MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hiện nay, thời đại của chúng ta là thời đại mang xu hướng toàn cầu hóa và
khu vực hóa. Việt Nam gia nhập và là thành viên của tổ chức thương mại thế giới
WTO. Kinh tế Việt Nam đang trong quá trình hội nhập dần với kinh tế thế giới và
thị trường chứng khoán cũng không nằm ngoài quá trình đó.
Để thực hiện mục tiêu đến năm 2020 phấn đấu đưa Việt Nam trở thành một
nước công nghiệp phát triển theo Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần X, mỗi
năm Việt Nam cần khoảng 15 tỷ USD vốn đầu tư nhằm phát triển cơ sở hạ tầng
trong giai đoạn 2010-2020. Vì vậy, Việt Nam cần phải có chính sách huy động tối
đa mọi nguồn lực tài chính trong và ngoài nước để chuyển các nguồn vốn nhàn
rỗi trong nền kinh tế thành nguồn vốn đầu tư và TTCK giữ vai trò qua trọng đối
với việc huy động vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế.
Sau hơn 10 năm hoạt động và phát triển, TTCK Việt Nam đã có những giai
đoạn tăng trưởng nhanh chóng (1.170 điểm) và cùng với đó là những giai đoạn
khó khăn (235 điểm). Có nhiều yếu tố tác động đến hoạt động của TTCK như
tình hình kinh tế xã hội, quy luật cung cầu, trình độ và tâm lý nhà đầu tư, các quy
định chính sách liên quan, tác động của các thị trường khác như thị trường bất
độn sản, thị trường vàng, thị trường ngoại tệ… trong đó tác động của dòng vốn
đầu tư nước ngoài đóng vai trò quan trọng, là một tác động chủ yếu, dẫn dắt thị
trường chứng khoán Việt Nam trong suốt những năm gần đây.
Tính đến thời điểm quý 2 năm 2013, hiện ở Việt Nam đang có 31 văn phòng
đại diện của tổ chức kinh doanh chứng khoán nước ngoài, tổng số 35 CTCK có
vốn góp của đối tác nước ngoài đang hoạt động tại Việt Nam trong đó có 10 công
ty mà nhà ĐTNN sở hữu đến 49% vốn góp. Đối với công ty quản lý quỹ, hiện có
9 công ty có vốn góp của nước ngoài, trong đó có 2 công ty quản lý quỹ có mức
vốn góp của nhà ĐTNN là 100%. Có thể thấy, nhà đầu tư nước ngoài đã và đang
tham gia nghiêm túc vào thị trường chứng khoán Việt Nam. Mặc dù TTCK Việt
1
Nam đã hoạt động được hơn 10 năm, nhưng cho đến nay, sự chi phối và những
tác động của dòng vốn đầu tư nước ngoài trên TTCK vẫn còn là một ẩn số.
Thành tựu quan trọng mà TTCK Việt Nam đạt được kể từ khi tham gia WTO
chính là sự gia tăng đáng kể của dòng vốn gián tiếp vào thị trường trong nước.
Thực tế cho thấy, sự tham gia của nhà đầu tư nước, các quỹ đầu tư chứng khoán,
các tập đoàn tài chính lớn sẽ góp phần chuyên nghiệp hóa TTCK Việt Nam, từ đó
tăng cường kinh nghiệm và nâng cao tiêu chuẩn về quản trị công ty, khả năng
phân tích, đầu tư cho các doanh nghiệp trong nước. Cùng với đó, quy mô của
TTCK cũng tăng lên đáng kể. TTCK tiếp tục phát triển trở thành kênh huy động
vốn của doanh nghiệp, cũng là kênh đầu tư quan trọng của nền kinh tế. Bên cạnh
đó, việc đơn giản hóa thủ tục đầu tư cho nhà ĐTNN theo Thông tư số
213/2012/TT-BTC được Bộ Tài chính ban hành ngày 6/12/2012 sẽ tạo điều kiện
thuận lợi hơn cho nhà ĐTNN khi tham gia TTCK, đồng thời góp phần tăng tính
cạnh tranh và minh bạch cho TTCK Việt Nam.
Sự hội nhập của TTCK là tất yếu, và vai trò của nhà đầu tư nước ngoài sẽ
ngày càng quan trọng, tuy nhiên, việc tham gia của nhà ĐTNN sẽ mang lại nhiều
cơ hội nhưng cũng không ít thách thức. Có thể nói, việc thống kê, phân tích
nghiên cứu hoạt động của dòng vốn đầu tư nước ngoài trên TTCK Việt Nam là sự
cần thiết để hiểu hơn về tầm ảnh hưởng của hoạt động đầu tư nước ngoài đến
TTCK, từ đó có những biện pháp thích hợp nhằm khai thác, phát huy các tác
động tích cực đồng thời phòng tránh và giảm thiểu các tác động tiêu cực. Chính
vì vậy, việc nhìn nhận ra các cơ hội và thách thức sẽ là điều rất quan trọng để xác
định các giải pháp cho sự hội nhập của TTCK Việt Nam, mang lại hiệu quả cao
nhất cho tất cả các nhà đầu tư, cho TTCK Việt Nam và cho mỗi ngành, mỗi lĩnh
vực của nền kinh tế. Vậy thì hoạt động đầu tư của dòng vốn đầu tư nước ngoài
trên thị trường chứng khoán Việt Nam thời gian qua đã diễn ra như thế nào? Hoạt
động đầu tư đó đã ảnh hưởng đến thị trường chứng khoán Việt Nam ra sao? Liệu
có thể thu hút thêm vốn đầu tư nước ngoài vào thị trường chứng khoán Việt
Nam? Việt Nam cần phải làm gì để tận dụng nguồn vốn đầu tư nước ngoài để
2
phát triển thị trường chứng khoán trong xu thế hội nhập kinh tế? Để tìm lời giải
đáp cho những câu hỏi này, việc nghiên cứu một cách toàn diện và sâu sắc hoạt
động đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài trên thị trường chứng khoán Việt Nam là
vô cùng cần thiết và có ý nghĩa về lý luận và thực tiễn.
Xuất phát từ lý do trên tôi chọn đề tài: Vai trò của đầu tư nước ngoài đối
với thị trường chứng khoán Việt Nam
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
2.1Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài
Trên thế giới những kết quả thực nghiệm về ảnh hưởng hoạt động của
dòng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài đến TTCK một số nước cũng cho thấy việc
nghiên cứu đã và đang được tiến hành. Bài nghiên cứu mối quan hệ giữa giá trị
đầu tư ròng của nhà đầu tư nước ngoài có tổ chức và chỉ số chứng khoán Nifty
(Ấn Độ) trong giai đoạn từ tháng 1/1999 đến tháng 2/2009 của các đồng tác giả
Mohd.Aamir Khan, Rohit, Siddharth Goyal, Vinit Ranjan và Gaurav Agrawal.
Các tác giả đã phân chia thời gian nghiên cứu thành 4 giai đoạn nhỏ theo thứ tự
sự kiện kinh tế thế giới đã xảy ra là vụ khủng bố tòa tháp đôi WTC tại Mỹ ngày
11/9/2001, dịch SARS toàn cầu tháng 5/2003 và khủng hoảng tài chính thế giới
bắt đầu từ tháng 1/2008. Với phương pháp phân tích chuỗi dữ liệu, xem xét phân
phối chuẩn của các chuỗi dữ liệu, kiểm định nhân quả Granger và Phương pháp
phân tích phương sai, các tác giả đưa ra được kết luận: Giai đoạn 3 là giai đoạn
tăng của TTCK Ấn Độ tuy nhiên ảnh hưởng của chỉ số Nifty lên các tổ chức đầu
tư nước ngoài lại mạnh hơn trong giai đoạn 4, nguyên nhân là do các nhà tạo lập
thị trường khác đã gia tăng vai trò của họ nhằm làm giảm mức ảnh hưởng của các
tổ chức nước ngoài lên TTCK Ấn Độ.
