Tải bản đầy đủ (.doc) (100 trang)

LUÂN văn THẠC sĩ bình đẳng giới của đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị cấp huyện ở thành phố hà nội hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (416.9 KB, 100 trang )

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết đầy đủ
Bình đẳng giới
Chủ nghĩa xã hội khoa học
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Hội đồng nhân dân
Uỷ ban nhân dân
Xã hội chủ nghĩa

Chữ viết tắt
BĐG
CNXHKH
CNH, HĐH
HĐND
UBND
XHCN

1


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

3

VỀ BÌNH ĐẲNG GIỚI CỦA ĐỘI NGŨ CÁN BỘ
TRONG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ CẤP HUYỆN
Ở THÀNH PHỐ HÀ NỘI HIỆN NAY
1.1. Một số vấn đề lý luận về bình đẳng giới của đội ngũ cán



14

bộ trong hệ thống chính trị cấp huyện ở Thành phố Hà
Nội
1.2. Thực trạng bình đẳng giới của đội ngũ cán bộ trong hệ

14

thống chính trị cấp huyện ở Thành phố Hà Nội hiện nay
Chương 2: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP CƠ BẢN

32

NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG THỰC HIỆN BÌNH
ĐẲNG GIỚI CỦA ĐỘI NGŨ CÁN BỘ TRONG
HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ CẤP HUYỆN Ở
THÀNH PHỐ HÀ NỘI HIỆN NAY
2.1. Phương hướng cơ bản nâng cao chất lượng thực hiện

52

bình đẳng giới của đội ngũ cán bộ trong hệ thống
chính trị cấp huyện ở Thành phố Hà Nội hiện nay
2.2. Một số giải pháp cơ bản nâng cao chất lượng thực

52

hiện bình đẳng giới của đội ngũ cán bộ trong hệ thống
chính trị cấp huyện ở Thành phố Hà Nội hiện nay

KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

60
84
87
92

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài

2


Bình đẳng giới là một nội dung quan trọng trong thực hiện dân chủ xã hội chủ
nghĩa của nước ta. Đấu tranh cho bình đẳng giới, giải phóng phụ nữ luôn gắn với
các cuộc cách mạng xã hội. Việc giải phóng phụ nữ, phát huy tiềm năng của phụ nữ
là đòi hỏi khách quan và bức thiết của sự phát triển xã hội. Sự bình đẳng giới nói
chung và bình đẳng giới trong hệ thống chính trị cấp huyện nói riêng sẽ tạo điều
kiện khai thác và phát huy một cách có hiệu quả tài lực, trí lực của phụ nữ, đáp ứng
yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay.
Luật Bình đẳng giới do Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam thông qua (năm 2006) và Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai
đoạn 2011-2020 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số
2351/QDTTG ngày 24/12/2010 trong đó mục tiêu thứ nhất là: “Tăng cường
sự tham gia của phụ nữ vào các vị trí quản lý, lãnh đạo nhằm từng bước giảm
dần khoảng cách giới tính trong lĩnh vực chính trị”. Sau hơn 10 năm thực thi
Luật và 7 năm thực hiện Chiến lược quốc gia, mục tiêu bình đẳng giới trong
lĩnh vực chính trị tuy có đạt được một số kết quả nhất định nhưng mục tiêu

này vẫn chưa thực hiện được.
Ở Việt Nam, phụ nữ chiếm khoảng hơn 51% dân số và 50,6% lực lượng lao
động xã hội, họ không ngừng phát huy vai trò và khả năng, sức sáng tạo của
mình trên mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội, góp phần tích cực vào sự
phát triển chung của đất nước. Vị thế của phụ nữ ngày càng được nâng cao, nhất
là trong hệ thống chính trị ở nước ta có xu hướng gia tăng. Tuy nhiên, so với
tiềm năng của phụ nữ và với yêu cầu của công cuộc đổi mới ở Việt Nam thì sự
tham gia của phụ nữ vào lĩnh vực lãnh đạo, quản lý các cấp trong hệ thống chính
trị còn ít về số lượng, thấp về chất lượng trong tương quan với nam giới.
Thành phố Hà Nội có quá trình phát triển lâu đời về văn hóa và truyền
thống cách mạng, có sự phát triển khá cao về kinh tế - xã hội, đặc biệt trình độ
dân trí luôn đạt mức cao. Thế nhưng sự tham gia của phụ nữ trong hệ thống
chính trị cấp huyện vẫn còn thấp, năm 2017 chỉ đạt khoảng 24,3%.
Sự tham gia của phụ nữ trong hệ thống chính trị cấp huyện tuy có tăng
dần so với trước, nhưng mức tăng, giảm qua các nhiệm kỳ luôn có sự biến

3


động, số lượng đội ngũ cán bộ nữ trong hệ thống chính trị còn thấp so với
tỷ lệ lực lượng phụ nữ trong xã hội; các vị trí mà phụ nữ tham gia trong các
tổ chức chính trị - xã hội, khối đoàn thể, đa số giữ vị trí cấp phó. Ở vị trí
càng cao tỷ lệ nữ càng thấp, đặc biệt là ở các vị trí ra quyết định thì không
những ở vị trí cao mà ngay cả ở vị trí thấp như cấp phòng, ban tỷ lệ cán bộ nữ
cũng rất hạn chế. Đó là tình trạng chung về việc phụ nữ tham gia lãnh đạo,
quản lý trong phạm vi cả nước cũng như trong hệ thống chính trị cấp huyện ở
Thành phố Hà Nội hiện nay. Thực trạng trên đang ảnh hưởng không tốt đến
kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của các huyện ngoại
thành nói riêng và Thành phố Hà Nội nói chung.
Do yêu cầu thực hiện nhiệm vụ chính trị giai đoạn 2016-2020 đang đặt ra

những đòi hỏi mới phải phát huy hơn nữa dân chủ trong toàn hệ thống chính trị
của Thành phố Hà Nội, đặc biệt là cấp huyện, mới có thể hoàn thành các mục
tiêu đã đề ra.
Từ những lý do trên, việc nghiên cứu, làm rõ thực trạng, đề ra phương
hướng cũng như những giải pháp chủ yếu nhằm tăng tỷ lệ và nâng cao chất lượng
của phụ nữ trong hệ thống chính trị cấp huyện ở Thành phố Hà Nội hiện nay là
đòi hỏi khách quan cấp thiết cả lý luận và thực tiễn.
Do đó, tác giả lựa chọn vấn đề: “Bình đẳng giới của đội ngũ cán bộ
trong hệ thống chính trị cấp huyện ở Thành phố Hà Nội hiện nay” làm luận
văn tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
* Nghiên cứu chung về phụ nữ, giới và phát triển, bình đẳng giới
Trần Thị Vân Anh và Lê Ngọc Hùng (1996) có cuốn sách: Phụ nữ - giới
và phát triển, Nxb Phụ nữ, Hà Nội [2]. Tác giả đã nghiên cứu vấn đề dựa trên
mối quan hệ giữa phụ nữ - giới và phát triển. Phân tích vị trí, vai trò của phụ
nữ trong đổi mới kinh tế - xã hội gắn với những nội dung việc làm, thu nhập,
sức khỏe, học vấn chuyên môn; chính sách xã hội đối với phụ nữ và ảnh

