Tải bản đầy đủ (.pdf) (146 trang)

Xây dựng văn hóa chính trị của sinh viên học viện báo chí và tuyên truyền

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.06 MB, 146 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
----------

VŨ QUỐC CƢỜNG

XÂY DỰNG VĂN HÓA CHÍNH TRỊ CỦA SINH VIÊN
HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH TRỊ HỌC

Hà Nội, 2017


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
----------

VŨ QUỐC CƢỜNG

XÂY DỰNG VĂN HÓA CHÍNH TRỊ CỦA SINH VIÊN
HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: chinh trị học
Mã số: 60 31 02 01

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Ngô Thị Khánh

Hà Nội, 2017



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Luận văn
được hoàn thành dưới sự hướng dẫn của TS Ngô Thị Khánh - Khoa xây dựng
Đảng và chính quyền nhà nước, Học viện Chính trị Công an nhân dân. Các số
liệu và kết quả trong luận văn là trung thực, rõ ràng, tài liệu trích dẫn trong
luận văn là hoàn toàn khoa học và đáng tin cậy.
Hà Nội, ngày 05 tháng 12 năm 2017
Tác giả luận văn

Vũ Quốc Cƣờng


CÁC TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
CNH, HĐH

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

BC&TT

Báo chí và Tuyên truyền

VHCT

Văn hóa chính trị


DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Trang
Biểu đồ 2.1: Nhận thức của sinh viên về mức độ quan trọng của những môn

học Nguyên lý chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh và Đường lối
cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam……………………………...…..50
Biểu đồ 2.2: Mức độ hứng thú của sinh viên đối với các môn học Nguyên lý
chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh và Đường lối cách mạng của
Đảng Cộng sản Việt Nam ……………..........................................................51
Biểu đồ 2.3: Mức độ quan tâm của sinh viên đến tình hình chính trị - xã hội
của đất nước…………………………………………………………………53
Biểu đồ 2.4: Mức độ quan tâm của sinh viên đến các chủ trương, đường lối,
của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước……………………………...54
Biểu đồ 2.5: Mức độ cần thiết phấn đấu trở thành đảng viên Đảng Cộng sản
Việt Nam……………………………………………….……………………57
Biểu đồ 2.6: Sự tin tưởng của sinh viên vào sự lãnh đạo của Đảng ...............59
Biểu đồ 2.7: Sự tin tưởng vào người Đại biểu mà sinh viên bầu ra ...............60
Biểu đồ 2.8: Về ý muốn tham gia vào bộ máy của Đảng, Nhà nước hay chính
quyền địa phương............................................................................................61
Biểu đồ 2.9: Mức độ tham gia hoạt động Đoàn các cấp của sinh viên…...…65


MỤC LỤC
̀
MỞ ĐÂU .......................................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của đề tài ............................................................................. 1
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài ............................................... 3
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................ 6
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu ............................................................. 7
5. Cơ sở lý luâ ̣n và phƣơng pháp nghiên cƣ́u............................................... 7
6. Điểm mới của luận văn…………………...……...………………………7
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn.................................................8
8. Kế t cấ u của luận văn…………...…………………………………………8
NỘI DUNG.......................................................................................................9

Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VĂN HÓA CHÍNH TRỊ VÀ
XÂY DỰNG VĂN HÓA CHÍNH TRỊ CỦA SINH VIÊN……….......9
1.1. Quan niệm về văn hóa chính trị và văn hóa chính trị của sinh viên……9
1.2. Cấu trúc của xây dựng văn hóa chính trị của sinh viên………………....26
1.3. Các yếu tố tác động đến xây dựng văn hóa chính trị của sinh viên hiện
nay...................................................................................................................36
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG VĂN HÓA CHÍNH TRỊ CỦA SINH VIÊN
HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ
ĐẶT RA.......................................................................................................... 43
2.1. Tổng quan về sinh viên Học viện Báo chí và Tuyên truyền .................... 43
2.2. Thực trạng xây dựng văn hóa chính trị của sinh viên Học viện Báo chí và
Tuyên truyền....................................................................................................49
2.3. Những vấn đề đặt ra đối với xây dựng văn hóa chính trị của sinh viên Học
viện Báo chí và Tuyên truyền hiện nay .......................................................... 68
Chƣơng 3: ĐỊNH HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ
XÂY DỰNG VĂN HÓA CHÍNH TRỊ CỦA SINH VIÊN HỌC VIỆN
BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN THỜI GIAN TỚI ................................ 78


3.1. Định hướng nâng cao hiệu quả xây dựng văn hóa chính trị của sinh viên
Học viện Báo chí và Tuyên truyền .................................................................78
3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả xây dựng văn hóa chính trị của sinh viên Học
viện Báo chí và Tuyên truyền trong thời gian tới………………………84
KẾT LUẬN .................................................................................................. 110
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 112
PHỤ LỤC ..................................................................................................... 118


