Tải bản đầy đủ (.doc) (72 trang)

TÀI LIỆU THAM KHẢO GIÁO dục bản CHẤT GIAI cấp CÔNG NHÂN của QUÂN đội TRONG GIAI đoạn HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (448.97 KB, 72 trang )

Phần thứ nhất:
Bản chất giai cấp công nhân và những nhân tố chủ yếu tác động đến quá trình giáo dục

bản chất giai cấp công nhân của quân đội ta hiện nay
I. bản chất giai cấp công nhân và những nhân tố quy định bản chất giai cấp công nhân của quân đội ta
1. Bản chất của giai cấp công nhân và bản chất giai cấp của Đảng Cộng sản Việt Nam

Giữa bản chất của giai cấp công nhân, bản chất giai cấp công nhân của Đảng Cộng sản Việt Nam và bản
chất giai cấp công nhân của Quân đội nhân dân Việt Nam có mối quan hệ biện chứng với nhau, vừa thống
nhất lại vừa có sự khác biệt nhau. Để hiểu đầy đủ và chính xác về bản chất giai cấp công nhân của quân
đội ta, trước hết phải có hiểu biết cơ bản về bản chất của giai cấp công nhân, bản chất giai cấp công nhân
của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin
quan niệm về giai cấp công nhân khơng phải trong trạng thái tĩnh, mà trong q trình vận động, phát triển
của phương thức sản xuất và cơ cấu giai cấp, đấu
tranh giai cấp tương ứng với phương thức sản xuất đó. Các ơng tiếp cận giai cấp cơng nhân trên hai
phương diện có quan hệ gắn bó với nhau, đó là:
Thứ nhất, giai cấp cơng nhân là sản phẩm và là chủ thể của sản xuất công nghiệp với các tính chất
như: Về nguồn gốc xã hội được tuyển mộ trong tất cả các giai tầng xã hội; việc làm và đời sống chủ yếu
gắn với sản xuất công nghiệp, với các trung tâm công nghiệp và đơ thị; là người thợ có trình độ chun
mơn, kỹ thuật tương thích với sự phát triển của lực lượng sản xuất xã hội; chủ yếu sống bằng sức lao
động, nguồn thu nhập chính là tiền cơng, (tính chất làm công ăn lương); tâm lý vô sản, lối sống công
nghiệp và đô thị.
Thứ hai, giai cấp công nhân đồng thời cũng là sản phẩm và chủ thể của đấu tranh giai cấp chống giai
cấp tư sản. Được thể hiện ở các tính chất như: Từ đấu tranh tự phát đến đấu tranh tự giác, từ đấu tranh
kinh tế đến đấu tranh tư tưởng, chính trị. Trên cơ sở đó, từ giai cấp "tự mình'', tức là ý thức được lợi ích
khơng phải của các nhóm riêng rẽ mà của cả tập đồn mình, ý thức được địa vị tương quan của giai cấp
mình so với các giai cấp, tầng lớp xã hội khác đến giai cấp ''cho mình'', tức là trên cơ sở giai cấp ''tự
mình'' hình thành hệ tư tưởng, tự giác tổ chức lại thành những tổ chức chính trị - xã hội, mà tiêu biểu là
Đảng Cộng sản.
Chỉ khi hội đủ các tính chất có được từ q trình phát triển sản xuất cơng nghiệp nói riêng và lực


lượng sản xuất xã hội nói chung và từ cuộc đấu tranh chống giai cấp tư sản trên phạm vi dân tộc và quốc
tế - giai cấp công nhân mới có đầy đủ 4 đặc điểm sau:
- Tiên tiến trong sản xuất và đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến.
- ý thức tổ chức kỷ luật.
- Tiền phong trong đấu tranh giai cấp, đấu tranh xã hội.
- Tính quốc tế chân chính kết hợp với bản sắc dân tộc.
Bốn đặc điểm này tạo nên bản chất cách mạng và quốc tế của giai cấp công nhân. Nếu các tính chất
trên có tính ''khả biến'' thì đặc điểm và bản chất là ''bất biến'', nếu các tính chất ở mức này hay mức khác
có thể thấy ở một số tầng lớp xã hội khác, thì các đặc điểm này là chỉ riêng của giai cấp công nhân.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, khi chủ nghĩa xã hội khoa học kết hợp được với phong
trào công nhân thì bản chất giai cấp cơng nhân trở thành hạt nhân và cơ bản thống nhất với bản chất của
Đảng Cộng sản.


Như vậy, sự thống nhất giữa bản chất giai cấp công nhân với bản chất của Đảng Cộng sản chỉ diễn ra
trong những điều kiện nhất định và không thể đồng nhất giữa hai bản chất đó trong q trình vận động,
phát triển của Đảng Cộng sản với quá trình vận động, phát triển của tồn bộ giai cấp cơng nhân. Bởi vì,
bản chất của Đảng Cộng sản cịn có đặc điểm không thể thiếu được là tiên phong về lý luận khoa học.
Bởi lẽ, Đảng Cộng sản là sản phẩm của sự kết hợp giữa chủ nghĩa xã hội khoa học với phong trào cơng
nhân. Vai trị tiền phong của Đảng được thể hiện trước tiên ở lĩnh vực lý luận. Đảng (theo Lênin) phải
"được một lý luận tiền phong hướng dẫn thì mới có khả năng làm trịn vai trò người chiến sĩ tiền phong''.
Theo Người, trong điều kiện có chính quyền, Đảng phải là trí tuệ, danh dự và lương tâm của thời đại.
Như vậy, bản chất của Đảng Cộng sản là sự tổng hợp của các đặc điểm (thuộc tính bản chất): cách mạng,
quốc tế và khoa học.
Đảng Cộng sản là đội tiên phong chính trị có tổ chức và là đội ngũ có tổ chức chặt chẽ nhất, giác ngộ
nhất của giai cấp công nhân. Vì thế, Lênin khẳng định: "Khơng được lẫn lộn Đảng, tức là đội tiền phong
của giai cấp công nhân với tồn bộ giai cấp". Theo tinh thần này thì khơng thể đồng nhất bản chất của
Đảng Cộng sản với bản chất của (tồn bộ) giai cấp cơng nhân.
ở nước ta, sự xâm nhập của chủ nghĩa tư bản Pháp bằng chính sách khai thác thuộc địa đã làm xuất
hiện một lực lượng xã hội mới: giai cấp công nhân. Nhưng đó là một giai cấp mới quá nhỏ bé, đến năm

