Tải bản đầy đủ (.docx) (8 trang)

Ý nghĩa và giá trị truyện ngắn những đứa con trong gia đình của nguyễn thi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (33.89 KB, 8 trang )

Ý nghĩa và giá trị truyện ngắn Những đứa con trong gia đình của Nguyễn Thi
Mở bài:
Nguyễn Thi là một trong những cây bút văn xuôi hàng đầu của văn nghệ giải
phóng miền Nam thời chống Mỹ. Ông đặc biệt gắn bó sâu sắc với nhân dân Nam
Bộ. Nhân vật tiêu biểu nhất trong sáng tác của ông là những người nông dân Nam
Bộ có lòng căm thù giặc sâu sắc, vô cùng gan góc, kiên cường, thủy chung son sắt
với quê hương và Cách mạng. Ông có năng lực phân tích tâm lí sắc sảo. Ngôn ngữ
phong phú, góc cạnh và đậm chất Nam Bộ. Những đứa con trong gia đình là tác
phẩm tiêu biểu của Nguyễn Thi và của nền văn học kháng chiến chống Mĩ cứu
nước.

Thân bài:
Những đứa con trong gia đình là một truyện ngắn xuất sắc, được Nguyễn Thi viết
trong những ngày chiến đấu ác liệt (2/1966), khi ông công tác ở tạp chí văn nghệ
giải phóng.

Câu chuyện xoay xung quanh một gia đình nông dân Nam Bộ. Việt là một chiến sĩ
giải phóng quân anh còn rất trẻ. Anh là con một gia đình có nhiều mối thù với
thằng Mỹ. Trong một trận chiến đấu, Việt bắn cháy một xe bọc thép và bị thương
rất nặng, bị thất lạc đồng đội. Việt ngất đi tỉnh lại nhiều lần, mỗi lần tỉnh lại dòng
hồi ức về những người trong gia đình lại hiện ra.

Qua hồi ức của nhân vật Việt về những thành viên trong gia đình, tác giả ca ngợi
tinh thần yêu nước, truyền thống cách mạng của một gia đình cũng như nhân dân
miền Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ.Trước hết đó là câu chuyện của các
thành viên trong một gia đình nông dân Nam Bộ, giàu truyền thống cách mạng
trong đó nổi bật nhất là hai chị em Việt- Chiến.

Hình tượng những con người gia đình Việt:



Nét chung có tính chất truyền thống của gia đình Việt đó là ai cũng có lòng nước
và căm thù giặc sâu sắc. Ai cũng gan góc, dũng cảm, khao khát được chiến đấu giết
giặc lập chiến công. Ai cũng giàu tình nặng nghĩa, rất mực chung thủy son sắt với
quê hương và cách mạng.

Truyền thống đó được thể hiện qua chi tiết cuốn sổ gia đình ghi lại tội ác của giặc
và chiến công của gia đình được giữ gìn và lưu truyền mãi như lời chú
Năm:“Chuyện gia đình nó cũng dài như sông. Để rồi chú chia cho mỗi đứa một
khúc mà ghi vào đó”.

Chính truyền thống trên đã gắn kết những con người trong gia đình với nhau, tạo
nên sức mạnh tinh thần to lớn giúp họ lập nhiều chiến công và chiến thắng.

Nét cụ thể của từng nhân vật:

Nhân vật chú Năm:
Trong dòng sông truyền thống của gia đình, chú là khúc sông thượng nguồn, là nơi
kết tinh đầy đủ hơn cả truyền thống của gia đình. Chú hay kể sự tích gia đình, là
tác giả của cuốn sổ gia đình, chứng kiến những đau thương mất mát và thành tích
của gia đình và cả dòng họ. Chú luôn động viên và dõi theo con cháu tiếp sức cháu
con viết tiếp truyền thống tổ tiên. Chú xin với huyện đội cho hai cháu cùng tòng
quân “hai đứa cháu tôi nó một lòng theo Đảng như vậy tôi cũng mừng. Vậy xin
trên cứ ghi tên cho cả hai”.

CNhân vật chú Năm là một người lao động chất phát giàu tình cảm. Chú thường đi
đây, đi đó nên biết nhiều hiểu rộng. Chú mang đậm chất Nam Bộ với tính bộc trực,
chất phát, yêu đời, hay hò hát. Chú là hiện thân của truyền thống, là nhân vật tiêu
biểu cho người nông dân yêu nước miền Nam thời chống Mĩ.



