Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

Ý nghĩa và giá trị truyện ngắn rừng xà nu của nguyễn trung thành

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (41.13 KB, 11 trang )

Ý nghĩa và giá trị truyện ngắn Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành
Mở bài:
Nguyễn Trung Thành là nhà văn trưởng thành trong hai cuộc kháng chiến chống
Pháp và Mĩ. Vì gắn bó với chiến trường Tây Nguyên nên ông hiểu biết sâu sắc và
viết rất thành công về thiên nhiên và con người ở vùng đất này. Rừng xà nu là tác
phẩm nổi bậc nhất của ông trong giai đoạn kháng Mĩ cứu nước.

Thân bài:
Tác phẩm được viết năm 1965, in trong tập Trên quê hương những anh hùng Điện
Ngọc. Thời gian này Mỹ đổ quân ào ạt vào miền Nam, và tiến hành đánh phá ác
liệt ra miền Bắc, chiến trường Tây Nguyên cũng đang hồi sôi động. Cả nước đang
trong không khí sục sôi đánh Mĩ.

Mở đầu tác phẩm là hình ảnh rừng xà nu bị tàn phá “hàng vạn cây không cây nào
không bị thương” dù nằm trong tầm đại bác của giặc, nhưng vẫn có sức sống mảnh
liệt, bền bỉ. Nhân vật chính trong truyện chính là Tnú. Sau ba năm đi bộ giải
phóng, Tnú nghỉ phép về thăm làng. Đêm đó dân làng tụ họp mừng anh về và lắng
nghe cụ Mết kể lại cuộc đời Tnú cùng trang sử chiến đấu của dân làng Xô man.

Tnú vốn là đứa trẻ mồ côi cha mẹ được dân làng nuôi dưỡng, đùm bọc. Tuy nhỏ
nhưng Tnú đã biết nuôi giấu cán bộ, làm giao liên, đi liên lạc cho anh Quyết, được
anh dạy chữ, dìu dắt. Bị giặc bắt phải đi tù, Tnú vượt ngục trở về thì anh Quyết đã
hi sinh. Tnú thay anh Quyết lãnh đạo dân làng chuẩn bị vũ khí chờ thời cơ nổi dậy
đánh giặc. Tin làng Xô-man mài giáo, mài rựa đến tay bọn giặc, chúng vây làng
quyết bắt cho được A, A cùng nhiều thanh niên thoát được ra rừng, không tìm được
A giặc bắt vợ con anh ra tra tấn. Tận mắt chứng kiến cảnh đau đớn ấy, A xông ra
cứu vợ con, nhưng mẹ con Mai vẫn bị chết còn anh thì bị giặc bắt và tra tấn dã
man.Chúng lấy nhựa xà nu đốt cháy 10 đầu ngón tay nhưng anh không hề kêu
than. Sự tàn bạo cảu chúng đã làm cho lòng căm thù giặc lên đến cao độ, tất cả dân



làng dưới sự chỉ huy của cụ Mết đã xông lên tiêu diệt bọn giặc cứu A. Tuy các
ngón tay chỉ còn lại hai đốt, A vẫn gia nhập bộ đội để giết giặc.

Sáng hôm sau, A lại ra đi, cụ Mết và Dít tiễn anh lên đường. Cả ba người nhìn ra
xa và thấy “rừng xà nu nối tiếp nhau chạy đến chân trời”.

Ý nghĩa nhan đề tác phẩm: Rừng xà nu
Nguyễn Trung Thành đã thể hiện toàn bộ tư tưởng của tác phẩm qua nhan đề Rừng
xà nu. Nhan đề “Rừng xà nu” là một sang tạo nghệ thuật đặc sắc của nhà văn. Đây
là hình ảnh trung tâm vừa có ý nghĩa tả thực vừa có ý nghĩa biểu tượng độc đáo.
Về nghĩa tả thực, Rừng xà nu là hình ảnh của thiên nhiên Tây Nguyên, tuy bị tàn
phá dù trong chiến tranh nhưng vẫn có sức sống mãnh liệt. Về nghĩa biểu tượng,
Rừng xà nu là biểu tượng cho con người (dân làng Xô Man nói riêng, đổng bào
Tây Nguyên, nhân dân Việt Nam nói chung) trong công cuộc đấu tranh chống Mĩ
với số phận đau thương cùng sức sống mãnh liệt và phẩm chất anh hùng.