4


hưởng của chính sách xã hội đối với phụ nữ và thực hiện bình đẳng giới.
Lê Thi (1998) có cuốn sách: Phụ nữ và bình đẳng giới trong đổi mới ở
Việt Nam [46]. Tác giả đã phân tích vận dụng quan điểm của Đảng và Nhà
nước cũng như quan điểm tiếp cận giới vào việc xem xét các vấn đề có liên
quan đến bình đẳng giới. Qua đó nêu lên những vấn đề đáng quan tâm và đề
xuất ý kiến về một số chính sách xã hội cần thiết nhằm thực hiện bình đẳng
giới trong tình hình mới.
Kim Dung (lược dịch) (2005), Vấn đề giới trong các báo cáo thực hiện và
phát triển mục tiêu thiên niên kỷ [12]. Tác giả tổng hợp tuyên bố thiên niên kỷ được

189 nguyên thủ quốc gia thành viên Liên hiệp quốc thông qua vào tháng 9 năm
2000 tại NewYooc - Mỹ nhằm xây dựng một thế giới tốt đẹp và an toàn hơn cho
thập kỷ đầu tiên của thế kỷ XXI bằng việc hợp tác phát triển và hữu nghị. Những
cam kết này không chỉ có giá trị thiết yếu cho sự phát triển mà còn là quyền cơ bản
của mỗi con người. Mục tiêu 3 trong 8 mục tiêu thiên niên kỷ, bình đẳng giới và
nâng cao vị thế cho phụ nữ mục tiêu có ý nghĩa quan trọng không phải vì tự thân
vấn đề này mà còn do đó là phương tiện để đạt các mục tiêu khác; càng bình đẳng
giới trong lĩnh vực chính trị thì đầu tư hợp tác, phát triển càng lớn.
Phan Thanh Khôi - Đỗ Thị Thạch (Đồng chủ biên) (2007) đề tài khoa
học: Những vấn đề giới - từ lịch sử đến hiện đại [25]. Các tác giả đã nghiên
cứu các vấn đề về giới thông qua việc tiếp cận những tác phẩm kinh điển của
C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin, Hồ Chí Minh và đường lối, chính sách của
Đảng, pháp luật của Nhà nước Việt Nam. Công trình khoa học nêu trên đã
mang lại những gợi ý cho tác giả luận văn khi nghiên cứu về bản chất và
nguyên nhân của bất bình đẳng giới ở Việt Nam.
Trần Thị Vân Anh - Nguyễn Hữu Minh (Chủ biên), (2008), Bình đẳng
giới ở Việt Nam [3]. Thông qua việc điều tra cơ bản về bình đẳng giới, các tác
giả xác định thực trạng bình đẳng giới về cơ hội và khả năng nắm bắt cơ hội
của phụ nữ và nam giới; tương quan giữa hai giới trên các lĩnh vực của đời

5


sống xã hội; chăm sóc sức khỏe và địa vị trong gia đình, cộng đồng và xã hội.
Chương trình hợp tác chung giữa Chính phủ Việt Nam và Liên hợp quốc về
Bình đẳng giới (2011), Hệ thống các văn bản quy định hiện hành về Bình đẳng
giới và phòng, chống Bạo lực gia đình [11]. Cuốn sách hệ thống hóa các văn bản
chính sách pháp luật về Bình đẳng giới và phòng, chống bạo lực gia đình.
Phạm Minh Anh (2012) có cuốn sách: Vai trò của cán bộ lãnh đạo, quản
lý cấp cơ sở trong việc thực hiện mục tiêu bình đẳng giới ở Việt Nam, Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội [1]. Tác giả đã trình bày cơ sở lý luận và thực tiễn
về cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở và bình đẳng giới. Qua đó phân tích,
đánh giá thực trạng vai trò, các yếu tố tác động đến đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp
cơ sở trong việc thực hiện mục tiêu bình đẳng giới ở nước ta hiện nay. Từ đó,
đề xuất một số giải pháp, kiến nghị nhằm góp phần nâng cao vai trò cũng như
hiệu quả thực hiện mục tiêu bình đẳng giới của đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp cơ
sở trước mắt cũng như lâu dài.
Phạm Thu Hiền (Chủ nhiệm đề tài) (2010), Lồng ghép giới hướng tới
bình đẳng và phát triển bền vững ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay [23].
Trên cơ sở phân tích làm rõ lồng ghép giới như một cách tiếp cận có hiệu quả,
đã làm rõ cách thức lồng ghép giới trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, lao
động và việc làm, văn hóa - xã hội, giáo dục, y tế và gia đình; đồng thời đề
xuất một số giải pháp và kiến nghị lồng ghép giới nhằm thực hiện mục tiêu
bình đẳng giới, phát triển bền vững.
Lê Thị Quý (2006) có bài báo: Phụ nữ trong đổi mới: Thành tựu và
thách thức [40]. Tác giả bài báo nhận định: Việt Nam là một nước đang xây
dựng, phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa, về cơ bản Nhà nước ta đã
quan tâm và tạo điều kiện cho phụ nữ phát triển. Giải phóng phụ nữ không thể
chỉ hiểu đơn giản là vấn đề chính sách mà nó còn ở cuộc sống thực tiễn. Tác
giả nhận định, nhiều nghiên cứu gần đây đã luận giải tỷ số chênh lệch giữa
nam và nữ trong bộ máy lãnh đạo các cấp đồng thời bước đầu chỉ ra quan

6


niệm, định kiến giới của một số cán bộ chính quyền và người dân đối với việc
phụ nữ tham gia lãnh đạo. Sự hạn chế của phụ nữ trong giáo dục đào tạo, việc
bố trí sử dụng cán bộ nữ và việc giữ gìn, phát triển tiềm năng của phụ nữ, tác
động của phân công lao động bất bình đẳng hiện nay đến việc nâng cao năng
lực và trao quyền cho phụ nữ được tác giả đánh giá là có nguyên nhân liên

quan đến sự phân công lao động.
Ngô Thị Tuấn Dung (2008) có bài viết: Nghị sự toàn cầu về vấn đề phụ nữ
và bình đẳng giới - Lịch sử và hiện tại [14]. Tác giả tập trung phân tích, khái quát
về bối cảnh, đặc điểm chương trình nghị sự toàn cầu về vấn đề phụ nữ và thúc đẩy
bình đẳng giới, nêu những vấn đề và thách thức đặt ra trong khoảng ba thập kỷ
vừa qua. Tác giả cho rằng, trong khoảng ba thập kỷ gần đây, nhận thức, cam kết
chính trị và định hướng chương trình hành động nhằm mục tiêu BĐG, tạo quyền
phụ nữ đã trở thành tiền đề đảm bảo ổn định chính trị, hòa bình, an ninh và phát
triển bền vững ở các cộng đồng, quốc gia đã được tăng cường ở cấp độ toàn cầu.
* Nghiên cứu chung về nguồn lực trí tuệ nữ thời kỳ đổi mới
Phạm Minh Hạc (Chủ biên) (2001) có cuốn sách: Về phát triển toàn diện
con người thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa [21]. Tác giả chỉ ra 5 đặc điểm
trí tuệ quan trọng nhất mà người Việt Nam cần có để đáp ứng yêu cầu công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Trên cơ sở tổng hợp và khái quát các kết quả
nghiên cứu, tác giả đã đề xuất mô hình nhân cách con người Việt Nam thế kỷ
XXI - một nhân cách được phát triển toàn diện. Trong đó, nhu cầu và động cơ,
hứng thú sở thích trí tuệ và tài năng, nhân sinh quan và quan niệm giá trị, lý
tưởng và niềm tin, tính cách và khí chất của họ đều phát triển theo hướng lành
mạnh. Đó là một mô hình gắn bó chặt chẽ giữa hai mặt đức và tài.
Bùi Thị Ngọc Lan (2002) có cuốn sách: Nguồn lực trí tuệ trong sự
nghiệp đổi mới ở Việt Nam [26]. Tác giả đã chỉ ra vai trò quan trọng của
nguồn lực trí tuệ đối với sự phát triển của xã hội; làm rõ đặc điểm, thực
trạng phát huy và xu hướng phát triển nguồn lực trí tuệ Việt Nam cũng như