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài

Văn hóa chính trị là một trong những vấn đề cơ bản nhất của đời sống
chính trị nói chung, ra đời và tồn tại trong xã hội có giai cấp. Nói đến văn hóa
chính trị là nói đến tổng hòa các giá trị mang tính nhân văn, tiến bộ, vì sự phát
triển của xã hội và con người được hình thành trong mối quan hệ giữa chủ thể
chính trị với quyền lực nhà nước. Văn hóa chính trị có vai trò quan trọng trong
việc điều chỉnh, định hướng đối với thái độ, hành vi chính trị của một cá nhân
hay một cộng đồng nhất định. Trình độ văn hóa chính trị quyết định đến mức
độ tham gia của nhân dân vào công việc của nhà nước, đồng thời phản ánh
trình độ phát triển của một chế độ chính trị.
Đảng Cộng sản Việt Nam từ lâu đã chú trọng nghiên cứu, xây dựng và
nâng cao văn hóa chính trị cho tất cả mọi giai tầng trong xã hội thông qua
công tác tư tưởng, thông qua việc hoàn thiện cơ chế, chính sách…Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng đã khẳng định phải “Xây dựng văn hóa
trong chính trị và kinh tế. Chú trọng chăm lo xây dựng văn hóa trong Đảng,
trong các cơ quan nhà nước và các đoàn thể; coi đây là nhân tố quan trọng để
xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh” [25, tr.128].
Đường lối đổi mới toàn diện đất nước do Đảng khởi xướng và lãnh đạo
hơn 30 năm qua đã đem lại nhiều thành tựu cho đất nước., tạo ra nhiều cơ hội
cho các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là thanh niên, sinh viên có điều kiện phát
triển cả về trí lực và thể lực, trình độ văn hóa nói chung và văn hóa chinh trị
nói riêng. Tuy nhiên, đánh giá 30 năm đổi mới và phát triển ở Việt Nam cho
thấy: Những tiến bộ đạt được trong lĩnh vực văn hóa còn hạn chế, chưa bền
vững, chưa đủ tầm mức để tác động có hiệu quả đến quá trình xây dựng con
người và các lĩnh vực của đời sống xã hội, nhất là lĩnh vực tư tưởng, đạo đức,
lối sống. Những hạn chế, yếu kém trong lĩnh vực xây dựng văn hóa, con người

1


được Đảng chỉ rõ từ lâu nhưng chậm được khắc phục, những năm gần đây,

một số mặt có chiều hướng trầm trọng hơn. Sự xuống cấp về văn hóa, đạo
đức, đặc biệt là tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của
một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên diễn biến phức tạp. Hiện tượng phai
nhạt lý tưởng; lối sống thực dụng, vị kỷ, vô cảm; sự vô trách nhiệm, thiếu kỷ
luật trong lao động, hoạt động công vụ….chưa được khắc phục. Việc giáo dục,
gìn giữ, phát huy truyền thống và những tình cảm tốt đẹp trong gia đình chưa
được quan tâm đúng mức; nhà trường chưa thực hiện tốt chức năng giáo dục
đạo đức, nhân cách, lối sống cho thế hệ trẻ. Bên cạnh đó, nguy cơ tụt hậu về
văn hóa, sự lai căng văn hóa, sự tự ti văn hóa, sự ảnh hưởng của văn hóa chính
trị một số nước trên thế giới làm cho tính độc lập, tự chủ trong văn hóa chính
trị Việt Nam đã được hun đúc qua ngàn đời cũng bị ảnh hưởng tiêu cực. Thái
độ thờ ơ với chính trị, ý thức chính trị thấp và niềm tin chính trị giảm sút, hành
động chính trị thụ động, miễn cưỡng… là một số biểu hiện của sự mất tự chủ
về văn hóa chính trị. Điều đáng buồn là những biểu hiện này lại xuất hiện và
rất phổ biến ở một bộ phận không nhỏ trong thanh niên, sinh viên Việt Nam.
Chỉ thị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác giáo dục lý
tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống văn hóa cho thế hệ trẻ, giai đoạn 2015 2030, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã nhận định: “Một bộ phận giới trẻ giảm
sút niềm tin, thiếu ý thức chấp hành pháp luật, sống thực dụng, thiếu lý tưởng,
xa rời truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc. Một số ít thanh niên bị các thế
lực thù địch lôi kéo, kích động chống phá sự nghiệp cách mạng của Đảng và
dân tộc ta. Tình trạng tội phạm và tệ nạn xã hội trong giới trẻ diễn biến phức
tạp” [3, tr.1-2]. Chính vì thế, việc nghiên cứu về vấn đề văn hóa chính trị của
sinh viên Việt Nam hiện nay là một yêu cầu bức thiết đặt ra đối với giáo dục
chính trị nước ta.

2


Học viện Báo chí và Tuyên truyền vừa là một trường Đảng thuộc Học
viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh đồng thời là một trường đại học trong hệ

thống giáo dục quốc dân. Là trường đại học cơ sở trọng điểm quốc gia đào tạo
giảng viên lý luận chính trị, cán bộ báo chí - truyền thông, cán bộ làm công tác
tư tưởng - văn hóa…, đồng thời là cơ sở nghiên cứu khoa học phục vụ mục
tiêu nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng; và góp phần tham mưu cho việc
hoạch định đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước. Sinh viên của Học viện
Báo chí và Tuyên truyền là một bộ phận của sinh viên Việt Nam nhưng có
những nét đặc thù là sinh viên trường Đảng cũng bị ảnh hưởng không nhỏ bởi
những tác động của tình hình trong nước và quốc tế hiện nay, nhất là ảnh
hưởng về văn hóa. Trình độ văn hóa nói chung và văn hóa chính trị nói riêng
của sinh viên Học viện Báo chí và Tuyên truyền cũng còn một số hạn chế.
Việc nghiên cứu về vấn đề văn hóa chính trị của sinh viên nói chung, sinh viên
Học viện Báo chí và Tuyên truyền nói riêng là một yêu cầu bức thiết đặt ra.
Chính vì vậy, tác giả chọn đề tài “Xây dựng văn hóa chính trị của sinh viên
Học viện Báo chí và Tuyên truyền hiện nay” làm đề tài luận văn tốt nghiệp
cao học chuyên ngành chính trị học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Vấn đề văn hóa chính trị nói chung và văn hóa chính trị trong sinh viên
nói riêng là đề tài thu hút rất nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên cứu, có thể
điểm qua một số công trình nghiên cứu có liên quan sau đây:
“Văn hóa chính trị Việt Nam truyền thống và hiện đại” (1998) của GS
Nguyễn Hồng Phong. Đây là công trình đầu tiên nghiên cứu về văn hóa chính
trị Việt Nam một cách có hệ thống, phân tích được sự kết hợp giữa truyền
thống và hiện đại trong văn hóa chính trị.
“Văn hóa chính trị và việc bồi dưỡng đội ngũ lãnh đạo, quản lý ở nước
ta hiện nay” (1999) do PGS. TS Phạm Ngọc Quang chủ nhiệm, các tác giả của