Nhan đề còn gợi chủ đề, cảm hứng sử thi của truyện ngắn. Tác phẩm đã tái hiện
được vẻ đẹp tráng lệ hào hung của núi rừng, của con người và của truyền thống
văn hóa Tây Nguyên. Đồng thời đã đặt ra một vấn đế có ý nghĩa lớn lao của dân
tộc và thời đại: Để cho sự sống của đất nước và nhân dân mãi mãi trường tồn,
không có cách nào khác hơn là phải cùng nhau đứng lên, cầm vũ khí chống lại kẻ
thù tàn ác.

Hình tượng cây xà nu:
Cây xà nu, rừng xà nu là hình tượng trung tâm của tác phẩm. Nó xuất hiện ngay từ
những dòng đầu tiên, xuyên xuốt qua tác phẩm rồi cuối cùng đóng khép lại câu
chuyện.


Xà nu là loại cây họ thông nhựa và gỗ đều rất quí, mọc nhiều ở Kom tum _là thiên

nhiên mênh mông, hung vĩ ở Tây Nguyên. Ở trong tác phẩm, rừng xà nu là không
gian sống của người Xô Man Cây xà nu gắn bó mật thiết với dân làng: nó luôn có
mặt trong đời sống sinh hoạt hằng ngày, tham dự vào những sự kiện trọng đại của
buôn làng, và thấm sâu vào nếp suy nghĩ, cảm xúc của họ. Chính cụ Mết từng tự
hào “Không có cây gì mạnh bằng cây xà nu đất ta”.

Hình tượng rừng xà nu vừa có ý nghĩa tả thực vừa có ý nghĩa biểu tượng cho số
phận và phẩm chất của con người Tây Nguyên. Rừng bị bom Mỹ tàn phá nặng nề
là biểu tượng cho những đau thương mà nhân dân Tây Nguyên phải gánh chịu.

Nằm trong tầm đại bác của giặc, nên cả khu rừng xà nu hang vạn cây không có cây
nào không bị thương. Nỗi đau hiện lên với nhiều hình dạng. Có những cây con bị
đại bác chặt đứt làm đôi, “nhựa còn trong, chất dầu còn loãng, vết thương không
lành lại được, cứ loét mãi, năm mươi hôm thì cây chết”. Có những cây đã trưởng
thành bị chặt đứt ngang nửa thân mình đổ ào ào như một trận bão, nhựa ứa ra tràn
trề, rồi dần dần bầm lại, đen và đặc quyền thành từng cục máu lớn.

Cánh rừng xà nu bị bắn phá và thương tích mà rừng xà nu phản cảnh những đau
thương của một thời mà cả dân tộc ta đã phải gánh chịu. Hình ảnh cánh rừng xà nu
bị bắn phá gợi nghĩ đến những mất mát đau thương mà đồng bào Xôman đã phải
trải qua trong thời kì cách mạng miền Nam bị khủng bố khốc liệt. Không bữa nào
nó không đi lùng. Không đêm nào chó của nó và súng của nó không sủa vang cả
rừng…Ngọn roi của nó không từ một ai, tiếng kêu khóc dậy cả làng. Cảnh chúng
đàn áp, giết hại dân làng dã man. “Nó treo cổ anh Xút lên cây vả đầu làng”, “Nó
giết bà Nhan, chặt đầu cột tóc treo đầu súng”, tra tấn me con Mai đến chết…

Sức sống bất diệt của rừng xà nu là biểu tượng cho sự kiên cường bất khuất của
nhân dân Tây Nguyên. Cây xà nu sinh sôi rất khỏe “cạnh một cây xà nu mới ngã
gục, đã có bốn năm cây con mọc lên”, “đại bác bác không giết nổi chúng”, với sức



sống mãnh liệt, chúng vượt lên rất nhanh, thay thế những cây đã ngã. Cứ thế,
những cánh rừng xà nu “ưỡn tấm ngực lớn ra che chở cho làng”.