7


sự cần thiết phải chăm lo phát huy cao độ sức mạnh của nguồn lực trí tuệ
trong công cuộc đổi mới ở nước ta. Theo tác giả, cũng đặt ra vấn đề cần phải
nâng cao nhận thức của toàn xã hội về tính tất yếu của việc phát huy nguồn

lực trí tuệ; cải cách hệ thống giáo dục và đào tạo để tạo nguồn cho quá trình
phát huy nguồn lực trí tuệ; tạo động lực thúc đẩy quá trình phát huy nguồn
lực trí tuệ; xây dựng môi trường văn hóa, xã hội lành mạnh.
Võ Thị Mai (2013) có cuốn sách: Vấn đề sử dụng nhân tài là cán bộ nữ
lãnh đạo, quản lý trong hệ thống chính trị [33]. Tác giả đã bàn về vấn đề sử
dụng nhân tài là giới nữ vào các vị trí lãnh đạo, quản lý trong hệ thống chính
trị. Đặc biệt luận giải bước đầu đến việc khắc phục các rào cản đối với cán bộ
nữ khi tham gia vào các vị trí lãnh đạo cấp cao và đề xuất một số giải pháp về
vấn đề này. Tác giả nhấn mạnh: các nhà lãnh đạo là cán bộ nữ ngoài những
phẩm chất của một nhân tài, họ còn có những phẩm chất mang đặc thù giới nữ
nói riêng. Bởi vậy, các nhà hoạch định chính sách và lãnh đạo, quản lý cần
quan tâm phát hiện, đào tạo, trọng dụng và tôn vinh nhân tài nữ, tạo cho họ có
môi trường tốt hơn để làm việc và cống hiến.
Đỗ Thị Thạch (2013) có cuốn sách: Nữ trí thức Việt Nam trước yêu cầu
công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế [43]. Tác giả đã nghiên
cứu và làm rõ ba phẩm chất cơ bản của nguồn nữ trí thức Việt Nam trước yêu
cầu CNH, HĐH là: phẩm chất chính trị vững vàng; có trí tuệ cao; có trách
nhiệm xã hội. Vì vậy, để phát huy vai trò của nữ trí thức đáp ứng yêu cầu
CNH, HĐH và hội nhập quốc tế, phải thực hiện đồng bộ các giải pháp như:
Tuyên truyền nâng cao nhận thức cho cá nhân, cộng đồng về vai trò của nữ trí
thức trong phát triển kinh tế - xã hội và xây dựng gia đình; xây dựng chính
sách hợp lý trong đào tạo đội ngũ nữ trí thức; có chính sách sử dụng, đãi ngộ
đội ngũ nữ trí thức hợp lý, xây dựng nữ trí thức chuyên gia, đầu đàn; quan
tâm, tạo điều kiện để nữ trí thức thực hiện tốt đồng thời chức năng gia đình và
xã hội; xây dựng tổ chức Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, nhất là Hội Nữ trí

8


thức đại diện cho quyền lợi của trí thức nữ. Tuy nhiên, tác giả chưa đề cập đến

vấn đề nữ cán bộ lãnh đạo, quản lý.
* Nghiên cứu chung về công tác cán bộ nữ tham gia lãnh đạo, quản
lý trong hệ thống chính trị cấp huyện
Về công tác cán bộ trong hệ thống chính trị Việt Nam nói chung có
khá nhiều công trình nghiên cứu:
Trung tâm nghiên cứu Khoa học về lao động nữ (1997), Phụ nữ tham
gia lãnh đạo quản lý [49]. Cuốn sách có chủ đề phụ nữ tham gia lãnh đạo,
quản lý nhưng chỉ phân tích và bàn luận rất sơ lược về địa vị của phụ nữ
Việt Nam trong bộ máy chính trị hiện tại.
Nguyễn Đức Hạt (Chủ biên) (2007) Nâng cao năng lực lãnh đạo của cán
bộ nữ trong hệ thống chính trị [22]. Cuốn sách là kết quả nghiên cứu của Đề tài
độc lập cấp Nhà nước của Ban tổ chức Trung ương. Các tác giả đã làm sáng tỏ
những luận cứ khoa học, thực tiễn về việc nâng cao vị trí, vai trò, năng lực lãnh
đạo của đội ngũ cán bộ nữ trong hệ thống chính trị ở nước ta đồng thời nhấn
mạnh việc giải quyết các vấn đề liên quan tới nâng cao năng lực lãnh đạo của
đội ngũ cán bộ nữ trong hệ thống chính trị; đa dạng hóa giá trị, tăng quyền và
mở rộng cơ hội lựa chọn cho nam - nữ một cách hợp lý nhằm phát huy mọi
tiềm năng, sức lực của cả hai giới đối với sự phát triển bền vững của đất nước.
Trần Đình Hoan (Chủ biên) (2009), Đánh giá, quy hoạch, luân chuyển
cán bộ lãnh đạo, quản lý thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước [24].
Cuốn sách đã khái quát những vấn đề lý luận và thực tiễn cũng như cơ sở khoa
học; chỉ ra những yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước đối với công tác
đánh giá, quy hoạch, luân chuyển cán bộ. Đặc biệt, các tác giả đã phân tích quá
trình thực hiện công tác này từ năm 1986 đến nay; nêu ra một số quan điểm,
giải pháp đổi mới, nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác đánh giá, quy
hoạch, luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý thời kỳ CNH, HĐH đất nước.
Nguyễn Thị Thu Hà (2008) có đề tài: Định kiến giới đối với nữ trong
lãnh đạo, quản lý [20]. Tác giả phân tích làm rõ khái niệm định kiến giới,

9



biểu hiện định kiến giới đối với phụ nữ. Tác giả nhấn mạnh, đó chính là một
trong những yếu tố trực tiếp tạo rào cản đối với phụ nữ tham gia bình đẳng
vào các vị trí lãnh đạo, quản lý ở các cấp.
Hoàng Bá Thịnh (2008) có đề tài: Về làn sóng nữ quyền và ảnh
hưởng của nữ quyền đến địa vị của phụ nữ Việt Nam [47]. Tác giả đã trao đổi
về sự phân chia các làn sóng nữ quyền cũng như ảnh hưởng của phong trào nữ
quyền đến địa vị của phụ nữ Việt Nam và tiến trình bình đẳng giới. Từ đó tác
giả khẳng định: ở Việt Nam không có phong trào nữ quyền như các nước
phương Tây, mà chỉ có phong trào phụ nữ, do Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam
đứng đầu, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, thực hiện các mục
tiêu của cách mạng, trong đó có mục tiêu quan trọng là tiến tới bình đẳng giới
giữa nam và nữ. Ở nước ta trong thời kỳ đổi mới, nhân tố quyết định BĐG là
do chính sách, đường lối của Đảng đúng đắn và phù hợp với giới.
Đinh Thị Hà (2009) có đề tài: Sự tham gia của Hội Liên hiệp Phụ nữ
Việt Nam trong đời sống chính trị - xã hội [19]. Tác giả đề tài đã hệ thống
hóa và phân tích một số vấn đề lý luận cơ bản về sự hình thành và phát triển
của Hội phụ nữ; khái quát vị trí, vai trò của Hội phụ nữ trong Hệ thống
chính trị Việt Nam; phân tích, đánh giá thực trạng tham gia của Hội phụ nữ
trên các lĩnh vực văn hóa, kinh tế, xã hội, đặc biệt là thực tiễn tham gia hoạt
động chính trị: hoạt động của các hội viên trong bộ máy Đảng và chính
quyền các cấp, việc thực hiện chức năng giám sát và phản biện xã hội;
những khó khăn và thuận lợi khi tham gia hoạt động chính trị - xã hội của
đội ngũ cán bộ nữ, những mặt mạnh cần phát huy và những hạn chế cần
khắc phục. Từ đó, tác giả đã nêu ra một số phương hướng và giải pháp nhằm
nâng cao hiệu quả tham chính đội ngũ cán bộ nữ trong Hệ thống chính trị
cấp huyện ở Việt Nam hiện nay.
Nguyễn Trung Tuyên (2012) có đề tài: Bình đẳng giới trong gia đình
nông dân tỉnh Hưng Yên hiện nay [50]. Tác giả đã nghiên cứu phân tích làm rõ