3


công trình này đã trình bày ba nội dung lớn: khái niệm văn hóa chính trị, một

số nét về lịch sử phát triển của văn hóa chính trị trong hiện thực chính trị, văn
hóa chính trị và một số việc nâng cao chất lượng lãnh đạo chính trị và hình
thành đội ngũ cán bộ chính trị ở nước ta hiện nay, thực trạng văn hóa chính trị
ở nước ta hiện nay và phương hướng cơ bản để nâng cao văn hóa chính trị của
cán bộ nhằm đáp ứng yêu cầu đổi mới vì chủ nghĩa xã hội.
“Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển văn hóa con người” do Đặng
Xuân Kỳ chủ biên (2005) đã phân tích tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển văn
hóa con người, đây là một trong những tư tưởng nhân văn đặc sắc, góp phần to
lớn vào việc đào tạo những con người ưu tú cho dân tộc Việt Nam, đưa đất
nước ta vượt qua phong ba bão tố của thời đại.
“Văn hóa Việt Nam trước xu thế toàn cầu hóa, thời cơ và thách thức”
(2007) của PGS. TS Nguyễn Thành Duy đề cập đến một số ảnh hưởng của
toàn cầu hóa đối với văn hóa chính trị Việt Nam hiện nay.
“Văn hóa Việt Nam - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” (2014) của tác
giả Trần Thị Kim Cúc. Trong cuốn sách này, tác giả đã phân tích những vấn
đề lý luận về văn hóa Việt Nam, đồng thời nêu lên thực trạng của việc xây
dựng văn hóa cho người Việt Nam hiện nay. Cuốn sách cũng cung cấp những
thông tin về thực tiễn xây dựng văn hóa cho thanh niên, trong đó có thanh niên
trí thức nước ta hiện nay.
“Văn hóa chính trị Hồ Chí Minh với việc xây dựng văn hóa chính trị
Việt Nam” (2016) của tác giả Nguyễn Minh Khoa. Trong cuốn sách này, tác
giả đã đi từ phân tích nội hàm các khái niệm đến nội dung văn hóa chính trị
Hồ Chí Minh, trình bày bối cảnh quốc tế, trong nước và yêu cầu xây dựng văn
hóa chính trị Việt Nam; định hướng và những nội dung, giải pháp xây dựng
văn hóa chính trị Việt Nam hiện nay.

4


Trên các tạp chí chuyên ngành cũng xuất hiện khá nhiều các bài viết về

văn hóa chính trị như: “Vai trò của văn hóa chính trị trong việc hình thành
phẩm chất và năng lực lãnh đạo chính trị” của tác giả Nguyễn Văn Minh
đăng trên tờ Thông tin chính trị (số 4/2003); “Văn hóa chính trị và sự phát
triển của con người - xã hội” của tác giả Lâm Quốc Tuấn đăng trên Tạp chí
Lý luận chính trị (4/2004); “Văn hóa Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa”
của tác giả Vũ Minh Tâm đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị (Số1/2008);
“Mấy vấn đề văn hóa chính trị Việt Nam trong lịch sử” của tác giả Nguyễn
Hoài Văn đăng trên tạp chí Lý luận chính trị; “Văn hóa chính trị Việt Nam
trong thời kỳ đổi mới” của tác giả Phạm Huy Kỳ đăng trên website Tạp chí
Cộng sản (26/8/2010); “Xây dựng văn hóa trong chính trị: Quan niệm và giải
pháp thực hiện” của tác giả Hoàng Chí Bảo đăng trên báo điện tử Chính phủ
(08/02/2015);“Văn hóa chính trị” của tác giả Nguyễn Hữu Đổng đăng trên
Tạp chí Lý luận chính trị số 2-2016; “Một cách tiếp cận về văn hóa chính trị”
của tác giả Khuất Trọng Nam đăng trên Tạp chí Văn hóa nghệ thuật số 3925
tháng 5-2017….
Thời gian qua cũng có nhiều luận văn, luận án chuyên ngành chính trị
học nói về văn hóa chính trị và văn hóa chính trị của sinh viên như:
“Văn hóa chính trị và những giá trị tiêu biểu của văn hóa chính trị Việt
Nam truyền thống”, luận văn thạc sĩ của tác giả Lâm Quốc Tuấn.
“Văn hóa chính trị của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã ở Việt Nam
hiện nay” luận văn thạc sĩ của tác giả Phạm Thị Nhuận.
“Xây dựng văn hóa chính trị của sinh viên Đại học Thái Nguyên trong
thời kỳ hội nhập quốc tế hiện nay”, luận văn thạc sĩ của tác giả Trần Công
Dương.
“Nâng cao văn hóa chính trị của cán bộ lãnh đạo nước ta trong giai
đoạn hiện nay”, luận án tiến sĩ của tác giả Lâm Quốc Tuấn.