Hình ảnh cây xà nu, rừng xà nu giúp ta liên tưởng đến sự kiên cường bất khuất của
nhân dân Xô Man. Thế hệ này tiếp bước thế hệ khác cùng đoàn kết bên nhau đứng
lên kháng chiến chống kẻ thù tàn bạo. Anh Quyết hy sinh đã có Tnú và Mai. Mai
ngã xuống thì Dit lớn lên tiếp bước, bé Heng cũng sẵn sàng tiếp bước thế hệ đàn
anh..)

Cây xà nu ham ánh sáng và khí trời luôn hướng đến sự sống: “nó phóng lên rất
nhanh để tiếp lấy ánh nắng” gợi lên hình ảnh người dân Xô Man nói riêng và nhân
dân Tây Nguyên nói chun với khát vọng tự do, phóng khoáng dù chịu nhiều đau
thương mất mát nhưng vẫn một lòng hướng về Đảng, về Cách mạng với niềm tin
tuyết đối: “Đảng còn thì núi nước này còn”.

Cây xà nu tượng trưng cho số phận đau thương và phẩm chất anh hùng của dân
làng Xô man nói riêng và nhân dân Tây Nguyên nói chung trong cuộc kháng chiến
chống Mĩ. hình tượng cây xà nu được xây dựng với cảm hứng sử thi hoành tráng,
bút pháp lãng mạn, kết tinh giá trị tư tưởng và nghệ thuật của tác phẩm.

Vẻ đẹp rừng xà nu tượng trưng cho vẻ đẹp của thiên nhiên và của tâm hồn người
dân Tây Nguyên:
Cánh rừng xà nu được miêu tả có sự hòa hợp giữa sắc màu, hình khối, mùi hương,
ánh sáng…Vẻ đẹp lạ lùng, gây ấn tượng khó quên trong lòng người đọc: “ở chỗ vết
thương, nhựa ứa ra…thơm ngào ngạt, long lanh nắng hè gay gắt…thứ ánh nắng…
rọi từ trên cao xuống từng luồng lớn thẳng tắp, lóng lánh vô số hạt bụi vàng”.

Rừng xà nu tạo thành một bức tường vững chắc hiên ngang truớc bom đạn cũng là
biểu trưng cho sức mạnh đoàn kết của người dân Tây Nguyên khiến kẻ thù phải



kiếp sợ. Vẻ đẹp của thiên nhiên Tây Nguyên cũng chính là vẻ đẹp trong tâm hồn
người làng Xô Man. Họ mang trong mình tâm hồn phóng khoáng, yêu tự do, yêu
Tổ quốc, một lòng đi theo Đảng, theo cách mạng, kiên cường bất khuất.

Khi miêu tả rừng xà nu, tác giả nhiều lần sử dụng nghệ thuật so sánh, nhân hóa tạo
nên một sự hòa nhập tương ứng giữa con người và thiên nhiên. Thiên truyện được
mở đầu và kết thúc bởi hình ảnh những đồi xà nu nối tiếp nhau chạy đến chân trời
đã gợi vẻ đẹp tráng lệ hào hùng của núi rừng Tây Nguyên, là biểu tượng cho ý chí
kiên cường bất khuất, sự trường tốn bất diệt của các thế hệ cách mạng Tây Nguyên
nói riêng và co cả miền Nam Việt Nam nói chung trong cuộc kháng chiến chống
Mĩ cứu nước.

Hình tượng nhân vật Tnú
Rừng xà nu là chuyện của một đời người được kể trong một đêm, là chuyện về
cuộc đời đau thương nhưng anh dũng của nhân vật Tnú được cụ Mết kể cho dân
làng nghe trong đêm Tnú về thăm làng nhằm giáo dục tinh thần yêu nước truyền
thống anh hùng của dân làng.

Tnú người dân tộc Strá. Anh mồ côi cha mẹ từ nhỏ, lớn lên trong sự yêu thương,
đùm bọc của dân làng Xô Man, đặc biệt là cụ Mết. Tnú đến với cách mạng từ rất
sớm, từ những ngàu gian khổ, ác liệt nhất. Ngay từ nhỏ, anh đã có điều kiện được
học chữ, nuôi ước mơ lớn lên theo anh Quyết làm cán bộ.