10


cơ sở lý luận và thực tiễn về bình đẳng giới và bình đẳng giới trong gia đình
nông dân, từ đó đề xuất những phương hướng giải pháp nâng cao chất lượng
thực hiện bình đẳng giới trong gia đình nông dân tỉnh Hưng yên hiện nay.
Nguyễn thị Tuyết (2014) có đề tài: Phụ nữ lãnh đạo, quản lý trong hệ
thống chính trị ở Đồng bằng sông Hồng hiện nay [51]. Tác giả đề tài phân tích
đặc điểm tình hình khu vực Đồng bằng sông Hồng, những thuận lợi, khó khăn,
rào cản đối với việc phụ nữ tham chính. Từ đó đề xuất những giải pháp nâng
cao chất lượng phụ nữ tham gia lãnh đạo trong hệ thống chính trị khu vực
Đồng bằng sông Hồng hiện nay.
Các công trình nghiên cứu kể trên đã đề cập đến nhiều góc độ khác
nhau, là những tư liệu tham khảo hết sức quan trọng giúp tôi thực hiện đề
tài luận văn này. Tuy nhiên, cho đến nay ở nước ta chưa có công trình
nghiên cứu chuyên sâu nào về “Bình đẳng giới của đội ngũ cán bộ trong
hệ thống chính trị cấp huyện ở Thành phố Hà Nội hiện nay”. Vì vậy đề tài
mà tác giả lựa chọn không trùng lặp với các công trình khoa học đã được
nghiên cứu và công bố.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ một số vấn đề lý luận và thực tiễn về bình đẳng giới của
đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị cấp huyện, từ đó đề xuất một số
phương hướng, giải pháp cơ bản nhằm nâng cao chất lượng thực hiện bình
đẳng giới của đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị cấp huyện ở Thành phố
Hà Nội hiện nay.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
Làm rõ cơ sở lý luận về bình đẳng giới của đội ngũ cán bộ trong hệ
thống chính trị và bình đẳng giới của đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính

trị cấp huyện ở Thành phố Hà Nội.

11


Phân tích thực trạng bình đẳng giới của đội ngũ cán bộ trong hệ thống
chính trị cấp huyện ở Thành phố Hà Nội từ năm 2011 đến 2018.
Đề xuất phương hướng, giải pháp cơ bản nhằm nâng cao chất lượng thực
hiện bình đẳng giới của đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị cấp huyện ở
Thành phố Hà Nội hiện nay.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
Bình đẳng giới của đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị cấp huyện ở
Thành phố Hà Nội hiện nay.
* Phạm vi nghiên cứu
Trong hệ thống chính trị cấp huyện có nhiều đối tượng khác nhau, nhưng
luận văn chỉ tập trung nghiên cứu về việc thực hiện bình đẳng giới của đội
ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị cấp huyện ở Thành phố Hà Nội. Trọng
tâm là thực hiện bình đẳng về quyền lợi, nghĩa vụ giữa phụ nữ và nam giới
trong tham gia lãnh đạo, quản lý và bổ nhiệm vào các vị trí chủ chốt trong hệ
thống chính trị cấp huyện, tập trung chủ yếu vào hai huyện ngoại thành Hà
Nội là huyện Ba Vì và huyện Phúc Thọ. Các số liệu khảo sát, điều tra từ năm
2011 đến 2018.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam và các chủ
trương, chính sách, pháp luật của Nhà nước Việt Nam về bình đẳng giới
trong hệ thống chính trị.
* Cơ sở thực tiễn

Thực trạng bình đẳng giới trong hệ thống chính trị cấp huyện ở Thành phố
Hà nội hiện nay, qua các số liệu báo cáo thống kê, báo cáo tổng kết của các cơ
quan chức năng Đảng, chính quyền và các tổ chức chính trị - xã hội, Hội Liên

12


hiệp Phụ nữ, cùng kết quả điều tra, khảo sát thực tế của tác giả về việc thực
hiện bình đẳng giới của đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị cấp huyện ở
Thành phố Hà Nội từ năm 2011 đến 2018.
* Phương pháp nghiên cứu của luận văn
Luận văn sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu: lôgic và lịch
sử; Phương pháp điều tra xã hội học bằng bảng hỏi và trao đổi, phỏng vấn;
phân tích và tổng hợp tư liệu thực tế để giải quyết nhiệm vụ đặt ra. Tác giả
luận văn cũng đã kế thừa các công cụ phân tích giới để tìm hiểu, phân tích,
lý giải thực trạng bình đẳng giới ở Việt Nam nói chung và bình đẳng giới
của đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị cấp huyện hiện nay.
6. Ý nghĩa của luận văn
Với những đóng góp mới của luận văn góp phần cung cấp thêm những
cơ sở khoa học cả về lý luận và thực tiễn cho lãnh đạo hệ thống chính trị
cấp huyện Thành phố Hà Nội nâng cao chất lượng quá trình giải phóng phụ
nữ, chất lượng thực hiện bình đẳng giới của đội ngũ cán bộ trong hệ thống
chính trị cấp huyện ở Thành phố Hà Nội hiện nay.
Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu,
giảng dạy chuyên ngành CNXHKH và thực hiện BĐG trong các Học viện,
Nhà trường Quân đội.
7. Kết cấu của luận văn
Gồm mở đầu, 2 chương (4 tiết), kết luận, danh mục tài liệu tham
khảo và phụ lục.


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ BÌNH ĐẲNG GIỚI

13


CỦA ĐỘI NGŨ CÁN BỘ TRONG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ CẤP
HUYỆN Ở THÀNH PHỐ HÀ NỘI HIỆN NAY
1.1. Một số vấn đề lý luận về bình đẳng giới của đội ngũ cán bộ trong
hệ thống chính trị cấp huyện ở Thành phố Hà Nội
1.1.1. Quan niệm về bình đẳng giới và bình đẳng giới của đội ngũ
cán bộ trong hệ thống chính trị cấp huyện
* Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và của
Đảng, Nhà nước ta về bình đẳng giới
Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về bình đẳng giới
C.Mác và Ph.Ăngghen trong quá trình nghiên cứu sự phát triển của lịch
sử xã hội, các ông cho rằng mỗi nấc thang tiến bộ của nhân loại đều in đậm
công lao của phụ nữ. Khi bàn về vị trí và vai trò của phụ nữ trong xã hội,
C.Mác và Ph.Ăngghen cho rằng: Trong lịch sử nhân loại, không có một phong
trào to lớn nào của những người bị áp bức mà không có phụ nữ lao động tham
gia, phụ nữ lao động là những người bị áp bức nhất trong tất cả những người
bị áp bức chính vì vậy nên không bao giờ họ đứng ngoài và cũng không thể
đứng ngoài các cuộc đấu tranh giải phóng.
Sự nghiệp giải phóng phụ nữ gắn liền với sự nghiệp giải phóng dân tộc,
giải phóng giai cấp và giải phóng con người. Nếu dân tộc đã được giải phóng
rồi, phụ nữ có vị trí rất quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội.
Theo Ph.Ăngghen, giải phóng phụ nữ, xác lập quyền bình đẳng giữa nam và
nữ đều không thể có được và mãi mãi không thể có được, chừng nào mà phụ
nữ vẫn còn bị gạt ra ngoài lao động sản xuất xã hội, còn phải bị bó hẹp trong
công việc riêng tư của gia đình: “Người đàn bà nếu làm tròn bổn phận phục

vụ riêng cho gia đình, lại phải đứng ngoài nền sản xuất xã hội và không thể có
được một thu nhập nào cả; và nếu họ muốn tham gia vào lao động xã hội và
kiếm sống một cách độc lập, thì họ lại không có điều kiện để làm tròn nhiệm
vụ gia đình” [31, tr. 116].