Nhân vật má của Việt:

Má của Việt cũng là hiện thân của truyền thống gia đình. Đây là hình tượng người
phụ nữ mang đậm nét tính cách nhân vật của Nguyễn Thi với dáng người chắc,
khỏe “sực mùi lúa gạo và mồ hôi” thứ mùi của đồng áng và cần cù sương nắng.
Cuộc đời lam lũ vất vả, chồng chất đau thương, nhưng má Việt lúc nào cũng cắn
răng chịu đựng làm lụng thay chồng nuôi con. Bà là một người phụ nữ mang đậm
chất Nam Bộ: gan góc, dũng cảm, rất mực thương chồng con, đảm đang tháo vát.

Má Việt vẫn luôn bên cạnh các con trong những giờ phút quan trọng nhất. Đêm sắp
xa nhà đi chiến đấu hai chị em đều như thấy má đang về “Má biến theo ánh đom
đóm trên nóc nhà hay đang ngồi dựa vào mấy thúng lúa mà cầm nón quạt”. Má
Việt là biểu tượng của người phụ nữ Việt Nam, tuy cuộc sống lam lũ vất vả, chồng
chất đau thương nhưng rất đỗi kiên cường, bất khuất.

Nhân vật chị Chiến:

Chiến là hình ảnh kế thừa của má, giống má từ hình dáng to lớn, chắc khỏe đến
tính cách, có những suy nghĩ và tính toán “in như má vậy”. Chiến đảm đang, tháo
vát và chu tất mọi thứ trong nhà để cho má yên tâm chiến đấu. Chiến mượn lời chú
Năm để dặn Việt “Chú Năm nói: xa nhà thì ráng học chúng học bạn, thù cha mẹ
chưa trả mà bỏ về là chú chặt đầu !”. Điều đó thể hiện sự quyết tâm của hai chị em.
Nhắc Việt viết thư cho chị hai thể hiện sự lễ độ, cách ứng xử đúng đắn của một
người em trong gia đình. Chiến sắp xếp việc nhà một cách khéo léo hợp lý, nhất là
việc gởi bàn thờ ba má, thể hiện sự nghiêm túc trang trọng.

Tuy vậy, Chiến vẫn còn trẻ nên cũng rất hồn nhiên, thơ ngây. Chiến cũng hay tranh
giành với em, thích làm dáng, không vừa ý thì hứ “một cái cóc”. Ở Chiến là một cô



gái gan góc, dũng cảm: “nếu giặc còn thì tao mất vậy à”. Chiến cũng rất giàu tình
cảm yêu thương. Chiến thương em và thay cha mẹ chăm sóc em. Chiến không
muốn cho Việt đi tòng quân vì sợ nguy hiểm, thay Việt tính toán chuyện gia đình,
lo lắng cho thằng Út em…

Chiến tiêu biểu cho thế hệ thanh niên miền Nam thời kháng chiến chống Mĩ –
những con người sinh ra đề gánh vác, chiến đấu và chiến thắng.

Nhân vật Việt:

Việt là cậu con trai mới lớn, ngây thơ, tính tình còn rất trẻ con. Cái tính trẻ con ấy
thể hiện ở viecj hay tranh giành với chị. Ngay cả chuyện ghi tên nhập ngũ, Việt
cũng không nhường chị “cả hai chị em Việt giành nhau chạy lên” , “Tôi là Việt,
anh cho tôi đi bộ đội với”.Việt rất thích đi câu cá, bắn chim, đến khi đi bộ đội Việt
vẫn còn đem theo cả cái ná thun ở trong túi. Bị thương nằm giữa chiến trường, trên
đầu là tiếng trực thăng, dưới đất thì xe bọc thép giặc, pháo mỗi lúc một gần hơn
nhưng Việt không sợ chết mà lại sợ “con ma cụt đầu vẫn ngồi trên cây xoài mồ
côi”, “thằng chỏng thụt lưỡi hay nhảy nhót trong những đêm mưa ngoài vàm sông”
và “ Việt nằm thở dốc”!.

