh có vị trí vai trò quan trọng trong khối đại đoàn
kết toàn dân tộc thực hiện nhiệm vụ tập hợp, phát huy sức mạnh tổng hợp
trong xây dựng và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Với vị trí, vai trò là cơ chế quyền lực chung của nhân dân trong tỉnh
HTCT cấp tỉnh là chủ thể quyền lực chính trị tại địa phương, là cơ quan đại
diện cho quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân lao động trong tỉnh. Trong
mối quan hệ chiều dọc của HTCT từ trên xuống (Trung ương) và từ dưới lên
(huyện và cơ sở), HTCT cấp tỉnh là cấp phục tùng và lãnh đạo có chức năng,
nhiệm vụ bảo đảm thực hiện đầy đủ Hiến pháp và pháp luật. Trong đó, việc
thực hiện các chỉ thị, nghị quyết, các quyết định của trung ương bảo đảm sự
đúng đắn, đầy đủ, nghiêm túc. Đồng thời, là cấp lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý
các cấp, các ngành trong phạm vi của tỉnh và xử lý các vụ việc sai trái vi
phạm hiến pháp và pháp luật; giải quyết các thắc mắc và hồi đáp các ý kiến đề
nghị của nhân dân trong phạm vi quyền hạn đã quy định.

11


1.1.2. Đặc điểm hệ thống chính trị cấp tỉnh Bình Phước hiện nay
Một là, hệ thống chính trị cấp tỉnh Bình Phước được hình thành, phát triển
trong quá trình tái lập tỉnh, bộ máy tổ chức và đội ngũ cán bộ có nhiều biến động,
chất lượng không đồng đều, còn những hạn chế nhưng từng bước đi vào ổn định.
Tỉnh Bình Phước ngày nay đã trải qua nhiều giai đoạn chia tách, sáp nhập
trong lịch sử. Dưới thời phong kiến nhà Nguyễn, Bình Phước thuộc trấn Biên
Hòa. Đến giữa thế kỷ XIX sau khi đặt ách đô hộ tại 6 tỉnh Nam Kỳ, thực dân
Pháp chia Nam Kỳ thành 4 khu vực. Bình Phước thuộc khu vực Sài Gòn, trong
đó vùng đất phía đông thuộc tiểu khu Biên Hòa, vùng đất phía Tây Nam và phía
Nam thuộc tiểu khu Thủ Dầu Một. Năm 1889, thực dân Pháp đổi các tiểu khu
thành các tỉnh, Bình Phước thuộc địa phận tỉnh Biên Hòa và Thủ Dầu Một, tồn
tại cho đến sau Hiệp định Giơnevơ 1954 mà không có sự thay đổi nào đáng kể.
Từ năm 1956, chính quyền Sài Gòn thiết lập một số tỉnh mới ở miền Nam.
Trong đó có tỉnh Bình Long và Phước Long là tiền thân của tỉnh Bình Phước ngày
nay.
Ngày 30/01/1971, Trung ương cục Miền Nam quyết định thành lập
phân khu Bình Phước. Cuối năm 1972, phân khu Bình Phước giải thể, tỉnh
Bình Phước chính thức được thành lập.
Sau kháng chiến chống Mỹ thắng lợi, ngày 02/7/1976 tại kỳ họp thứ
nhất Quốc hội khóa VI, Quốc hội Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
ra quyết định thành lập tỉnh Sông Bé bao gồm: Thủ Dầu Một, Bình Phước và
03 xã thuộc huyện Thủ Đức (TP Hồ Chí Minh).
Căn cứ vào yêu cầu khách quan đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội và
nguyện vọng của cán bộ, đảng viên và nhân dân trong Tỉnh, ngày 06/11/1996, kỳ
họp thứ 10 Quốc hội (khóa IX) quyết định điều chỉnh địa giới hành chính một số
tỉnh. Trong đó, tỉnh Sông Bé được tách thành hai tỉnh là Bình Phước và Bình
Dương. Như vậy sau 20 năm hợp nhất (1976-1996), tỉnh Bình Phước được tái

