Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

Biến đổi Protein có ứng dụng trong công nghệ thực phẩm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (568.91 KB, 18 trang )

Biên đôi cua protein co ưng dung trong công nghê thưc phâm

MỤC LỤC

LỜI CẢM ƠN

Trước hết chúng em xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất đến Ban giám
hiệu và toàn thể Quý thầy cô Trường Đại học Công nghiệp thực phẩm TP.HCM, Quý
thầy cô khoa Công Nghệ Thực Phẩm đã cùng với tri thức và tâm huyết của mình để
truyền đạt vốn kiến thức quý báu cho chúng em trong suốt thời gian học tập tại trường.
Và đặc biệt, trong học kỳ này, Khoa đã tổ chức cho chúng em được tiếp cận với môn
học mà theo em là rất hữu ích đối với sinh viên chuyên ngành Thực Phẩm. Đó là môn
học “Hoá Học Thực Phẩm”.
Em xin chân thành cảm ơn GV Lê Thị Thuý Hằng đã tận tâm hướng dẫn
chúng em qua từng buổi học trên lớp cũng như những buổi nói chuyện, thảo luận về
môn học này.

1


Biên đôi cua protein co ưng dung trong công nghê thưc phâm
Bước đầu đi vào thực tế, tìm hiểu về đề tài tiểu luận, kiến thức của chúng
em còn hạn chế và còn nhiều bỡ ngỡ. Do vậy, không tránh khỏi những thiếu sót là điều
chắc chắn, chúng em rất mong nhận được những ý kiến đóng góp quý báu của Cô và
các bạn học cùng lớp để kiến thức của chúng em được hoàn thiện hơn.
Chúng em xin chân thành cảm ơn!

LỜI MỞ ĐẦU

Hoá học thực phẩm là môn học trang bị các kiến thức cơ sở về thành
phần hoá học, cấu tạo, tính chất và khả năng tương tác giữa các chất cấu thành nên


thực phẩm. Đó cũng chính là cơ sở đầu tiên để xây dựng các quy trình công nghệ chế
biến nhiều loại nguyên liệu nông sản và sản xuất các mặt hàng thực phẩm.
Cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, ngày càng nhiều các
nghiên cứu về hoá học thực phẩm đạt được các kết quả khả quan trong bảo quản và
chế biến thực phẩm. Từ đó hoá học thực phẩm đã góp phần thúc đẩy sự phát triển của
công nghệ thực phẩm.
Trong bài tiểu luận này chúng tôi đưa ra những hiểu biết, thông tin về Sự
biến đổi của protein có ứng dụng trong công nghệ thực phẩm, đặc biệt là khả năng tạo
bọt và khả năng cố định mùi. Giúp cô và các bạn hiểu rõ hơn về đề tài này.
2


Biên đôi cua protein co ưng dung trong công nghê thưc phâm
Bài tiểu luận này gồm 3 chương:
Chương 1: Tổng quan về protein trong nghiệp thực phẩm.
Chương 2: Khả năng tạo bọt của protein và kết cấu bọt của thực phẩm.
Chương 3: Khả năng cố định các chất thơm của protein và việc giữ mùi
cho thực phẩm

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ PROTEIN TRONG CÔNG
NGHIỆP THỰC PHẨM.
Protein là hợp chất cao phân tử do các đơn phân axit amin kết hợp với
nhau tạo nên. Protein phổ biến trong các nguyên liệu và sản phẩm thực phẩm. [2]
Protein sẵn có hoặc đưa vào sản phẩm thực phẩm chủ yếu là để tạo cho
thực phẩm có giá trị dinh dưỡng cao. Ngoài ra protein còn có vai trò cực kì quan trọng
trong công nghệ sản xuất các thực phẩm: là chất để TẠO HÌNH và TẠO KẾT CẤU
đặc trưng về lượng cũng như về chất cho nhiều loại sản phẩm thực phẩm. [2]
Do tương tác với nước và dưới tác dụng của nhiệt mà protein có thể thay
đổi tính chất, trạng thái để tạo hình, tạo dáng và tạo kết cấu cho sản phẩm thực phẩm.
Ví dụ nhờ có protein của tơ cơ ở thịt, cá mới tạo ra được cấu trúc gel cho các sản phẩm

như giò lụa, kamaboko. Công nghệ sản xuất bánh mì là dựa trên cơ sở tính chất tạo
hình, tính chất cố kết và tính chất giữ khí của hai protein đặc hữu trong bột mì là
gliadin và glutenin. Nhờ có các protein hoà tan mà malt của bọt CO 2 (một thành tố
quan trọng của chất lượng bia) trong bia mới giữ được bền.
Protein còn gián tiếp tạo ra chất lượng cho các thực phẩm: các amino
acid (từ protein phân giải ra) có khả năng tương tác với đường khi gia nhiệt để tạo ra
3