Bài nghiên cứu mối quan hệ giữa tỷ lệ sở hữu cổ phiếu của các tổ chức
nước ngoài (FIO) với tính thanh khoản TTCK Indonesia của hai tác giả S.Ghon
Rhee và Jianxin Wang đã sử dụng dữ liệu về tỷ lệ sở hữu từng loại cổ phiếu của
các dạng NĐT khác nhau, và dữ liệu thể hiện tính thanh khoản của TTCK đo
3
lường qua ba yếu tố là chênh lệch giá đặt Mua/bán, độ sâu của thị trường và mức
độ nhạy cảm của giá chứng khoán. Qua nghiên cứu này các tác giả đã cung cấp
bằng chứng trực tiếp về mối quan hệ giữa tính thanh khoản của TTCK và dòng
vốn ĐTNN đó là từ khi TTCK Indonesia mở cửu thu hút ĐTNN thì tính thanh
khoản thị trường tăng hàng năm trong suốt thời gian nghiên cứu.
Tại Trung Quốc, tác giả Chau Kit Yi đã thực hiện việc phân tích mức độ
ảnh hưởng này trên TTCK Thượng Hải, được xem là một thị trường năng động
nhất ở Trung Quốc.
Thời gian nghiên cứu bao gồm hai giai đoạn từ tháng 1/2001 đến tháng
12/2002 và từ tháng 1/2004 đến tháng 12/2005, tương ứng với hai thời kỳ trước
và sau khi ban hành Hệ thống các NDDT tổ chức nước ngoài đủ tiêu chuẩn
(QFII), có sự gián đoạn giữa hai giai đoạn nghiên cứu là do QFII được hình
thành vào tháng 12/2002 nhưng cho đến cuối năm 2003 phần lớn các tổ chức
nước ngoài được cấp phép vẫn không thực hiện việc đầu tư vào TTCK.
Dữ liệu nghiên cứu bao gồm: Thu thập hàng tuần của 68 cổ phiếu loại A
(chủ yếu là cổ phiếu tập trung trong các ngành thép, nhập khẩu, năng lượng, tài
chính, nguyên liệu thô, vận tải, thông tin và kỹ thuật theo sự nghiên cứu của
SSE) giao dịch trên Sở giao dịch Chứng khoán Thượng Hải (SSE), giá cổ phiếu,
chỉ số chứng khoán Thượng Hải được xem là đại diện của TTCK, lãi tiền gửi 3
tháng của các tổ chức tín dụng được sử dụng như lãi suất phi rủi ro, khối lượng
giao dịch hàng tuần, số lượng cổ phiếu đang lưu hành, tốc độ luân chuyển và dữ
liệu EPS hàng năm của 68 cổ phiếu loại A trên. Kết quả, tác giả đã cho thấy việc
tự do hóa thị trường tài chính thu hút các tổ chức đầu tư nước ngoài (FII) đem lại
không chỉ tác động tích cực mà cũng có tác động tiêu cực, đó là làm giảm tính ổn
định của thị trường chứng khoán. Theo quan điểm của tác giả, để ổn định TTCK,
điều cần thiết là nâng cao kiến thức NĐT cá nhân, cung cấp cho họ một nền tảng
vững chắc trong việc thực hiện quyết định đầu tư mà không bị chi phối bởi các
FII
4
Qua các công trình nghiên cứu về thị trường chứng khoán Việt Nam và
dòng vốn đầu tư nước ngoài cũng như các kết quả thực nghiệm tại 3 TTCK Ấn
Độ, Indonesia và Thượng Hải, cần thực hiện nghiên cứu định lượng về mức độ
ảnh hưởng của hoạt động đầu tư nước ngoài vào TTCK Việt Nam, xác định mức
độ ảnh hưởng ít hay nhiều trong từng giai đoạn.
2.2 Tình hình nghiên cứu trong nước
Về khía cạnh phân tích vai trò của hoạt động đầu tư nước ngoài trên thị
trường chứng khoán Việt Nam, hầu hết các đề tài nghiên cứu trong nước đều tiếp
cận trên yếu tố vĩ mô, nghiên cứu chung về thị trường chứng khoán mà trong đó
vốn đầu tư nước ngoài là một bộ phận, cũng có những công trình, bài báo nghiên
cứu về từng mảng của thị trường chứng khoán liên quan đến các hoạt động đầu
tư của nhà đầu tư nước ngoài.
Đối với những công trình nghiên cứu chung về thị trường chứng khoán,
thị trường tài chính, điển hình có các công trình: “Toàn cầu hóa thị trường tiền
tệ, tài chính thế giới”, năm 2000, Luận án tiến sĩ kinh tế của Nguyễn Văn
Phương, Đại học Kinh tế quốc dân; “Phát triển và hoàn thiện thị trường vốn và
thị trường tiền tệ Việt Nam”, năm 2003, “Phát triển thị trường tài chính Việt Nam
trong xu thế hội nhập thị trường tài chính quốc tế”, năm 2005, Luận án tiến sĩ
của Đặng Thị Nhàn. Những đề tài nghiên cứu trên đã cho thấy được những nét
khái quát cơ bản về thị trường này với vị trí là bộ phận của thị trường tài chính,
trên cơ sở đó đã cung cấp những thông tin tham khảo quan trọng, định hướng gợi
mở nhiều ý tưởng trong quá trình nghiên cứu về thị trường. Tuy nhiên do mục
tiêu nghiên cứu về thị trường tiền tệ và thị trường tài chính, do lĩnh vực nghiên
cứu rộng và phức tạp nên các công trình này phần lớn tập trung vào mảng thị
trường tín dụng, thị trường ngoại tệ hoặc tổng quan thị trường chứng khoán mà
chưa dành nhiều sự quan tâm về dòng vốn đầu tư nước ngoài trên TTCK.
Các công trình liên quan đến từng mảng, từng bộ phận của thị trường
chứng khoán chủ yếu là đề cập đến những nét khái quát cơ bản của thị trường
5
này hoặc những xu hướng ngắn hạn của NĐTNN, trên cơ sở đó đã cung cấp
những thông tin tham khảo quan trọng, định hướng gợi mở nhiều ý tưởng trong
quá trình nghiên cứu về dòng vốn ĐTNN trên TTCK. Các bài báo, nghiên cứu
cũng chủ yếu phục vụ cho việc nâng cao năng lực quản lý, điều hành của Ngân
hàng Nhà nước, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước, các Sở giao dịch Chứng khoán
trong việc kiểm soát và thu hút dòng vốn ĐTNN trên TTCK. Các công trình liên
quan như: Báo cáo dự án điều tra, đánh giá các điều kiện tổ chức và vận hành
thị trường chứng khoán ở Việt Nam (giai đoạn II), Hà Nội, 2002, Ủy ban Chứng
khoán Nhà nước ; Kênh huy động vốn trên thị trường chứng khoán Việt Nam
được gì?, 2006,Trần Thị Thùy Linh, Tạp chí phát triển kinh tế 185. Trong bài
báo : Tác động của các cam kết WTO tới thị trường chứng khoán Việt Nam,
2010, Ths. Nguyễn Ngọc Cảnh, Tạp chí Chứng khoán Việt Nam 140, tác giả đã
nêu lên những chuyển biến tích cực đối với TTCK trong bối cảnh gia nhập WTO.