lập và ngày 01/01/1997 chính thức đi vào hoạt động theo một đơn vị hành chính
12


mới. Bình Phước là một tỉnh thuộc miền Đông Nam bộ, nằm trong vùng kinh
tế trọng điểm phía Nam, có 260.433 km đường biên giới giáp với vương quốc
Campuchia. Tỉnh là cửa ngõ, cầu nối của vùng Đông Nam bộ với Tây Nguyên
và Campuchia. Cụ thể, phía Đông giáp tỉnh Lâm Đồng và Đồng Nai; phía Tây
giáp tỉnh Tây Ninh và Campuchia; phía Nam giáp tỉnh Bình Dương; phía Bắc
giáp tỉnh Đắk Lắk và Campuchia. Tỉnh có diện tích 6.871,5 km², gồm 7 nhóm
đất chính với 13 loại đất, trong đó diện tích đất lâm nghiệp chiếm 51,3% tổng
diện tích đất toàn tỉnh. Dân số 905.300 người, mật độ dân số đạt 132
người/km² (theo số liệu thống kê năm 2011), gồm nhiều dân tộc khác nhau
(đồng bào dân tộc thiểu số chiếm 17,9%) sinh sống trên địa bàn 111 xã,
phường, thị trấn (92 xã, 14 phường và 5 thị trấn) thuộc 8 huyện, 3 thị xã [48].
Thế mạnh của tỉnh là cây công nghiệp (điều, hồ tiêu, cao su, ca cao…),
với tổng diện tích cây lâu năm ước đến hết năm 2012 là 391.174 ha, trong đó
cây điều, cao su của tỉnh vẫn đóng vai trò thủ phủ của cả nước. Tỉnh hiện có
18 khu công nghiệp (diện tích hơn 5.211 ha), tập trung chủ yếu ở huyện Chơn
Thành, Hớn Quản, Đồng Phú, thị xã Đồng Xoài và một khu kinh tế cửa khẩu
quốc tế Hoa Lư (huyện Lộc Ninh) với tổng diện tích hơn 28.300 ha [48]. Bình
Phước đang là điểm đến lý tưởng và môi trường đầu tư hấp dẫn đối với các
nhà đầu tư trong và ngoài nước, với hàng loạt chính sách mở, ưu đãi và thông
thoáng. Tỉnh có tài nguyên phong phú, quỹ đất sạch dồi dào, giao thông thuận
tiện, nguồn nhân công giá rẻ, đồng thời là vựa rốn cây công nghiệp và hàng
nông sản…đã và đang là thế mạnh “hút” nhà đầu tư.
Tuy nhiên, do mới thiết lập sau khi tái lập (1997) nên cơ cấu tổ chức và đội
ngũ cán bộ, công chức, viên chức HTCT cấp tỉnh từng bước củng cố, xây dựng và
hoàn thiện đi vào tương đối ổn định. Do chia tách, đội ngũ cán bộ có sự xáo trộn,
thay đổi, nảy sinh nhiều tâm tư nhất là khi tỉnh Bình Phước là địa bàn kinh tế, văn

hóa, xã hội còn nhiều khó khăn, điều kiện công tác, sinh hoạt và đời sống còn
nhiều khó khăn, thiếu thốn. Trình độ đội ngũ cán bộ của HTCT cấp tỉnh Bình

13


Phước không đồng đều, một bộ phận năng lực, cả năng lực lãnh đạo và năng lực
quản lý Nhà nước, quản lý xã hội còn hạn chế. Do đó, chất lượng, hiệu quả công
tác của HTCT cấp tỉnh còn chưa cao.
Sự gắn bó mật thiết giữa HTCT cấp tỉnh Bình Phước với nhân dân
được thể hiện ở mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa Đảng với nhân dân,
giữa nhân dân với chính quyền, quan hệ giữa MTTQ và các đoàn thể
chính trị - xã hội. Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội đã tập
hợp các tầng lớp nhân dân hưởng ứng tham gia các phong trào thi đua
yêu nước, các cuộc vận động nhân dân xây dựng và bảo vệ Tổ quốc,
xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư, xóa đói giảm nghèo, bảo vệ
an ninh trật tự, các hoạt động từ thiện, nhân đạo... HTCT cấp tỉnh Bình
Phước đã luôn đề cao và phát huy dân chủ XHCN, tôn trọng và bảo đảm
quyền làm chủ của nhân dân.
Hai là, HTCT cấp tỉnh Bình Phước thường xuyên lãnh đạo, chỉ đạo và
trực tiếp tiến hành công tác đối ngoại nhân dân góp phần bảo vệ độc lập, chủ
quyền, giữ vững môi trường hòa bình để xây dựng, phát triển đất nước.
Bình Phước là tỉnh biên giới giáp Campuchia, có đường biên giới dài
260,433km. Tình hình biên giới nhìn chung ổn định song cũng tồn tại nhiều
vấn đề phức tạp. Tình trạng buôn lậu xuyên biên giới, tội phạm xuyên quốc gia,
xâm canh, xâm cư, đi lại khó quản lý. Một số phần tử tội phạm, phản động,
chống đối, vi phạm pháp luật, lợi dụng địa hình phức tạp lẩn trốn sang nước
bạn khi bị truy nã hoặc từ nước bạn thâm nhập về phá hoại gây nên những khó
khăn, phức tạp trong giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Những
phần tử theo chủ nghĩa dân tộc cực đoan trong các đảng phái chính trị của

Campuchia cũng thường xuyên tuyên truyền xuyên tạc, vu khống Đảng, Nhà
nước ta, chia rẽ quan hệ đoàn kết, hữu nghị Việt Nam - Campuchia và có những
hành vi kích động, lôi kéo quần chúng nhân dân gây mất ổn định, xâm phạm độc
lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam. Tình hình đó đặt ra cho HTCT cấp
tỉnh Bình Phước phải thường xuyên quan tâm đến công tác đối ngoại, trực tiếp lãnh
14