5



“Công tác giáo dục chính trị cho sinh viên Việt Nam hiện nay”, luận
văn thạc sĩ của tác giả Mai Xuân Hà.
“Văn hóa chính trị của đội ngũ cán bộ thuộc diện Ban Thường vụ thành
ủy quản lý ở Hà Nội hiện nay”, luận văn thạc sĩ của tác giả Vũ Văn Trí.
Những tài liệu, luận văn, luận án nêu trên chính là nguồn tham khảo
quan trọng để tác gỉa hình thành ý tưởng cũng như định hướng nghiên cứu cho
đề tài của mình.
Đối với Học viện Báo chí và Tuyên truyền, việc hình thành văn hóa nói
chung và nghiên cứu xây dựng văn hóa chính trị trong sinh viên nói riêng là
rất quan trọng và cần thiết. Tuy nhiên, cho đến nay chưa có một công trình nào
nghiên cứu một cách kỹ lưỡng, có hệ thống về vấn đề xây dựng văn hóa chính
trị của sinh viên Học viện Báo chí và Tuyên truyền.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận về văn hóa chính trị và thực
trạng văn hóa chính trị của sinh viên Học viện Báo chí và Tuyên truyền, luận
văn đề xuất định hướng và các giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả xây
dựng văn hóa chính trị của sinh viên Học viện Báo chí và Tuyên truyền trong
thời gian tới.
3.2. Nhiê ̣m vụ nghiên cứu
- Hệ thống hóa những vấn đề lý luận về xây dựng văn hóa chính trị của
sinh viên
- Khảo sát, đánh giá thực trạng văn hóa chính trị của sinh viên Học viện
Báo chí và Tuyên truyền hiện nay
- Đưa ra định hướng và một số giải pháp cơ bản để nâng cao hiệu quả
xây dựng văn hóa chính trị của sinh viên Học viện Báo chí và Tuyên truyền
thời gian tới.

6



4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Xây dựng văn hóa chính trị của sinh viên Học viện Báo chí và Tuyên
truyền.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Luận văn đi sâu nghiên cứu xây dựng văn hóa chính trị của sinh viên
Học viện Báo chí và Tuyên truyền giai đoạn 2016 - 2017.
- Khảo sát cán bộ, giảng viên và sinh viên đại học chính quy của Học
viện Báo chí và Tuyên truyền trong năm học 2016 - 2017.
5. Cơ sở lý luâ ̣n và phƣơng pháp nghiên cƣ́u
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở nhận thức luận các vấn đề lý
luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt
Nam về văn hóa chính trị.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Trên phương pháp luận của chủ nghiã duy vâ ̣t biê ̣n chứng và chủ nghiã
duy vâ ̣t lich
̣ sử , luận văn sử dụng phương pháp logic kết hợp với phương pháp
lịch sử và các phương pháp phân tić h, so sánh, tổ ng hơ ̣p, phương pháp điề u tra
xã hội học, …
6. Điểm mới của luận văn
- Luận văn là công trình nghiên cứu một cách có hệ thống về văn hóa
chính trị của sinh viên Học viện Báo chí và Tuyên truyền, nó vừa mang tính lý
luận, vừa mang tính tổng kết thực tiễn.
- Chỉ ra thực trạng xây dựng văn hóa chính trị của sinh viên Học viện
Báo chí và Tuyên truyền hiện nay, đưa ra những định hướng và giải pháp để
nâng cao hiệu quả xây dựng văn hóa chính trị của sinh viên Học viện Báo chí
và Tuyên truyền trong thời gian tới.


7


- Những kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được sử dụng làm tài
liệu tham khảo hữu ích về lý luận và thực tiễn liên quan đến văn hóa chính trị
cho những người quan tâm nghiên cứu vấn đề này.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
7.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn góp phần vào việc làm sâu sắc hơn lý luận về xây dựng văn
hóa chính trị của sinh viên và là tài liệu tham khảo thiết thực cho những người
quan tâm đến vấn đề xây dựng văn hóa chính trị của sinh viên Học viện Báo
chí và Tuyên truyền.
7.2. Giá trị thực tiễn
Luận văn cung cấp những số liệu thực tế về văn hóa chính trị của sinh
viên Học viện Báo chí và Tuyên truyền, đề xuất định hướng, giải pháp mang
tính khả thi nhằm nâng cao hiệu quả xây dựng văn hóa chính trị của sinh viên.
Đây là tài liệu tham khảo cần thiết cho những người làm công tác tư tưởng,
công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị cho sinh viên hiện nay.
8. Kế t cấ u luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo và Phụ lục,
luận văn gồm có 3 chương, 8 tiết

8


Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VĂN HÓA CHÍNH TRỊ VÀ XÂY
DỰNG VĂN HÓA CHÍNH TRỊ CỦA SINH VIÊN
1.1. Quan niệm về văn hóa chính trị và văn hóa chính trị của sinh
viên

1.1.1. Quan niệm về văn hóa chính trị
1.1.1.1. Văn hóa
Văn hóa là một khái niệm phức tạp và đa nghĩa, gắn liền con người với
đời sống xã hội loài người. Từ lâu văn hóa đã trở thành lĩnh vực nghiên cứu
của nhiều ngành khoa học. Hiện nay đã và đang tồn tại rất nhiều các định
nghĩa về văn hóa với những cách tiếp cận khác nhau. Thuật ngữ văn hóa bắt
nguồn từ tiếng La tinh “Cultura” lúc đầu chủ yếu nói về quan hệ giữa con
người với tự nhiên, có nghĩa là khai hoang, canh tác, gieo trồng cây lương
thực. Sau này thuật ngữ trên được mở rộng sang lĩnh vực xã hội, nói về quan
hệ giữa con người với con người, có nghĩa là chăm nom, giáo dục, nuôi
dưỡng, giáo hóa, rèn luyện, hoàn thiện nhân cách con người. Ngày nay văn
hóa không chỉ được sử dụng để nói đến mối quan hệ giữa con người và tự
nhiên, mà còn nói lên mối quan hệ giữa con người với con người, thể hiện
trình độ được giáo dục, nuôi dưỡng của con người. Người đầu tiên sử dụng
thuật ngữ văn hóa trong khoa học (1774) là Pufedorf (Đức) với nghĩa là toàn
bộ những gì do hoạt động xã hội của con người tạo ra và là cái đối lập với
trạng thái tự nhiên.
Theo cách tiếp cận hệ thống, văn hóa là một hoạt động sáng tạo, là hệ
những giá trị do kết quả hoạt động sáng tạo của con người tạo nên. Tập thể các
tác giả cuốn “Từ điển chính trị rút gọn” của Liên Xô trước đây quan niệm
rằng: “Văn hóa là trình độ phát triển lịch sử nhất định của xã hội, là sức sáng
tạo và khả năng của con người biểu hiện trong các phương thức tổ chức đời