1930 số lượng cơng nhân nước ta mới chỉ có 22 vạn người, chiếm một tỷ lệ nhỏ trong dân cư. Đây cũng
là một trong nhiều lý do làm cho nhiều nhà yêu nước đương thời không nhận thấy vai trị lịch sử của giai
cấp cơng nhân đối với sự nghiệp giải phóng dân tộc.
Phát hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân thế giới là công lao của Mác và Ăngghen. Nhưng
qua những cuộc tranh luận lý luận về vấn đề đó trong phong trào cách mạng và phong trào công nhân từ
sau khi Các. Mác và Ph. Ăngghen qua đời và xem xét vấn đề đó vào những điều kiện cụ thể của Việt
Nam những năm hai mươi của thế kỷ XX mới thấy đầy đủ giá trị của lý luận và thực tiễn mà Hồ Chí
Minh đã cống hiến cho cách mạng Việt Nam. Sau này, đánh giá về giai cấp công nhân Việt Nam, Hồ Chí
Minh khẳng định: Chỉ có giai cấp cơng nhân là dũng cảm nhất, cách mạng nhất, luôn luôn gan góc đương
đầu với bọn đế quốc thực dân. Với lý luận cách mạng tiên phong và kinh nghiệm của phong trào công
nhân quốc tế, giai cấp công nhân ta tỏ ra là người lãnh đạo xứng đáng nhất và tin cậy nhất của nhân dân
Việt Nam.
Trong quá trình chuẩn bị thành lập Đảng và từ khi Đảng ra đời cho đến khi Người đi xa, Hồ Chí Minh
ln ln khẳng định, ln ln làm cho tồn Đảng qn triệt: Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng của giai
cấp công nhân. Đảng phải giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng. Lịch sử dân
tộc ta, trước Hồ Chí Minh đã có nhiều nhà u nước đầy nhiệt huyết, nhưng đều không cứu được nước,
không giành được độc lập dân tộc. Khác với các nhà yêu nước đương thời, Hồ Chí Minh đã sớm ý thức
được sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân mà đội tiên phong là Đảng Cộng sản. Người đã sáng lập ra
Đảng ta, giáo dục, rèn luyện Đảng trở thành một Đảng Mác xít - Lêninnít chân chính, lãnh đạo nhân dân
ta vượt qua nhiều khó khăn, thử thách, đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Bản chất của Đảng Cộng sản Việt Nam cơ bản
dựa vào bản chất giai cấp cơng nhân. Nhưng ngồi
hạt nhân cách mạng, quốc tế của giai cấp công nhân, bản chất của Đảng ta còn được thể hiện ở đặc điểm
khoa học và dân chủ.
Bởi lẽ, nguồn gốc của Đảng, như Hồ Chí Minh đã tổng kết nhân kỷ niệm 30 năm ngày thành lập
Đảng Lao động Việt Nam là ''chủ nghĩa Mác - Lênin kết hợp với phong trào công nhân và phong trào yêu
nước đã dẫn tới việc thành lập Đảng Cộng sản Đông Dương vào đầu năm 1930''. Hiện nay, Điều lệ Đảng
khẳng định: "Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai
cấp cơng nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc''. Như vậy, Đảng ta, do đứng vững trên lập trường
giai cấp công nhân khẳng định: không chỉ đại biểu cho lợi ích của giai cấp công nhân, mà đại biểu của



một liên minh các giai cấp, tầng lớp xã hội, cụ thể là giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, tầng lớp trí
thức và các tầng lớp nhân dân lao động khác. Đảng cũng phản ánh lợi ích của dân tộc. Và với tư cách là
một đảng cầm quyền, Điều lệ Đảng xác định: ''Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, tôn trọng và phát huy
quyền làm chủ, chịu sự giám sát của nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng; đoàn kết và lãnh
đạo nhân dân tiến hành sự nghiệp cách mạng''. Mặt khác, tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản trong
xây dựng, tổ chức sinh hoạt và hoạt động của Đảng. Nguyên tắc này dựa trên hai nguyên lý: tập trung và
dân chủ nhưng tính hướng đích của nó là dân chủ chứ không phải tập trung.
Như vậy, dân chủ cùng với ba thuộc tính bản chất khác là: cách mạng, quốc tế và khoa học tạo thành
bản chất của Đảng Cộng sản Việt Nam. Bản chất giai cấp công nhân cơ bản là thống nhất, nhưng không
thể đồng nhất với bản chất của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Xây dựng thành công một Đảng Cộng sản ở một nước vốn là thuộc địa nửa phong kiến, giai cấp công
nhân rất nhỏ bé, giai cấp nông dân chiếm đại đa số, làm cho Đảng ln giữ vững được tính chất giai cấp
cơng nhân, trung thành và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin trong thời đại mới là một cống hiến
quan trọng của Hồ Chí Minh về lý luận xây dựng Đảng vô sản kiểu mới mang bản chất giai cấp công
nhân.
Trong tác phẩm "Đường cách mệnh" viết năm 1926 Người đã chỉ rõ: "Đảng muốn vững thì phải lấy
chủ nghĩa làm cốt, trong Đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà khơng có chủ
nghĩa cũng như người khơng có trí khơn, tàu khơng có bàn chỉ nam. Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa
nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin". Trước khi
thành lập Đảng, Người đã đề ra chủ trương "vơ sản hóa", đưa cán bộ, đảng viên không xuất thân từ thành
phần công nhân vào hầm mỏ, nhà máy, đồn điền để tuyên truyền chủ nghĩa Mác - Lênin vào phong trào
công nhân đồng thời học tập, tự rèn luyện mình thành người vơ sản và thành người cộng sản. "Vơ sản
hóa" là một yếu tố đầu tiên quan trọng tạo điều kiện cho đảng viên thực sự giác ngộ và trung thành với
chủ nghĩa Mác - Lênin, giữ vững được bản chất giai cấp công nhân của Đảng.
Trong "Chánh cương vắn tắt", "Sách lược vắn tắt" được thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng Cộng
sản Việt Nam ngày 3 tháng 2 năm 1930, Người đã khẳng định: "Đảng là đội tiên phong của vô sản giai
cấp, phải thu phục cho được đại bộ phận giai cấp mình, phải làm cho giai cấp mình lãnh đạo được dân
chúng, Đảng phải thu phục cho được đại đa số dân cày và phải dựa vào hạng dân cày nghèo, phải hết sức

lãnh đạo cho dân cày nghèo làm thổ địa cách mạng đánh trúng bọn đại địa chủ và phong kiến".
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào
công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Do vậy, ngay từ khi ra đời Đảng ta đã mang bản chất giai
cấp cơng nhân, đại biểu trung thành cho lợi ích của nhân dân lao động và của cả dân tộc. Từ thực tế cách
mạng
Việt Nam, Người luôn coi trọng việc giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin, bồi dưỡng, rèn luyện năng lực và
phẩm chất cho đảng viên. Nhờ vậy, mặc dù Đảng Cộng sản ở một nước thuộc địa, đa số đảng viên không
phải là công nhân, nhưng bản chất giai cấp cơng nhân và vai trị tiên phong cách mạng của Đảng vẫn
được giữ vững. Và chính trong thực tiễn lãnh đạo cách mạng, Đảng ta trở thành người lãnh đạo cách mạng
của dân tộc Việt Nam, được toàn thể dân tộc Việt Nam coi là Đảng của mình, là người lãnh đạo duy nhất
của dân tộc mình.
Khi Đảng đã trở thành Đảng cầm quyền, sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, Người đã sớm cảnh
báo trong Đảng về nguy cơ thối hóa bản chất giai cấp cơng nhân, sa vào tệ quan liêu hóa, xa rời quần
chúng, trở thành tổ chức "làm quan" vi phạm quyền làm chủ dân, xa rời mục tiêu cách mạng của Đảng.
Người đã chỉ rõ 12 điều về "tư cách của Đảng chân chính cách mạng". Trong 12 điều đó thì điều đầu tiên
là "Đảng không phải là một tổ chức để làm quan phát tài. Nó phải làm trịn nhiệm vụ giải phóng dân tộc,
làm cho Tổ quốc giàu mạnh, đồng bào sung sướng".