Biên đôi cua protein co ưng dung trong công nghê thưc phâm
được màu vàng nâu cũng như hương thơm đặc trưng của bánh mì gồm 70 cấu tử thơm.
Các protein còn có khả năng cố định mùi tức là khả năng giữ hương được lâu bền cho
thực phẩm. [1]

CHƯƠNG 2: KHẢ NĂNG TẠO BỌT CỦA PROTEIN VÀ KẾT
CẤU BỌT CỦA THỰC PHẨM.
1. Mấy nét chung về bọt thực phẩm.
Các bọt thực phẩm là những hệ phân tán của các bọt khí trong một pha
liên tục là lỏng hoặc bán rắn có chứa một chất hoạt động bề mặt hoà tan. Các loại bánh
phồng, một số bánh ngọt, lòng trắng trứng đánh dậy bọt, kem đá, bọt bia và ruột bánh
mì là những loại bọt thực phẩm với kết cấu rất khác nhau... [2]
Một số bọt thực phẩm là những hệ thống keo rất phức tạp. Chẳng hạn
như kem đá thường chứa một nhũ tương hoặc huyền phù của các cầu béo (chủ yếu ở
thể rắn), một huyền phù các tinh thể đá phân tán, một gel polysacarit, một dung dịch
đường và protein đậm đặc và các bọt khí. [2]

4


Biên đôi cua protein co ưng dung trong công nghê thưc phâm

Các bọt khí (bóng bọt) thường chứa khí mà áp suất lớn hơn áp suất ngoài
nhưng ép sát vào nhau nên các bóng bọt có hình đa diện. Màng lỏng bao quanh bọt rất
mỏng, chỉ dày khoảng chiều dài của ánh sáng nhìn thấy. Bề mặt liên pha khí lỏng có
thể đạt đến 1m2 cho 1ml chất lỏng. Cũng như các nhũ tương, để tạo ra được bề mặt
liên pha này đòi hỏi phải có năng lượng cơ học. Vì hệ có năng lượng dư bề mặt nên
các bóng bọt tác động lẫn nhau có thể gây những chỗ nứt vỡ cục bộ. Muốn tạo bọt bền
nghĩa là muốn cho bề mặt liên pha chống lại được hiện tượng hợp bọt, người ta phải
đưa vào hệ những chất bảo vệ gọi là những chất sinh bọt. Các chất này có tác dụng
làm giảm sức căng bề mặt liên pha và tạo nên một vật chắn bảo vệ có tính đàn hồi giữa
các bọt khí. Một số protein có khả năng tạo ra một màng mỏng bảo vệ khi được hấp
thụ vào bề mặt liên pha khí/lỏng. Trong trường hợp này, vách giữa hai bọt kề nhau
được cấu tạo từ hai màng mỏng protein ngăn cách nhau bằng một lớp chất lỏng. [2]
Kích thước các bóng bọt của một bọt thực phẩm có thể có đường kính từ
1m đến hàng centimet phụ thuộc vào sức căng bề mặt, độ nhớt của chất lỏng, sự cung
cấp thêm năng lượng v.v...
Có thể tạo ra bọt bằng cách chuyển các bọt của một khí qua một vật rắn
có lỗ vào trong một dung dịch nước của protein có nồng độ khoảng 0,01 – 2% P/V.
Các “nhũ tương khí” đầu tiên sẽ bị phá huỷ do khuynh hướng đi lên của các bọt khí và
sự tách ra của các chất lỏng rồi tiếp đến một lớp bọt thực ở trên cùng tự tách ra. Lớp
này là một thể tích lớn của pha bị phân tán () gồm các bóng bọt bị biến dạng thành
những cấu trúc đa diện do sức nén (h.1). Nếu đưa vào một lượng khí rất lớn thì chất
lỏng có thể hoàn toàn chuyển thành bọt. Có thể thu được một thể tích bọt rất lớn ngay
cả khi đi từ dung dịch protein loãng.