9


sống và hoạt động sáng tạo của con người, cũng như trong các giá trị vật chất
và tinh thần do con người sáng tạo nên” [37, tr.190-191].
Hồ Chí Minh đã đưa ra một định nghĩa về văn hóa: “Vì lẽ sinh tồn cũng
như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn

ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật,
những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về mặt ăn, ở và các phương thức sử
dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự
tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó, của loài
người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu và đòi hỏi của sự sinh
tồn” [48, t.3, tr.431]. Các định nghĩa về văn hóa hiện nay rất đa dạng, mỗi
định nghĩa đề cập đến một dạng thức hoặc những lĩnh vực khác nhau trong
văn hóa. Tựu chung lại, văn hóa có thể được hiểu theo một số cách: Văn hóa
là đời sống tinh thần của con người, của xã hội loài người; Văn hóa là toàn bộ
các giá trị vật chất và tinh thần do loài người sáng tạo ra; Văn hóa là phương
thức sống của cộng đồng, dân tộc, của xã hội.
Trong luận văn này, khái niệm văn hóa được hiểu như một hệ thống các
ý nghĩa và niềm tin với những biểu tượng và giá trị được các thành viên trong
cộng đồng chia sẻ. Dựa trên các ý nghĩa và niềm tin đó, các thành viên trong
cộng đồng sẽ có những tiêu chí giống nhau trong việc đánh giá, phân biệt cái
đúng và cái sai, cái tốt và cái xấu, những điều nên làm và những điều không
nên làm. Văn hóa chính là những gì nằm sâu trong tiềm thức của con người,
định hướng cho các lựa chọn, cách suy nghĩ, cách hành xử của họ theo một
chuẩn mực đã được cộng đồng chấp nhận. Đây cũng chính là cách tiếp cận
văn hóa từ góc độ hành vi. Có thể hiểu văn hóa biểu hiện trình độ phát triển
của con người thông qua các giai đoạn lịch sử khác nhau. Ngày nay, cùng với
sự phát triển của xã hội và nhận thức của con người, văn hóa đã chia ra thành

10


nhiều loại như: văn hóa đạo đức, văn hóa lao động, văn hóa tư duy, văn hóa
giao tiếp, văn hóa môi trường…
1.1.1.2. Chính trị
Chính trị là một lĩnh vực chính của đời sống xã hội kể từ khi xã hội

phân chia thành giai cấp. Đồng thời, khi giai cấp ra đời thì nhà nước cũng ra
đời, nhà nước chính là biểu hiện cao nhất, tập trung nhất về chính trị. Chính trị
là một phạm trù phức tạp nhất, nhạy cảm nhất và có vai trò ngày càng tăng
trong đời sống xã hội. Chính vì thế, ngay từ thời cổ đại đã có rất nhiều nhà tư
tưởng nghiên cứu về vấn đề này. Cho đến nay vẫn còn nhiều quan điểm, tư
tưởng khác nhau về chính trị.
Platon, nhà Triết học cổ đại Hy Lạp, trong tác phẩm “Chính trị”, xem
chính trị là “nghệ thuật cung đình” liên kết trực tiếp các chuẩn mực của người
anh hùng, sự thông minh. Liên kết đó được thực hiện bằng sự thống nhất tư
tưởng và tinh thần hữu ái. Cũng theo ông, chính trị là nghệ thuật cai trị, cai trị
bằng sức mạnh độc tài, còn cai trị bằng thuyết phục mới đích thực là cai trị.
Người Trung Quốc cổ đại coi chính trị là sự tác động, điều tiết xã hội để phát
triển đúng đắn, là sắp đặt, quản lý xã hội có kỷ cương nền nếp, ổn định.
Chủ nghĩa Mác - Lênin đã đưa ra những quan điểm khá toàn diện về
chính trị: Chính trị là lợi ích, là quan hệ lợi ích, là đấu tranh giai cấp trước hết
vì lợi ích giai cấp. Cái căn bản nhất của chính trị là việc tổ chức quyền lực nhà
nước, là sự tham gia vào công việc nhà nước, là định hướng cho nhà nước, xác
định hình thức, nội dung nhiệm vụ của nhà nước. Chính trị là biểu hiện tập
trung của kinh tế. Đồng thời, chính trị không thể không chiếm vị trí hàng đầu
so với kinh tế. Chính trị là lĩnh vực phức tạp, nhạy cảm nhất, liên quan tới vận
mệnh hàng triệu người. Giải quyết những vấn đề chính trị vừa là khoa học vừa
là nghệ thuật.

