Tải bản đầy đủ (.pdf) (231 trang)

SachMoi.Net-nghe-thuat-chon-lua-sheena-iyengar

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.33 MB, 231 trang )



NGHỆ THUẬT CHỌN LỰA
- Sheena Lyengar -

Ebook miễn phí tại : www.SachMoi.net


Tặng bố, người đã bảo con rằng mọi việc đều có thể
Tặng mẹ, người đã luôn bên con trên mọi nẻo đường đời


Quá khứ là khúc dạo đầu
Mọi sự đều có nguồn cơn
- Joseph Campbell

Tôi sinh ra ở Toronto. Mẹ tôi sinh non một tháng giữa lúc cơn bão bao phủ thành phố
dưới tuyết lạnh và một bầu không khí câm lặng. Sự đột ngột và điều kiện thời tiết nhập
nhoạng vào lúc tôi ra đời là những điềm gở dù rằng khi ấy chẳng ai để ý đến chúng. Mẹ tôi
vừa mới di cư từ Ấn Độ sang, bà là người thuộc về cả hai thế giới và bà đã truyền sang tôi
tính cách của một người thuộc nhiều nền văn hóa [1] . Bố tôi đang trên đường sang
Canada, nhưng ông không đến kịp; việc ông vắng mặt lúc tôi ra đời là dấu hiệu của sự vắng
mặt lâu hơn sau này. Ngẫm lại, tôi nhận ra mọi nẻo đời mình đã được định sẵn ngay thời
điểm tôi chào đời. Dù là những vì tinh tú trên trời hay chỉ là hòn đá cuội bên đường, dù do
bàn tay của Chúa trời hay bởi thế lực vô hình, thì số mệnh đã được định đoạt và mọi
chuyện sau này của tôi chỉ để xác nhận điều này mà thôi.
Đó là một câu chuyện. Còn đây là câu chuyện khác.
Bạn chẳng biết được đâu. Đó là cuộc đời kiểu đồ chơi “chú hề trong hộp” (jack-in-thebox): Bạn thận trọng mở nó, từng hộp một, ấy thế mà mọi thứ vẫn bung xổ ra. Tôi bước vào
thế giới này như thế - thật đột ngột - sớm một tháng so với dự tính. Bố tôi thậm chí không
kịp có mặt, ông vẫn còn ở Ấn Độ, nơi mẹ tôi vẫn hằng nghĩ rằng bà cũng ở đó. Ấy thế mà
không hiểu sao rốt cuộc bà ẵm tôi trên tay ở Toronto, và bên ngoài cửa sổ, bà có thể nhìn


thấy tuyết đang bị cuốn đi. Giống những bông tuyết ấy, chúng tôi trôi dạt đến nhiều nơi
khác nữa: Flushing, Queens rồi đến Elmwood Park, bang New Jersey. Tôi lớn lên trong
cộng đồng dân di cư người Sikh, những người cũng giống như bố mẹ tôi, đã rời hẳn Ấn Độ
nhưng vẫn mang nó theo mình. Và thế là tôi được nuôi nấng trên một đất nước trong lòng
đất nước khác, bởi vì bố mẹ tôi luôn cố gắng lập lại cuộc sống họ vẫn hằng quen thuộc.
Cứ mỗi tuần ba ngày, bố mẹ dẫn tôi đến gurudwara , một đền thờ, tại đó tôi ngồi ở phía
bên phải cùng những người đàn bà, trong khi đám đàn ông túm tụm mé bên trái. Theo tín
điều của đạo Sikh, tôi để tóc dài và không được cắt tóc, tượng trưng cho sự sáng tạo hoàn
hảo của Chúa trời. Ở cổ tay phải tôi đeo kara , một loại vòng tay bằng thép, tượng trưng cho
sự vững tin và ngoan đạo và đó cũng chính là lời răn đe rằng bất kể tôi làm gì cũng đều
diễn ra dưới ánh mắt trông chừng của Chúa trời. Và trong mọi lúc, kể cả khi tắm, tôi phải
mặc kachchha , một loại đồ lót gần giống như quần lót boxers, biểu hiện của sự kiềm chế
dục vọng. Đây chỉ là một trong vô số phép tắc mà tôi phải theo, mọi người theo đạo Sikh
đều thế, và những gì mà đạo Sikh không ra lệnh thì do bố mẹ tôi quyết định. Điều này có
vẻ như tốt cho bản thân tôi, nhưng cuộc sống luôn có cách chọc thủng các kế hoạch của bạn
hay các kế hoạch người khác vạch ra cho bạn.