đạo, chỉ đạo, tổ chức tiến hành các hoạt động đối ngoại phù hợp với chức năng,
quyền hạn, nhiệm vụ của mình, trên tinh thần quán triệt sâu sắc đường lối, quan
điểm, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước, bảo đảm lợi ích quốc gia, dân
tộc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, tăng cường quan hệ hữu nghị, hợp tác
với nước láng giềng, phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam
XHCN. Đây cũng là một đặc điểm nổi bật của HTCT cấp tỉnh Bình Phước, có liên
quan trực tiếp đến vai trò của HTCT trong công tác đối ngoại nhân dân.
Ba là, HTCT cấp tỉnh Bình Phước từ khi tái lập đến nay đã lãnh đạo,
chỉ đạo, tổ chức phát huy quyền làm chủ của nhân dân thực hiện thắng lợi
các nhiệm vụ cách mạng trong thời kỳ đổi mới.
Vào thời điểm được tái lập, Bình Phước là một trong những tỉnh hết sức
khó khăn. Kinh tế chủ yếu là nông - lâm nghiệp chiếm hơn 70%, công nghiệp,
thương mại dịch vụ quá nhỏ bé; cơ sở vật chất kỹ thuật còn nghèo nàn, kết cấu hạ
tầng thấp kém (nhất là về giao thông, cấp điện, cấp nước và các dịch vụ thương
mại, tài chính, ngân hàng…). Đội ngũ cán bộ vừa thiếu, vừa yếu, chưa ngang tầm
nhiệm vụ, nhất là nhân sự các sở, ban, ngành ở tỉnh rất khó khăn, thiếu trầm trọng
về số lượng, chủ yếu là các phó phòng ban, phó giám đốc các sở, ban, ngành của
Sông Bé (cũ) chuyển lên. Trình độ dân trí thấp, tỷ lệ mù chữ cao; tỉnh có đường
biên giới giáp với Campuchia, tình hình diễn biến khá phức tạp… Đó là những trở
ngại ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình xây dựng và phát triển của tỉnh.
Dưới sự lãnh đạo chỉ đạo của HTCT nhân dân tỉnh Bình Phước đã đạt
nhiều thành tựu rất quan trọng, toàn diện và bước đầu giành thắng lợi trong

công cuộc đổi mới. Diện mạo và tiềm lực kinh tế của tỉnh có chuyển biến đáng
kể, từng bước khẳng định vị thế trong khu vực kinh tế trọng điểm phía Nam,
góp phần quan trọng vào tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và
hội nhập quốc tế. Khối đại đoàn kết toàn dân luôn được giữ vững. Trong tỉnh
đã xuất hiện nhiều cách làm hay, mô hình mới, nhiều điển hình “Dân vận khéo”
có sức lan tỏa, tạo được sự đồng thuận trong nhân dân. Nhiệm vụ xây dựng
Đảng, chính quyền và giám sát những lĩnh vực có liên quan đến quyền lợi và
đời sống nhân dân được thực hiện tốt. Hoạt động của hệ thống Mặt trận Tổ
15


quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội có nhiều chuyển biến thiết
thực, hiệu quả. Đã đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, tích cực vận động
đoàn viên, hội viên tham gia vào các chương trình phát triển kinh tế - xã hội,
xóa đói giảm nghèo, giữ vững trật tự trị an, củng cố quốc phòng - an ninh, tham
gia xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền.
Việc khái quát về tình hình HTCT cấp tỉnh Bình Phước đã phản ánh
những thuận lợi, khó khăn chi phối và yêu cầu đặt ra để nâng cao chất lượng
hoạt động của công tác đối ngoại nhân dân. Quan hệ hợp tác, giao lưu hữu nghị
giữa tỉnh Bình Phước với các tỉnh giáp biên giới thuộc Vương quốc Campuchia
không ngừng được củng cố, tăng cường và ngày càng phát triển tốt đẹp. Đến
ngày 30/11/2012, Bình Phước là tỉnh đầu tiên trong cả nước có đường biên giới
với Vương quốc Campuchia hoàn thành công tác phân giới, cắm mốc. Từ khi
tái lập tỉnh đến nay, Bình Phước đã tìm kiếm, quy tập được 2.275 hài cốt liệt sỹ
quân tình nguyện Việt Nam hy sinh tại Campuchia qua các thời kỳ (trong đó có
234 hài cốt có tên). Ngoài ra trong công tác đối ngoại, HTCT cấp tỉnh Bình
Phước cũng đẩy mạnh mối quan hệ với các đối tác quốc tế khác. Mối quan hệ
giao lưu, hợp tác giữa tỉnh Bình Phước với các nước bạn Nhật Bản, Israel, Hà
Lan, Bờ Biển Ngà… được mở rộng trực tiếp qua việc tìm hiểu cơ hội kinh
doanh, thăm và học tập kinh nghiệm, hỗ trợ nhân đạo, trao đổi kiến thức khoa

học. Tỉnh đã ký kết được chương trình hợp tác công tác đối ngoại nhân dân,
phát triển kinh tế - xã hội với thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương, Tây Ninh,
để học hỏi lẫn nhau và trao đổi kinh nghiệm công tác đối ngoại góp phần phát
triển kinh tế, văn hóa, xã hội, thu hút đầu tư của tỉnh Bình Phước.
1.2. Quan niệm, biểu hiện vai trò của hệ thống chính trị cấp tỉnh
Bình Phước trong công tác đối ngoại nhân dân hiện nay
1.2.1. Quan niệm về đối ngoại nhân dân Việt Nam hiện nay
Có thể thấy, chưa bao giờ đối ngoại nhân dân lại được nhắc đến nhiều
như trong những năm qua. Dù quan tâm nhiều hơn đến đối ngoại nhân dân