14


Do đó, muốn thực hiện công cuộc giải phóng phụ nữ thì “điều kiện
tiên quyết là làm cho toàn bộ nữ giới trở lại tham gia nền sản xuất xã hội,
và điều kiện đó lại đòi hỏi phải làm cho gia đình cá thể không còn là một
đơn vị kinh tế của xã hội nữa” [31, tr.116].
Để phụ nữ tham gia vào công việc xã hội, theo Ph.Ăngghen cần đưa
những công việc nội trợ của gia đình có thể thành công việc chung của xã hội,
biến nội trợ gia đình thành lao động hàng hóa. Ngoài ra, phải chú ý tới các
điều kiện xã hội quan trọng khác như xóa bỏ phong tục tập quán cũ kỹ, lạc
hậu, tâm lý coi thường phụ nữ, thường xuyên giáo dục và vận động mọi thành
viên của xã hội nâng cao nhận thức về vai trò của phụ nữ.
Kế thừa và phát triển các quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen về bình
đẳng giới, trên cơ sở thực tiễn xây dựng CNXH ở nước Nga Xô Viết, V.I.Lênin
đã kiên quyết đấu tranh chống lại luận điệu xuyên tạc chủ nghĩa Mác về vấn đề
giải phóng phụ nữ, hôn nhân và gia đình của bọn cơ hội, xét lại và giai cấp tư
sản. Trên báo Sự thật ngày 6/11/1919, V.I.Lênin viết: “Trên lời nói, chế độ dân
chủ tư sản hứa hẹn bình đẳng và tự do. Trong thực tế, không một nước cộng
hòa tư sản nào, dù là nước tiên tiến nhất, đã để cho một nửa loài người là nữ
giới được hoàn toàn bình đẳng với nam giới trước pháp luật và giải phóng phụ
nữ khỏi sự bảo trợ và sự áp bức của nam giới” [27, tr.325].
Sau khi cách mạng Tháng Mười Nga thành công, V.I.Lênin đã đề ra ba
nhóm giải pháp quan trọng nhằm thực hiện bình đẳng nam, nữ: 1. Luật pháp
hóa quyền bình đẳng nam nữ. Cùng với thủ tiêu pháp luật tư sản là việc ban

hành pháp luật mới. 2. Phụ nữ Xô Viết phải thực sự được bình đẳng, có quyền
tham gia quyết định vận mệnh của đất nước và trực tiếp tham gia quản lý Nhà
nước, xây dựng củng cố chính quyền. 3. Không chỉ giải phóng phụ nữ ở ngoài
xã hội mà phải giải phóng họ ngay trong gia đình. V.I.Lênin còn cho rằng,
bình đẳng nam nữ không đồng nghĩa với sự ngang bằng theo kiểu phụ nữ
tham gia lao động với năng suất, khối lượng, thời gian và điều kiện lao động như

15


nam giới, bởi “Ngay trong điều kiện hoàn toàn bình đẳng, thì sự thật phụ nữ vẫn
bị trói buộc vì toàn bộ công việc gia đình đều trút lên vai phụ nữ” [28, tr.231].
V.I.Lênin quan niệm: “Hễ phụ nữ còn bận việc gia đình, thì địa vị của họ
vẫn không khỏi bị hạn chế. Muốn triệt để giải phóng phụ nữ, muốn làm cho
họ thật sự bình đẳng với nam giới, thì phải có nền kinh tế chung của xã hội,
phải để cho phụ nữ tham gia lao động sản xuất chung. Như thế, phụ nữ mới
có địa vị bình đẳng với nam giới” [29, tr.230].
Như vậy, chủ nghĩa Mác - Lênin đã phát triển những tư tưởng tiến bộ của
nhân loại về giải phóng phụ nữ, chỉ ra nguồn gốc của sự bất bình đẳng giữa
nam và nữ là do phụ nữ bị gạt ra khỏi quá trình sản xuất xã hội; chỉ ra vai trò
và khả năng to lớn của phụ nữ đối với quá trình cách mạng vì tiến bộ xã hội;
chỉ ra điều kiện để đi đến giải phóng phụ nữ là đưa phụ nữ trở lại tham gia lao
động sản xuất xã hội và chuyển công việc nội trợ của gia đình thành công việc
lớn của xã hội; gắn sự nghiệp giải phóng phụ nữ với cuộc cách mạng XHCN,
giải phóng phụ nữ vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng vô sản.
Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về bình đẳng giới
Chủ tịch Hồ Chí Minh là nhà tư tưởng đầu tiên trong lịch sử Việt Nam
đặt vị thế, vai trò của phụ nữ ngang với nam giới và cũng là một trong những
nhà tư tưởng, lãnh tụ tiêu biểu của thế giới đề cao sự nghiệp giải phóng phụ
nữ. Người đã tiếp thu và vận dụng những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa

Mác - Lênin về giải phóng phụ nữ, thực hiện nam nữ bình đẳng vào hoàn
cảnh cụ thể của Việt Nam, một nước thuộc địa nửa phong kiến. Hồ Chí Minh
đã tìm ra nguyên nhân nỗi thống khổ, áp bức của người phụ nữ dưới chế độ
thực dân, phong kiến, từ đó Người đã chỉ ra mục tiêu, biện pháp để giải phóng
phụ nữ, thực hiện nam nữ bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ.
Trong tác phẩm nổi tiếng “Bản án chế độ thực dân Pháp” xuất bản tại
Pari năm 1925, Nguyễn Ái Quốc đã dành cả một chương với chủ đề: “Nỗi khổ
nhục của người đàn bà bản xứ” để trình bày cho toàn thế giới biết về thân phận

16


người phụ nữ thuộc địa. Nguyễn Ái Quốc đã vạch trần bộ mặt của bọn thực dân
– đội lốt kẻ đi khai hóa văn minh nhưng đã hành động một cách dã man, bỉ ổi đối
với nhân dân các nước thuộc địa, đặc biệt đối với phụ nữ. Người viết: “Không
một chỗ nào người phụ nữ thoát khỏi những hành động bạo ngược. Ngoài phố,
trong nhà, giữa chợ hay ở thôn quê, đâu đâu họ cũng vấp phải những hành động
tàn nhẫn của bọn cai trị, sỹ quan, cảnh binh, nhân viên nhà đoan, nhà ga” [34, tr.
114]. Khi đến thăm tượng nữ thần tự do ở Mỹ, Người đã nhận xét: Trong khi
người ta tượng trưng tự do và công lý bằng tượng một người đàn bà thì trong thực
tế, họ lại hành hạ những người đàn bà bằng xương, bằng thịt.
Không dừng ở việc tố cáo bọn thực dân xâm lược, Nguyễn Ái Quốc đã
nhìn thấy ở những người phụ nữ bị áp bức, đọa đầy này một sức mạnh to lớn,
sức mạnh mà tất cả các cuộc cách mạng trong lịch sử nhân loại không thể
thiếu. Người khẳng định: “Xem trong lịch sử cách mệnh chẳng có lần nào là
không có đàn bà con gái tham gia” [35, tr.313]. Xuất phát từ lịch sử dựng
nước và giữ nước của dân tộc, Người viết: “Từ đầu thế kỷ thứ nhất, Hai Bà
Trưng phất cờ khởi nghĩa, đánh giặc, cứu dân cho đến nay mỗi khi nước nhà
gặp nguy nan, thì phụ nữ ta đều hăng hái đứng lên, góp phần xứng đáng của
mình vào sự nghiệp giải phóng dân tộc” [37, tr.172].

Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, giải phóng phụ nữ là mục tiêu, nhiệm vụ của cách
mạng xã hội chủ nghĩa. Người cho rằng, đây là một việc không đơn giản, không phải đánh
đổ được thực dân phong kiến, giành độc lập dân tộc là nam nữ bình đẳng, càng không phải
là chia đều công việc giữa nam và nữ, Người viết: “Nhiều người lầm tưởng đó là một việc
dễ chỉ: hôm nay anh nấu cơm, rửa bát, quét nhà, hôm sau em quét nhà, nấu cơm, rửa bát,
thế là bình đẳng, bình quyền. Lầm to!
Đó là một cuộc cách mạng to và khó.
Vì trọng trai khinh gái là một thói quen mấy nghìn năm để lại. Vì nó ăn sâu trong đầu
óc của mọi người, mọi gia đình, mọi tầng lớp xã hội.
Vì không thể dùng vũ lực mà tranh đấu” [36, tr. 342].
Không chỉ khẳng định vai trò to lớn của người phụ nữ, Hồ Chí Minh còn chỉ ra nhiều
biện pháp nhằm thực hiện quyền bình đẳng thực sự cho phụ nữ. Người nhận định, giải phóng

17


phụ nữ là sự kết hợp của hai yếu tố: một là, bản thân người phụ nữ phải tự phấn đấu vươn
lên; hai là, sự quan tâm của Đảng, nhà nước, đoàn thể, gia đình và xã hội. Theo Hồ Chí
Minh, muốn xây dựng gia đình bình đẳng, hạnh phúc phải trên cơ sở luật hôn nhân gia đình
mới. Đây là tiền đề quan trọng để giải phóng phụ nữ và thực hiện nam nữ bình đẳng.
Quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng phụ nữ và
thực hiện nam nữ bình quyền trên các lĩnh vực của đời sống xã hội là những tư tưởng nhân
văn cao cả, đồng thời là nền tảng tư tưởng của Đảng ta trong suốt giai đoạn cách mạng, đấu
tranh giải phóng phụ nữ, vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam.

Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về bình đẳng giới
“Thực hiện nam nữ bình quyền” lần đầu tiên được Đảng ta đưa vào Luận
cương Chính trị năm 1930. Có thể coi đây là bản “Tuyên ngôn” đầu tiên về
bình đẳng giới của Việt Nam, trong đó nam giới và phụ nữ được công nhận
ngang hàng nhau về mặt chính trị.

Nghị quyết số 11-NQ/TW ngày 27 tháng 4 năm 2007 của Bộ Chính trị về
công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước đã xác định rõ mục
tiêu: “Phấn đấu đến năm 2020, phụ nữ được nâng cao trình độ về mọi mặt, có
trình độ học vấn, chuyên môn, nghiệp vụ đáp ứng yêu cầu công nghệp hoá,
hiện đại hoá và hội nhập kinh tế quốc tế; có việc làm, được cải thiện rõ rệt về
đời sống vật chất, văn hoá, tinh thần; tham gia ngày càng nhiều hơn công việc
xã hội, bình đẳng trên mọi lĩnh vực, đóng góp ngày càng lớn hơn cho xã hội và
gia đình, phấn đấu để nước ta là một trong các quốc gia có thành tựu bình đẳng
giới tiến bộ nhất của khu vực” [38, tr.6].
Trong các kỳ Đại hội Đảng, vấn đề thực hiện BĐG luôn được bổ sung,
hoàn thiện và phát triển. Đại hội IX khẳng định: “Đối với phụ nữ, thực hiện tốt
luật pháp và chính sách bình đẳng giới” [15, tr.126]. Nghị quyết Đại hội Đại
biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng chỉ rõ: “Đối với phụ nữ, nâng cao trình độ
mọi mặt và đời sống vật chất, tinh thần, thực hiện bình đẳng giới. Tạo điều kiện
để phụ nữ thực hiện tốt vai trò người công dân, người lao động, người mẹ, người
thầy đầu tiên của con người. Bồi dưỡng, đào tạo để phụ nữ tham gia ngày càng

18


nhiều vào các hoạt động xã hội, các cơ quan lãnh đạo và quản lý ở các cấp...”
[16, tr.120]. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng cũng
khẳng định: “Xây dựng và triển khai chiến lược quốc gia về bình đẳng giới và
tiến bộ của phụ nữ, tập trung ở những vùng và khu vực có sự bất bình đẳng và
nguy cơ bất bình đẳng cao; ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng buôn bán phụ nữ và bạo
lực trong gia đình” [17, tr.231]. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XII của Đảng chỉ rõ: “Nâng cao trình độ mọi mặt và đời sống vật chất tinh
thần của phụ nữ…, tạo điều kiện cho phụ nữ phát triển khả năng…, bổ sung
và hoàn thiện pháp luật và chính sách đối với lao động nữ, tạo điều kiện và cơ
hội để phụ nữ thực hiện tốt vai trò và trách nhiệm của mình trong gia đình và

xã hội”, “Tăng tỉ lệ cán bộ nữ lãnh đạo, cấp ủy là người dân tộc thiểu số, cán
bộ nữ; cán bộ trẻ” [18, tr.163].
Bình đẳng giới luôn là nguyên tắc hiến định trong pháp luật nước ta: Điều
63 Hiến pháp 1992 quy định “Công dân nữ và nam có quyền ngang nhau về mọi
mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và gia đình. Nghiêm cấm mọi hành vi phân
biệt đối xử với phụ nữ, xúc phạm nhân phẩm phụ nữ…”. Trên trường quốc tế,
Việt Nam đã ký “Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ
nữ” (gọi tắt là công ước CEDAW) vào ngày 29 tháng 7 năm1980. Trung thành
với các điều khoản đã ghi trong công ước, Chính phủ Việt Nam đã cụ thể hóa
và sửa đổi các điều khoản pháp luật của mình để tạo ra môi trường pháp lý
cần thiết thúc đẩy quá trình bình đẳng nam nữ.
Ngày 29 tháng 11 năm 2006, Luật Bình đẳng giới đã được Quốc hội
thông qua và có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 7 năm 2007. Luật gồm VI
chương, 44 điều, quy định đầy đủ các vấn đề và điều khoản nhằm thực hiện
BĐG ở nước ta, trong đó xác định: “Mục tiêu bình đẳng giới là xoá bỏ phân
biệt đối xử về giới, tạo cơ hội như nhau cho nam và nữ trong phát triển kinh tế
- xã hội và phát triển nguồn nhân lực, tiến tới bình đẳng giới thực chất giữa
nam, nữ và thiết lập, củng cố quan hệ hợp tác, hỗ trợ giữa nam, nữ trong mọi