11


Theo cách hiểu của chúng tôi: Chính trị là hoạt động trong lĩnh vực
quan hệ giữa các giai cấp, cũng như giữa các dân tộc và các quốc gia, các lực
lượng xã hội với vấn đề giành, giữ, tổ chức và sử dụng quyền lực Nhà nước, là
sự tham gia của nhân dân vào công việc của Nhà nước và xã hội; là hoạt

động chính trị thực tiễn của các giai cấp, các đảng phái chính trị, các Nhà
nước nhằm tìm kiếm những khả năng thực hiện đường lối và mục tiêu đã đề ra
nhằm thỏa mãn lợi ích.
Đây là quan niệm tiếp cận chính trị từ hai phương diện cơ bản. Chính trị
với tư cách là quan hệ đặc biệt của các chủ thể chính trị liên quan đến các vấn
đề quyền lực chính trị, và chính trị với tư cách là hoạt động xã hội đặc thù của
các chủ thể chính trị có liên quan tới vấn đề Nhà nước. Qua đó có thể thấy,
chủ thể chính trị không chỉ là những người nằm trong chính quyền nhà nước,
mà còn là những người dân tham gia vào những công việc liên quan tới nhà
nước, trong đó có một lực lượng quan trọng đó là thanh niên, trí thức của một
quốc gia. Như vậy chính trị là nhu cầu tất yếu của sự tồn tại, phát triển của xã
hội loài người. Chính trị là sản phẩm của hoạt động sáng tạo của con người, do
bản thân con người thực hiện vì mục đích, lợi ích của chính con người. Tính
nhân văn của mục tiêu chính trị, tính khoa học của hệ thống chính trị, thiết chế
chính trị và cơ chế chính trị; phương thức tổ chức và ứng xử chính trị phù hợp
đạo lý con người, dân chủ và tiến bộ… nói lên VHCT.
1.1.1.3.Văn hóa chính trị
Trong hoạt động chính trị, đặc thù văn hóa của quốc gia, dân tộc, giai
cấp và điều kiện kinh tế - xã hội cũng tác động rất lớn tới đặc điểm chính trị và
sự tiến bộ của chính trị. Chính vì lẽ đó, thuật ngữ VHCT dần xuất hiện.
VHCT là một bộ phận, một phương diện của văn hóa trong xã hội có
giai cấp (có chính trị), nhưng điều đó không có nghĩa VHCT là phép cộng

12


giản đơn giữa văn hóa với chính trị, mà đó là sự thẩm thấu, xâm nhập vào
nhau, chuyền hóa lẫn nhau giữa văn hóa với chính trị, chính trị với văn hóa.
VHCT được coi như một lĩnh vực, một biểu hiện của văn hóa trong xã
hội có giai cấp. Ngay từ thời cổ đại, các nhà tư tưởng Hy Lạp, La Mã như

Platon, Aristotle,... ở Trung Quốc như Khổng Tử, Lão Tử,… đã chú ý tới mối
quan hệ giữa chính trị và văn hóa. Sau này các công trình nghiên cứu của các
nhà tư tưởng thời kì khai sáng, cận đại như Môngtexkiơ, Rútxô và thời kỳ hiện
đại như C.Mác cũng đã đề cập đến VHCT ở các khía cạnh và mức độ khác
nhau. Tuy nhiên, VHCT chỉ xuất hiện với tư cách là một lĩnh vực nghiên cứu
độc lập từ những năm 1950, gắn với công trình nghiên cứu của các nhà chính
trị học Mỹ. Thuật ngữ VHCT lần đầu tiên được sử dụng vào năm1956 với
công lao thuộc về G.Almon và Sverby. Họ quan niệm hành vi chính trị là một
phần của hành vi xã hội, cho nên khi phân tích hành vi chính trị phải gắn chặt
sự xem xét các nhân tố văn hóa, tâm lý của cá nhân và toàn xã hội. Phải xem
xét động cơ của hành vi chính trị là gì, Almon gọi đó là định hướng, nghĩa là
VHCT bắt đầu từ định hướng chính trị. Trong cuốn Văn hóa công dân, hai ông
đã viết: “Văn hóa chính trị nói về một loại thái độ đối với hệ thống chính trị và
thái độ đối với vai trò của mình trong hệ thống chính trị đó” [42, tr.19]. C.Mác
- Ph.Ăngghen, V.I.Lênin tuy chưa đưa ra khái niệm VHCT nhưng trong hệ
thống học thuyết của các ông đều toát lên những tư tưởng, quan điểm cơ bản
về VHCT trên mọi khía cạnh đời sống chính trị của giai cấp vô sản và nhân
dân lao động như: vấn đề đấu tranh giành quyền lực, vấn đề cải tạo xã hội cũ,
xây dựng xã hội mới; vấn đề xây dựng con người xã hội chủ nghĩa; vấn đề dân
chủ xã hội chủ nghĩa…
Trong “Từ điển chính trị rút gọn” thì văn hóa chính trị được hiểu “là
trình độ và tính chất của những hiểu biết chính trị, những nhận định, những
hành vi của công dân, cũng như nội dung, chất lượng của những giá trị xã hội,

13


những chuẩn mực xã hội và sự hoàn thiện của hệ thống tổ chức quyền lực, phù
hợp với phát triển và tiến bộ xã hội, góp phần điều chỉnh những hành vi và
quan hệ xã hội” [63, tr.253].