Tính cách của Tnú được khắc họa qua hành động và lời nói hết sức đậm nét. Anh là
một người gan góc, dũng cảm, mưu trí. Lúc nhỏ chứng kiến bà Nhan, anh Xút và
nhiều người khác bị giặc giết vì nuôi giấu cán bộ nhưng Tnú vẫn không sợ. Anh
vẫn tiếp tục tiếp tế lương thực cho cán bộ và làm liên lạc cho anh Quyết.



Tnú cũng rất thông minh và nhanh trí. Khi liên lạc “không bao giờ nó đi đường
mòn”, bởi anh biết giặc thường hay mai phục những chỗ ấy. Khi qua sông, anh
không thích lội chỗ nước êm, cứ lựa chỗ thác thác mạnh mà bơi ngang. Có lần bị
giặc phục kích bắt được, A nhanh trí “nuốt luôn cái thư”.

Tnú tuyệt đối trung thành với cách mạng. Học chữ thua Mai, “nó cầm hòn đá, tự
đập vào đầu, cháy máu ròng ròng” không thèm học nữa. Thế nhưng nghe lời anh
Quyết, Tnú đã cố gắng học tốt để lớn lên làm cán bộ cách mạng. Bị giặc bắt tra tấn,
đánh đập dã man cậu bé Tnú vẫn không khai công sản ở đâu. Sau ba năm tù, Tnú
vượt ngục trở về làng, vẫn không từ bỏ lí tưởng. Anh thay anh Quyết lãnh đạo dân
làng chuẩn bị vũ khí một lòng theo Đảng đánh giặc.

Tnú kiên cường bất khuất có tính kỉ luật cao. Khi buôn làng bị càn quét, vợ con bị
giặc giết chết dã man, còn anh thì bị kè thủ đốit mười đầu ngón tay, Tnú vẫn không
kêu van, vẫn chịu đựng kiên cường. Mất vợ con, hai bàn tay mỗi ngón chỉ còn hai
đốt, thương tích cả thể xác lẫn tâm hồn, nhưng Tnú không gục ngã, vẫn tham gia
lực lượng vũ trang quyết tâm tiêu diệt kẻ thù tàn ác. Nhớ nhà, nhớ quê hương
nhưng khi được phép của cấp trên Tnú mời về thăm, nhưng chỉ ở nhà một đêm
đúng quy định trong giấy phép.

Tnú là một người giàu tình yêu thương. Anh yêu thương và gắn bó với những cánh
rừng xà nu với bản làng của người dân Strá mộc mạc thuần hậu.

Tnú yêu thương vợ con tha thiết: Khi chứng kiến giặc dùng thủ đoạn hèn hạ bắt mẹ
con Mai tar tấn đánh đập dã man bằng gậy sắt, anh đau đớn đến tệ dại “bứt đứt
hàng chục trái vả mà không hay”, “Ở chỗ hai con mắt anh bây giở là cục lửa lớn”.


Không cầm lòng được, “A đã nhảy xổ vào giữa bọn lính” hai cánh tay như hai cánh

lim chắc ôm chặt lấy mẹ con Mai, bảo vệ vợ con bất chấp nguy hiểm cho bản thân.

Tnú biết vượt lên mọi đau đớn và bi kịch cá nhân để dũng cảm chiến đấu, trả thù
cho quê hương và gia đình. Khi xông ra cứu vợ con, anh bị bắt, bị đốt mười đầu
ngón tay, Tnú quyết không kêu van à tiếng thét của anh trở thành hiệu lệnh cho dân
làng giết giặc. Dù mất vợ con, dù hai bàn tay mỗi ngón chỉ còn hai đốt, Tnú vẫn
nén đau thương, tham gia lực lượng vũ trang để góp phần giải phóng quê hương…

Trong câu chuyện kể về cuộc đời Tnú cho dân làng nghe, cụ Mết nhiều lần nhắc lại
ý Tnú không cứu được vợ con như một điệp khúc day dứt, xót xa. Mục đích nhằm
nhấn mạnh một hiện thực: Tnú chỉ với hai bàn tay trắng không có vũ khí trước kẻ
thù hung bạo nên anh đã không bảo vệ được vợ con và bản thân!