Năm 1951, khi Đảng ra công khai và đổi tên thành Đảng Lao động Việt Nam, Người khẳng định bản
chất giai cấp công nhân của một Đảng cầm quyền và chỉ rõ trong điều kiện lịch sử mới, quyền lợi của
giai cấp công nhân và nhân dân lao động và của cả dân tộc là một. Đảng Lao động Việt Nam là Đảng của
giai cấp công nhân và nhân dân lao động cho nên Đảng cũng là Đảng của dân tộc. Cũng có người ngại
nói Đảng của dân tộc là sợ trái với bản chất giai cấp công nhân, Đảng luôn luôn là Đảng của giai cấp
công nhân theo hệ tư tưởng của giai cấp công nhân nhưng khi đã trở thành Đảng cầm quyền, khi Đảng
thực sự là người vừa đại diện cho lợi ích của giai cấp cơng nhân, vừa đại diện cho lợi ích cả dân tộc,
được cả dân tộc thừa nhận thì việc khẳng định Đảng cũng là Đảng của dân tộc là hoàn toàn đúng. Theo tư
tưởng Hồ Chí Minh, là Đảng của giai cấp công nhân nên Đảng cũng phải đặc biệt chú trọng đến thành
phần công nhân trong công tác đảng viên và công tác cán bộ. Nhưng Đảng cũng tránh "chủ nghĩa thành
phần" mà hẹp hịi khơng dám kết nạp và đề bạt những người ưu tú xuất thân từ các thành phần xã hội

khác. Hồ Chí Minh thường xuyên nhấn mạnh bản chất giai cấp công nhân của Đảng là mọi đảng viên
xuất thân từ thành phần nào cũng phải suy nghĩ và hành động theo hệ tư tưởng của giai cấp cơng nhân.
Nhưng Người cũng ln ln nhắc nhở tồn Đảng về sự thống nhất lợi ích của Đảng và của dân tộc.
Trong lời khai mạc lễ kỷ niệm lần thứ 30 ngày thành lập Đảng, Người đã chỉ rõ: "Đảng ta vĩ đại vì ngồi
lợi ích của giai cấp, của nhân dân, của dân tộc, Đảng ta khơng có lợi ích gì khác", "Đảng ta là đạo đức, là
văn minh", "là thống nhất, độc lập, là hịa bình, ấm no". Trước lúc đi xa, Người đã căn dặn: "Đảng ta là một
Đảng cầm quyền… phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ
thật trung thành của nhân dân".
Thực tiễn lịch sử của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế đã chỉ rõ, đã là Đảng Cộng sản thì
Đảng nào cũng phải coi trọng việc giữ vững bản chất giai cấp công nhân. Đảng Cộng sản ra đời và hoạt
động ở một nước mà kinh tế còn kém phát triển, giai cấp cơng nhân hiện đại cịn ít như ở Việt Nam thì
việc khơng ngừng nâng cao bản chất giai cấp công nhân của Đảng lại càng quan trọng. Trong mọi giai
đoạn và mọi thời kỳ cách mạng, bản chất công nhân, sự vững mạnh của Đảng cũng phải được thể hiện cả
về chính trị, tư tưởng và tổ chức.
Về đường lối chính trị, Người coi Đảng là đội tiên phong chính trị của giai cấp cơng nhân và khi đã
trở thành Đảng cầm quyền thì Đảng đồng thời là đội tiên phong chính trị của cả dân tộc. Đường lối chính
trị là vấn đề cốt tử đầu tiên quyết định vận mệnh của Đảng và cả vận mệnh của dân tộc. Hồ Chí Minh đã
xác định cho Đảng ta một đường lối chính trị đúng đắn; làm cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân tiến lên
chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Trong cương lĩnh đầu tiên, Người viết: "làm tư sản dân
quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản".
Nhờ đường lối chính trị đúng đắn của Hồ Chí Minh ngay từ đầu, Đảng ta đã đoàn kết các giai cấp,
tầng lớp cách mạng, các lực lượng yêu nước trên cơ sở liên minh cơng nơng. Đó là yếu tố quan trọng đầu
tiên giúp Đảng ta nắm được quyền lãnh đạo. Cương lĩnh đầu tiên của Đảng, đáp ứng nguyện vọng, lợi
ích của quần chúng lao động nên đã nhanh chóng phát động được cao trào trong những năm 1930-1931
và đã định hướng đúng cho sự phát triển của các thời kỳ lịch sử tiếp theo.
Thừa nhận hay không thừa nhận sứ mệnh lịch sử và vai trị lãnh đạo của giai cấp cơng nhân là một
trong những tiêu chuẩn quan trọng nhất để phân biệt người Mácxít - Lêninnít chân chính với bọn cơ hội
chủ nghĩa. Cuộc cách mạng vô sản đầu tiên sau Cách mạng tháng Mười thành công đã mở ra thời đại mới
của xã hội lồi người. Nhưng từ đó đến nay, đặc biệt là từ sau khi chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và
Đông Âu sụp đổ chủ nghĩa Mác - Lênin vẫn phải tiếp tục đấu tranh chống những nhận thức, những

khuynh hướng cơ hội chủ nghĩa tiếp tục phủ nhận vai trò của giai cấp cơng nhân, phủ nhận vai trị lãnh
đạo của chính đảng của giai cấp cơng nhân. Hồ Chí Minh là người có cơng lớn đầu tiên đối với dân tộc
ta, với Đảng ta là về mặt lý luận đã sớm khẳng định vai trị lãnh đạo của giai cấp cơng nhân Việt Nam
sớm sáng lập và xây dựng một đảng tiên phong của giai cấp công nhân.


Trung thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta qua mọi giai đoạn và mọi thời kỳ cách
mạng đều coi trọng xây dựng Đảng mang bản chất giai cấp công nhân. Tại Đại hội II của Đảng, tháng 2
năm 1951, Đảng ta chủ trương xây dựng chính quyền nhân dân, dựa vào Mặt trận Dân tộc thống nhất, lấy
liên minh công nhân, nông dân và lao động trí thức làm nền tảng, do giai cấp cơng nhân lãnh đạo. Trong
suốt quá trình lãnh đạo đấu tranh giành chính quyền, Đảng ta ln coi giai cấp cơng nhân là lực lượng
nòng cốt, lãnh đạo cách mạng và đã đưa ra nhiều chủ trương, chính sách nhằm tập hợp, xây dựng giai
cấp công nhân vững mạnh, thực sự phát huy được vai trị tiên phong trong cách mạng, góp phần đưa sự
nghiệp đấu tranh giải phóng đất nước đi đến thắng lợi. Khi nước nhà thống nhất, cả nước đi lên chủ
nghĩa xã hội, vấn đề xây dựng và phát huy vai trị của giai cấp cơng nhân tiếp tục được Đảng ta đặc biệt
quan tâm. Nghị quyết Đại hội IV của Đảng xác định: xây dựng giai cấp công nhân không ngừng lớn
mạnh về số lượng và chất lượng, xứng đáng với vai trò giai cấp tiên phong, lãnh đạo cách mạng là nhiệm
vụ trọng tâm trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Tiến hành cơng cuộc đổi mới tồn diện đất nước,
nhận thức rõ ý nghĩa quan trọng của vấn đề xây dựng và phát triển giai cấp công nhân trong giai đoạn
cách mạng mới, Nghị quyết Đại hội VI của Đảng (năm 1986) chỉ rõ: "Đảng cần có những biện pháp cụ thể
nhằm nâng cao giác ngộ xã hội chủ nghĩa và trình độ hiểu biết về mọi mặt để xứng đáng với vị trí giai cấp
tiên phong của cách mạng, đồng thời chăm lo đời sống vật chất và văn hóa, tạo ra những điều kiện cần
thiết để giai cấp công nhân hồn thành sứ mệnh lịch sử của mình".
Hội nghị Trung ương 7 khóa VII nhấn mạnh: "Cùng với q trình phát triển công nghiệp và công
nghệ theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, cần xây dựng giai cấp công nhân phát triển về
số lượng, giác ngộ về giai cấp, vững vàng về chính trị, tư tưởng, có trình độ học vấn và tay nghề cao, có
năng lực tiếp thu và sáng tạo công nghệ mới, lao động đạt năng suất, chất lượng, hiệu quả cao, vươn lên
làm trịn sứ mệnh lịch sử của mình". Với tinh thần thẳng thắn, Đảng đã chỉ ra những hạn chế về xây
dựng, phát huy vai trị của giai cấp cơng nhân và cơng đồn trong q trình chuyển sang cơ chế mới: đã
có những biểu hiện coi nhẹ vị trí, vai trị của giai cấp cơng nhân; các chủ trương, chính sách xây dựng