Là con trai, lại là em, nên Việt có phần ỷ lại, mọi công việc trong nhà, đều phó thác
cho chị. Đêm trước ngày lên đường, chị Chiến lo toan thu xếp chu đáo việc nhà,
chị lo lắng, bàn bạc việc nhà một cách nghiêm túc, còn Việt thì vô tư “lăn kềnh ra
ván, cười khì khì”, vừa nghe vừa “chụp một con đom đóm úp trong lòng bàn tay”
rồi “ngủ quên lúc nào không biết”.

Cách thể hiện tình thương của Việt đối với mọi người cũng rất trẻ con. Việt giấu
chị Chiến như giấu của riêng vì sợ mất chị trước những lời đùa tán tỉnh của anh
em. Khi gặp đồng đội Việt “khóc đó” rồi “cười đó” thật hồn nhiên, vô tư.



Thế nhưng, Việt lại rất chững chạc trong tư thế của một chiến sĩ dũng cảm, kiên
cường. Lúc còn bé, Việt đã dám xông thẳng vào đá thằng giặc đã giết hại cha mình.
Việt nằng nặc đòi đi tòng quân trả thù cho ba má. Dù chưa đủ tuổi, Việt vẫn ghi tên
tòng quân. Việt nói với chị “chị có bị chặt đầu thì chặt chớ chừng nào tôi mới bị”.

Khi xông trận, Việt chiến đấu rất dũng cảm, đã dùng thủ pháo tiêu diệt được một
xe bọc thép của địch. Và đến khi bị thương nặng, lạc đồng đội, một mình nằm lại
chiến trường, hai mắt không còn nhìn thấy gì, toàn thân đau đớn và rỏ máu, người
khô khốc đi vì đói khát, nhiều lần ngất đi rồi tỉnh lại, Việt vẫn cố bò về nơi có tiếng
súng, coi đó là sự sống của mình. Mười ngón tay thì chín ngón bị thương chỉ còn
một ngón cái nhúc nhích nhưng Việt vẫn ở trong tư thế sẵn sàng chiến đấu đạn đã
lên nòng, ngón cái còn lại vẫn sẵn sàng nổ súng.

Việt là người giàu lòng yêu thương:

Việt luôn nhớ thương má: “hình như má cũng về đâu đây, má biến theo ánh đom
đóm trên nóc nhà hay đang ngồi dựa vào mấy thúng lúa mà cầm nón quạt”, luôn
nghe lời má, làm theo ước mơ của má… Việt thương yêu chú Năm lắm. Lúc nào
Việt cũng nhớ lời chú dặn, nhớ lời chú khen, nhớ cả điệu hò của chú…

Việt rất thương chị Chiến. Tình thương đó đã được Việt cảm nhận thật rõ khi cùng
chị khiêng bàn thờ Việt khiêng trước. Chị Chiến khiêng bịch bịch phía sau. Nghe
tiếng chân chị, Việt thấy thương chị lạ. Lần đầu tiên Việt mới thấy lòng mình rõ
như thế.

Với đồng đội, Việt luôn yêu thương gắn bó. Cậu nhớ từ cái cằm nhọn hoắt của anh
Tánh đến nụ cười và cái nheo mắt của anh Công…



Việt tiêu biểu cho thế hệ thanh niên miền Nam thời kháng chiến chống Mĩ.

Cảnh Việt và Chiến khiêng bàn thờ ba má sang gửi chú Năm:
Đoạn văn diễn tả cảnh hai chị em khiêng bàn thờ ba má sang gửi nhà chú Năm là
đoạn xúc động giàu sức gợi cảm và thiêng liêng nhất. Nó hàm chứa nhiều ý nghĩa,
vừa là hành động cụ thể mang yếu tố tâm linh, vừa chan chứa yêu thương và nặng
trĩu căm thù vì:

Xuất phát từ truyền thống lâu đời của mỗi gia đình V iệt Nam là trong nhà thường
có bàn thờ tổ tiên và những người đã mất. Trước khi lên đường đi bộ đội hai chị
em Việt- Chiến vẫn nhớ đến ông bà tổ tiên, ba má. Hình ảnh đó gợi cho ta thấy họ
đang tiếp nối truyền thống gia đình.

Hình ảnh đó làm cho việc lên đường của hai chị em như có sự tiếp sức của những
người thân yêu, gợi sự trang trọng, thiêng liêng.