5


Biên đôi cua protein co ưng dung trong công nghê thưc phâm

Hình 1. Sơ đồ biểu diễn sự hình thành bọt:

A – thể tích chất lỏng; B – thể tích khí tham gia; C – tổng thể tích của hệ phân tán;
D – thể tích của chất lỏng trong bọt (D = E – B); E – thể tích của bọt, thể tích bọt được
định nghĩa = 100. E/A. Khả năng giãn nở được tính 100. (B/A) = 100. Năng suất bột
được tính 100 (B/D). Thể tích phần khí trong bọt được tính 100. (B/E)
Chẳng hạn, độ giãn nở 10 (tức 1000% nếu người ta biểu diễn thể tích bọt
trên thể tích chất lỏng trong bọt thành phần phần trăm); hoặc trong trường hợp khác có
thể thu được độ giãn nở 100. Các giá trị tương ứng của sẽ là 0,9 và 0,99. Có nghĩa là
mật độ của bọt của cả hai trường hợp sẽ khác nhau.
Cũng có thể tạo ra bằng cách khuấy mạnh một dung dịch nước của
protein khi có mặt một lượng khí rất nhiều. Sự khuấy mạnh trong nhiều trường hợp là
phương pháp thích hợp để tạo bọt cho các sản phẩm thực phẩm. So với phương pháp
sục bọt thì phương pháp khuấy mạnh sử dụng lực cơ học (nhất là lực cắt) mạnh hơn
nên sự phân tán bọt đồng đều hơn. Các lực cơ học tác động đồng thời đến sự hợp giọt
và sự tạo ra bóng bọt và cũng ngăn cản sự hấp thụ của protein vào bề mặt liên pha do
đó nhu cầu protein lớn hơn (nồng độ từ 1 đến 40% P/V). Ở phương pháp này thể tích
không khí trộn vào là tối đa do đó sự tăng thể tích là từ 300 đến 2000%. [2]
Phương pháp thứ ba để tạo bọt là hạ thấp bất thình lình áp suất của một
dung dịch đã được nén thích

hợp. Chẳng hạn như

khi làm kem đánh răng dậy bọt,

khí được cấp từ

bom son khí.
Các

bọt


thường

không bền vì chúng

có bề mặt liên pha rất lớn. Thông

thường có ba hiện

tượng sau làm cho bọt không bền:
a) Sự rút chất lỏng (hay sự chảy chất lỏng) của vách (màng lỏng) do
trọng lực, do hiệu số áp suất và (hoặc) do sự bốc hơi. Áp suất bên
6


Biên đôi cua protein co ưng dung trong công nghê thưc phâm
trong P của bọt được tính theo phương trình của áp suất mao quản
của Laplace: P = Pkq +
Trong đó – áp suất khí quyển; – sức căng bề mặt liên pha, N.; R – bán
kính độ cong của bọt, m.
Trong hệ thống bọt có mật độ thấp, các bọt có xu hướng ép sát vào nhau
do đó làm tăng sự rút chất lỏng của các vách. Sức căng bề mặt liên pha yếu và đường
kính của bóng bọt lớn sẽ làm giảm sự rút chất lỏng. Thực ra sự rút chất lỏng cũng đã
xảy ra trong khi hình thành bọt và khi đến một mức độ giãn nở cao ( cao), sự rút lại
càng dễ dàng. Sau khi hình thành bọt, việc tiếp tục rút nước sẽ còn làm tăng giá trị và
sẽ làm giảm độ dày và độ bền của các vách lỏng.

Hiện tượng rút chất lỏng sẽ bị giảm khi pha lỏng khá nhớt (bằng cách
thêm đường) và khi độ nhớt của màng mỏng protein được hấp thụ là rất cao. Độ nhớt
này sẽ phụ thuộc vào cường độ các tương tác protein – protein và protein – nước.
a) Sự khuếch tán khí từ các bóng bọt nhỏ sang các bóng bọt lớn là do có khí hoà tan trong

pha nước.
b) Sự phá huỷ của vách lỏng ngăn cách các bóng bọt do đó xảy ra hiện tượng hợp bọt làm
tăng kích thước của các bọt rồi dẫn đến nổ vỡ bọt. Thường thì có một sự phụ thuộc lẫn
nhau giữa sự rút chất lỏng và sự phá huỷ vì sự phá huỷ sẽ làm tăng sự rút và sự rút sẽ
làm giảm độ dày và độ bền của vách lỏng. Nếu các màng mỏng protein được hấp thụ
có độ dày và đàn hồi thì sẽ chịu được sự phá huỷ.
Ba nhân tố quan trọng nhất có tác dụng làm cho bọt bền là:
7


Biên đôi cua protein co ưng dung trong công nghê thưc phâm
-

Có sức căng bề mặt liên pha yếu;
Có độ nhớt của pha lỏng cao;
Có màng mỏng protein được hấp thụ bền và đàn hồi.