16


nhưng các học giả vẫn chưa đi đến một định nghĩa thống nhất về đối ngoại
nhân dân. Theo học giả Vũ Dương Huân “ngoại giao nhân dân” dùng để chỉ
“những hoạt động đối ngoại do các tổ chức nhân dân như thanh niên, phụ nữ,
công đoàn, Hội cựu chiến binh, Hội nông dân… hoạt động đối ngoại của các tổ
chức nghề nghiệp (Hội Văn học, Nghệ thuật, Hội Kiến trúc, Hội Sử học…)
thực hiện” [14]. Liên hiệp các tổ chức hữu nghị Việt Nam (đầu mối về hoạt
động đối ngoại nhân dân) khẳng định: “Công tác đối ngoại nhân dân thực chất
là công tác dân vận, vận động các đối tượng là quần chúng nhân dân nước ta và
quần chúng nhân dân nước ngoài để thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự
chủ, hòa bình, hữu nghị và hợp tác của nước ta” [24]. Từ điển bách khoa toàn
thư Việt Nam chỉ rõ: Ngoại giao nhân dân một hình thức thực hiện quan hệ đối
ngoại, do các tổ chức hoặc cá nhân (thuộc nhiều lĩnh vực) tiến hành, không
mang tính chính thức của chính phủ các nước.
Kế thừa các quan niệm trên, tác giả luận văn quan niệm: Đối ngoại
nhân dân là một trong những hình thức hoạt động đối ngoại của chủ thể (các
tổ chức chính trị - xã hội, đoàn thể nhân dân, cá nhân công dân của một quốc
gia) tiến hành trên các lĩnh vực trong quan hệ với các chủ thể tương ứng (tổ

chức chính trị - xã hội, đoàn thể nhân dân, cá nhân công dân, của quốc gia
khác và các tổ chức) nhằm thực hiện mục tiêu xác định.
Trong lịch sử ngoại giao dân tộc, các hoạt động đối ngoại có tính chất
đối ngoại nhân dân đã được thực hiện từ rất sớm. Với lịch sử Việt Nam cận
hiện đại có thể nói, Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đặt nền móng cho đối
ngoại nhân dân. Ngay từ những ngày đầu mới thành lập, Đảng Cộng sản Việt
Nam đã nhận thức rõ tầm quan trọng cũng như tính cấp thiết của việc mở rộng
quan hệ đối ngoại nhằm đưa sự nghiệp phát triển đất nước hoà vào trào lưu
phát triển chung của thế giới. Tư tưởng mở cửa đối ngoại, hội nhập với khu
vực và thế giới của Đảng đã được thể hiện rõ nét trong các văn kiện ngoại
giao đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà. Chủ tịch Hồ Chí Minh,
trong Thư gửi Tổng Thư ký Liên hợp quốc (12/1946), đã long trọng tuyên bố:
17


“Việt Nam sẵn sàng thực thi chính sách mở cửa và hợp tác trong mọi lĩnh
vực”. Đồng thời, Người nêu rõ: Việt Nam dành sự tiếp nhận thuận lợi cho đầu
tư của các nhà tư bản, nhà kỹ thuật nước ngoài trong tất cả các ngành kỹ nghệ
của mình; sẵn sàng mở rộng các cảng, sân bay và đường xá giao thông cho
việc buôn bán và quá cảnh quốc tế; chấp nhận tham gia mọi tổ chức hợp tác
kinh tế quốc tế dưới sự lãnh đạo của Liên hợp quốc.
Bước vào thời kỳ đổi mới, Việt Nam thực hiện một quan điểm ngoại
giao toàn diện nhằm mục tiêu mang lại một sự hiểu biết toàn diện về Việt
Nam cho khu vực và thế giới, tạo mối quan hệ tốt đẹp giữa Việt Nam và
các nước khác, đồng thời thúc đẩy phát triển kinh tế của quốc gia. Cùng với
đối ngoại Đảng, ngoại giao của Nhà nước, đối ngoại nhân dân đã được triển
khai mạnh mẽ, có những điều chỉnh kịp thời, phát huy lợi thế, góp phần
thực hiện thắng lợi chủ trương đối ngoại của Đảng trong bối cảnh hội nhập
quốc tế ngày càng sâu, rộng hơn. Như vậy, hiện nay ở Việt Nam cùng một
lúc sử dụng cả hai thuật ngữ là đối ngoại nhân dân (People - to - people

Relations) và ngoại giao nhân dân (People - to - people Diplomacy), ngay cả
trong Văn kiện Đảng.
Tuy nhiên thông thường, thuật ngữ đối ngoại nhân dân được sử dụng
thường xuyên và phù hợp hơn, dùng để chỉ những hoạt động đối ngoại do các
tổ chức quần chúng, các hội nghề nghiệp và các cá nhân thực hiện. Tiếp cận
từ góc độ lực lượng tham gia: “... không phải chỉ có các đoàn thể và tổ chức
nhân dân, các tổ chức chính trị xã hội, các hội nghề nghiệp, các doanh nghiệp
và rộng ra là các tầng lớp nhân dân, mà cả các tổ chức của đảng, cơ quan Nhà
nước các cấp và lực lượng vũ trang nhân dân (tiến hành với đối tượng và hình
thức thích hợp), đồng thời có những tổ chức chính trị - xã hội có nhiệm vụ và
chức năng chuyên về hoạt động đối ngoại nhân dân, đó là các tổ chức hòa
bình, hữu nghị, đoàn kết” [13]. Với phương châm độc lập tự chủ, Việt Nam
“là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc

18


tế” và thực hiện các hoạt động đối ngoại nhân dân bao gồm ngoại giao chính
trị, ngoại giao kinh tế và ngoại giao văn hóa.
Mục tiêu đối ngoại nhân dân của Việt Nam: Trên cơ sở tổng kết những
kết quả đạt được của đối ngoại nhân dân, Đảng đã đề ra phương hướng chỉ
đạo cho công tác đối ngoại nhân dân những năm đầu thế kỷ XXI: “Mở rộng
hơn nữa công tác đối ngoại nhân dân, tăng cường quan hệ song phương và đa
phương với tổ chức nhân dân các nước, nâng cao hiệu quả hợp tác với các tổ
chức phi chính phủ quốc gia và quốc tế, góp phần tăng cường sự hiểu biết lẫn
nhau, quan hệ hữu nghị và hợp tác giữa nhân dân ta và nhân dân các nước
trong khu vực và trên thế giới ” [12].
Chủ thể đối ngoại nhân dân của Việt Nam: Ở nước ta, cùng với quá
trình mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế, các vấn đề đối ngoại và các yếu tố
nước ngoài như nói trên ngày càng tác động sâu rộng đến các mặt đời sống

kinh tế, chính trị, xã hội, an ninh, văn hoá, tư tưởng... của đất nước. Sự gắn
kết giữa các vấn đề đối nội và đối ngoại ngày càng gia tăng, quan hệ đối
ngoại, hợp tác và tiếp xúc quốc tế được mở rộng đến tất cả các ngành, các
cấp, từ trung ương đến tận cơ sở, càng đòi hỏi sự tham gia ngày càng đông
đảo của người dân. Trong đó, chủ thể của đối ngoại nhân dân: Là các tổ chức
chính trị xã hội, đoàn thể nhân dân hay liên hiệp các tổ chức chính trị xã hội
như Mặt trận Tổ quốc; Đoàn Thanh niên; Hội liên hiệp Phụ nữ, Công đoàn, Hội
Nông dân, Hội Cựu chiến binh; các Hiệp hội kinh tế và một số tổ chức chính trị
- xã hội - nghề nghiệp.
Đặc điểm công tác đối ngoại nhân dân của Việt Nam. Công tác đối
ngoại nhân dân hiện nay của Việt Nam có những đặc điểm nổi bật sau:
Công tác đối ngoại nhân dân Việt Nam được thực hiện dưới sự lãnh đạo
đúng đắn của Đảng và sự quản lý chặt chẽ thống nhất của Nhà nước. Đảng và
Nhà nước kịp thời ban hành những văn bản chỉ đạo phù hợp với thực tiễn hoạt
động. Sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác đối ngoại nhân dân được thể hiện rõ
nét trên các phương diện: Từ ban hành những văn bản chỉ đạo hoạt động đối ngoại
19


nói chung, đến các chỉ thị về hoàn thiện cơ cấu tổ chức các cơ quan chuyên trách
đối ngoại nhân dân (Chỉ thị số 27, Chỉ thị số 28) về từng nội dung, lĩnh vực hoạt
động (Chỉ thị số19, Chỉ thị số 36…). Đảng luôn có sự lãnh đạo, chỉ đạo kịp thời
phù hợp với thực tiễn hoạt động. Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, sự quản lý chặt
chẽ và thống nhất của Nhà nước đã định hướng hiệu quả cho công tác đối ngoại
nhân dân và giúp khẳng định vị trí, vai trò cũng như những thành tựu đạt được của
công tác đối ngoại nhân dân thời gian qua và những năm tới.
Hoạt động đối ngoại nhân dân được thực hiện bởi lực lượng đa dạng.
Lực lượng chủ chốt thực hiện các hoạt động đối ngoại nhân dân là Liên hiệp các
tổ chức hữu nghị Việt Nam với vai trò đầu mối. Cùng với Liên hiệp là Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam cùng các tổ chức chính trị - xã hội (Tổng Liên đoàn Lao động

Việt Nam, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt
Nam, Hội Cựu chiến binh, Hội Nông dân). Quan hệ và hoạt động đối ngoại nhân
dân không chỉ tập trung hoặc thông qua các tổ chức, cơ quan trung ương mà còn
trực tiếp đến các địa phương, thậm chí đến tận cơ sở. Bên cạnh các tổ chức chính
trị - xã hội, nhiều tổ chức nghề nghiệp đã ra đời và tích cực tham gia công tác đối
ngoại nhân dân. Nhờ đó, Việt Nam không chỉ giữ vững và củng cố các mối quan
hệ với bạn bè truyền thống mà còn có thêm nhiều đối tác mới, tranh thủ được
nhiều nguồn viện trợ cho sự nghiệp phát triển đất nước, mở rộng phạm vi ảnh
hưởng của đối ngoại nhân dân.
Hoạt động đối ngoại nhân dân có nội dung và hình thức phong phú,
liên tục đổi mới. Trong thời gian qua, đặc biệt là những năm đầu thế kỷ XXI,
số lượng hoạt động đối ngoại nhân dân tăng nhanh, với các hình thức phong
phú, đa dạng. Bên cạnh lĩnh vực chủ đạo là hòa bình, đoàn kết, hữu nghị
truyền thống, Việt Nam đã mở rộng các hoạt động hợp tác trên các lĩnh vực
phát triển nhân đạo, xóa đói giảm nghèo, bảo vệ môi trường, phòng chống
dịch bệnh, thiên tai, các vấn đề xã hội, văn hóa, kinh tế, dân chủ, nhân quyền,
tôn giáo, đấu tranh dư luận, vì nạn nhân chất độc Da cam/Đi-ô-xin… Các hoạt
động trao đổi, hợp tác đều lồng ghép nhiều nội dung, nhiều mục tiêu, phát huy
20