Thông qua đó ta còn thấy thế hệ trẻ Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mĩ đã
trưởng thành về mọi mặt, không chỉ là sự sôi nổi, nhiệt huyết mà còn là sự sâu sắc
trong suy nghĩ và hành động, như lời khen của chú Năm “Khôn! Việc nhà nó thu
được gọn thì việc nước nó mở được rộng. Gọn bề gia thế đặng bề nước non. Con
nít chúng bây kì đánh giặc này khôn hơn chú hồi trước”.


Một người hồn nhiên và vô tư như Việt vào chính giờ khắc này mới thấy rõ lòng
mình thương yêu chị Chiến hơn và cảm thấy rất rõ mối thù thằng Mĩ như có hình,
có khối, có trọng lượng cụ thể “đang đè nặng trên vai”.

Chủ đê tác phẩm thể hiện rõ nét trong nhan đề. Nhan đề ca ngợi, khẳng định mối
quan hệ bền chặt, thiêng liêng giữa các thế hệ bằng tình cảm ruột thịt, bằng truyền
thống của gia đình. Họ có chung những nét tính cách: Căm thù giặc sâu sắc, quyết

tâm đánh giặc để trả thù nhà, giải phóng đất nước, yêu thương, lo lắng, đùm bọc
nhau. Đó cũng là hình ảnh thu nhỏ của dân tộc Việt Nam, muôn người như một
đoàn kết chiến đấu để giải phóng quê hương, xây đựng đất nước.

Câu chuyện được kể qua hồi ức của nhân vật Việt khi bị thương nằm lại chiến
trường, lúc tỉnh, lúc mê nhớ lại những kỉ niệm về những người thân, vì vậy lời kể
không liền mạch mà khi đứt (khi Việt ngất) khi nối (Việt tỉnh lại). Qua câu chuyện
ta không chỉ thấy nhân vật Việt mà còn thấy hiện lên các nhân vật khác như: chú
Năm, Má Việt, chị Chiến và những người thân trong gia đình.

Truyện trần thuật chủ yếu từ điểm nhìn của nhân vật. Tác giả đã hóa thân vào nhân
vật nên câu chuyện được kể theo quan điểm, ngôn ngữ, giọng điệu của nhân vật
Việt (lời trần thuật nữa trực tiếp).

Cách trần thuật như thế có tác dụng làm cho tác phẩm đậm màu sắc trữ tình, tự
nhiên sống động, nhà văn nhập sâu vào thế giới giới nội tâm của nhân vật để dẫn
dắt câu chuyện. Cùng với lời trần thuật, tính cách nhân vật được khắc họa đậm nét,
cho nên dù không có gì đặc biệt nhưng câu chuyện trở nên mới lạ hấp dẫn vì được
kể qua lăng kính tư tưởng và tâm lí cá tính của nhân vật.

Diễn biến, kết cấu truyện vì thế mà linh hoạt, không phụ thuộc vào trật tự thời gian
(có thể xáo trộn không gian và thời gian: từ những chi tiết ngẫu nhiên của hiện


thực ở chiến trường mà gợi ra dòng hồi tưởng về quá khứ khi gần khi xa, từ chuyện
này sang chyện kia, từ nhân vật này đến nhân vật khác…).

Tác phẩm thể hiện những đặc sắc nghệ thuật truyện ngắn của Nguyễn Thi: Trần
thuật qua dòng hồi tưởng của nhân vật Việt, khắc họa tính cách và miêu tả tâm lí
sắc sảo; ngôn ngữ phong phú, góc cạnh và đậm chất Nam Bộ. Chi tiết được chọn

lọc vừa cụ thể, vừa giàu ý nghĩa, gây ấn tượng mạnh. Ngôn ngữ bình dị, phong
phú, giàu giá trị tạo hình, mang đậm sắc thái Nam Bộ. Giọng văn chân thật tự
nhiên, nhiều đoạn gây xúc động mạnh đã làm nên sức hấp dẫn của truyện ngắn này.

Kết bài:
Truyện kể về những người con trong một gia đình nông dân Nam Bộ có truyền
thống yêu nước, căm thù giặc, thủy chung son sắt với quê hương, cách mạng.
Chính sự gắn bó tình cảm sâu nặng giữa tình cảm gia đình với tình yêu nước, giữa
truyền thống gia đình với truyền thống dân tộc đã tạo nên sức mạnh tinh thần to
lớn của con người Việt Nam, dân tộc Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ
cứu nước.



×