giai cấp công nhân chậm được đổi mới và khẳng định: "Xây dựng giai cấp công nhân vững mạnh là trách
nhiệm của Đảng, Nhà nước, cơng đồn và các tổ chức chính trị - xã hội, đồng thời là trách nhiệm của
mỗi người, mỗi tập thể công nhân". Quan điểm này tiếp tục được khẳng định và phát triển tại Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ VIII (năm 1996).
Bước vào thế kỷ XXI, trước yêu cầu đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, tư duy của Đảng về giai cấp cơng nhân ngày càng phát triển và hồn thiện. Tại
Đại hội IX (năm 2001), Đảng ta khẳng định: "Đối với giai cấp công nhân, coi trọng phát triển về số
lượng và chất lượng, nâng cao giác ngộ và bản lĩnh chính trị, trình độ học vấn và nghề nghiệp, thực hiện
"trí thức hóa cơng nhân", nâng cao năng lực ứng dụng và sáng tạo công nghệ mới, lao động đạt năng
suất, chất lượng và hiệu quả ngày càng cao, xứng đáng là một lực lượng đi đầu trong sự nghiệp cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và vai trị lãnh đạo cách mạng trong thời kỳ mới...".
Q trình đổi mới tư duy của Đảng ta về vị trí, vai trị của giai cấp cơng nhân từng bước được bổ sung
trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, tạo nền tảng cho việc hoàn thiện đường lối, chủ trương xây
dựng và phát huy vai trị của giai cấp cơng nhân, đã và đang là động lực mạnh mẽ thúc đẩy giai cấp công
nhân không ngừng lớn mạnh và ngày càng có những đóng góp to lớn, có tính chất quyết định đến sự phát
triển của cách mạng Việt Nam. Hiện nay, giai cấp công nhân nước ta tuy chỉ chiếm 17,5% tổng lực lượng
lao động xã hội, nhưng hàng năm tạo ra khoảng 70% giá trị tổng sản phẩm trong nước và đang nắm giữ
những cơ sở vật chất quan trọng nhất và có tính quyết định tới phương hướng phát triển của nền kinh tế xã hội, thực sự là lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, là lực lượng nòng cốt trong khối liên minh cơng nhân - nơng dân - trí thức, là
nền tảng vững chắc của khối đại đoàn kết dân tộc.


Trong bối cảnh cuộc cách mạng khoa học - công nghệ trên thế giới đang phát triển nhanh chóng và có
tác động sâu sắc, mạnh mẽ đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, cuộc đua giành thắng lợi trong sản
xuất, kinh doanh hiện nay chủ yếu là đua tranh về trí tuệ, về hàm lượng chất xám, chất lượng nguồn nhân
lực, giai cấp công nhân nước ta hiện đang cịn bộc lộ khơng ít mặt hạn chế: Trình độ học vấn, chuyên
môn, nghiệp vụ đa phần chưa đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của công việc, nhiều công nhân chưa
qua đào tạo; thiếu kỹ sư giỏi và công nhân lành nghề trong nhiều ngành, nhiều lĩnh vực, đặc biệt là lĩnh
vực khoa học - kỹ thuật và cơng nghệ; có sự mất cân đối trong cơ cấu lao động kỹ thuật giữa các bộ phận
công nhân; ý thức phấn đấu rèn luyện, học tập nâng cao trình độ, ý thức tổ chức kỷ luật lao động, tác

phong cơng nghiệp của khơng ít cơng nhân chưa cao; một bộ phận bị tha hóa, có lối sống thực dụng, phai
nhạt lý tưởng...
Trước yêu cầu của tình hình mới, việc xây dựng, phát triển giai cấp công nhân là yêu cầu khách quan
và cấp bách, đòi hỏi Đảng, Nhà nước cũng như cả hệ thống chính trị cần hoạch định và thực hiện tốt
chiến lược xây dựng, phát triển, phát huy triệt để vai trò tiên phong và gương mẫu của giai cấp công
nhân, coi đây là nhiệm vụ chiến lược tất yếu, liên tục, gắn liền với việc thực hiện các mục tiêu kinh tế,
chính trị, xã hội của đất nước. Trước mắt cũng như lâu dài, Đảng và Nhà nước cần tập trung đầu tư toàn
diện nhằm xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam phát triển vững về số lượng, mạnh về chất lượng, tiếp
tục củng cố và hoàn thiện hệ thống quan điểm, nguyên tắc về việc xây dựng, phát huy vai trò bản chất
của giai cấp công nhân trong điều kiện mới.
Để tăng cường bản chất giai cấp công nhân trong thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố
hiện nay phải có tư duy mới về giai cấp công nhân.
Trước đây, khi vận dụng chủ nghĩa duy vật lịch sử vào nghiên cứu sự hình thành và phát triển của chủ
nghĩa tư bản, C. Mác đã phát hiện ra vai trò lịch sử của giai cấp công nhân trong cuộc đấu tranh cách
mạng xóa bỏ chế độ tư bản và xây dựng chế độ xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ
nghĩa. Trong cuộc đấu tranh cách mạng vì sứ mệnh lịch sử đó, giai cấp cơng nhân chuyển từ giai cấp "tự
mình" thành giai cấp "vì mình", phong trào cơng nhân phát triển từ tự phát đến tự giác khi tổ chức ra đội
tiên phong của mình - các Đảng Cộng sản.
Thắng lợi vĩ đại của Cách mạng tháng Mười Nga đầu thế kỷ XX đã mở ra thời đại quá độ của xã hội
loài người từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Tiếp đó là sự hình thành hệ
thống xã hội chủ nghĩa trên thế giới vào giữa thế kỷ XX. Hệ thống này đã ảnh hưởng tích cực đến đời
sống nhân loại trong nhiều thập niên sau. Điều đó chứng minh cho phát hiện đúng đắn của C. Mác về vai
trò lịch sử của giai cấp cơng nhân.
Trong tình hình hiện nay, luận điểm của C. Mác về vai trò lịch sử của giai cấp cơng nhân vẫn cịn giá
trị, nhưng cũng cần có tư duy mới về giai cấp cơng nhân. Bởi vì, trong mấy trăm năm, kể từ khi giai cấp
công nhân ra đời đến nay, xã hội loài người trải qua biết bao biến cố to lớn, cả những bước ngoặt có tính
thời đại, như Cách mạng tháng Mười Nga và sự phát triển của văn minh nhân loại từ văn minh cơng
nghiệp sang văn minh trí tuệ. Chủ nghĩa tư bản khơng cịn là chủ nghĩa tư bản cổ điển mà đã phát triển
thành chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa tư bản hiện đại. Giai cấp công nhân cũng thay đổi rất nhiều, khác hẳn
giai cấp công nhân ở thế kỷ XIX.