Từ đó khắc sâu chân lí “chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo”. Nhấn mạnh
điều này, cụ Mết muốn nhắc nhở con cháu một điều hệ trọng là để sự sống được
trường tồn không cò cách nào khác hơn là phải cầm vũ khí chống lại và tiêu diệt kẻ
thù tàn ác. Đây là một nhận thức sâu sắc được rút ra từ nỗi đau của bản thân Tnú,
của buôn làng

Số phận Tnú gắn liền với số phận cộng đồng Xô Man, đi từ đau thương đến cầm vũ
khí đứng lên quật khởi
Khi chưa cầm vũ khí:
Làng Xô Man bị giặc lùng sục, khủng bố. Chúng giết hại tra tấn dân làng dã man
khắp nơi không bữa nào nó không đi lùng, súng và chó của nó sủa vang khắp rừng.
Chúng đàn áp, giết hại dân làng dã man. Nó treo cổ anh Xút lên cây vả đầu làng.
Nó giết bà Nhan, chặt đầu cột tóc treo đầu súng. Mẹ con Mau bị tra tấn đến chết.
Tnú bị giặc đốt 10 đầu ngón tay bằng nhựa xà nu…


Khi đã cầm vũ khí:

Thằng Dục chết dưới lưỡi mác của cụ Mết, mười tên giặc chết dưới giáo mác của
dân làng. Tnú được cứu sống. Lửa đẵ tắt trên mười đầu ngón tay anh. Bàn tay Tnú
được hồi sinh. Tiếng cụ Mết như lời hiệu triệu của Đảng, của truyền thống bất
khuất: “Đốt lửa lên…tất cả dân làng… mỗi người phải tìm lấy một cây giáo, một
cây mác…” . Làng Xô Man ào ào sôi động, lửa đấu tranh ngùn ngụt cháy! Từ đó,
làng thành làng kháng chiến một lòng theo Đảng đánh giặc, được no đủ, không còn
sợ đói gạo, đói muối.

Tóm lại, hình tượng là điển hình cho con đường đấu tranh đến với cách mạng của
người dân Tây Nguyên, đồng thời làm sáng tỏ chân lí của thời đại đánh Mỹ là phải
dùng bạo lực cách mạng để chống lại bạo lực phản cách mạng, vũ trang chiến đấu
là con đường tất yếu để tự giải phóng của nhân dân.

Ngoài Tnú, các nhân vật chính diện khác như cụ Mết trầm ngâm, lừng lững như
cây cổ thụ, tiêu biểu cho sức mạnh tinh thần và vật chất có tính truyền thống của
dân tộc Tây Nguyên đến vẻ đẹp mảnh mai, hiền diệu nhưng đầy cứng rắn, kiên
quyết của Dít như một hậu thân trự tiếp của Mai; bé Heng như cây xà nu mới lớn,
tuy còn non trẻ nhưng đã cho người đọc thấy hình ảnh của cây xà nu vạm vỡ tràn
đầy sức sống của ngày mai.

Nhân vật cụ Mết
Cụ mết là già làng, đại diện cho những giá trị, phẩm chất và văn hóa tinh thần của
làng Xô Man và của núi rừng Tây Nguyên, nhân dân Tây Nguyên.

Ngoại hình “Ông cụ vẫn quắc thước như xưa, râu vẫn dài tới ngực, vẫn đen bóng,
mắt vẫn sáng và xéch ngược … Ông ở trần, ngực căng như cây xà nu lớn’, “Ông
không bao giờ khen “Tốt! Giỏi!’, ông chỉ nói ‘Được!’”


Cụ Mết cũng là người quan tâm nhiều nhất đến Tnú, kể lại cuộc đời Tnú cho dân

làng nghe. Cụ vừa là người nối kết thế hệ trẻ với truyền thống với lịch sử quê
hương, vừa là người dẫn dắt thế hệ thanh niên trong công cuộc đấu tranh hiện tại đi
đúng hướng. Cụ đã nói lên một cách giản dị chân lí lớn lao của thời đại “Chúng nó
đã cầm súng, mình phải cầm giáo”.