19


lĩnh vực của đời sống xã hội và gia đình”. Luật Bình đẳng giới cũng xác định
BĐG trên các lĩnh vực xã hội và gia đình.
Tiếp theo đó, Chính phủ cũng đã ban hành Chỉ thị số 10/2007/CT - TTg
ngày 03 tháng 5 năm 2007 về việc triển khai thi hành Luật Bình đẳng giới;
Nghị định số: 70/2008/NĐ - CP ngày 04 tháng 6 năm 2008 quy định chi tiết
thi hành một số điều của Luật Bình đẳng giới; Nghị định số 48/NĐ - CP ngày
19 tháng 5 năm 2009 quy định về các biện pháp bảo đảm bình đẳng giới.
Ngày 24 tháng 12 năm 2010, Chính phủ đã phê duyệt Chiến lược quốc

gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011 - 2020 bằng Quyết định 2351/QĐ - TTg.
Có thể thấy chiến lược là một nỗ lực lớn của chính phủ trong việc bảo đảm và
thúc đẩy bình đẳng giới ở nước ta. Chiến lược có mục tiêu tổng quát là: “Đến
năm 2020, về cơ bản, bảo đảm bình đẳng thực chất giữa nam và nữ về cơ hội,
sự tham gia và thụ hưởng trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa và xã
hội, góp phần vào sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước”. Chiến lược
quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011 - 2020 với 7 mục tiêu, 22 chỉ tiêu
nhằm thúc đẩy thực hiện bình đẳng giới trong lĩnh vực chính trị. Trong đó,
mục tiêu 1 về Tăng cường sự tham gia của phụ nữ vào các vị trí quản lý, lãnh
đạo, nhằm từng bước giảm dần khoảng cách giới trong lĩnh vực chính trị quy
định 3 chỉ tiêu sau: Chỉ tiêu 1: Phấn đấu đạt tỷ lệ nữ tham gia các cấp uỷ
Đảng nhiệm kỳ 2016 - 2020 từ 25% trở lên; tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội, đại
biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2016 - 2020 trên 35%. Chỉ tiêu 2:
Phấn đấu đến năm 2020 đạt trên 95% Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc
Chính phủ, Ủy ban nhân dân các cấp có lãnh đạo chủ chốt là nữ. Chỉ tiêu 3:
Phấn đấu đến năm 2020 đạt 100% cơ quan của Đảng, Nhà nước, tổ chức
chính trị - xã hội có lãnh đạo chủ chốt là cán bộ nữ nếu ở cơ quan, tổ chức có
tỷ lệ 30% trở lên nữ cán bộ, công chức, viên chức, người lao động.
Các mục tiêu của Chiến lược quốc gia về bình đẳng Giới giai đoạn 2011 2020 thể hiện rõ quan điểm của Đảng và Nhà nước ta đối với việc thực hiện BĐG.

20


Tạo cơ hội và điều kiện thuận lợ cho đội ngũ cán bộ nữ phát huy mọi khả năng
của mình đóng góp vào quá trình xây đựng đât nước nói chung và xây dựng hệ
thống chính trị cấp huyện nói riêng.
Ngày 16/3/2015 Thủ tướng Chính phủ cũng đã ban hành Kế hoạch triển
khai Thông báo kết luận số 196-TB/TW ngày 16/3/2015 của Ban Bí thư về
Đề án “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác bình đẳng giới và
vì sự tiến bộ của phụ nữ trong tình hình mới”. Mục tiêu là thông qua việc triển

khai một số giải pháp bảo đảm thực hiện bình đẳng giới, góp phần nâng cao vị
thế của phụ nữ và giảm khoảng cách giới trong một số lĩnh vực, ngành, vùng,
địa phương có bất bình đẳng giới hoặc có nguy cơ bất bình đẳng giới cao.
Có thể nói, những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đã tạo ra
một bước chuyển biến mới cả về lượng và chất trong việc đảm bảo quyền bình
đẳng của phụ nữ nước ta, tạo cơ sở pháp lý cho việc thực thi quyền bình đẳng
nam nữ trên thực tế. Để tăng cường đội ngũ cán bộ nữ trong hệ thống chính trị
cấp huyện, đòi hỏi chúng ta cần tăng cường giáo dục, tuyên truyền hơn nữa
nhằm nâng cao trình độ nhận thức của người dân trong việc nhìn nhận vai trò,
vị trí của phụ nữ; sự cam kết và đầu tư mạnh mẽ của Chính phủ, sự tham gia
của các cấp, ngành, đoàn thể và mỗi cá nhân trong việc nâng cao vị thế, vai trò
người phụ nữ, thực hiện bình đẳng giới, đặc biệt trong hệ thống chính trị nói
chung và trong hệ thống chính trị cấp huyện ở Thành phố Hà nội nói riêng.
* Quan niệm về bình đẳng giới và bình đẳng giới của đội ngũ cán bộ
trong hệ thống chính trị cấp huyện
Quan niệm về bình đẳng giới
Theo Từ điển Tiếng Việt: “Bình đẳng là ngang nhau về địa vị và quyền
lợi” [52, tr. 68]. theo đó bình đẳng là khái niệm hàm chứa ý nghĩa xã hội to lớn,
là quyền cơ bản của con người trên mọi lĩnh vực của đời sống xã nội, không
phân biệt giai cấp, dân tộc, tôn giáo, các tầng lớp dân cư, các nhóm tuổi.
Tại Điểm 3, Điều 5, Luật Bình đẳng giới nước ta năm 2006 đã khẳng định:

21


“Bình đẳng giới là việc nam, nữ có vị trí, vai trò ngang nhau, được tạo điều kiện
và cơ hội phát huy năng lực của mình cho sự phát triển của cộng đồng, của gia
đình và thụ hưởng như nhau về thành quả của sự phát triển đó”.
Từ những phân tích trên, có thể hiểu: Bình đẳng giới là sự đối xử như nhau
giữa nam và nữ trên mọi phương diện, không phân biệt, hạn chế, loại trừ quyền

của bất cứ nam hay nữ; phụ nữ và nam giới có quyền và nghĩa vụ như nhau, có cơ
hội như nhau để phát triển đầy đủ tiềm năng của mình, sử dụng nó cho sự phát
triển của xã hội và được hưởng lợi từ kết quả của sự phát triển đó.
Bình đẳng giới là một trong những nội dung của bình đẳng xã hội. Tuy
nhiên, BĐG không phải là sự hoán đổi vai trò của nam và nữ từ thái cực này
sang thái cực khác và cũng không phải là sự tuyệt đối hóa bằng con số 50/50 mà
sự khác biệt về giới tính trong các vai trò sản xuất, vai trò chính trị, sự chia sẻ
trong công việc gia đình, chăm sóc con cái…để tạo cơ hội cho phụ nữ và nam
giới phát triển toàn diện. Vì vậy, chúng ta cần hiểu đúng về bình đẳng giới:
Thứ nhất, không nhầm lẫn BĐG với quan niệm xã hội về truyền thống
thuần phong mĩ tục (không phải hủ tục). Những nét dịu dàng, cư xử tế nhị,
biết chia sẻ cảm thông, yêu thương chăm sóc gia đình…vẫn là phần vô cùng
quý báu của người phụ nữ Việt Nam. Bình đẳng giới không có nghĩa là triệt
tiêu nó.
Thứ hai, BĐG không chỉ đơn thuần ngang nhau về số lượng, là sự thăng
tiến ngang nhau trong công việc mà điều quan trọng nhất là tạo điều kiện cho
cả hai giới có cơ hội và sự phát triển và hưởng thụ như nhau để đi đến thực
hiện mục tiêu lớn nhất là mang lại hạnh phúc cho mọi cá nhân, gia dình và
cộng đồng. Vì vậy phải có sự quan tâm, cảm thông, chia sẻ, giúp đỡ lẫn nhau
của cả hai giới trong gia đình và ngoài xã hội.
Thứ ba, BĐG không có nghĩa là chỉ đấu tranh đòi quyền lợi của phụ nữ
mà đấu tranh cho sự bình đẳng của cả hai giới. Song, thời đại ngày nay nhìn
chung sự bất bình đẳng đối với phụ nữ là đa số cho nên người ta nói nhiều đến