I.

Các nhân tố môi trường có ảnh hưởng đến việc hình thành và ổn

định bọt
Mặc dầu, một protein có độ hoà tan cao sẽ cho năng suất tạo bọt tốt và
độ bền của bọt cao, song các tiểu phần protein không hoà tan (như các protein của tơ
cơ, các mixen và các protein khác ở điểm đẳng điện) dường như cũng có tác dụng làm
bền bọt do khả năng làm tăng độ nhớt bề mặt của chúng. [2]
Nói chung pI của protein độ giãn nở không cao lắm nhưng độ bền của
bọt lại khá tốt. Phần lớn các bọt thực phẩm được tạo ra ở những pH khác với pI của
các hợp phần protein của chúng.
Các muối cũng có thể ảnh hưởng đến độ hoà tan, độ nhớt, độ giãn mạch

và khả năng tập hợp của protein do đó mà làm
thay đổi tính chất tạo bọt, NaCl thường làm
tăng độ giãn nở và làm giảm độ bền
của bọt. Các ion cũng làm tăng độ bền

do

chúng có khả năng tạo ra các cầu nối

giữa

các nhóm cacboxyl của protein. [2]
Khi tăng nồng độ protein trong một khoảng rộng (đến 10%) người ta
thấy bọt tăng độ bền nhiều hơn là tăng thể tích. Sự “lão hoá” các dung dịch protein
trước khi tạo bọt thường rất có lợi cho độ bền của bọt, có thể là do sự gia tăng các
tương tác protein – protein nên các màng mỏng protein tạo thành sẽ dày hơn. Để tạo
được bọt vừa ý, thì thời gian và cường độ khuấy có tác dụng đến độ giãn mạch và độ
hấp thụ thích hợp của protein. Song khi khuấy mạnh quá sẽ làm giảm sự giãn nở và độ
bền của bọt. Đặc biệt với lòng trắng trứng thường rất nhạy với sự khuấy quá thừa. Nếu
thời gian khuấy lòng trắng trứng hoặc ovalbumin dài quá 6 – 8ph sẽ gây ra hiện tượng
tập hợp và đông tụ protein từng phần ở bề mặt liên pha không khí/nước. Các protein

8


Biên đôi cua protein co ưng dung trong công nghê thưc phâm
không được hoà tan này sẽ không được hấp thụ trực tiếp vào bề mặt liên pha do đó độ
nhớt của vách lỏng không đủ để tạo cho bọt một độ bền tốt.
Người ta cũng nhận thấy rằng, nếu xử lí nhiệt vừa phải trước khi hình
thành bọt sẽ cải tiến các tính chất tạo bọt của protein đậu tương (gia nhiệt 70 – C),

protein lactoserum (40 – C), lòng trắng trứng và
máu. Các xử lí nhiệt này sẽ làm tăng độ
giãn nở nhưng có thể làm giảm độ
bền. Nếu gia nhiệt cao quá sẽ làm
xấu khả năng tạo bọt của protein.
Khi đun nóng bọt sẽ làm không khí
trương nở, giảm độ nhớt, phá huỷ
các bóng bọt và chọc vỡ mạng lưới, trừ phi do khả năng tạo gel của protein đã thiết lập
được một mạng cứng đủ để làm bền bọt.
II.

Tính chất tạo bọt đặc trưng của các protein [2]
Bằng thực nghiệm người ta đã chứng tỏ rằng việc hình thành bọt và việc

ổn định bọt đòi hỏi những tính chất hơi khác nhau.
Sự hình thành bọt bao gồm sự khuếch tán các protein hoà tan đến bề mặt
liên pha không khí/nước. Tại đây chúng mới phải tự giãn mạch, tực tập trung và tự trải
ra một cách nhanh chóng để làm giảm sức căng bề mặt liên pha. Thường thì các phân
tử mềm , dễ uốn, nghèo cấu trúc bậc hai và bậc ba (chẳng hạn casein ) sẽ tác dụng một
cách có hiệu quả như là chất hoạt động bề mặt. Một sự giãn mạch thích hợp các
protein hình cầu bằng cách gia nhiệt vừa phải bằng các tác nhân biến tính (các chất
khử của các liên kết disulfua) hoặc bằng một sự proteolizơ nhẹ nhàng. Các dẫn xuất ưa
béo của các casein và của các protein khác, có khả năng tạo bọt rất tốt vì chúng định
hướng và trải ra ở bề mặt liên pha không khí/nước rất dễ dàng.
Còn để có một bọt bền thì màng mỏng protein tạo thành xung quanh mỗi
bọt khí phải dày, cố kết và đàn hồi, liên tục và không thấm khí. Dường như các protein
hình cầu có khối lượng phân tử cao và khó bị giãn mạch ở bề mặt sẽ tạo được những