Những luận điểm của C. Mác về giai cấp công nhân được đưa ra trong điều kiện của văn minh công
nghiệp. Những thành tựu mới của cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại từ giữa thế kỷ XX, tiếp đó là
cuộc cách mạng tin học, đã dần dần đưa nhân loại từ văn minh công nghiệp sang văn minh trí tuệ, đánh
dấu bước phát triển nhảy vọt chưa từng có của lực lượng sản xuất trong lịch sử nhân loại. Do vậy, tư duy
mới về giai cấp công nhân phải là tư duy về giai cấp công nhân trong điều kiện hiện nay.
Luận điểm của C. Mác về sự gắn bó giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất khác hẳn luận điểm
còn phiến diện trước đó chỉ thấy hoặc nhấn mạnh một chiều vai trị của lực lượng sản xuất. C. Mác luôn
luôn khẳng định vai trò quyết định của lực lượng sản xuất trong mối quan hệ với quan hệ sản xuất. Ông


cho rằng, sự chuyển biến từ hình thái kinh tế - xã hội này sang hình thái kinh tế - xã hội khác nhất thiết
phải trải qua đấu tranh cách mạng của những giai cấp cách mạng, nhưng nhân tố quyết định nhất vẫn là
bước nhảy vọt mới về chất của lực lượng sản xuất.
Những thành tựu của chủ nghĩa tư bản, nhất là của chủ nghĩa tư bản hiện đại, gắn liền với sự phát
triển của lực lượng sản xuất từ văn minh nông nghiệp sang văn minh công nghiệp, rồi từ văn minh cơng
nghiệp sang văn minh trí tuệ. Đến nay, những thành tựu đó đã làm thay đổi rất nhiều chế độ tư bản, giai
cấp tư sản, giai cấp công nhân và các tầng lớp dân cư trong hầu hết các quốc gia - dân tộc.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất dần dần làm thay đổi căn bản cơ cấu các ngành nghề kinh tế - kỹ
thuật, và từ đó, hình thành những đặc điểm mới của giai cấp công nhân, rõ nhất là ở các nước tư bản phát
triển. Cơ cấu GDP của các nước tư bản phát triển khơng cịn như trước đây, mà đã thay đổi hẳn theo
hướng: ngành dịch vụ chiếm tỉ trọng ngày càng lớn, tiếp đến ngành công nghiệp và ngành nông nghiệp.
Về cơ cấu, giai cấp công nhân cũng có sự thay đổi
nhất định.
Nói đến giai cấp cơng nhân trước đây, chúng ta thường nghĩ nhiều đến những người lao động chân
tay hơn là những người lao động trí óc; chủ yếu nói đến cơng nhân "áo xanh", ít nói đến cơng nhân "áo
vàng" (kỹ thuật viên); cịn công nhân "áo trắng" hay "công nhân cổ cồn" (kỹ sư) thì cho rằng, họ thuộc
tầng lớp cơng nhân q tộc, gắn bó chặt chẽ với giai cấp tư sản và là cơ sở xã hội của chủ nghĩa cải
lương trong phong trào công nhân. Ngày nay, đã xuất hiện và phát triển ngày càng nhiều lực lượng công
nhân được trí thức hóa, những cơng nhân "áo vàng" và cơng nhân "áo trắng" ngày càng tăng, trong khi lực
lượng công nhân "áo xanh" ngày càng giảm dần.

Ngày nay, những thành tựu của cách mạng tin học - tin học hóa đã mở rộng ra phạm vi toàn cầu và
dẫn đến sự ra đời của "internet hóa". Điều quan trọng là, những thành tựu của cách mạng tin học ngày
càng xâm nhập sâu vào mọi hoạt động của đời sống xã hội, nhất là trong sản xuất, kinh doanh, làm hình
thành dần kinh tế tri thức. Những thành tựu đó đánh dấu một giai đoạn mới của cách mạng tin học và bắt
đầu mở ra kỷ ngun thơng tin. Vai trị của khoa học - cơng nghệ, của lao động trí óc đối với phát triển
kinh tế, xã hội ngày càng tăng; khoa học - công nghệ đã và đang trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp,
đúng như tiên đoán của Các. Mác.
Vì vậy, đổi mới tư duy về giai cấp cơng nhân, nói về giai cấp cơng nhân trong điều kiện phát triển của
cách mạng khoa học công nghệ hiện nay, chính là nhằm làm rõ khả năng và yêu cầu của giai cấp công
nhân hiện đại trong sứ mệnh lịch sử xóa bỏ chủ nghĩa tư bản hiện đại, thiết lập và xây dựng chủ nghĩa xã
hội hiện đại. Như vậy, tư duy mới về giai cấp công nhân hiện đại gắn liền với tư duy mới về chủ nghĩa xã
hội hiện đại.
Hiện nay, xét về tổng thể, lồi người vẫn đang thực hiện q trình cơng nghiệp hóa. ở các nước phát
triển, đã kết thúc giai đoạn cơng nghiệp hóa cổ điển, chuyển sang giai đoạn cơng nghiệp hóa hiện đại và
tiếp cận ngày càng sâu văn minh trí tuệ. Cịn ở những nước chậm và đang phát triển, q trình cơng
nghiệp hóa diễn ra có phần cịn trong giai đoạn cơng nghiệp hóa cổ điển, đồng thời tiếp cận dần giai đoạn
cơng nghiệp hóa hiện đại và một số thành tựu của kỷ nguyên tin học, của văn minh trí tuệ. Tất nhiên, cơ
cấu các ngành nghề kinh tế - kỹ thuật và tình hình giai cấp công nhân ở những nước này không giống ở
những nước phát triển.
ở nước ta, sau thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945, qua mấy chục năm xây dựng chủ nghĩa
xã hội ở miền Bắc, tiến hành chiến tranh giành độc lập hoàn toàn, thống nhất đất nước và tiến lên chủ
nghĩa xã hội trên cả nước, nền kinh tế căn bản vẫn là một nền kinh tế nông nghiệp, nhiều phần lạc hậu,
cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội có được xây dựng bước đầu nhưng chưa được bao nhiêu.
Trong sự nghiệp đổi mới, sau khi thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, nước ta bước vào giai đoạn
đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, gắn với phát triển kinh tế tri thức. Theo chủ trương của Đảng,
đến năm 2020, nước ta mới căn bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại.


Xét về quá trình phát triển của lực lượng sản xuất, nước ta cịn đang trong cuộc cách mạng cơng
nghiệp, có phần cịn ở giai đoạn cơng nghiệp hóa cổ điển, nhưng cố gắng "đi tắt, đón đầu", tiến vào giai