Trước ngưỡng cửa của một giai đoạn mới, trong bối cảnh hội nhập quốc tế ở mức
độ cao, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước dưới sự lãnh đạo của Bộ Tài chính chịu
trách nhiệm đảm bảo đạt được mức độ phát triển và tự do hóa thị trường mà
không phải đánh đổi bằng sự an toàn và niềm tin của nhà đầu tư và các thành
viên thị trường.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu:
Thông qua những nghiên cứu cơ sở lý luận về chứng khoán và thị trường
chứng khoán, thực trạng tham gia đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài qua các năm
từ năm 2000 đến 2012, luận văn nhằm mục đích phân tích tác động của nguồn
vốn ngoại để đánh giá vai trò của nhà đầu tư nước ngoài trên thị trường chứng
khoán Việt Nam.
Đề tài nghiên cứu mối quan hệ tích cực cũng như tiêu cực giữa việc tham gia
của nhà ĐTNN vào thị trường chứng khoán Việt Nam đối với thị trường tài
chính, cung cầu chứng khoán, cộng đồng các nhà đầu tư trong nước, nhất là việc
nâng cao tính chuyên nghiệp – bền vững cho thị trường chứng khoán
6
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nêu trên, đề tài có nhiệm vụ :
- Nghiên cứu những lý luận cơ bản về chứng khoán và thị trường chứng
khoán. Các khái niệm về đầu tư nước ngoài và đầu tư nước ngoài vào thị
trường chứng khoán. Các đặc trưng của dòng vốn nước ngoài và nhà đầu tư
nước ngoài khi đầu tư vào thị trường chứng khoán.
- Nghiên cứu ảnh hưởng của hoạt động đầu tư nước ngoài đến TTCK Việt
Nam qua 3 giai đoạn: Giai đoạn 2005-2006, 2007-2008 và 2008-2012.
Thông qua các kết quả phân tích cho thấy mức độ ảnh hưởng của dòng vốn
đầu tư nước ngoài trên thị trường chứng khoán Việt Nam thay đổi theo từng
giai đoạn.
- Đề xuất các giải pháp nhằm khai thác, phát huy các tác động tích cực đồng
thời phòng tránh và giảm thiểu các tác động tiêu cực của hoạt động đầu tư
nước ngoài trên TTCK Việt Nam, giúp cho TTCK hoạt động thực sự chủ yếu
dựa trên quy luật cung cầu của thị trường.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Thị trường chứng khoán Việt Nam trong đó bao gồm hoạt động đầu tư của
dòng vốn đầu tư nước ngoài và của các tổ chức, cá nhân Việt Nam tham gia vào
TTCK Việt Nam là đối tượng mà đề tài tập trung nghiên cứu. Các hoạt động đầu
tư của dòng vốn đầu tư nước ngoài gián tiếp trên thị trường chứng khoán vô cùng
đa dạng và dàn trải trên nhiều loại hình như thông qua việc mua cổ phần, cổ
phiếu, trái phiếu, các giấy tờ có giá khác, thông qua các quỹ đầu tư chứng khoán
và thông qua các định chế tài chính trung gian khác mà nhà đầu tư không trực
tiếp tham gia quản lý hoạt động đầu tư (Định nghĩa về đầu tư gián tiếp – Luật
Đầu tư 2005).
Luận văn nghiên cứu hoạt động đầu tư của 31 tổ chức kinh doanh chứng
khoán nước ngoài (Ủy ban chứng khoán nhà nước), 35 công ty chứng khoán có
vốn góp của đối tác đầu tư nước ngoài đang hoạt động trên thị trường chứng
khoán Việt Nam (Theo Chứng khoán Việt Nam) đang đầu tư vào các chứng khoán
niêm yết trên 3 sàn chứng khoán HNX, HSX và OTC.
7
Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, tác giảphân tích TTCK Việt Nam tập
trung giai đoạn từ2005 đến tháng 2011
- Giai đoạn trước khi Việt Nam gia nhập WTO vào tháng 11/2006
- Giai đoạn từ sau khi Việt Nam gia nhập WTO đến trước khủng hoảng tài
chính thế giới năm 2008
- Giai đoạn khủng hoảng tài chính thế giới năm 2008 đến cuối năm 2011
Tóm lại, diễn biến hoạt động của dòng vốn ĐTNN trên TTCK Việt Nam trong
thời gian qua cho thấy, vai trò của nhà ĐTNN trên TTCK Việt Nam thay đổi theo
từng giai đoạn. Giai đoạn trước khi Việt Nam gia nhập WTO, vai trò của dòng
vốn ĐTNN chưa nổi bật trên TTCK Việt Nam mặc dù năm 2006 được đánh giá
là năm “bản lề” với nhà ĐTNN khi dòng vốn đầu tư nước ngoài vào TTCK Việt
Nam bắt đầu tăng đột biến, chủ yếu ở dạng ủy thác đầu tư từ các tập đoàn tài
chính nước ngoài. Giai đoạn từ sau khi Việt Nam gia nhập WTO tới trước khi
xảy ra cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008, với tính chuyên nghiệp trong đầu
tư và tiềm lực vốn, nhà ĐTNN đã và đang trở thành một cấu thành quan trọng
trên TTCK Việt Nam. Đã có nhiều ý kiến của các chuyên gia, các nhà phân tích
xem xét và đánh giá về vai trò “dẫn dắt” TTCK của dòng vốn ĐTNN trên các
diễn đàn, trên các báo chuyên ngành trong giai đoạn này. Sau cuộc khủng hoảng
toàn cầu năm 2008, các nhà đầu tư trong nước đã thay thế vai trò của dòng vốn
nước ngoài thúc đẩy sự tăng trưởng trở lại của TTCK.
Trong giai đoạn nghiên cứu, TTCK Việt Nam hình thành và phát triển mạnh
mẽ về hàng hóa, giá trị giao dịch cũng như số lượng nhà ĐTNN chủ yếu trên sàn
HOSE. Hai sàn còn lại là Hastc trong giai đoạn sơ khai và chủ yếu tập trung nhà
đầu tư cá nhân Việt Nam, sàn OTC giá trị giao dịch thấp và dữ liệu nghiên cứu
rời rạc. Do đó để tiện cho việc nghiên cứu và xây dựng mô hình định lượng ảnh
hưởng, tác động của giá trị giao dịch chứng khoán của nhà ĐTNN đến tổng giá
trị giao dịch trên TTCK Việt Nam, tác giả chỉ tiến hành thu thập dữ liệu trên sàn
HOSE.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng kết hợp các phương pháp nghiên cứu như:
8
- Phương pháp thu thập các số liệu lịch sử được công bố trên các phương
tiện điện tử, số liệu từ các cơ quan chuyên môn, các báo cáo chuyên môn
- Phương pháp thống kê mô tả
- Phương pháp phân tích dữ liệu chuỗi thời gian
- Công cụ thống kê mô tả, phân tích tương quan: chương trình phân tích dữ
liệu EVIEWS (Econometrics Views) cung cấp các công cụ phân tích dữ
liệu phức tạp, hồi quy và dự báo.
Phạm vi dữ liệu nghiên cứu: Do thời gian nghiên cứu và khả năng thu
thập dữ liệu có hạn, nên đề tài chỉ nghiên cứu ảnh hưởng của hoạt động đầu
tư nước ngoài lên TTCK Việt Nam, bỏ qua tác động của các nhân tố khác có
ảnh hưởng đến TTCK Việt Nam.