Cụ Mết là người lãnh đạo dân làng cầm vũ khí quật khởi giết hết bọn giặc cứu Tnú
và bảo vệ buôn làng dưới lưỡi mác dài của cụ là xác thằng Dục và bọn lính. Đêm
đó làng Xô Man nổi dậy ào ào. Tiếng cụ Mết rền vang như lời của cah ông bất
khuất “Thế là bắt đầu rồi. Đốt lửa lên! Tất cả người gài người trẻ người đàn ông
người đàn bà, mỗi người phải tìm lấy một cây giáo, một cây mác, một cây dụ một
cây rựa. Ai không có thì vót chông…”

Cụ Mết như một nhân vật huyền thoại, là hiện thân của truyền thống, là kết tinh
của sức mạnh, phẩm chất tốt đẹp của con người Tây Nguyên,

Nhân vật Dít
Xuất hiện trong tác phẩm không nhiều, nhưng Dít là hiện thân và nối tiếp của Mai.
Dít là bí thư chi bộ, chính trị viên xã hội, là cô gái trẻ đầy nghị lực, đầy bản lĩnh và
trưởng thành nhanh chóng trong đấu tránh cách mạng của làng Xô Man.

Nét tính cách nổi bật ở Dít đó là tính gan dạ, nhanh nhẹn từ nhỏ. Dít rất nhanh
nhẹn “không ai lọt ra được. Chỉ có con Dít nhỏ nhanh nhẹn, cứ sẩm tối lại bò theo
máng nước đem gạo ra rừng cho cụ Mết, A và thanh niên…”. Kẻ thù uy hiếp tinh
thần “đôi mắt nó thì nhìn bọn giặc, bình thản lạ lùng, bình thản như đôi mắt chị bí
thư bây giờ vậy”.

Dít rất kiên quyết và rắn rỏi. Em cẩn thận kiểm tra giấy của Tnú khi Tnú về thăm
làng. Không phải không biết Tnú, Dít muốn chắc chắn rằng Tnú dduwwocj nghỉ



phép trở về thăm làng chứ không phải tự ý trốn về. Em rất nghiêm khắc và trung
thành với cách mạng.

Thế nhưng, Dít cũng hết sức giàu tình cảm, đầy nữ tính.

Nhân vật bé Heng
Heng là hình ảnh biểu tượng của cây xà nu mới lớn, hứa hẹn sẽ trở thành cây xà nu
mạnh mẽ và bất tử để kế tục truyền thống của cha anh đi trước. Heng nhanh nhẹn,
hoạt bác, thông minh, tinh nghịch. Nó đội một cái mũ sụp xin được của một anh
giải phóng quân nào đó, mặc một chiếc áo bà ba dài phết đít, vẫn đóng khố, súng
đeo chéo ngang lưng ra vẻ một anh lính thực thụ.

Một thành cong khác của Nguyễn Trung Thành trong truyện ngắn rừng xà nu là đã
vận dụng thành cong nhiều thủ pháp nghẹ thuật độc đáo, có sức biểu hiện cao.
Không khí, màu sắc trong tác phẩm đậm chất Tây Nguyên thể hiện ở bức tranh
thiên nhiên, ở ngôn ngữ tâm lí hành động cảu các nhân vật.

Nhà văn đã xây dựng các nhân vật vừa có nét các tính sống động, vừa mang những
phẩm chất có tính khái quát, tiêu biểu (Cụ Mết, Tnú, Dít). Đặc biệt, Nguyễn Trung
Thành đã khắc họa thành công hình tượng cây xà nu, một sáng tạo nghệ thuật đặc
sắc, tạo nên màu sắc sử thi và lãng mạn bay bổng cho thiên truyện.

Rừng xà nu là truyện ngắn đậm chất sử thi. Truyện có lời văn trau chuốt , giàu hình
ảnh , tái hiện được vẻ đẹp tráng lệ , hào hùng của núi rừng Tây Nguyên với những
cánh rừng xà nu bạt ngàn và những thế hệ người dân Tây Nguyên anh hùng. Đó là
bức tranh hoành tráng trong hình ảnh, trong âm hưởng với lời văn đầy nhịp điệu,
khi vang động, khi tha thiết trang nghiêm.


Kết bài:

Rừng xà nu là bản trường ca hùng tráng ngợi ca tinh thần bất khuất, sức mạnh quật
khởi của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên nói riêng, đất nước và con người Việt
Nam nói chung trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và khẳng định chân lí của
thời đại: để giữ gìn sự sống của đất nước và nhân dân, không có cách nào khác là
phải cùng nhau đứng lên cầm vũ khí chống lại kẻ thù.



×