hiệu quả quan hệ đối ngoại nhân dân. Để tăng cường sức lan tỏa cho các hoạt
động đối ngoại nhân dân, công tác thông tin đối ngoại được đẩy mạnh với các
kênh thông tin quốc tế, các website bằng tiếng Anh, các hợp tác quốc tế trong
lĩnh vực truyền thông… được đầu tư, nâng cấp cả về số lượng và chất lượng.
Bên cạnh các hoạt động hữu nghị mang tính giao lưu truyền thống, hoạt động
đối ngoại nhân dân đã chú trọng gắn với thúc đẩy hợp tác kinh tế, thương mại,
du lịch, khoa học, công nghệ, văn hóa, giáo dục… Với nội dung phong phú,
hình thức phù hợp, nhiều hoạt động đối ngoại nhân dân hiệu quả đã hỗ trợ đắc
lực cho ngoại giao Nhà nước, đóng góp thiết thực cho việc nâng cao uy tín và

ảnh hưởng quốc tế của Việt Nam.
Hoạt động đối ngoại nhân dân Việt Nam quán triệt phương châm đa
phương hóa, đa dạng hóa với các đối tác quan hệ. Hoạt động đối ngoại nhân
dân hướng đến chính phủ, các tổ chức quốc tế, quốc gia, nhất là công chúng
quốc tế. Cùng với việc củng cố quan hệ với các tổ chức dân chủ và tiến bộ, các
tổ chức bạn bè truyền thống, các tổ chức nhân dân các nước xã hội chủ nghĩa,
Việt Nam đã thiết lập quan hệ đối tác mới với nhiều tổ chức nhân dân, tổ chức
phi chính phủ (quốc gia và quốc tế) và các tổ chức quốc tế mới, mở rộng đáng
kể địa bàn hoạt động. Công tác vận động viện trợ, quản lý và sử dụng hiệu quả
viện trợ từ các tổ chức phi chính phủ được tăng cường và phát huy có hiệu quả.
Cùng với các hoạt động đối ngoại nhân dân song phương với bạn bè truyền
thống như các nước láng giềng, các nước ASEAN, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn
Độ, Trung Quốc… Việt Nam mở rộng phạm vi hoạt động sang các nước ở các
khu vực địa lý khác như Châu Phi, Châu Mỹ… với vai trò tích cực của 52 Hội
hữu nghị song phương, 02 tổ chức hữu nghị và hợp tác khu vực.
Hợp tác đa phương với nhiều hoạt động có hiệu quả cao, chú trọng đa
phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối tác, đặc biệt là mở rộng hợp tác với các tổ
chức cánh tả, tiến bộ, các mạng lưới và phong trào nhân dân, khôi phục và duy
trì quan hệ với các tổ chức bạn bè truyền thống, phối hợp và hỗ trợ kênh ngoại
giao Nhà nước trong một số thiết chế hợp tác đa phương quan trọng (Quỹ Hòa
21


bình và Phát triển Việt Nam được chấp thuận quy chế tư vấn phi chính phủ tại Hội
đồng Kinh tế - Xã hội (ECOSOC) của Liên hợp quốc, tham gia và tổ chức các
hoạt động có hiệu quả tại Diễn đàn Xã hội thế giới, Diễn đàn Nhân dân Á - Âu,
Diễn đàn Nhân dân ASEAN… đăng cai tổ chức các sự kiện quốc tế…). Các hoạt
động đối ngoại nhân dân góp phần mở rộng quan hệ đối tác và có phối hợp, hỗ trợ
kênh ngoại giao nhà nước, thúc đẩy và bảo vệ lợi ích quốc gia.
1.2.2. Quan niệm về công tác đối ngoại nhân dân ở tỉnh Bình Phước