Để đánh giá ảnh hưởng của hoạt động đầu tư nước ngoài lên TTCK
Việt Nam, đề tài thực hiện phân tích ảnh hưởng giá trị chứng khoán giao dịch
của nhà đầu tư nước ngoài đến giá trị chứng khoán giao dịch toàn thị trường
tại HOSE bao gồm cả giá trị giao dịch thỏa thuận và giá trị giao dịch khớp
lệnh.
Các chuỗi dữ liệu được thu thập trong giai đoạn từ đầu năm 2005 đến
cuối năm 2011 (dữ liệu được quan sát theo tuần).
6. Những đóng góp mới của đề tài
Nghiên cứu lý thuyết về ảnh hưởng của hoạt động nhà đầu tư nước ngoài đến
thị trường chứng khoán Việt Nam. Đánh giá thực trạng hoạt động của nhà đầu tư
nước ngoài từ năm 2006 đến 2011 và phân tích định tính về ảnh hưởng của nhà
đầu tư nước ngoài đến thị trường chứng khoán Việt Nam.
Thực hiện các bước phân tích định lượng về ảnh hưởng của hoạt động nhà
đầu tư nước ngoài đến thị trường chứng khoán Việt Nam trong từng giai đoạn.
Đề xuất một số giải pháp nhằm khai thác, phát huy các tác động tích cực đồng
thời phòng tránh, giảm thiểu các tác động tiêu cực của hoạt động nhà đầu tư nước
ngoài trên thị trường chứng khoán Việt Nam để thị trường phát triển bền vững.
7. Kết cấu của đề tài
9
Ngoài phần mở đầu, kết luận và các danh mục tham khảo, khóa luận được kết
cấu thành 3 chương sau đây:
Chương 1 : Khái quát chung về thị trường chứng khoán và nhà đầu tư nước
ngoài trên thị trường chứng khoán
Chương 2. Thực trạng và vai trò của đầu tư nước ngoài trên thị trường chứng
khoán Việt Nam
Chương 3: Các giải pháp nhằm thúc đẩy hoạt động của các nhà đầu tư nước
ngoài vào thị trường chứng khoán Việt Nam
10
CHƯƠNG 1:KHÁI QUÁT CHUNG VỀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN
VÀ NHÀ ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG
KHOÁN
1.1 Lý luận chung về chứng khoán và thị trường chứng khoán :
1.1.1 Khái niệm:
1.1.1.1 Chứng khoán
Chứng khoán là chứng chỉ hoặc bút toán ghi sổ, xác nhận quyền và lợi ích hợp
pháp của người sở hữu chứng khoán đối với tài sản hoặc vốn của tổ chức phát
hành. Chứng khoán bao gồm cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ đầu tư và các
loại chứng khoán khác.
1.1.1.2 Thị trường chứng khoán
Khái niệm
Thị trường chứng khoán trong điều kiện của nền kinh tế hiện đại, được quan
niệm là nơi diễn ra các hoạt động giao dịch mua bán chứng khoán trung và dài
hạn. Việc mua bán này được tiến hành ở thị trường sơ cấp khi người mua mua
được chứng khoán lần đầu từ những người phát hành, và ở những thị trường thứ
cấp khi có sự mua đi bán lại các chứng khoán đã được phát hành ở thị trường sơ
cấp. Như vậy, xét về mặt hình thức, thị trường chứng khoán chỉ là nơi diễn ra các
hoạt động trao đổi, mua bán, chuyển nhượng các loại chứng khoán, qua đó thay
đổi chủ thể nắm giữ chứng khoán. Thị trường chứng khoán có những chức năng
cơ bản sau:
- Huy động vốn đầu tư cho nền kinh tế
- Cung cấp môi trường đầu tư cho công chúng
- Tạo tính thanh khoản cho các chứng khoán
- Đánh giá hoạt động của doanh nghiệp
- Tạo môi trường giúp Chính phủ thực hiện các chính sách vĩ mô
Phân loại
11
Thị trường chứng khoán là nơi diễn ra các giao dịch, mua bán những sản phẩm
tài chính (cổ phiếu, trái phiếu, các khoản vay ngân hàng ) có kỳ hạn trên 1 năm.
Sau đây là một số cách phân loại thị trường chứng khoán cơ bản:
Căn cứ vào sự luân chuyển các nguồn vốn: Thị trường chứng khoán được chia
thành thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp.
- Thị trường sơ cấp: Thị trường sơ cấp là thị trường mua bán các chứng khoán
mới phát hành. Trên thị trường này, vốn từ nhà đầu tư sẽ được chuyển sang nhà
phát hành thông qua việc nhà đầu tư mua các chứng khoán mới phát hành.
- Thị trường thứ cấp: Thị trường thứ cấp là nơi giao dịch các chứng khoán đã được
phát hành trên thị trường sơ cấp, đảm bảo tính thanh khoản cho các chứng khoán
đã phát hành.
Căn cứ vào phương thức hoạt động của thị trường: Thị trường chứng khoán
được phân thành thị trường tập trung (Sở giao dịch chứng khoán) và phi tập trung
(thị trường OTC)
Căn cứ vào hàng hoá trên thị trường: Thị trường chứng khoán cũng có thể được
phân thành các thị trường: thị trường cổ phiếu, thị trường trái phiếu, thị trường
các công cụ chứng khoán phái sinh.
− Thị trường cổ phiếu: Thị trường cổ phiếu là thị trường giao dịch và mua bán
các loại cổ phiếu, bao gồm cổ phiếu thường, cổ phiếu ưu đãi.
− Thị trường trái phiếu: Thị trường trái phiếu là thị trường giao dịch và mua
bán các trái phiếu đã được phát hành, các trái phiếu này bao gồm các trái phiếu
công ty, trái phiếu đô thị và trái phiếu chính phủ.
− Thị trường các công cụ chứng khoán phái sinh: Thị trường các chứng khoán
phái sinh là thị trường phát hành và mua đi bán lại các chứng từ tài chính khác
như: quyền mua cổ phiếu, chứng quyền, hợp đồng quyền chọn, hợp đồng tương
lai, hợp đồng kỳ hạn, hoán đổi
Hàng hóa trên thị trường chứng khoán: Đối tượng giao dịch chính trên thị
trường chứng khoán là chứng khoán. Chứng khoán là chứng chỉ hoặc bút toán
ghi sổ, xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu chứng khoán đối
12
với tài sản hoặc vốn của tổ chức phát hành. Chứng khoán bao gồm cổ phiếu, trái
phiếu, chứng khoán phái sinh.
− Cổ phiếu: là một loại chứng từ, dưới hình thức chứng từ hay ghi trên hệ thống
điện tử, nó xác nhận quyền sở hữu hợp pháp của người có cổ phiếu hợp pháp đối
với tài sản của người phát hành.
− Trái phiếu: là một loại chứng từ chứng nhận quyền đòi nợ gốc lẫn lãi của trái
chủ đối với các cá nhân hay tổ chức phát hành trái phiếu đó.
− Chứng khoán phái sinh: là những công cụ được phát hành trên cơ sở những
công cụ đã có như cổ phiếu, trái phiếu, nhằm nhiều mục tiêu khác nhau như phân
tán rủi ro, bảo vệ lợi nhuận hoặc tạo lợi nhuận. Các chứng khoán phái sinh sẽ là
đòn bẩy, làm tăng nhiều lần giá trị các đối tượng đầu tư như cổ phiếu, trái phiếu,
để đảm bảo rằng nếu giá của cổ phiếu, trái phiếu có thay đổi bao nhiêu thì giá của
các công cụ phái sinh vẫn sẽ được duy trì ở mức ban đầu. Các công cụ phái sinh
rất phong phú và đa dạng, nhưng nhìn chung có bốn công cụ chính là Hợp đồng
kỳ hạn (forwards), Hợp đồng tương lai (futures), Quyền chọn (options) và Hợp
đồng hoán đổi (swaps).