9



Biên đôi cua protein co ưng dung trong công nghê thưc phâm
màng hấp thụ dày do đó làm cho bọt rất bền. Có thể để tạo ra được các màng mỏng
bền như thế thì nhiều lớp protein đã bị giãn mạch từng phần trước tiên phải tự nhiên
liên hợp lại với nhau ở bề mặt liên pha bằng các tương tác ưa béo và có thể bằng cả
liên kết hydro và liên kết tĩnh điện nữa.
Các protein, để làm bền được bọt tốt, thì phải có khả năng di chuyển từ
vùng có sức căng bề mặt liên pha yếu đến vùng có sức căng bề mặt cao, kéo theo các
phân tử nước và tái thiết lập được độ dày ban đầu của vách (hiệu ứng Maragoni). Cuối
cùng các mạch bên có cực của màng mỏng protein cũng phải cố định được nước cho
các vách để làm giảm được tổn thất của nước do hiện tượng chảy (rút nước).
Các protein có khả năng tạo bọt tốt là: lòng trắng trứng, globin và
hemoglobin, gelatin, các protein của Lactoserum, các mixen casein, casein , các
protein của lúa mì (đặc biệt là glutenin), các protein của đậu tương và một số dịch thuỷ
phân của protein.
Casein có cấu trúc ít trật tự (có đuôi mềm dễ uốn) nên làm giảm nhanh
sức căng bề mặt liên pha và làm cho bọt hình thành dễ dàng nhanh chóng.
Casein K tự giãn mạch một cách chậm chạp trong khi tạo bọt (do có cầu
đissulfua giữa các phân tử) và tự trải ra ở bề mặt liên pha kém hơn casein . Sự hình
thành bọt chậm nhưng màng mỏng protein lại dày và bền do đó bọt thu được khá bền.
Cấu trúc cầu rất có trật tự của serum albumin khá mềm nên dễ giãn mạch và dễ hấp
thụ một phần ở bề mặt liên pha của bọt. Cấu trúc dư của phần tử bị hấp thụ cũng đủ để
bọt thu được có độ bền tốt. Trong trường hợp lòng trắng trứng, do các hợp phần
protein của chúng có các tính chất hoá lý bổ sung cho nhau nên bọt tạo ra rất nhanh,
bọt nhẹ, bền và chịu được nhiệt tốt.
Tuy có nhiều điểm giống nhau giữa sự hình thành nhũ tương và hình
thành bọt nhưng lại không có một mối tương quan chặt chẽ giữa tính chất nhũ hoá và
tính chất tạo bọt. Có thể cấu trúc dư của protein cần thiết cho việc làm bền các bọt hơn
là đối với việc làm bên nhũ tương.


10


Biên đôi cua protein co ưng dung trong công nghê thưc phâm
Trong các thực phẩm có kết cấu bọt làm việc làm bền các bọt là do
protein. Chẳng hạn, ở lòng trắng trứng đánh dậy bọt , các bọt được ổn định là nhờ pha
liên tục bị đông tụ: các protein của lòng trắng trứng được hấp thụ vào bề mặt liên pha
khí/nước bị đông tụ do “đánh khuấy” hoặc do gia nhiệt sẽ tạo ra màng cứng làm cho
bọt được bền.

Hoặc như bánh mì, khi nướng các protein của gluten bị đông tụ tạo thành
màng chắc do đó bảo vệ được bọt. Còn trong kem đá là một hệ thống vừa nhũ tương
vừa bọt. Thành phần của kem đá thường có sữa, kem, đường, chất thơm (từ quả, nước
quả hoặc từ chất thơm tự nhiên: socola, cà phê, vani...) và một lượng chất làm bền
không quá 1% (có thể gelatin thực phẩm, lòng trắng trứng,thạch, pectin hoặc alginat
kiềm nghĩa là những keo háo nước). Hỗn hợp được thanh trùng trong 25 – 30ph ở
nhiệt độ 65 –C, để vài giờ ở nhiệt độ C. Khi đó chất béo đóng rắn làm cho kem có kết
cấu khô, tác nhân làm bền sẽ tạo gel với pha nước làm tăng độ nhớt của hỗn hợp do đó
sẽ ngăn cản hoặc làm giảm sự tạo ra các tinh thể đường và tinh thể đá. Trong trường
hợp này, bọt bền là do màng protein tạo gel và đông lại. Hiện tượng kem bị “vỡ” rất
nhanh khi tan chảy là do màng protein bao quanh mỗi bọt khí quá mềm nên không khí
từ các bọt thoát ra.