VHCT ở nước ta được các học giả chính trị tiếp cận và phát triển theo
quan niệm Mác xít, đó là cách nhìn VHCT trong điều kiện nền chính trị chế độ
xã hội chủ nghĩa, trong bối cảnh xây dựng nền chính trị dân chủ xã hội chủ
nghĩa, nghĩa là xây dựng VHCT vì mục tiêu phát triển chung của cả dân tộc,
không phân biệt thành phần, giai cấp, vì quyền lợi chung của toàn dân tộc chứ
không phải vì lợi ích riêng của người có quyền lực chính trị.
Theo Tập bài giảng Chính trị học đại cương của Lê Văn Cảnh và Đoàn
Trọng Tài: “Văn hóa chính trị là một lĩnh vực, một biểu hiện đặc biệt của văn
hóa loài người trong xã hội có giai cấp, văn hóa chính trị được hiểu là trình độ
phát triển của con người thể hiện ở trình độ hiểu biết về chính trị, trình độ tổ
chức hệ thống tổ chức quyền lực theo một chuẩn giá trị xã hội nhất định nhằm
điều hòa các quan hệ lợi ích giữa các giai cấp và bảo vệ lợi ích của giai cấp
cầm quyền, phù hợp với xu thế phát triển và tiến bộ xã hội” [11, tr.198].
Trong cuốn sách “Văn hóa chính trị và việc bồi dưỡng đội ngũ cán bộ
lãnh đạo nước ta hiện nay”, tác giả Phạm Ngọc Quang định nghĩa: “Văn hóa
chính trị là một phương diện văn hóa, nó nói lên tri thức, năng lực sáng tạo
trong hoạt động chính trị dựa trên sự nhận thức sâu sắc các quan hệ chính trị
hiện thực cùng những thiết chế chính trị tiến bộ được lập ra để thực hiện lợi
ích chính trị cơ bản của giai cấp hay của nhân dân phù hợp với sự phát triển
của lịch sử. Văn hóa chính trị nói nên phẩm chất và hình thức hoạt động chính
trị của con người cùng với những thiết chế chính mà họ lập ra để thực hiện lợi
ích giai cấp cơ bản của chủ thể tương ứng” [54, tr.19].
Theo “Tập bài giảng chính trị học” của Viện khoa học chính trị, Học
viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh: “Văn hóa chính trị là tổng hợp những giá

14


trị vật chất và tinh thần được hình thành trong thực tiễn chính trị. Nó là cái
góp phần chi phối hoạt động của các cá nhân, của các nhà chính trị, góp phần

định hướng hoạt động của họ trong việc tham gia vào đời sống chính trị để
phục vụ lợi ích căn bản của một giai cấp nhất định. Văn hóa chính trị góp phần
định hướng mục tiêu hoạt động cho các tổ chức chính trị, đặc biệt là Đảng và
Nhà nước, cho các phong trào chính trị trong một xã hội nhất định” [38,
tr.408-409].
Như vậy, VHCT là trình độ phát triển của con người thể hiện ở trình độ
hiểu biết về chính trị, trình độ tổ chức quyền lực theo một chuẩn giá trị nhất
định nhằm điều hòa các quan hệ lợi ích giữa các giai cấp và bảo vệ lợi ích của
giai cấp cầm quyền, phù hợp với xu thế phát triển và tiến bộ xã hội. VHCT thể
hiện mối quan hệ tác động qua lại giữa văn hóa với chính trị, giữa chính trị với
văn hóa. VHCT nâng hoạt động chính trị của con người và của tổ chức lên
trình độ văn hóa, làm cho hoạt động chính trị mang tính tự giác, chủ động và
sáng tạo, nâng cao tính tích cực chính trị của quần chúng. Văn hóa thấm sâu
vào chính trị, nâng chính trị lên tầm văn hóa, làm cho chính trị trở thành khoa
học, cách mạng và nhân văn. Chính trị của mọi tầng lớp nhân dân, chính trị
trong chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là chính trị kiểu mới
với những bản chất đặc trưng và cách mạng nhất. Vậy VHCT là tổng hợp
những giá trị vật chất, tinh thần được hình thành trong thực tiễn chính trị, góp
phần chi phối hoạt động của các cá nhân, của các nhà chính trị nhằm định
hướng hoạt động của họ trong việc tham gia vào đời sống chính trị để phục vụ
lợi ích căn bản của một giai cấp nhất định.
Tóm lại, VHCT góp phần định hướng mục tiêu hoạt động cho các tổ
chức chính trị, đặc biệt là Đảng và Nhà nước, cho các phong trào chính trị
trong xã hội nhất định. VHCT được phản ánh trong hệ ý thức chính trị; trong
các hình thức, các kiểu tổ chức hoạt động chính trị; trong các thiết chế chính

15


trị và trong các giá trị vật chất và tinh thần do quá trình hoạt động chính trị

sáng tạo ra. VHCT dưới chế độ xã hội chủ nghĩa nhằm mục đích phục vụ cho
nhận thức chính trị và hành động chính trị tích cực, phục vụ cho lợi ích của
toàn xã hội, không phân biệt giai tầng, đẳng cấp trong xã hội vì mục tiêu phát
triển của chế độ xã hội chủ nghĩa. Ngày nay, sự xâm nhập sâu rộng của văn
hóa vào đời sống chính trị, làm cho VHCT ngày càng giữ vai trò chủ đạo, là
động lực to lớn của sự phát triển và tiến bộ xã hội. Việc nghiên cứu thấu đáo,
vận dụng hợp lý và sáng tạo những giá trị vào cuộc sống, sẽ có ý nghĩa phản
ánh quy luật tiến hóa của lịch sử và khát vọng của con người.
Tổng hợp các cách tiếp cận khác nhau về VHCT, chúng tôi thấy rằng
VHCT là một phạm trù, nó biểu hiện sự hiểu biết về chính trị, thông qua các
hoạt động chính trị của mình, tình cảm chính trị, thái độ chính trị, niềm tin
chính trị, lý tưởng chính trị và năng lực chính trị, năng lực tổ chức hoạt động
xã hội của con người.
1.1.2. Cấu trúc của văn hóa chính trị
VHCT nói lên trình độ của chủ thể chính trị thông qua hiệu quả mang
lại của hoạt động chính trị mà thước đo chính là tính tích cực xã hội của dân
chúng và sự tiến bộ của xã hội trong nó phản ánh thông qua các giá trị chân thiện - mỹ. VHCT có một cấu trúc phức tạp, được tạo thành trong sự thống
nhất và tác động qua lại của nhiều nhân tố cơ bản , theo cách tiếp cận mác xít,
cấu trúc của VHCT bao gồm một số thành tố sau:
Tri thức chính trị: Đây được xem là yếu tố nền tảng của VHCT. Tri
thức chính trị biểu hiện ở trình độ học vấn, sự hiểu biết về chính trị, kinh
nghiệm và những trải nghiệm chính trị của mỗi người. Tri thức chính trị giúp
cho việc nhìn nhận các sự vật hiện tượng đúng bản chất, khách quan, đúng quy
luật từ đó mới đưa ra phân tích, nhận định, lý giải chính xác và giúp cho việc
ra quyết định luôn chuẩn xác và hiệu quả.