Hoạt động đầu tư trên thị trường chứng khoán
Đầu tư là một quá trình làm cho nguồn tài chính hiện tại vận động nhằm
mục tiêu thu lợi nhuận trong tương lai. Nhà đầu tư mong muốn được bồi hoàn do
sự chậm trễ trong tiêu dùng, do ảnh hưởng của lạm phát và có thể xảy ra rủi ro.
Vốn đầu tư trên thị trường chứng khoán, hiểu theo nghĩa hẹp là tiềm lực
tài chính của mỗi cá nhân, mỗi tổ chức. Nếu hiểu theo nghĩa rộng, vốn đầu tư
trên thị trường chứng khoán bao gồm nguồn nhân lực, nguồn tài lực,… đã tích
lũy của chính mỗi cá nhân, mỗi doanh nghiệp, quỹ đầu tư, chính phủ.
Các hình thức đầu tư trên thị trường chứng khoán
- Huy động gián tiếp: Phương thức này được thực hiện thông qua các định chế tài
chính trung gian. Do vậy, sự xuất hiện của ngân hàng là một bước tiến quan trọng
13
trong quá trình giao lưu vốn, ngân hàng làm vai trò trung gian giữa người có vốn
và người cần vốn bằng cách huy động tiền gửi rồi cho vay. Trong quá trình đó,
ngân hàng cùng các tổ chức tín dụng khác đã làm cho quá trình giao lưu vốn
được phát triển nhanh chóng. Tuy nhiên do tốc độ phát triển của thị trường
phương thức huy động vốn gián tiếp thông qua ngân hàng bộc lộ nhiều hạn chế
về các điều kiện, thủ tục, hạn mức tín dụng,…
- Huy động trực tiếp: Qua kết quả của các quá trình huy động vốn đã hình thành
một phương thức huy động vốn được mọi người ưa chuộng hơn, đó là phương
thức huy động vốn trực tiếp. Nguyên tắc cơ bản của phương thức này là người
cần vốn (Chính phủ hay doanh nghiệp) sẽ phát hành các loại giấy tờ có giá chứng
nhận chủ quyền về các khoản vốn được sử dụng gắn liền với những đặc quyền
mà người mua nó được hưởng thụ. Các hình thức và kỳ hạn của các giấy tờ có
giá này đa dạng tùy thuộc vào mục đích huy động của người sử dụng vốn. Chứng
khoán là những giấy tờ có giá đại diện cho những khoản vốn trung và dài hạn
được mua và bán trên thị trường chứng khoán.
Phân nhóm nhà đầu tư dựa trên mục đích đầu tư
Có thể phân nhóm các nhà đầu tư như sau:
Thứ nhất, đó là những nhà đầu tư phân tích rất kỹ mọi thông tin về công ty phát
hành cổ phiếu, về công nghệ, về thị trường đầu vào và đầu ra, về các đối thủ cạnh
tranh. Họ quyết định đầu tư dựa trên tình hình thực tế và tiềm năng của công ty.
Đây là những nhà đầu tư khôn ngoan, họ chọn những công ty có triển vọng tốt để
đầu tư, vì vậy họ giúp cho nền kinh tế phát triển tốt hơn.
Loại thứ hai nghiên cứu rất kỹ thông tin về chứng khoán để tìm ra giá bình quân
trong một thời gian dài. Khi giá tăng lên trên bình quân, họ tin là giá sẽ xuống,
nên họ bán ra, nhiều người cùng bán ra làm giá giảm xuống. Ngược lại, khi giá
xuống dưới mức bình quân, họ tin là giá sẽ lên, vậy là họ đi mua vào, nhiều
người cùng hành động như vậy đẩy giá lên. Nhóm các nhà đầu tư này góp phần
làm ổn định thị trường.
Loại thứ ba lại có tâm lý ngược lại. Khi thấy giá một cổ phiếu tăng, họ giả định
là ngày mai sẽ tăng hơn nữa, nên họ tranh nhau mua, chính vì vậy mà giá càng
14
tăng. Một khi giá giảm, họ lại giả định ngày mai sẽ giảm nữa, vậy là họ vội vàng
bán làm cho giá càng giảm hơn nữa. Nhóm thứ ba này là nguyên nhân gây nên sự
bất ổn định của thị trường.
Loại thứ tư là những người đầu tư theo bình quân thị trường. Họ mua một tập
hợp rất nhiều loại chứng khoán khác nhau để giảm thiểu rủi ro có thể xảy ra. Vị
thế của họ tùy thuộc vào biến động chung của thị trường mà ít phụ thuộc vào một
vài cổ phiếu cụ thể nào.
Loại thứ năm là những nhà đầu tư tập trung vào cổ phiếu của một công ty nhằm
mục tiêu nắm được quyền kiểm soát công ty. Họ gần như “chung thủy” dài hạn
với công ty đó và ít quan tâm đến những biến động nhất thời theo tâm lý thị
trường.
Loại thứ sáu là những nhà đầu cơ rất ngắn hạn. Họ mua vào bán ra liên tục hàng
ngày theo tin đồn nhanh, có khi sáng mua trưa bán. Thị trường gọi nhóm này là
“gây nhiễu”.
Tất nhiên không phải nhà đầu tư nào cũng kiên định theo một cách hành xử đã
chọn. Và ranh giới giữa các loại trên không phải bao giờ cũng rõ ràng. Theo quan
sát hoạt động của các nhà đầu tư Việt Nam trên thị trường khoán trong thời gian
qua thì có nhiều nhà đầu tư thuộc loại thứ ba và loại thứ sáu. Tuy nhiên cùng với
sự phát triển của thị trường chứng khoán nhận thức và trình độ của các nhà đầu
tư ngày càng cao hơn góp phần đưa hoạt động đầu tư trên thị trường đi vào đúng
quỹ đạo của nó.
15
1.1.2 Đặc trưng của thị trường chứng khoán:
1.1.2.1 Hình thức tài chính trực tiếp
Đây là đặc trưng cơ bản nhất của thị trường chứng khoán. Trên thị trường
chứng khoán người cần vốn và người có khả năng cung ứng vốn trực tiếp tham
gia vào thị trường, không có trung gian tài chính.
Với kênh huy động vốn truyền thống qua các ngân hàng như trước đây,
các chủ thể đầu tư không thể theo dõi, kiểm tra, quản lí vốn đầu tư của họ, do đó
làm cho quyền sử dụng và quyền sở hữu vốn tách rời nhau, làm giảm động lực
tiềm năng trong quản lí. Trái lại, với việc đầu tư qua thị trường chứng khoán,
kênh dẫn vốn trực tiếp, các chủ thể đầu tư đã gắn quyền sử dụng và quyền sở hữu
về vốn, nâng cao tiềm năng quản lí vốn.
1.1.2.2 Tính cạnh tranh
Thị trường chứng khoán là thị trường gần với thị trường cạnh tranh hoàn
hảo, tất cả mọi người đều tự do tham gia vào thị trường, không có sự áp đặt về
giá cả, giá cả được xác định dựa trên quan hệ cung cầu của thị trường và phản
ánh các thông tin liên quan về chứng khoán. Thông qua giá chứng khoán, hoạt
động của các doanh nghiệp được phản ánh một cách tổng hợp và chính xác giúp
cho việc đánh giá và so sánh hoạt động của doanh nghiệp được nhanh chóng và
thuận tiện, từ đó tạo ra môi trường cạnh tranh lành mạnh nhằm nâng cao hiệu quả
sử dụng vốn, kích thích áp dụng công nghệ mới, cải tiến sản phẩm.