11


Biên đôi cua protein co ưng dung trong công nghê thưc phâm
CHƯƠNG 3: KHẢ NĂNG CỐ ĐỊNH CÁC CHẤT THƠM CỦA
PROTEIN VÀ VIỆC GIỮ MÙI CHO THỰC PHẨM
Chúng ta thường thấy một số chế phẩm protein cũng như một số thực

phẩm giàu protein tuy có giá trị dinh dưỡng và giá trị thực phẩm cao, song đôi khi vẫn
có những mùi không hấp dẫn. Thường các hợp chất aldehit, xeton rượu, phenol, axit
béo bị oxy hoá có thể tạo ra mùi khét, mùi đậu cũng như vị đắng, vị thô. Các hợp chất
này thường liên kết với protein và những hợp phần khác của thực phẩm. Chúng chỉ
được giải phóng ra mà ta có thể cảm thụ được sau khi nấu hoặc nhai nhuyễn. Một số
được liên kết vững chắc đến nỗi khi trích lý bằng hơi nóng hoặc dung môi cũng không
thể loại bỏ được.
Nếu như việc khử các chất có mùi không mong muốn ra khỏi protein
khó khăn, vì chúng được protein giữ chặt quá, thì ngược lại, người ta có thể sử dụng
mặt “tích cực” này của protein vào việc tải các chất thơm mong muốn. Chẳng hạn
mang một múi thơm của thịt đến các protein thực vật đã được kết cấu. Không những
vậy, điều rất lý tưởng là tất cả những hợp chất bay hơi của một hình thơm mong muốn
nào đó phải được liên kết vững bền trong thời gian bảo quản, có thể trong khi gia công
xử lí nhưng khi vào miệng thì được giải phóng nhanh và toàn bộ mà không bị biến đổi.
Vấn đề chỉ có thể được giải quyết bằng cách nghiên cứu cơ chế mà các hợp chất bay
hơi liên kết được với protein. [2]

12


Biên đôi cua protein co ưng dung trong công nghê thưc phâm
I.

Các tương tác giữa bay hơi và protein [2]
Mùi thơm của một thực phẩm thường do các hợp chất bay hơi có nồng

độ rất thấp nằm ở gần bề mặt. Các nồng độ này phụ thuộc vào một cân bằng phân chia
giữa khối thực phẩm và “không gian đầu” của nó. Franzen và Kinsella (1974) đã
chứng minh rằng khi thêm protein vào một hệ thống mẫu “nước – chất thơm” thì sẽ
làm giảm nồng độ các hợp chất bay hơi trong “không gian đầu”.

Việc cố định hướng thơm có thể bao gồm sự hấp thụ ở bề mặt thực phẩm
hoặc xâm nhập vào bên trong thực phẩm bằng khuếch tán. Cần phân biệt hai kiểu hấp
phụ trên chất rắn:
-

Hấp phụ lý học có tính thuận nghịch do các tương tác Van der Waals;
Hấp phụ hoá học do liên kết đồng hoá trị hoặc liên kết tĩnh điện.
Việc cố định chất thơm bằng hấp thụ ngoài các kiểu tương tác hydro và