đoạn cơng nghiệp hóa hiện đại và tiếp cận kỷ nguyên thông tin, bước đầu xây dựng kinh tế tri thức. Cơ
cấu ngành nghề kinh tế - kỹ thuật dần dần có sự chuyển đổi theo hướng: tăng dần dịch vụ và công
nghiệp, thu hẹp dần nông nghiệp. Hiện nay, lao động nơng nghiệp đóng góp khoảng 20% GDP cả nước;
đến năm 2020, có thể giảm xuống cịn 10% (đương nhiên, giá trị tuyệt đối vẫn tăng), có nghĩa là khi đó
dịch vụ và cơng nghiệp có thể lên tới 80% - 90%. Điểm đáng chú ý là, những thành tựu của cách mạng
tin học đang xâm nhập nhiều vào hầu hết các lĩnh vực kinh tế, nhất là các lĩnh vực bưu chính - viễn
thơng, ngân hàng, hàng khơng, nông nghiệp, dịch vụ. Công nghệ thông tin đang trở thành ngành kinh tế
mũi nhọn, có tốc độ tăng trưởng hàng năm vào loại cao nhất và đóng góp ngày càng nhiều vào GDP cả
nước. Từ đó, dần dần hình thành một cơ cấu đội ngũ lao động và công nhân mới ở nước ta.
Nghiên cứu sự phát triển của cách mạng tin học, của lao động trí óc trong điều kiện của kỷ nguyên thông
tin, của kinh tế tri thức đã có ý kiến về sự xuất hiện những "cơng nhân tri thức" trong văn minh trí tuệ và
phân biệt những cơng nhân này với những "cơng nhân trí thức" trong văn minh công nghiệp. Sự phân
biệt giữa "công nhân tri thức" và "cơng nhân trí thức" có thể làm rõ sự phát triển mới của công nhân
trong kinh tế tri thức. Nhưng có lẽ cả "lao động tri thức", "lao động trí óc", cùng một bộ phận tầng lớp trí
thức gia nhập hàng ngũ giai cấp cơng nhân và bộ phận lao động chân tay (còn chiếm tỷ trọng lớn, nhất là
ở nông thôn) dần dần được đào tạo theo u cầu của cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa sẽ ngày càng phát
triển trong q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, tiếp cận cách mạng thơng tin. Tất cả các lực lượng
lao động đó hợp thành một q trình lịch sử trí thức hóa giai cấp cơng nhân, đưa giai cấp công nhân ở
nước ta từng bước trở thành giai cấp cơng nhân của văn minh trí tuệ. Đó cũng là q trình "trí thức hóa cơng
nơng" và "cơng nơng hóa trí thức", như dự đốn thiên tài của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Đội tiên phong của giai cấp công nhân hiện đại nhất thiết phải là bộ phận trí tuệ nhất của giai cấp, của
thời đại mới. Phải tiếp cận những thành tựu mới nhất của văn minh nhân loại, kết hợp với sự phân tích
khoa học, trên cơ sở của phép biện chứng mácxít, những điều kiện của thế giới ngày nay đang chịu sự tác
động của chủ nghĩa tư bản hiện đại. Từ đó, đề ra cương lĩnh, chiến lược, sách lược phù hợp với hoàn
cảnh cụ thể của quốc gia - dân tộc để từng bước tìm con đường giải phóng, vượt qua chủ nghĩa tư bản
hiện đại, xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện đại.
Trong thời đại ngày nay, bản chất giai cấp của Đảng Cộng sản vẫn là bản chất giai cấp của giai cấp
cơng nhân; cơ sở chính trị - xã hội chủ yếu của Đảng Cộng sản phải là giai cấp cơng nhân trong q trình
phát triển từ văn minh cơng nghiệp sang văn minh trí tuệ; tư duy mới về giai cấp công nhân phải gắn liền
với tư duy mới về chủ nghĩa xã hội hiện đại. Có thể nói, một trong những ngun nhân chính dẫn đến sự

lạc hậu, bất cập trước đây của Đảng Cộng sản ở một số nước tư bản phát triển là do khơng nhận thức
được điều này. Bởi vậy, ở đó, Đảng Cộng sản dần dần mất cơ sở chính trị - xã hội cần có của mình, gắn
liền với những cương lĩnh ngày càng xa rời cuộc sống. Giai cấp công nhân hiện đại, nhân dân lao động
không thấy được con đường đi tới một xã hội tốt đẹp hơn, mà đôi khi mất phương hướng và dường như
kỳ vọng vào một tương lai nào đó trong lịng chủ nghĩa tư bản hiện đại, khi ở đó xuất hiện và phát triển
dần một số yếu tố của xã hội mới, nhưng đội tiên phong của giai cấp công nhân hiện đại đã không nhận
ra để làm sinh sôi nảy nở.
Đảng Cộng sản Việt Nam mang bản chất giai cấp công nhân Việt Nam, là Đảng của giai cấp công
nhân và của dân tộc Việt Nam. Bởi nhiều lẽ: Đảng là con đẻ của hai phong trào: phong trào công nhân và
phong trào yêu nước (chứ không chỉ là con đẻ của phong trào công nhân như ở những nước tư bản).
Trong q trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ln giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội, trong đó đặt nhiệm vụ dân tộc lên trên và lên trước, coi nhiệm vụ dân tộc là tiền đề, điều
kiện tiên quyết và là cơ sở để hoàn thành nhiệm vụ giai cấp, xây dựng chủ nghĩa xã hội. Lãnh đạo cách
mạng xã hội chủ nghĩa, Đảng động viên sức mạnh toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân,


coi cách mạng xã hội chủ nghĩa không chỉ là nhiệm vụ giai cấp mà còn là nhiệm vụ dân tộc, định hướng
cho nhiệm vụ dân tộc, bảo đảm độc lập dân tộc, giải phóng dân tộc triệt để, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa
xã hội.
Giai cấp công nhân Việt Nam ngày nay đang phát triển nhanh cả về số lượng và chất lượng, phát triển
trong sự phân hóa thường xun - một sự phân hóa tích cực. Đó là sự phân hóa trong cơ cấu ngành nghề
kinh tế - kỹ thuật, phát triển lực lượng sản xuất; trong cơ cấu thành phần kinh tế, xây dựng quan hệ sản
xuất phù hợp với lực lượng sản xuất; trong phân công lao động xã hội.
Nhận thức đúng bản chất và xu thế phát triển của giai cấp công nhân Việt Nam ngày nay, trên cơ sở
đó, có chủ trương, chính sách thích hợp để tiếp tục mở rộng đội ngũ và nâng cao chất lượng giai cấp
công nhân, khiến cho nó xứng đáng với vai trị lãnh đạo trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội hiện đại,
đó là yêu cầu đầu tiên và cũng là quan trọng nhất của Đảng Cộng sản.
Ngày nay nước ta trở thành thành viên chính thức của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), đặt ra
nhiều cơ hội và thách thức cho giai cấp cơng nhân nói riêng và cả hệ thống chính trị nói chung.
Bắt nguồn từ một nước nơng nghiệp, kinh tế chậm phát triển, nhưng giai cấp công nhân Việt Nam