16


Tri thức chính trị bao gồm cả tri thức lý luận chính trị và tri thức kinh

nghiệm chính trị, hai lĩnh vực cơ bản này quan hệ biện chứng, thống nhất và
tác động qua lại lẫn nhau tạo nên cấu trúc của tri thức chính trị. Tri thức lý
luận chính trị đạt tới tính khách quan, khoa học sẽ giúp cho mỗi người, mỗi
giai cấp hiểu biết, giác ngộ về chính trị; nhận thức rõ hơn bản chất của các
quan hệ chính trị, quá trình chính trị và của vấn đề quyền lực chính trị, quyền
lực nhà nước, thể chế chính trị, cơ chế thực thi quyền lực chính trị, văn hóa
chính trị, con người chính trị…Tri thức kinh nghiệm chính trị sẽ giúp cho mỗi
người, mỗi giai cấp sự mẫn cảm, tinh tế, nhạy bén, sáng tạo trong việc xử lý
đúng dắn và kịp thời những vấn đề chính trị thực tiễn đặt ra. Tri thức kinh
nghiệm chính trị không chỉ được tích lũy trực tiếp trong hoạt động chính trị
thực tiễn, mà còn tích lũy gián tiếp thông qua những kinh nghiệm được kế
thừa trong truyền thống lịch sử của giai cấp, dân tộc và của cả cộng đồng.
Lý tưởng chính trị: Lý tưởng chính trị là mục tiêu chính trị cao nhất của
mỗi chủ thể chính trị. Nó đóng vai trò quan trọng trong việc lựa chọn phương
thức, phương tiện hoạt động chính trị. Lý tưởng chính trị do tri thức chính trị
quy định. Tri thức chính trị đúng sẽ là cơ sở, là nền tảng cho sự lựa chọn lý
tưởng chính trị sáng suốt. Đến lượt mình, lý tưởng chính trị định hướng tư
tưởng, tình cảm, ý chí chính trị vào hoạt động chính trị. Một nền chính trị
nhân đạo chỉ có được khi có một lý tưởng chính trị nhân đạo dẫn đường. Cho
nên lý tưởng chính trị là yếu tố chỉ đạo của VHCT.
Niềm tin chính trị: là trạng thái tâm lý thừa nhận sự đúng đắn đối với
một đối tượng, một lý tưởng chính trị. Đó là niềm tin có cơ sở khoa học, dựa
trên sự hiểu biết, làm cho con người giữ được sự kiên định, không dao động
trước những khó khăn, thất bại nhất thời. Niềm tin chính trị tạo ra sức mạnh to
lớn vì đó là sức mạnh tự nguyện, tạo ra ý chí, lòng trung thành và đức hy sinh.
Niềm tin chính trị được hình thành không phải chỉ do có hiểu biết về tri thức

17



chính trị mà còn là sự kết hợp giữa tri thức chính trị với tình cảm về chế độ
chính trị, đó là yếu tố sâu sắc nhất và ưu điểm nhất của VHCT. Niềm tin chính
trị là kết quả từ công tác giáo dục chính trị của chủ thể cho đối tượng và quá
trình tự giáo dục của mỗi cá nhân, nó được hình thành từ quá trình thực tiễn
của các phong trào hành động chính trị, các hoạt động có ý nghĩa thiết thực
trong đời sống xã hội mà cá nhân được tác động đến và được trực tiếp tham
gia trải nghiệm. Do đó, niềm tin chính trị sẽ ngày càng vững chắc khi được
hình thành và nuôi dưỡng trong môi trường chính trị, đặc biệt là trải qua
những thử thách, tôi luyện của phong trào cách mạng, trong những hoàn cảnh
gay go, phức tạp và được trau dồi rèn luyện trong thực tiễn, do đó phần lớn
các nhà hoạt động chính trị đều được rèn luyện và thử thách trong quá trình
thực tiễn chính trị để có đủ năng lực và bản lĩnh nắm giữ các nhiệm vụ chính
trị quan trọng của đất nước.
Giá trị chính trị: là những điều được tin là đúng đắn, có ý nghĩa, được
cộng đồng chia sẻ và thừa nhận một cách rộng rãi. Các giá trị chính trị thường
mang tính chủ quan, được tiếp nhận từ truyền thống, hoặc được định hình
thông qua thực tiễn chính trị. Các giá trị chính trị có tính ổn định và bền vững
trong đời sống cộng đồng, có ý nghĩa chi phối hành vi của các cá nhân, các
nhóm trong cộng đồng.
Hệ tư tưởng chính trị: Hệ tư tưởng là bộ phận cốt lõi nhất trong VHCT.
Hệ tư tưởng chính trị phản ánh khái quát lợi ích cũng như phương thức, con
đường để thực hiện lợi ích cơ bản của giai cấp, của liên minh giai cấp (hoặc
của nhân dân lao động nói chung - trong điều kiện của chủ nghĩa xã hội).
Hành vi của các chủ thể chính trị: Đó là hành động, việc làm; là lối
sống, nhân cách; là phương pháp, phong cách lãnh đạo, quản lý, trong giao
tiếp, ứng xử…của các chủ thể chính trị. Hành vi của chủ thể chính trị là tổng
hợp các nhân tố cấu thành văn hóa chính trị thông qua sự tác động và chuyển

18



×