hiện nay
Từ cách tiến cận trên đây, tác giả quan niệm đối ngoại nhân dân của tỉnh
Bình Phước hiện nay là hoạt động đối ngoại do các tổ chức chính trị - xã hội, đoàn
thể nhân dân các cấp trong Tỉnh thực hiện dưới sự lãnh đạo của tổ chức đảng, sự
quản lý thống nhất của chính quyền trên cơ sở quan điểm, đường lối, chính sách
đối ngoại của Đảng, pháp luật Nhà nước và pháp luật Quốc tế, góp phần tăng
cường quan hệ đoàn kết, hữu nghị hợp tác và phát triển với các tổ chức chính trị xã
hội, đoàn thể nhân dân...các nước trong khu vực và thế giới, góp phần giữ gìn môi
trường hòa bình, ổn định để xây dựng bảo vệ và phát triển đất nước.
Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ X đã chỉ rõ: Nâng cao hiệu quả các
hoạt động đối ngoại; củng cố quan hệ với các tỉnh giáp biên, đưa các mối quan hệ
hợp tác đi vào chiều sâu góp phần phát triển kinh tế, củng cố quốc phòng, an ninh.
Chương trình hành động của Tỉnh ủy thực hiện nghị quyết Đại hội XII của Đảng
cũng đã xác định 5 nhiệm vụ trọng tâm trong công tác đối ngoại. Trong đó, cần tập
trung đẩy mạnh các hoạt động đầu tư, thương mại và du lịch trên tuyến đường bộ
quốc tế của tỉnh Bình Phước với các tỉnh biên giới Campuchia, Lào. Tổ chức các
hoạt động kỷ niệm năm hữu nghị, các sự kiện chính trị, xã hội với các tỉnh giáp biên
thuộc Vương quốc Campuchia và các tỉnh kết nghĩa thuộc Cộng hòa dân chủ Nhân
dân Lào; nâng cao chất lượng hoạt động của các hội hữu nghị.
Nội dung công tác đối ngoại nhân dân của hệ thống chính trị cấp tỉnh Bình
Phước hiện nay:
Một là, tăng cường các hoạt động giao lưu hợp tác hữu nghị nhằm thắt
chặt tinh thần đoàn kết, hiểu biết, tôn trọng lẫn nhau, tiến hành gặp gỡ, thăm
22


viếng, tọa đàm trao đổi thông tin. Công tác đối ngoại của tỉnh bao gồm đối
ngoại của Đảng, đối ngoại Nhà nước và đối ngoại nhân dân. Trên địa bàn tỉnh
Bình Phước nhiều năm qua, các hoạt động này được đan xen, hỗ trợ lẫn nhau.
Hằng năm, tỉnh đều bố trí từ 10 - 15 đoàn với khoảng hơn 100 lượt người sang

trao đổi kinh nghiệm, tặng quà hoặc khám, chữa bệnh và cấp thuốc miễn phí tại
Vương quốc Campuchia. Bình Phước còn triển khai các dự án phát triển kinh
tế (trồng cây cao su) trên địa bàn một số tỉnh của nước bạn Campuchia; tổ chức
các hoạt động tìm kiếm, cất bốc và đưa hài cốt liệt sĩ quân tình nguyện Việt
Nam hy sinh qua các thời kỳ chiến tranh trên đất Campuchia về nước mà nếu
không có sự giúp đỡ, hỗ trợ tích cực của chính quyền và nhân dân Campuchia
thì không thể nào thực hiện được.
Những năm qua tỉnh cũng mở rộng quan hệ đối ngoại đến một số tỉnh
Nam Lào như Chămpasắk, Savannakhet, Attapư thông qua việc ký kết các văn
bản ghi nhớ với các tỉnh này về phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội. Hoạt động
đối ngoại nhân dân chủ yếu được thông qua các hội, đoàn thể. Những năm qua,
Đoàn thanh niên tỉnh và các hội, đoàn thể khác thường xuyên giao lưu, trao đổi
kinh nghiệm với hội, đoàn thể các tỉnh của nước bạn. Đặc biệt từ năm 2012,
tỉnh Bình Phước thành lập Hội hữu nghị Việt Nam - Campuchia. Đến năm
2015, thành lập Hội hữu nghị Việt Nam - Lào và Hội hữu nghị Việt - Hàn.
Trong quý 3/2016 tổ chức Đại hội Liên hiệp các tổ chức hữu nghị tỉnh Bình
Phước. Với phương châm “Giúp bạn là tự giúp mình”, trong những năm qua,
cấp ủy Đảng, chính quyền các cấp, các ngành trong tỉnh giáp biên của nước bạn
Campuchia. Hàng năm, tỉnh đều có các đoàn tham gia các lớp bồi dưỡng ngắn
hạn, tham quan học tập kinh nghiệm, tham dự hội thảo, hội nghị, tìm hiểu thị
trường và cơ hội đầu tư... ở nước ngoài. Trong đó, các đoàn của lãnh đạo tỉnh
đi thăm và chúc tết cổ truyền Chol Chnăm Thmây, lễ kỷ niệm ngày chiến thắng
tháng Giêng và ngày thành lập Đảng nhân dân Campuchia tại các tỉnh giáp
biên thuộc Vương quốc Campuchia.
Không chỉ quan tâm công tác đối ngoại với các tỉnh giáp biên của nước
bạn Campuchia, tỉnh còn luôn mở rộng quan hệ với một số đối tác thuộc Nhật
23