mang đầy đủ bản chất giai cấp công nhân quốc tế, thơng qua đội tiên phong của mình là Đảng Cộng sản
Việt Nam, hơn 77 năm qua Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta vượt qua mn vàn khó khăn, gian khổ, lập nên
những kỳ tích rất vẻ vang, kể cả trong sự nghiệp đánh đuổi giặc ngoại xâm, giành lại độc lập tự do cho
Tổ quốc cũng như thực hiện cơng cuộc đổi mới đất nước.
Trong mọi hồn cảnh, điều kiện, giai cấp công nhân nước ta luôn là lực lượng đi đầu trong xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc. Nhất là trong sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước, đội ngũ cơng nhân
lao động là lực lượng sản xuất cơ bản, có vai trị quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, nắm giữ những
lĩnh vực then chốt và các phương tiện hiện đại của nền sản xuất. Tuy nhiên, do tác động mặt trái cơ chế
thị trường, chuyển đổi của nền kinh tế đất nước, sắp xếp lại các doanh nghiệp, một bộ phận công nhân
lao động thiếu việc làm, chênh lệch về mức sống có chiều hướng ngày một lớn hơn…
Hội nhập kinh tế quốc tế đã tạo điều kiện thuận lợi thu hút đầu tư nước ngoài vào trong nước, mở ra
nhiều cơ hội việc làm tại các khu công nghiệp, khu chế xuất, nhưng nguy cơ mất việc làm với công nhân
có trình độ tay nghề thấp lại càng diễn ra gay gắt hơn. Tình trạng "thừa thầy, thiếu thợ" vẫn phổ biến ở
các cơ sở sản xuất đòi hỏi tay nghề cao. Ngay tại các khu chế xuất, khu công nghiệp, doanh nghiệp sử
dụng nhiều lao động phổ thông, phần lớn cơng nhân lao động tuổi đời cịn rất trẻ, nhưng lại khơng được
đào tạo cơ bản, trình độ tay nghề rất hạn chế…
Đây cũng chính là thách thức lớn nhất của giai cấp công nhân nước ta "ra biển lớn" hội nhập. Nhưng
thách thức, cũng giống như cơ hội, khơng phải là "bất biến", ngược lại nếu có đầy đủ bản lĩnh, có lịng
quả cảm và có quyết tâm vượt qua khó khăn thì thách thức sẽ biến thành cơ hội để vượt lên.
Để giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp công nhân trong điều kiện mới, Đảng cần có ngay chiến
lược tổng thể, tồn diện xây dựng, phát huy vai trị giai cấp cơng nhân. Lãnh đạo Nhà nước xây dựng và
thực hiện có hiệu quả một chương trình phát triển của quốc gia đối với giai cấp cơng nhân. Tập trung đầu
tư thích đáng cả về vật chất tinh thần, gắn phát triển kinh tế với đảm bảo các vấn đề xã hội. Đây là thước
đo thể hiện bản chất của nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa với kinh tế thị trường tư
bản chủ nghĩa, trước mắt cũng như lâu dài để tạo cho giai cấp công nhân phát huy bản chất của mình và
phát triển mạnh mẽ trong điều kiện mới.
Tiếp tục kiên định lập trường và cụ thể hóa trong hoạt động thực tiễn việc tăng cường và giữ vững
bản chất giai cấp công nhân của Đảng. Đây là vấn đề cực kỳ quan trọng, nó khơng phải chỉ là câu chữ
ghi trong văn kiện mà nó ảnh hưởng trực tiếp đến đường lối, chiến lược của Đảng. Nhất là trong điều
kiện hiện nay khơng ít người muốn xem nhẹ yếu tố giai cấp, thậm chí có ý kiến còn muốn từ bỏ quan



điểm đấu tranh giai cấp và mục tiêu lý tưởng của Đảng. Hơn lúc nào hết, phải thấm nhuần sâu sắc lời dạy
của Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Giai cấp cơng nhân mà khơng có một chính Đảng cách mạng lãnh đạo thì
khác nào con thuyền khơng có người cầm lái, dễ mất phương hướng. Cịn Đảng Cộng sản khơng mang
bản chất giai cấp công nhân, không đứng trên lập trường của giai cấp cơng nhân thì khơng cịn là một
Đảng tiên phong lãnh đạo". Suốt chặng đường 77 năm qua, Đảng ta đã công khai khẳng định như vậy
nhưng vẫn được các giai cấp, tầng lớp và nhân dân ta tin theo Đảng làm cách mạng. Do vậy, không phải
chỉ là vấn đề bản chất của Đảng, mà vấn đề cốt lõi là đòi hỏi Đảng ta phải tiếp tục đổi mới nội dung,
phương thức, năng lực lãnh đạo đáp ứng u cầu của đất nước.
Chính vì vậy, cần tập trung lãnh đạo hồn thiện chính sách và đẩy mạnh thực hiện chính sách đào tạo,
đào tạo lại cơng nhân để giai cấp cơng nhân có trình độ chính trị, học vấn chun mơn nghiệp vụ; hồn
thiện chính sách tiền lương, tiền cơng, chính sách nhà ở; tăng cường hơn nữa công tác kiểm tra, giám sát
việc thực hiện pháp luật lao động, luật cơng đồn, bảo hộ lao động, các chính sách bảo hiểm cho cơng
nhân, chú trọng chăm lo cải thiện điều kiện lao động, phòng chống có hiệu quả tai nạn lao động và bệnh
nghề nghiệp; xử lý nghiêm những vi phạm pháp luật làm ảnh hưởng đến quyền lợi của người lao động,
bất luận đó là chủ doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế nào, khơng vì thu hút đầu tư bằng mọi giá mà
xem nhẹ quyền lợi của công nhân lao động.
Trong điều kiện hiện nay cần phải tiếp tục đẩy mạnh cuộc vận động sâu rộng trong toàn Đảng, toàn
dân về việc nâng cao hơn nữa nhận thức và ý thức phát triển trình độ chun mơn, nghiệp vụ trong tầng
lớp cơng nhân, lao động nhằm đáp ứng yêu cầu của sự phát triển đất nước, từ đó góp phần nâng cao địa
vị của người lao động, phát triển các giá trị văn hóa lao động, hình thành phong cách lao động cơng
nghiệp, tiên tiến, văn minh, góp phần cải thiện đời sống, phát triển kinh tế - xã hội đất nước.
Nhà nước cần tập trung nghiên cứu, hồn thiện chính sách đào tạo, đào tạo lại công nhân, xác định rõ
tiêu chuẩn công nhân phải qua đào tạo, đặc biệt trong các ngành trọng điểm, các lĩnh vực địi hỏi trình độ
kỹ thuật và cơng nghệ cao. Cần xây dựng, hồn thiện chính sách hướng nghiệp ở cấp học phổ thơng
nhằm giúp học sinh định hướng đúng đắn việc chọn nghề; có cơ chế khuyến khích, tuyển chọn một bộ
phận thanh niên ưu tú, nhất là con em các gia đình có truyền thống làm cơng nhân, những thanh niên
hồn thành xuất sắc nghĩa vụ quân sự... được đào tạo trong các trường dạy nghề. Tạo điều kiện thuận lợi
về cả vật chất và tinh thần cho công nhân học tập nâng cao trình độ học vấn, chun mơn, nghiệp vụ,

ngoại ngữ và tin học; nghiên cứu ban hành chính sách ưu đãi trong tuyển chọn, sử dụng đối với những
công nhân giỏi nghề, học tập có kết quả cao, để đưa đi thực tập hoặc đào tạo thêm ở các nước có nền
cơng nghiệp phát triển. Đồng thời, cần có quy định về việc tôn vinh những công nhân hội tụ đủ đức và
tài, có nhiều sáng kiến, thành tích nổi bật trong lao động, sản xuất nhằm khuyến khích và thúc đẩy khơng
khí thi đua phấn đấu trong đội ngũ công nhân.
Phát triển giáo dục, đào tạo, đẩy mạnh công tác dạy nghề một cách đồng bộ, bảo đảm sự cân đối ngay
trong hệ thống giáo dục, cũng như sự cân bằng giữa giáo dục - đào tạo, dạy nghề, hướng nghiệp với nhu
cầu và yêu cầu thực tế của sự phát triển kinh tế - xã hội. Chú trọng đầu tư kinh phí và cơ sở vật chất cho
các trường dạy nghề, ưu tiên xây dựng trường dạy nghề chuẩn với chương trình chuẩn trong cả nước để
đào tạo những ngành nghề mũi nhọn; có chính sách phù hợp phát triển đa dạng và chuyên sâu nhiều loại
hình đào tạo tại các trường, trung tâm và tại chính các doanh nghiệp, thu hút người lao động học tập nâng
cao trình độ, tay nghề.
Nhà nước hồn thiện hệ thống chính sách xã hội nhằm đáp ứng ngày càng tốt hơn các nhu cầu và điều
kiện thiết yếu cho công nhân, lao động; quan tâm hơn đến việc thực hiện chính sách xã hội đối với công
nhân, như: tiền lương, nhà ở, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế..., bởi nguyện vọng chính đáng của cơng
nhân là khi tham gia lao động được trả công tương xứng với sức lao động bỏ ra, có và được hưởng lợi ích
vật chất, tinh thần, cũng như các quyền lợi chính trị - xã hội một cách cơng bằng. Sớm hồn thiện chính
sách nhà ở và chính sách khuyến khích đầu tư phát triển nhà ở cho công nhân, lao động theo hướng Nhà