Đến khi chập chững, tôi luôn va vào mọi thứ, và thoạt đầu bố mẹ cứ nghĩ tôi chỉ là một
con bé hết sức vụng về. Nhưng một chiếc đồng hồ tính tiền đỗ xe hẳn phải đủ lớn để né
tránh chứ? Và tại sao tôi lại cần người khác nhắc nhở thường xuyên phải cẩn thận mỗi khi
đi đứng? Đến khi rõ ra tôi không phải là một con bé vụng về thông thường nữa, tôi được
đưa đến một chuyên gia thị lực tại bệnh viện Các tín đồ Columbia. Ông ta nhanh chóng
giải đáp điều bí ẩn: tôi bị mắc dạng hiếm gặp của chứng viêm võng mạc sắc tố (retinitis
pigmentosa), một chứng bệnh di truyền về thoái hóa võng mạc, và thị lực của tôi chỉ là
20/400. Trước khi vào trung học, tôi đã mù hẳn, chỉ còn nhận biết là có ánh sáng mà thôi.
Tôi cho rằng điều bất ngờ xảy ra hôm nay giúp ta sẵn sàng cho những bất ngờ sắp tới.
Đương đầu với mù lòa hẳn đã giúp tôi kiên cường hơn. (Hay tôi có thể đương đầu tốt do
bẩm sinh tôi đã kiên cường?) Thế nhưng, dù có chuẩn bị kỹ đến đâu, chúng ta vẫn có thể
phải hứng chịu nỗi đau quặn lòng. Bố mất năm tôi 13 tuổi. Sáng đó, ông thả mẹ tôi xuống

chỗ làm ở Harlem và hứa sẽ đi gặp bác sĩ để khám cái chân đau và những vấn đề hô hấp mà
ông đang mắc phải. Tuy nhiên, tại phòng khám bệnh, do nhầm lịch hẹn nên chẳng ai đến
khám cho ông khi đó. Bực bội vì chuyện này - và sẵn đang bị stress từ những chuyện khác
- ông hét mắng, lao ra khỏi phòng khám và nện chân thình thịch xuống vỉa hè cho đến khi
ông gục xuống trước một quán bar. Nhân viên pha chế của quán đã kéo ông vào bên trong
và gọi xe cứu thương. Cuối cùng thì bố tôi cũng được đưa đến bệnh viện, nhưng ông không
sống nổi vì lên cơn đau tim nhiều lần trên đường đến đó.
Chuyện này không có ý nói rằng cuộc đời chúng ta chỉ được định hướng bởi những sự
kiện ngẫu nhiên, hú họa và chẳng mấy dễ chịu, nhưng có vẻ như, bất chấp kết quả ra sao,
“chiếc xe cuộc đời” vẫn tiến vào vùng đất phần lớn chưa có trên bản đồ. Bạn có thể điều
khiển chiếc xe đó được đến đâu khi mà tầm nhìn chỉ có chừng ấy và thời tiết lại thay đổi
còn nhanh hơn việc bạn có thể kịp thốt lên mấy tiếng “Bất ngờ quá!”?
........................................
Hượm đã. Tôi vẫn còn một câu chuyện khác để kể cho bạn. Và mặc dù đây là câu
chuyện về tôi, nhưng một lần nữa tôi ngờ rằng lần này bạn cũng sẽ thấy chính mình trong
đó.
Năm 1971, bố mẹ tôi di cư từ Ấn Độ sang Mỹ theo ngả Canada. Như nhiều người đi
trước, khi đặt chân lên vùng đất mới và cuộc đời mới này, họ đi tìm một “giấc mơ Mỹ”. Họ
sớm phát hiện ra rằng việc theo đuổi giấc mơ đó dẫn đến nhiều thách thức gian khổ, nhưng
họ vẫn bền chí. Tôi được sinh ra trong giấc mơ đó, và tôi cho rằng mình hiểu rõ nó hơn bố
mẹ vì tôi thông thạo văn hóa Mỹ hơn. Cụ thể tôi nhận thức được rằng thứ tuyệt đẹp tỏa
sáng ở trung tâm của giấc mơ này chính là sự lựa chọn - sáng đến nỗi bạn vẫn có thể thấy
được nó ngay cả khi bạn, cũng giống như tôi, có mù lòa đi nữa.
Bố mẹ tôi đã chọn đến đất nước này, nhưng họ cũng đã chọn việc giữ lại càng nhiều
càng tốt những điều liên quan đến đất nước Ấn Độ. Họ sống cùng những người Sikh khác,
tuân theo giáo lý của đạo và dạy cho tôi ý nghĩa của sự phục tùng. Ăn gì, mặc gì, học gì và
sau này là làm việc ở đâu, kếhĩ rằng mình thậm chí
còn có thể thích hơn nữa, trong Simonson, I., “ The effect of purchase quantity and
timing on variety-seeking behavior ” ( “Ảnh hưởng của số lượng hàng mua và thời điểm
chọn mua lên hành vi tìm kiếm sự đa dạng” ), Tạp chí Nghiên cứu Tiếp thị, số 27 (1990):