1.1.2.3 Tính liên tục
Sau khi chứng khoán được phát hành trên thị trường sơ cấp nó có thể được
mua bán nhiều lần trên thị trường thứ cấp, đảm bảo cho nhà đầu tư có thể chuyển
các chứng khoán họ nắm giữ thành tiền bất cứ lúc nào họ muốn. Việc mua bán
này được tiến hành ở thị trường sơ cấp khi người mua mua được chứng khoán
lần đầu từ những người phát hành, và ở thị trường thứ cấp khi có sự mua đi bán
lại các chứng khoán đã được phát hành ở thị trường sơ cấp. Quá trình mua đi bán
lại này có thể mang lại lợi nhuận cho các nhà đầu tư và tạo nên tính liên tục của
thị trường chứng khoán.
16
1.1.3 Chức năng của thị trường chứng khoán
Huy động vốn đầu tư cho nền kinh tế
Khi các nhà đầu tư mua chứng khoán do các công ty phát hành, số tiền
nhàn rỗi được họ đưa vào hoạt động sản xuất kinh doanh và qua đó góp phần mở
rộng sản xuất xã hội. Bằng cách hỗ trợ các hoạt động đầu tư của công ty, TTCK
đã có những tác động quan trọng đối sự phát triển của nền kinh tế quốc dân.
Thông qua TTCK, chính phủ và chính quyền ở các địa phương cũng huy động
được các nguồn vốn cho mục đích sử dụng và đầu tư phát triển hạ tầng kinh tế,
phục vụ các nhu cầu chung của xã hội.
Hình 1.1: Nguồn huy động vốn dự kiến của doanh nghiệp năm 2013
Nguồn: Khảo sát doanh nghiệp do VietNam Report thực hiện, tháng 12/2012
Theo khảo sát gần đây nhất vào cuối năm 2012 được thực hiện bởi
Vietnam Report, thì đa phần đại diện của các DN lớn và DN tăng trưởng
(VNR500, FAST500) cho rằng, nguồn huy động vốn của họ chủ yếu vẫn là từ
ngân hàng (76,04% số DN được hỏi). Tuy nhiên, với tốc độ tăng trưởng tín dụng
thấp của năm 2012 chỉ khoảng 8-9% so với 2011, và sơ bộ đến hết quý I/2013
17
tăng trưởng tín dụng vẫn chưa có sự cải thiện đáng kể cho thấy dường như ngân
hàng vẫn chưa sẵn sàng giải ngân cho Doanh nghiệp. Chỉ có 5/21 doanh nghiệp
được hỏi cho biết nguồn huy động vốn là qua thị trường chứng khoán, điều này
cho thấy các doanh nghiệp Việt Nam vẫn xếp kênh huy động này vào cuối cùng
sau khi đã tìm đủ cách để huy động vốn.
Hình 1.2: Tổng giá trị huy động cộng dồn (Tỷ đồng)
Nguồn số liệu: Ủy ban chứng khoán nhà nước
Thống kê của Ủy ban Chứng khoán Nhà nước (UBCKNN), huy động vốn
của thị trường chứng khoán (TTCK) qua 14 năm được 135.795 tỷ đồng. Với con
số này, TTCK đã và đang được xem là kênh huy động vốn trung và dài hạn chính
cho nền kinh tế, nhất là trong bối cảnh ngân hàng khó khăn.
Tuy nhiên, để có được con số huy động vốn trên, TTCK Việt Nam đã
không ít lần biến động mạnh. Năm 2007, khi TTCK đạt đỉnh cao của sự hoàng
kim, nhiều nhà đầu tư đã xem TTCK như một “canh bạc” lớn, đổ xô đầu tư
chứng khoán. Từ doanh nghiệp (DN), công chức, viên chức đến chị đầu bếp đều
tham gia thị trường nhằm kiếm lời. Bước sang 2008, TTCK đã bắt đầu có dấu
hiệu đi xuống. Thế nhưng, nhiều nhà đầu tư vẫn kỳ vọng, sự đi xuống chỉ là nhất
18
thời, TTCK sẽ sớm trở lại thời hoàng kim. Vì thế, số lượng nhà đầu tư và các
CTCK vẫn tiếp tục tăng. Tuy nhiên, từ năm 2009 đến nay, TTCK tuột dốc không
phanh, bất chấp các nhận định: thị trường sẽ sớm khởi sắc.
Cung cấp môi trường đầu tư cho công chúng
TTCK cung cấp cho công chúng một môi trường đầu tư lành mạnh với các
cơ hội lựa chọn phong phú. Các loại chứng khoán trên thị trường rất khác nhau
về tính chất, thời hạn rủi ro, cho phép các nhà đầu tư có thể lựa chọn cho loại
hàng hóa phù hợp với khả năng, mục tiêu và sở thích của mình. Chính vì vậy,
TTCK góp phần đáng kể làm tăng mức tiết kiệm quốc gia.
Tạo tính thanh khoản cho các chứng khoán
Nhờ có TTCK mà các nhà đầu tư có thể chuyển đổi các chứng khoán mà
họ sở hữu thành tiền mặt hoặc các loại chứng khoán khác khi họ muốn. Khả năng
thanh khoản (khả năng chuyển đổi thành tiền mặt) là một trong những đặc tính
hấp dẫn của chứng khoán đối với người đầu tư. Đây là một yếu tố cho thấy tính
linh hoạt, an toàn của vốn đầu tư. TTCK hoạt động càng năng động và có hiệu
quả thì càng có khả năng nâng cao tính thanh khoản của các chứng khoán giao
dịch trên thị trường.
Đánh giá hoạt động của doanh nghiệp
Thông qua giá chứng khoán, hoạt động của các doanh nghiệp được phản
ánh một cách tổng hợp chính xác, giúp cho việc đánh giá và so sánh hoạt động
của các doanh nghiệp được nhanh chóng và thuận tiện, từ đó cũng tạo ra được
môi trường cạnh tranh lành mạnh nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, kích
thích áp dụng công nghệ mới, cải tiến sản phẩm.
Tạo môi trường giúp Chính phủ thực hiện các chính sách kinh tế vĩ
mô
Các chỉ báo của TTCK phản ảnh động thái của nền kinh tế một cách nhạy
bén và chính xác. Giá các chứng khoán tăng lên cho thấy đầu tư đang mở rộng,
nền kinh tế tăng trưởng; và ngược lại giá chứng khoán giảm sẽ cho thấy các dấu
hiệu tiêu cực của nền kinh tế. Vì thế TTCK được coi là phong vũ biểu của nền
19
kinh tế và là một công cụ quan trọng giúp Chính phủ thực hiện các chính sách
kinh tế vĩ mô. Thông qua TTCK, Chính phủ có thể mua và bán trái phiếu Chính
phủ để tạo ra nguồn thu bù đắp thâm hụt ngân sách và quản lý lạm phát. Ngoài
ra, Chính phủ cũng có thể sử dụng một số chính sách, biện pháp tác động vào
TTCK nhằm định hướng đầu tư đảm bảo cho sự phát triển cân đối của nền kinh
tế.