tương tác ưa béo (kỵ nước) tham gia. Các hợp chất có cực như các rượu thì được liên
kết bằng cầu hydro còn các hợp chất bay hơi có khối lượng phân tử thấp thì tương tác
kỵ nước (ưa béo) với các gốc axit amin không cực của protein.
Trong một số trường hợp, các hợp chất bay hơi sẽ dính vào protein bằng
các liên kết đồng hoá trị và quá trình là bất thuận nghịch. Chẳng hạn gắn aldehit và
xeton vào nhóm amin hoặc gắn nhóm amin vào nhóm cacboxyl, nói chung đều là
những quá trình không thuận nghịch. Các bazơ Schiff thuận nghịch có thể được hình
thành giữa các hợp chất bay hơi chứa nhóm cacbonyl với các nhóm -amin hay -amin
của protein hoặc của axit amin. Việc gắn bất thuận nghịch sẽ dễ dàng hơn trong trường
hợp chất bay hơi có khối lượng phân tử cao. Chẳng hạn protein của đậu tương có thể
cố định bất thuận nghịch được 10% octanol và 50% 2-dodecanol khi cả hai chất có
cùng nồng độ. Kiểu cố định bất thuận nghịch như thế thường có thể làm mất mùi thơm
của các hợp chất bay hơi ban đầu.
Quá trình cố định các hợp chất bay hơi bởi protein chỉ có thể xảy ra khi
các “vùng để cố định” đều “sẵn sàng” nghĩa là khi các vùng này chưa tham gia các
tương tác protein – protein hoặc các tương tác khác. Các hợp chất bay hơi không cực
13


Biên đôi cua protein co ưng dung trong công nghê thưc phâm
sẽ xâm nhập và tương tác với tâm ưa béo (kỵ nước) của protein làm dời chỗ các tương

tác ưa béo protein – protein ở trong một phân tử hoặc ở giữa các phân tử. Do đó các
khử bền protein và có thể làm biến đổi độ hoà tan của protein.

II.

Các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình cố định chất thơm [2]
Nói chung, tất cả các yếu tố làm thay đổi hình thế của protein đều có ảnh

hưởng đến quá trình cố định các hợp chất bay

hơi. Nước

thường làm tăng sự cố định các hợp chất bay

hơi có

cực nhưng gần như không ảnh hưởng
đến sự cố định các hợp chất bay hơi
không cực. Trong protein khô sự
khuếch tán hợp chất bay hơi gần như

bị

hạn chế. Khi tăng nhẹ hoạt độ nước sẽ

làm

tăng độ linh động của các hợp chất

bay


hơi có cực và tạo cho chúng khả năng tìm đến “miền để cố định” dễ dàng hơn.
Trong môi trường nhiều nước hoặc trong các dung dịch thì khả năng sẵn
sàng để cố định các hợp chất bay hơi của các gốc axit amin có cực hoặc không cực
thường bị ảnh hưởng của nhiều nhân tố.
Casein cố định các hợp chất cacbonyl, các rượu hoặc các este ở pH trung
tính hoặc kiềm tốt hơn ở pH axit.

Các ion và bình thường có tác dụng làm bền cấu trúc tự nhiên của các
protein hình cầu, nhưng khi ở nồng độ cao có thể làm thay đổi cấu trúc nước, làm yếu
các tương tác kỵ nước do đó làm giãn mạch protein. Kết quả là làm cho sự liên kết của
hợp chất cacbonyl với protein được tốt hơn.
14


Biên đôi cua protein co ưng dung trong công nghê thưc phâm
Các hoá chất có xu hướng phân ly protein hoặc khử các cầu disulfua đều
làm cho quá trình cố định các hợp chất bay hơi tốt hơn. Tuy nhiên sự phân ly protein
oligome thành các dưới đơn vị thường có tác dụng làm giảm sự liên kết các hợp chất
bay hơi không có cực vì các miền giữa các phân tử trước đây có tính kỵ nước sẽ có xu
hướng bị biến mất và bị che khuất dần cùng với sự thay đổi hình thể của đơn phân.
Một sự proteolyzơ quan trọng cũng làm giảm quá trình cố định các hợp
chất bay hơi. Chẳng hạn 1kg protein đậu tương có thể cố định được 6,7 mg 1-hexanal
thì sau khi bị thuỷ phân bởi proteaza axit tính nguồn vi khuẩn, lượng hexanal mà
protein có thể liên kết được chỉ là 1mg. Vậy là sự proteolyzơ có thể có ích để làm giảm
mùi “đậu” của protein đậu tương. Việc biến đổi 1-hexanal đã được liên kết thành axit
caproic bởi một aldehit dehydrogenaza cũng có tác dụng làm giảm mùi “xấu” này.
Khi biến tính protein bởi nhiệt, ngược lại sẽ làm tăng sự cố định các hợp
chất bay hơi. Chẳng hạn, một dung dịch nước chứa 10% isolat protein đậu tương được
gia nhiệt đến trong thời gian 1h và 24h với sự có mặt của 1-hexanal, sau đó đem sấy

thăng hoa. Kết quả, lượng hexanal được liên kết tăng lên 3 và 6 lần so với dung dịch
protein không được gia nhiệt.
Các phương pháp khử nước
như sấy thăng hoa thường làm giải phóng
50% các chất thơm vốn ban đầu đã liên kết
với một protein kiểu như casein. Khả năng
giữ các chất thơm bay hơi sẽ tốt nhất khi áp
suất hơi của chúng thấp và chúng có nồng độ

thấp.Khi

có mặt các lipit sẽ có tác dụng tốt đối với việc cố định và giữ các hợp chất bay hơi
chứa nhóm cacbonyl, kể cả những chất sinh ra do sự oxy hoá lipit.