150-162. Cuộc nghiên cứu này phát hiện ra rằng khi người ta chọn ăn nhẹ trên cơ sở ngày
này qua ngày khác thì họ thường chọn món sở trường của họ mỗi ngày, nhưng khi được
yêu cầu chọn trước cho vài ngày thì họ lại kèm thêm những món mà họ ít thích hơn để có
sự đa dạng, mà không nhận ra rằng bất kỳ sự thỏa mãn nào cũng đã có đủ thời gian để bị
tiêu mất trong khoản thời gian giữa các bữa ăn nhẹ.
Để có cái nhìn sâu hơn về mối liên kết giữa sự lựa chọn ngày càng tăng và niềm tiếc
nuối, bao gồm cả mối quan hệ của nó với việc tối đa hóa và làm thỏa mãn như được mô tả
trong ghi chú của Simon ở trên, cũng như nhiều thách thức khác mà người lựa chọn hiện
đại phải đối diện, tôi hết sức khuyến khích bạn nên đọc tác phẩm Sự Nghịch lý của Lựa
chọn ( The Paradox of Choice ) của Barry Schwartz (Ecco, 2003). Quan sát của De
Tocqueville nằm ở trang 536 trong Cương lĩnh Đảng Dân chủ của Mỹ.
Những cạm bẫy của cuộc cải cách lương hưu của Thụy Điển được mô tả trong Cronqvist
và Thaler (2004). Ảnh hưởng của việc đăng ký tự động lên sự tham gia vào chương trình
nghỉ hưu có thể tìm thấy ở Choi và các đồng nghiệp (2006), và những kết quả ấn tượng
tương tự như thế đối với tổ chức tài trợ có thể tìm thấy ở Johnson, E., và Goldstein, D., “Do
defaults save lives?” ( “Liệu những mặc định có thể cứu cánh cho cuộc sống?” ), Tạp chí
Khoa học, số 302 (2003): 1338-1339.
Nghiên cứu của tôi về tập hợp các tạp chí được mô tả trong Mogilner và các đồng nghiệp
(2008), và nghiên cứu về người mua Audi lấy từ “ Order in Product Customization


Decisions: Evidence from Field Experiments ” ( “Đặt hàng trong Những Quyết định Sản
xuất theo yêu cầu khách hàng: Bằng chứng từ Những Thí nghiệm tại chỗ” ). Cuộc phỏng
vấn với Wynton Marsalis diễn ra vào 24/7/2008.

CHƯƠNG VII. VÀ RỒI CHẲNG CÒN GÌ
Thủ tục chọn cái bánh hay cái chết là trong bài thơ trào phúng “Những Nguyên tắc cơ
bản của Công giáo Anh” (“Church of England Fundamentals”) từ Jordan (1999). Nguyên
bản của các trích dẫn của Hippocrates lấy từ tác phẩm Decorum của ông, và thông tin về lý
thuyết thể dịch của ông và sự tồn tại bền bỉ đầy ngạc nhiên của thuyết này qua thời gian là