Bản, Israel, Hà Lan, Bờ Biển Ngà… để tìm hiểu cơ hội kinh doanh, học tập

kinh nghiệm, hỗ trợ trao đổi kiến thức khoa học. Chú trọng quan hệ với các
tỉnh Chămpasắc, Savannakhet, Attapư của Lào. Từ năm 2013 đến nay, Bình
Phước đã thu hút vốn đầu tư từ các tổ chức phi chính phủ nước ngoài được
189 dự án, với khoảng 4,8 triệu USD. Các dự án này chủ yếu là của các tổ
chức, cá nhân đến từ các nước Úc, Mỹ, Canada, Nhật Bản, Hàn Quốc, Hà Lan
cho dự án nước sạch, xây nhà tình thương...
Hai là, xây dựng kế hoạch tổ chức diễn đàn nhân dân, đối thoại. Ngày
28/3/2017, Tỉnh ủy ban hành kế hoạch số 54 - KH/TU về tiếp tục thực hiện
Chỉ thị 04 - CT/TW, ngày 06/7/2011 của Ban Bí thư khóa XI “Về tiếp tục đổi
mới và nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại nhân dân trong tình hình mới”.
Mục đích của việc ban hành kế hoạch nhằm nâng cao nhận thức của các
cấp ủy đảng, chính quyền; các sở, ban, ngành, tổ chức đoàn thể cùng các cán
bộ, đảng viên và nhân dân trong tỉnh về vị trí, vai trò của công tác đối ngoại
nhân dân; nắm vững những quan điểm, đường lối của Đảng về tiếp tục đổi
mới và nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại nhân dân trong tình hình mới.
Tăng cường quan hệ hữu nghị với các đối tác truyền thống và tiếp tục thu hút,
kêu gọi kiều bào Bình Phước về xây dựng quê hương, đoàn kết kiều bào. Đấu
tranh ngăn chặn có hiệu quả các hành động nhằm chống phá, xuyên tạc đường
lối, chính sách của Đảng và Nhà nước. Nhấn mạnh nhiệm vụ trọng tâm cần
thực hiện tốt trong thời gian tới như sau: Tiếp tục tuyên truyền, quán triệt đầy
đủ các quan điểm chỉ đạo của Đảng về công tác đối ngoại nhân dân. Tăng
cường sự lãnh đạo, quản lý của các cấp ủy Đảng, chính quyền đối với công
tác ngoại giao nhân dân trong tỉnh. Chú trọng phát triển lực lượng làm công
tác đối ngoại nhân dân; củng cố, tăng cường mặt trận đối ngoại nhân dân.
Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, nâng cao tính thiết thực, hiệu quả của các hoạt
động đối ngoại nhân dân.
Sở Thông tin và Truyền thông phối hợp với các sở, ngành liên quan tổ
chức quản lý thông tin tuyên truyền Chỉ thị số 04; phối hợp với Đài Phát thanh
Truyền hình tỉnh, báo Bình Phước, các cơ quan có trang Web nghiên cứu, tham
24



mưu Ủy ban nhân dân tỉnh việc tổ chức đưa tin, bài trên báo giấy, báo điện tử,
truyền hình, cổng thông tin điện tử của tỉnh giới thiệu về quê hương và con
người Bình Phước; các chính sách thu hút đầu tư; các tiềm năng, lợi thế và các
thành tựu phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Riêng báo Bình Phước và Đài Phát
thanh Truyền hình tỉnh xây dựng kế hoạch tuyên truyền, dành thời lượng phù
hợp để đăng tải, phát sóng phổ biến Chỉ thị này.
Ba là, tổ chức các hoạt động giao lưu văn hóa, biểu diễn văn nghệ, quảng
bá văn hóa. Duy trì các hoạt động thường xuyên, tranh thủ sự quan tâm, ủng hộ và
giúp đỡ của các cơ quan Nhà nước, chủ động phối hợp với các sở, ban, ngành,
đoàn thể của địa phương tập trung giới thiệu và tuyên truyền, quảng bá hình ảnh
của Bình Phước đến với đông đảo bạn bè quốc tế và các nước láng giềng, đặc biệt
là các tỉnh kết nghĩa có biên giới giáp với Campuchia; đẩy mạnh tìm kiếm đối tác,
kết hợp giữa quan hệ hữu nghị với hợp tác trên mọi lĩnh vực đời sống xã hội; gắn
với các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của Tỉnh; quan tâm thực hiện tốt công
tác phi chính phủ và nhân đạo từ thiện, vận động người Việt Nam ở nước ngoài
đóng góp vào việc phát triển kinh tế, xã hội tỉnh Bình Phước.
Công tác đối ngoại nhân dân thường xuyên được tổ chức thông qua các
hoạt động giao lưu văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao; thăm, tặng quà, khám
bệnh và cấp phát thuốc cho người nghèo, đã góp phần quảng bá hình ảnh, tiềm
năng phát triển kinh tế của Bình Phước, để lại những ấn tượng rất tốt đẹp với bạn
bè quốc tế về văn hóa Việt Nam nói chung và con người Bình Phước nói riêng.
Bốn là, chủ động làm tốt công tác phi chính phủ nước ngoài, nâng cao
hiệu quả hợp tác với các tổ chức quốc tế, thực hiện có hiệu quả Chương trình
xúc tiến vận động viện trợ phi chính phủ nước ngoài trên địa bàn tỉnh. Bên cạnh
đó, tăng cường quan hệ hữu nghị với các đối tác truyền thống và phát triển quan
hệ hữu nghị với các đối tác mới với nội dung hợp tác thiết thực, hiệu quả, góp
phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện đa phương hóa, đa dạng hóa
các quan hệ đối ngoại theo phương châm của Đảng và Nhà nước. Tiếp tục thu

hút, kêu gọi kiều bào Bình Phước về xây dựng quê hương, đoàn kết kiều bào;
tích cực vận động viện trợ từ các tổ chức phi chính phủ nước ngoài phục vụ sự
25


×