22


việc đòi quyền bình đẳng cho phụ nữ.
Như vậy, BĐG ở đây được hiểu là bình đẳng về quyền cơ bản và về cơ hội
phát triển cho cả nam giới, nữ giới. Bình đẳng giới ở đây có hai nghĩa: một

là, bình đẳng về nguyên tắc (mục tiêu bình đẳng); hai là, bình đẳng toàn
diện (lý tưởng bình đẳng). Bình đẳng giới là mục tiêu lâu dài, đồng thời là
mục tiêu quan trọng của những nỗ lực phát triển hệ thống xã hội tổng thể...
Bình đẳng giới nhấn mạnh giá trị, vị trí của những nguyên tắc dân chủ và
các quyền cơ bản của con người, cho phụ nữ và nam giới, hướng tới ấm no,
tiến bộ, hạnh phúc.
Quan niệm về bình đẳng giới của đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị
cấp huyện
Hệ thống chính trị ở Việt Nam là một chỉnh thể thống nhất, được tổ chức
và hoạt động trên nền tảng là chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh,
do Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Bao gồm 3 khối là khối các cơ quan
của Đảng, khối các cơ quan Nhà nước, khối các tổ chức chính trị-xã hội và
phân thành 4 cấp: Trung ương, tỉnh/thành phố, huyện/thị trấn, xã/phường.
Quan niệm về đội ngũ cán bộ
Theo Từ điển Tiếng Việt (NXB Đà Nẵng, 2003) thì được hiểu là một tập
hợp số đông người cùng chức năng hoặc nghề nghiệp hợp thành một lực lượng
hoạt động trong một tổ chức [52, tr. 339].
Theo Luật Cán bộ, công chức được Quốc hội ban hành tháng 11/2008, có
hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2010 đã quy định: Cán bộ công dân Việt Nam,
được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ, chức danh theo nhiệm kì trong
cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội, ở
trung ương, ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, ở huyện, quận, thị xã, thành
phố thuộc tỉnh, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước.
Đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị là những cán bộ có chức vụ nhất
định trong các cơ quan Đảng, Nhà nước, các đoàn thể, họ vừa có hoạt động

23


lãnh đạo, vừa có hoạt động quản lý trong hệ thống chính trị và được gọi

chung là các cán bộ lãnh đạo.
Quan niệm về hệ thống chính trị cấp huyện:
Cấp huyện và hệ thống chính trị cấp huyện là cấp trên cơ sở thuộc hệ thống
phân cấp quản lý nhà nước gồm bốn cấp như hiện nay. Trong cả nước hiện nay
có 659 đơn vị hành chính cấp huyện (gồm 534 huyện, 42 quận, 61 thị xã và 22
thành phố trực thuộc tỉnh), do vậy có thể thấy huyện là đơn vị chiếm đa số trong
tổng số đơn vị cùng cấp ở nước ta.
Nói tới hệ thống chính trị cấp huyện - quận - thị xã, thành phố (thuộc tỉnh),
trong đó huyện chiếm tới gần 82% trong tổng số các đơn vị hành chính cấp
huyện, qua đó có thể nhận thấy cấp huyện ở nước ta chủ yếu là ở nông thôn, hệ
thống chính trị địa phương ở nước ta chủ yếu là hệ thống chính trị cấp huyện.
Quan niệm về bình đẳng giới của đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị
cấp huyện:
Từ những phân tích trên, có thể hiểu: Bình đẳng giới của đội ngũ cán bộ
trong hệ thống chính trị cấp huyện là việc nam, nữ có vị trí, vai trò ngang
nhau, được tạo điều kiện và cơ hội phát huy năng lực của mình để hoàn
thành chức trách nhiệm vụ trong hệ thống chính trị cấp huyện.
Xã hội ngay càng tiến bộ và hiện đại, sự bình quyền trên tất cả các lĩnh vực
của đời sống xã hội được thể hiện ngày càng rõ nết hơn, đặc biệt là trên lĩnh vực
chính trị và trong hệ thống chính trị.
Thực chất BĐG của đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị cấp huyện
chính là cán bộ nữ giới và nam giới cùng có điều kiện bình đẳng để phát huy
hết khả năng và thực hiện các mong muốn của mình; có cơ hội bình đẳng để
tham gia, đóng góp và thụ hưởng từ các nguồn lực của xã hội và quá trình phát
triển; được hưởng tự do và chất lượng cuộc sống bình đẳng; được hưởng thành
quả bình đẳng trên cơ sở những đong góp của bản thân cho xã hội.
Bình đẳng giới của đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị cấp huyện là
cán bộ nam hay nữ có số lượng tham gia như nhau trong cơ cấu của hệ thống

24



chính trị cấp huyện; họ có quyền được tham gia ứng cử và đề cử vào các chức
vụ nhất định trong hệ thống chính trị và đều ngang nhau về các vị thế xã hội.
BĐG của đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị cấp huyện còn là việc nam
giới và nữ giới được tạo những điều kiện ngang nhau để phát huy đầy đủ các
tiềm năng của bản thân và có cơ hội để tham gia đóng góp và hưởng lợi như
nhau từ các hoạt động phát triển của cộng đồng trên mọi mặt kinh tế, chính trị,
văn hoá và xã hội.
1.1.2. Quan niệm về bình đẳng giới của đội ngũ cán bộ trong hệ thống
chính trị cấp huyện ở Thành phố Hà Nội
Một số nét cơ bản về đặc điểm địa lí, kinh tế - xã hội, văn hoá Thành
phố Hà Nội và các huyện ngoại thành có ảnh hưởng đến bình đẳng giới của
đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị cấp huyện.
Hà Nội nằm ở trung tâm đồng bằng Bắc bộ, là Thủ đô nước Cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam là trung tâm kinh tế, chính trị của cả nước. Diện
tích: 3.324,5 km², dân số: 7.216000 người (2015). Bao gồm 12 quận và 17
huyện. Hà Nội có truyền thống văn hóa lâu đời, những đặc điểm này có ảnh
hưởng sâu sắc đến sự phát triển của thủ đô và cả nước.
Ngoài 12 quận nội thành, Hà Nội còn có 17 huyện: Ðông Anh, Sóc Sơn,
Thanh Trì, Gia Lâm (Hà Nội cũ); Ba Vì, Chương Mỹ, Đan Phượng, Hoài Đức,
Mỹ Đức, Phú Xuyên, Phúc Thọ, Quốc Oai, Thạch Thất, Thanh Oai, Thường Tín,
Ứng Hòa (Hà Tây cũ) và Mê Linh (từ Vĩnh Phúc).
Các huyện ở Thành phố Hà Nội là nơi có diện tích rộng, dân số đông,
nhưng mật độ dân cư thấp hơn ở nội thành. Nơi đây cũng tập trung nhiều khu
công nghiệp lớn như Sài Đồng, Đông Anh, khu công nghệ cao Hòa Lạc...đóng
góp lớn cho phát triển kinh tế của Thủ đô. Các huyện ngoại thành cũng là nơi
có nhiều di tích lịch sử, văn hóa nổi tiếng. Tuy nhiên các huyện ở miền núi
còn nhiều khó khăn về kinh tế, trình độ phát triển, hạ tầng, so với các huyện
khác. Nhân dân các huyện ở Thành phố Hà Nội sống quần tụ thành từng làng,

với nhiều mối quan hệ đan xen như quan hệ huyết thống, quan hệ nghề nghiệp,

25


×