từ Garrison (1966). Với những ai quan tâm tìm hiểu thêm về tác dụng của hiệu ứng giả
dược (placebo), lịch sử của nó và sự phát triển lý thú gần đây thì có thể tìm ở Silberman, S.,
“ Placebos are getting more effective. Drugmakers are desperate to know why ” ( “Hiệu
ứng placebo ngày càng có hiệu quả hơn. Dược sĩ chế thuốc tuyệt vọng vì không rõ lý do”
), Tạp chí Wired Magazine (24/8/2009), có thể truy cập tại trang
/ff_placebo_effect?
currentPage=all.
Phần lớn lịch sử y học khi nó liên quan đến lựa chọn, bao gồm quan điểm của
Hippocrates về mối quan hệ bệnh nhân-bác sĩ tổng quát hơn, những hướng dẫn của AMA,
và các ca của Tiến sĩ Pratt và vị bác sĩ không được nêu tên người Pháp, được lấy từ Katz
(1984). Phần trăm số lượng bác sĩ, những người sẽ thông báo cho bệnh nhân về chẩn đoán
ung thư, lấy từ Schneider (1998).
Nghiên cứu của tôi về những tác động của lựa chọn lên sự đối phó của các bậc cha mẹ
thật sự và cha mẹ giả định được mô tả trong Botti và các đồng nghiệp (2009). Để có cái
nhìn bao quát hơn về tập hợp các dữ liệu tương tự, xem Orfali, K., và Gordon, E., “
Autonomy gone awry: A cross-cultural study of parents’ experiences in neonatal
intensive care units ”, Theoretical Medicine and Bioethics, số 25 (4) (2004): 329-365.
Trích dẫn đầu tiên từ Hyde có thể tìm thấy ở trang 78 của tác phẩm The Gift (Tặng vật) , và
phần trích nằm ở trang 80.
Dự báo về bệnh Alzheimer từ Sloane và các đồng nghiệp (2002); con số về ung thư từ “
Probability of Developing Invasive Cancers Over Selected Age Intervals, by Sex, US,
2003-2005 ”, có ở trang
và con số về các
ca bệnh Parkinson từ trang “About Parkinson’s Disease” (“Về bệnh Parkinson”) của Quỹ
Parkinson Quốc gia, có ở trang 225. Với ví dụ
đời thực về tình trạng nan giải mà những căn bệnh này gây ra, xem White, J., “ When do
families take away the keys? Spokane Woman with Alzheimer’s took wrong turn and
died ” ( “Khi nào thì gia đình tước đi chiếc chìa khóa? Phụ nữ ở Spokane với bước ngoặt
sai lầm của bệnh Alzheimer và qua đời” ), Tạp chí Spokesman-Review, 3/10/1999. Nghiên
cứu về những biến chứng của phẫu thuật hậu môn giả được mô tả ở Amsterlaw và các đồng



nghiệp (2006), và nghiên cứu của tôi với yogurt nằm trong Botti và Iyengar (2004).
Cái nút được điều chỉnh lấy từ hình ảnh có thể truy cập miễn phí tại trang
và mô tả của Brehm về việc tại
sao bạn sẽ muốn nhấn nó lấy từ Brehm (1966). Trường hợp chất tẩy bị cấm được mô tả
trong Mazis và các đồng nghiệp (1973). Phân loại phê chuẩn HMO được lấy từ Blendon và
Benson (2001), và nghiên cứu về niềm tin của con người đối với các chương trình chăm sóc
y tế được mô tả trong Rechovsky và các đồng nghiệp (2002).
Nghiên cứu rô-bô Robbie được mô tả trong Zanna và các đồng nghiệp (1973). Nghiên
cứu giá cả tác động ra sao đến việc tiêu thụ chất cồn và thuốc lá có thể tìm thấy tương ứng ở
Chaloupka và các đồng nghiệp (2002) và Becker và các đồng nghiệp (1994). Các loại thuế
tương tự được đề nghị đối với thực phẩm không tốt cho sức khỏe (đôi khi được biết đến như
là “Thuế Twinkie”), ví dụ như, ở Jacobson, M. F., và Brownell, K. D., “Small taxes on soft
drinks and snack foods to promote health” ( “Những loại thuế nhỏ đối với nước giải khát
và bánh snack để tăng cường sức khỏe” ), Báo Sức khỏe Cộng đồng của Mỹ, số 90 (6)
(2000): 854-857. Sự việc thuế cao hơn có thể khiến những người hút thuốc vui vẻ hơn lấy
từ Gruber và Mullainathan (2005), trong khi những vấn đề của Canada với việc đánh thuế
quá mức được mô tả trong Gunby (1994). Một năm sau, khi Canada trở nên có phần tai
tiếng với vai trò là điểm xuất phát chứ không phải là điểm đến của buôn lậu, thì có một
chuyện lý thú ngoài lề, về một mặt hàng buôn lậu khác: bồn cầu xả nước mạnh. Sau điều
luật bảo tồn nguồn nước năm 1995 giới hạn những bồn cầu của Mỹ chỉ được phép xả ở mức
1.6 gallon nước cho mỗi lần giật, thì những người cần bồn cầu mạnh hơn buộc phải chuyển
lậu bồn cầu qua ngõ biên giới Canada. Những hoạt động này được thực hiện chủ yếu bởi
những công dân riêng rẽ hơn là các băng nhóm có tổ chức, có lẽ bởi vì không có tên tội
phạm nào muốn có biệt danh Ông trùm bồn cầu.
Mệnh lệnh của Odysseus nằm ở trang 276 trong bản dịch Cuộc phiêu lưu của Odysseus
của Robert Fagles. Những ai muốn cột mình vào cột buồm khi đi tham quan các sòng bạc
có thể làm tương tự tại trang , và những ai muốn mua SnūzNLūz
có thể tìm ở Câu chuyện đằng sau