1.2 Lý luận chung về thu hút đầu tư nước ngoài vào thị trường chứng khoán
1.2.1 Lý thuyết chung về đầu tư và đầu tư nước ngoài vào thị trường chứng
khoán
Đầu tư nước ngoài (đầu tư quốc tế) là một quá trình kinh tế trong đó các
nhà đầu tư nước ngoài (tổ chức, cá nhân) đưa vốn hoặc bất kỳ hình thức giá trị
nào vào nước tiếp nhận đầu tư để thực hiện các hoạt động sản xuất và kinh
doanh, dịch vụ nhằm thu lợi nhuận vào đạt được các hiệu quả xã hội.Về bản chất,
đầu tư quốc tế là những hình thức xuất khẩu tư bản, một hình thức cao hơn của
xuất khẩu hàng hoá. Đây là hai hình thức xuất khẩu luôn bổ sung và hỗ trợ nhau
trong chiến lược thâm nhập chiếm lĩnh thị trường của các công ty, tập đoàn nước
ngoài hiện nay. Cùng với hoạt động thương mại quốc tế, hoạt động đầu tư quốc tế
ngày càng phát triển mạnh mẽ, hợp thành những dòng chính trong trào lưu có
tính quy luật trong liên kết hợp kinh tế toàn cầu hiện nay. Nếu căn cứ vào mối
quan hệ giữa nhà đầu tư và đơn vị tiếp nhận đầu tư thì đầu tư quốc tế thường
được chia làm ba hình thức chủ yếu là đầu tư gián tiếp, tín dụng quốc tế và đầu tư
trực tiếp.Trong khuôn khổ của đề tài, ta sẽ chỉ đề cập tới lĩnh vực đầu tư nước
ngoài vào thị trường chứng khoán.
Khi đó nếu chủ đầu tư nước ngoài mua cổ phiếu (ở mức tối đa nào đó),
trái phiếu (không giới hạn mức tối đa) của các doanh nghiệp và chính phủ nước
sở tại mà không tham gia điều hành trực tiếp đối tượng mà họ bỏ vốn đầu tư thì
được gọi là đầu tư gián tiếp dưới dạng FPI- Foreign Portfolio Investment. ở đây
quyền sở hữu và quyền sử dụng vốn tách rời nhau. Còn khi chủ đầu tư nước
ngoài đóng góp một số vốn đủ lớn vào lĩnh vực sản xuất hoặc dịch vụ, cho phép
họ trực tiếp tham gia điều hành đối tượng họ bỏ vốn đầu tư thì được gọi là đầu tư
20
trực tiếp FDI – Foreign Direct Investment. Trong trường hợp này quyền sở hữu
vốn thống nhất với quyền sử dụng vốn.
1.2.2 Đặc điểm của các nhà đầu tư nước ngoài
Đầu tư gián tiếp dưới dạng FPI: Đây là hình thức đầu tư quốc tế quan
trọng, trong đó chủ đầu tư nước ngoài đầu tư bằng hình thức mua cổ phần của
các công ty ở nước sở tại (ở mức khống chế nhất định) để thu lợi nhuận mà
không tham gia điều hành trực tiếp đối tượng mà họ bỏ vốn đầu tư, và có một số
đặc điểm sau:
- Phạm vi đầu tư có giới hạn vì các chủ đầu tư nước ngoài chỉ quyết định mua cổ
phần của những doanh nghiệp làm ăn có lãi hoặc có triển vọng phát triển trong
tương lai
- Số lượng cổ phần của các công ty nước ngoài được mua bị khống chế ở mức độ
nhất định tuỳ theo từng nước.
- Chủ đầu tư nước ngoài không tham gia điều hành hoạt động doanh nghiệp, do đó
bên tiếp nhận đầu tư có quyền chủ động hoàn toàn trong kinh doanh.
- Tuy doanh nghiệp đầu tư không có khả năng, cơ hội tiếp thu công nghệ, kỹ thuật
hiện đại, kinh nghiệm quản lý nhưng thay vào đó, doanh nghiệp có khả năng
phân tán rủi ro kinh doanh trong những người mua cổ phiếu, trái phiếu doanh
nghiệp.
Ranh giới phân biệt giữa FPI và các nguồn vốn khác không rõ rệt. Xét về
bản chất, điều khác nhau cơ bản giữa FDI và FPI chính là ở chỗ có hay không sự
tham gia quản lý doanh nghiệp và chuyển giao công nghệ. Tuy nhiên khi lượng
FPI đạt đến một mức độ nhất định thì sẽ có sự chuyển hoá về chất, nghĩa là khi
đã nắm trong tay một số lượng cổ phiếu đủ lớn, nhà đầu tư có thể tham gia vào
quá trình quản lí doanh nghiệp, chuyển giao công nghệ và FPI sẽ trở nên ổn định
hơn. Hình thức này có ưu điểm là khi có sự cố trong kinh doanh xảy ra với xí
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thì các chủ đầu tư ít bị thiệt hại vì vốn đầu tư
được phân tán trong số đông những người mua cổ phiếu, trái phiếu. Mặt khác bên
tiếp nhận vốn đầu tư hoàn toàn chủ động vốn kinh doanh theo ý đồ của mình một
21
cách tập trung. Tuy nhiên, hình thức này có nhược điểm lớn là hạn chế khả năng
thu hút vốn kỹ thuật, công nghệ của chủ đầu tư nước ngoài vì họ khống chế mức
độ đóng góp vốn tối đa. Hơn nữa do bên nước ngoài không trực tiếp tham gia
điều hành đối tượng mà họ bỏ vốn đầu tư nên hiệu quả sử dụng vốn thường
không cao.
1.2.3 Kinh nghiệm của các nước về sự tham gia của các nhà đầu tư nước ngoài
vào thị trường chứng khoán
Trong giai đoạn đầu của quá trình xây dựng và vận hành thị trường chứng
khoán, phần lớn các nước trên thế giới đều đưa ra những chính sách cho phép
nhà đầu tư nước ngoài tham gia vào thị trường chứng khoán với hình thức và quy
mô phù hợp với đặc điểm riêng của từng quốc gia. Vấn đề đặt ra không phải có
cho phép người nước ngoài đầu tư hay không mà là chính sách đối với các nhà
đầu tư nước ngoài ra sao? Quản lý các nhà đầu tư nước ngoài như thế nào để phát
huy được những mặt tích cực và hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực đối với một
thị trường mới bắt đầu hoạt động. Hiện nay có hai xu hướng mâu thuẫn nhau
trong việc cho phép người đầu tư nước ngoài tham gia thị trường chứng khoán:
có nước muốn mở cửa thị trường chứng khoán để thu hút nhiều vốn đầu tư nước
ngoài nhằm thúc đẩy nền kinh tế trong nước phát triển; có nước lại lo ngại về sự
lấn át, thâu tóm hay chi phối của nước ngoài trong hoạt động phát triển thị trường
chứng khoán đối với nền kinh tế của nước mình. Ví dụ tại Hồng Kông, thị trường
chứng khoán là một thị trường mở, người nước ngoài không bị hạn chế trong
những hoạt động trên thị trường chứng khoán. Người nước ngoài có thể sở hữu
100% số cổ phiếu của các công ty niêm yết (trừ một trường hợp của công ty
truyền hình TVB, ở đó người nước ngoài được sở hữu giới hạn đến 10% cho một
cá nhân và 49% tổng vốn niêm yết). Trong giao dịch chứng khoán, không phân
biệt là người cư trú hay không cư trú ở Hồng Kông, không yêu cầu dự trữ và
không kiểm soát ngoại hối, cho phép các Ngân hàng buôn bán chứng khoán.