CÂU HỎI TRẮC NGHIỆM
Câu 1: Kích thước các bóng bọt của một bọt thực phẩm có thể có đường kính khoảng
bao nhiêu?
A. 0,1�m đến hàng cm.
15


Biên đôi cua protein co ưng dung trong công nghê thưc phâm
B. 1�m đến hàng mm.
C. 1�m đến hàng cm.
D. 10�m đến hàng mm.
Đáp án C.
Câu 2: Trong khả năng cố định mùi của protein, hấp phụ hoá học là do...
A.
B.
C.

D.

liên kết peptide hoặc liên kết hydro.
liên kết đồng hoá trị hoặc liên kết hydro.
liên kết đồng hoá trị hoặc liên kết tĩnh điện.
liên kết hydro hoặc liên kết tĩnh điện.

Đáp án C.
Câu 3: Để cải tiến các tính chất tạo bọt của protein đậu tương thì cần gia nhiệt ở nhiệt
độ bao nhiêu?
A.
B.
C.
D.

30 – 50oC.
60 – 80oC.
50 – 70oC.
70 – 80oC.

Đáp án D.
Câu 4: Các hợp chất bay hơi có khối lượng phân tử thấp liên kết với các gốc axit amin
không cực của protein thông qua liên kết nào sau đây?
A.
B.
C.
D.

liên kết hydro.
tương tác kỵ nước.

liên kết đồng hoá trị.
tương tác Van der Waals.

Đáp án B.
Câu 5: Khi tăng nồng độ protein trong một khoảng rộng (đến 10%) thì bọt biến đổi
như thế nào?
A. bọt tăng thể tích nhiều hơn là tăng độ bền.
B. bọt giảm thể tích ít hơn là giảm độ bền.
C. bọt tăng độ bền ít hơn là tăng thể tích.
16


Biên đôi cua protein co ưng dung trong công nghê thưc phâm
D. bọt tăng độ bền nhiều hơn là tăng thể tích.
Đáp án D.
Câu 6: Nhân tố nào trong các nhân tố sau đây không có tác dụng làm cho bọt bền?
A.
B.
C.
D.

Màng mỏng protein được hấp thụ bền và đàn hồi.
Bề mặt liên pha rất lớn.
Sức căng bề mặt liên pha yếu.
Độ nhớt của pha lỏng cao.

Đáp án B.
Câu 7: Việc gắn bất thuận nghịch sẽ dễ dàng hơn trong trường hợp nào?
A.
B.

C.
D.

hợp chất bay hơi có khối lượng phân tử cao.
hợp chất bay hơi có khối lượng phân tử thấp.
Cả A và B đều đúng.
Cả A và B đều sai.

Đáp án A.
Câu 8: Khả năng giữ các chất thơm bay hơi sẽ tốt nhất khi nào?
A.
B.
C.
D.

Áp suất hơi thấp và nồng độ thấp.
Áp suất hơi thấp và nồng độ cao.
Áp suất hơi cao và nồng độ cao.
Áp suất hơi cao và nồng độ thấp.

Đáp án A.
Câu 9: Ở lòng trắng trứng đánh dậy bọt, các bọt được ổn định là nhờ....
A.
B.
C.
D.

màng protein bao quanh bọt quá mềm.
pha liên tục bị đông tụ.
khả năng làm tăng độ nhớt bề mặt của bọt.

các tác nhân biến tính.

Đáp án B.
Câu 10: Về khả năng cố định mùi protein có thể hấp phụ theo mấy cách?
A. 2
17


Biên đôi cua protein co ưng dung trong công nghê thưc phâm
B. 3
C. 4
D. 5
Đáp án A.

-

HẾT -

TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1]. Trần Thị Minh Hà (2014), Hoá học thực phẩm, Trường Đại học Công nghiệp thực
phẩm TP.HCM
[2]. Hoàng Kim Anh (2005), Hoá học thực phẩm, NXB Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội

18



×