stickK.com trích từ trang “About”, Save More
Tomorrow ( Tiết kiệm hơn vào Ngày mai ) được mô tả trong Thaler và Benartzi (2004),
và thông tin thêm về việc giúp người ta đưa ra những quyết định tốt bất chấp bản thân họ
có thể tìm trong Thaler, R., và Sunstein, C., Nudge: Improving Decisions About Health,
Wealth, and Happiness ( Cú huých: Những Quyết định có Tính Cải thiện về Sức khỏe,
Của cải và Hạnh phúc ), Nhà xuất bản Đại học Yale (2008). Trích dẫn của Hamlet là ở Hồi
3, Cảnh 1.

LỜI KẾT THÚC
Trích dẫn mở đầu lấy từ “Little Gidding” và có thể tìm trong Eliot (1943). Tôi gặp gỡ S.
K. Jain tại khu nhà của ông ở Bangalore vào ngày 5/1/2009, lúc 11h trưa, vào ngày, giờ mà


theo tôi biết là chẳng có ý nghĩa gì về mặt chiêm tinh. Để biết thêm thông tin về hoạt động
của ông, hay để có một tiên đoán cho chính bản thân bạn, bạn có thể truy cập trang web
của ông . Thông tin về cái chết của Aiken Hodge lấy từ Brown
(2009) và bài thơ của cha bà nằm ở Aiken (1953).
........................................
Trừ phi có những ghi chú khác, tất cả các nguồn tin từ Internet nằm ở đây và ở phần tài
liệu tham khảo đều dựa trên những nguồn được phép sử dụng tại các địa chỉ đã nêu kể từ
ngày 15/10/2009. Nếu nội dung này có thay đổi hay trở nên không thể truy cập kể từ lúc
này, thì những phiên bản trước đó có thể truy cập được qua hệ thống Internet Archive tại
/index.php.

[40] Multirater feedback: thông tin phản hồi từ cấp trên, người cộng tác, đồng nghiệp
về cách làm việc của một nhân viên.


Về tác giả
Sheena Iyengar là giáo sư của Trường Kinh doanh Columbia, thuộc Đại học Columbia,

đồng thời được bổ nhiệm vào Khoa Tâm lý học. Cô được xem là một trong những chuyên
gia nghiên cứu về lựa chọn hàng đầu thế giới, và đã nhận được rất nhiều bằng danh dự, nổi
tiếng nhất là Giải thưởng Tổng thống dành cho các Khoa học gia và Kỹ sư khởi đầu sự
nghiệp (Presidental Early Career Award) vào năm 2002. Công trình nghiên cứu của cô
thường xuyên được khen ngợi trên các tờ báo nổi tiếng phát hành với số lượng lớn, bao
gồm Thời báo New York, Tạp chí Phố Wall, tạp chí Fortune, và tạp chí Times, đài BBC, và
Đài Phát thanh Quốc gia, cũng như trong các quyển sách bán chạy như Blink (Trong chớp
mắt) của Malcolm Gladwell. Sheena hiện đang sống tại thành phố New York cùng với
chồng, Garud, và con trai của họ, Ishaan.



×