Ngoài ra ở hầu hết các nước Châu á khác đều bị hạn chế bởi những luật trong
22
nước như Luật đầu tư nước ngoài, Luật ngân hàng Do đó, người đầu tư nước
ngoài chỉ có khả năng được sở hữu với những tỷ lệ nhất định đối với cổ phiếu
phát hành của một công ty, ở mỗi nước tuỳ vào đặc điểm riêng của nền kinh tế và
phương thức hoạt động của thị trường chứng khoán mà có những qui định riêng
của mình. Do vậy, ban đầu chính sách của các quốc gia đối với các nhà đầu tư
nước ngoài thường là hạn chế mức độ sở hữu chứng khoán của họ và hạn chế các
hình thức đầu tư nước ngoài, sau đó nâng dần tỷ lệ sở hữu cũng như hình thức
đầu tư của họ vào thị trường chứng khoán trong nước.
Quản lý đầu tư nước ngoài trên thị trường chứng khoán là quản lý các
hình thức đầu tư của nhà đầu tư trên thị trường, gồm cả đầu tư trực tiếp và đầu tư
gián tiếp. Đầu tư gián tiếp là việc sở hữu của các nhà đầu tư nước ngoài đối với
các tổ chức phát hành. Đầu tư trực tiếp là việc các cá nhân hay tổ chức nước
ngoài bỏ vốn thành lập công ty hay liên doanh, liên kết với các đối tác trong nước
để kinh doanh chứng khoán.
Quy định tỷ lệ sở hữu cổ phần.
Tại Hàn Quốc, thời gian đầu chỉ cho phép nhà đầu tư nước ngoài đầu tư
gián tiếp thông qua các quỹ đầu tư, quỹ tín thác; qui định mức trần cho đầu tư
trực tiếp và tăng dần lên theo sự phát triển của thị trường, nhưng vẫn giữ nguyên
sự hạn chế đối với một số ngành quan trọng như quân sự, bưu chính viễn thông,
điện lực. Các qui định về quản lý đầu tư nước ngoài ở Hàn Quốc thay đổi gắn
liền với sự phát triển của thị trường và thông qua các quyết sách mới của Chính
phủ theo từng giai đoạn.
- Từ năm 1985 - 1987: Chính phủ cho phép người nước ngoài đầu tư gián tiếp
vào chứng khoán Quỹ tín thác.
- Tháng 12 - 1988, hoàn chỉnh kế hoạch về mở cửa thị trường vốn. Theo kế
hoạch này, bắt đầu từ tháng 12-1992, người nước ngoài được phép sở hữu 10%
số cổ phiếu của một Công ty chứng khoán trong nước.
23
- Năm 1992: Cho phép người nước ngoài đầu tư trực tiếp với mức trần là 10% và
sau đó tỷ lệ này được nâng lên 55% số cổ phiếu của một công ty.
- Năm 1998: Bỏ mức trần này (lý do của việc xoá bỏ mức trần này là Chính phủ
Hàn Quốc muốn tăng cường thu hút đầu tư nước ngoài sau khủng hoảng tài chính
Châu á năm 1997).
Tại Thái Lan, Chính phủ cũng qui định một tỷ lệ khống chế sở hữu công
ty niêm yết. Trong những trường hợp nhất định, người nước ngoài chỉ có thể sở
hữu đến 49% số cổ phiếu của một công ty hay 25% số cổ phiếu của các tổ chức
tài chính. Một số công ty có thể có mức giới hạn thấp hơn được qui định cụ thể
trong điều lệ công ty. Nói chung người đầu tư nước ngoài đầu tư vào thị trường
chứng khoán Thái Lan phải qua những thủ tục khá phức tạp và thất vọng vì chính
các công ty thường hay hạn chế những cổ đông người nước ngoài. Sau khủng
hoảng Tài chính khu vực, Thái Lan đã mở rộng tỷ lệ sở hữu cổ phiếu tại các công
ty niêm yết của người nước ngoài lên 100%.
Tại Đài Loan, Chính phủ ban hành tỷ lệ hạn chế sở hữu công ty niêm yết
cùng với một số qui định chặt chẽ trong việc cho phép người đầu tư nước ngoài
tham gia thị trường chứng khoán: các cá nhân không được đầu tư vào những
công ty đã đăng ký. Nếu như những người này có giấy phép cư trú thì có thể sở
hữu những chứng khoán thuộc Quĩ đầu tư. Công ty đầu tư nước ngoài nếu có ít
nhất 5 năm kinh nghiệm về đầu tư và có vốn thấp nhất 500 triệu USD, sẽ có
quyền sở hữu chứng khoán ở thị trường chứng khoán Đài Loan. Tuy nhiên họ chỉ
có quyền sở hữu không quá 10% chứng khoán của một công ty đã được đăng ký.
Nếu một công ty đã đăng ký, lại là một công ty liên doanh, có sở hữu của người
nước ngoài thì có thể sở hữu hơn 10% số chứng khoán của công ty đó, nhưng
không vượt quá 40% tổng số chứng khoán của một công ty.
Phát hành cổ phiếu riêng cho nhà đầu tư nước ngoài giao dịch
24
Tại Trung Quốc, vào đầu những năm 90 Chính phủ Trung Quốc với mục
đích thúc đẩy đầu tư nước ngoài, thúc đẩy việc cổ phần hoá các Doanh nghiệp
Nhà nước, một cổ phiếu mới dành riêng cho những nhà đầu tư nước ngoài được
phát hành gọi là cổ phiếu B. Cổ phiếu B là cổ phiếu được niêm yết tại Sở giao
dịch chứng khoán Thượng Hải và Thâm Quyến chỉ cho người đầu tư nước ngoài
giao dịch. Bên cạnh đó một số loại cổ phiếu khác dành cho người đầu tư nước
ngoài cũng được phát hành như cổ phiếu H được niêm yết tại thị trường chứng
khoán Hồng Kông, cổ phiếu N được niêm yết tại thị trường chứng khoán New
York. Rõ ràng, việc phát hành riêng một loại cổ phiếu cho người đầu tư nước
ngoài đã giúp Chính Phủ Trung Quốc kiểm soát chặt chẽ hơn việc đầu tư nước
ngoài trên thị trường chứng khoán, bên cạnh đó một phần cũng đã trao quyền tự
chủ cho các doanh nghiệp trong việc tự cơ cấu nguồn vốn cho nhu cầu phát triển
sản xuất kinh doanh của mình bằng cách phát hành một tỷ lệ cổ phiếu B thích
hợp trong tổng lượng cổ phiếu phát hành trên thị trường, nhằm thu hút được
nguồn vốn cần thiết mà không bị sự kiểm soát của nước ngoài.
Đối với các cổ phiếu N và H việc được niêm yết trên thị trường quốc tế
không chỉ thu hút nguồn vốn nước ngoài mà ở đây sự xuất hiện các cổ phiếu của
các công ty Trung Quốc đã tạo nên sự quan tâm của các nhà đầu tư nước ngoài
vào cơ hội làm ăn tại Trung Quốc, tạo nên danh tiếng, quốc tế hoá các công ty
Trung Quốc, và thúc đẩy mạnh mẽ khả năng cạnh tranh của các công ty Trung
Quốc trên thị trường thế giới.
Hạn chế đầu tư 100% vốn vào một số ngành nghề đặc biệt quan trọng
Trong xu thế toàn cầu hoá và mở cửa thì hầu hết các nước luôn cho phép
các công ty 100% vốn nước ngoài hoạt động tại nước mình, cũng như cho phép
các nhà đầu tư nước ngoài sở hữu 100% số cổ phiếu của các công ty niêm yết
trên thị trường chứng khoán. Tuy nhiên, đối với một số ngành nghề, lĩnh vực
quan trọng có ảnh hưởng đến an ninh, chính trị, kinh tế của đất nước thì một mặt
25