nước và doanh nghiệp cùng góp vốn, hoặc huy động thêm vốn của người lao động để xây các khu tập thể,
hoặc nhà bán trả góp cho họ, hoặc cho thuê, hỗ trợ về nhà ở cho những gia đình công nhân, lao động
nghèo... nhằm giúp họ ổn định về chỗ ở, yên tâm cống hiến cho công việc.
Việc đáp ứng các điều kiện cho người lao động thực chất là đầu tư chiều sâu, là bồi dưỡng nguồn
nhân lực. Trước mắt, cần xây dựng, hồn thiện hơn nữa mơi trường xã hội và thị trường lao động lành
mạnh, tạo mọi điều kiện để công nhân, lao động được phát huy hết khả năng của mình. Đồng thời, cần
chú trọng khuyến khích các lĩnh vực, ngành nghề, khuyến khích người có vốn, kỹ thuật, cơng nghệ, có
trình độ quản lý... đầu tư vào sản xuất, kinh doanh để tạo ra nhiều việc làm mới, thu hút thêm nhiều lực
lượng lao động.
Tiếp tục hồn thiện chính sách về bảo hiểm xã hội, thành lập quỹ hỗ trợ thất nghiệp trên cơ sở huy

động sự đóng góp của Nhà nước, người sử dụng lao động, người lao động và sự hỗ trợ của các tổ chức,
cá nhân để trợ cấp một phần tài chính cho người lao động khi bị thất nghiệp; cải cách chính sách tiền
lương và cơng tác tổ chức tiền lương trong các loại hình doanh nghiệp nhằm bảo đảm đời sống cho công
nhân. Đồng thời, cần quan tâm hơn nữa đến các chính sách khuyến khích xã hội, như: chính sách thi đua
- khen thưởng, tơn vinh các cá nhân, tập thể xuất sắc, có nhiều sáng kiến, sáng chế, cải tiến kỹ thuật,
cơng nghệ,... góp phần rút ngắn thời gian lao động, nâng cao hiệu suất lao động, chất lượng và hiệu quả
cơng việc; có quy định ưu đãi những cơng nhân có thành tích lao động, sản xuất tốt, nổi bật, nhằm
khuyến khích họ cống hiến năng lực, trí tuệ và sức lao động một cách hiệu quả nhất.
Đẩy mạnh và tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp luật, chính sách có liên quan
trực tiếp đến người lao động: có quy định xử lý nghiêm những vi phạm đến quyền lợi người lao động,
chú trọng cải thiện điều kiện lao động, phịng chống có hiệu quả tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp;
xây dựng và tổ chức thực hiện tốt chính sách chăm sóc sức khỏe cho họ, nâng cao chất lượng khám chữa
bệnh định kỳ, đặc biệt đối với nữ giới.
Tiếp tục đẩy mạnh công tác xây dựng tổ chức Đảng và tổ chức chính trị xã hội trong giai cấp cơng
nhân vì hiện nay hệ thống chính trị trong cơng nhân lao động rất mỏng, thậm chí có nơi cịn trắng. Do đó
cần tăng cường tun truyền vận động, giáo dục công nhân, coi nhiệm vụ giáo dục công nhân là trách
nhiệm của Đảng và cả hệ thống chính trị. Chú trọng cơng tác phát triển đảng trong công nhân, xây dựng
đội ngũ công nhân là đảng viên làm nòng cốt cho mọi hoạt động, phong trào của các cơ quan, đơn vị,
doanh nghiệp... Các cấp ủy cần triển khai tổ chức thực hiện tốt các quy định của Ban Bí thư Trung ương
Đảng về xây dựng và phát triển tổ chức đảng, các đoàn thể trong những doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngồi và doanh nghiệp tư nhân, để bênh vực, bảo vệ các lợi ích chính đáng của người lao động,
giúp họ hiểu và được biết, thực hiện và được hưởng các quyền lợi cũng như nghĩa vụ của mình. Tăng
cường đào tạo, bồi dưỡng cán bộ từ những công nhân ưu tú nhằm không ngừng bổ sung cho các cơ quan
Đảng, Nhà nước từ Trung ương đến địa phương, những cán bộ vừa hồng, vừa chuyên xuất thân từ công
nhân, nếu không tỷ lệ đảng viên trong công nhân, tỷ lệ cán bộ đảng, Nhà nước xuất thân từ cơng nhân
ngày càng ít, lúc đó liệu Đảng có cịn thực sự là Đảng mang bản chất giai cấp công nhân nữa không?
Các cấp ủy đảng, các cán bộ lãnh đạo chủ chốt của Đảng, Nhà nước cần thường xuyên tiếp xúc, làm
việc, lắng nghe và giải quyết kịp thời những ý kiến của công nhân viên chức, lao động và tổ chức cơng
đồn. Quan tâm lãnh đạo, tạo điều kiện pháp lý và vị thế cho cơng đồn để cơng đồn thực sự là cầu nối
giữa Đảng với quần chúng công nhân viên chức lao động, là tổ chức phản biện xã hội khách quan, có hiệu

quả của Nhà nước.
Tăng cường lãnh đạo các cơ quan nghiên cứu của Đảng và Nhà nước, của các đồn thể chính trị - xã
hội, tập hợp trí tuệ của các nhà khoa học nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tế về giai cấp công nhân; về
sự lãnh đạo của Đảng với sự nghiệp xây dựng, phát huy vai trị của giai cấp cơng nhân trong điều kiện


phát triển kinh tế thị trường để Đảng ta có sự phát triển vượt trội về trí tuệ, biểu hiện ở trình độ lý luận và
tư duy khoa học, đặc biệt là trình độ lý luận và tư duy khoa học về giai cấp cơng nhân với một bản lĩnh
chính trị cao. Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị xã hội, mà chủ yếu là Cơng đồn Việt Nam phải
xây dựng giai cấp công nhân vững mạnh về mọi mặt; đổi mới công tác tuyên truyền, giáo dục, gắn
chương trình hành động với nội dung cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh"; xây dựng được những chính sách hữu hiệu khuyến khích cơng nhân, người lao động nâng cao
trình độ văn hóa, kỹ năng nghề nghiệp, từng bước đào tạo được đội ngũ cơng nhân có trình độ chun
mơn cao, tay nghề giỏi, có ý thức chính trị vững vàng để đáp ứng với yêu cầu của hội nhập kinh tế thế
giới. Đồng thời đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của tổ chức cơng đồn các cấp để vừa bảo vệ
quyền lợi, lợi ích chính đáng, hợp pháp của người lao động, vừa thu hút được nhiều đoàn viên tham gia,
góp phần xây dựng tổ chức cơng đồn ngày càng vững mạnh.
Là một bộ phận của tổ chức công đồn Việt Nam, cơng nhân viên chức - lao động quốc phòng tiếp tục
đẩy mạnh các cuộc vận động theo tinh thần Nghị quyết 83 của Đảng ủy Quân sự Trung ương về cơng tác
cơng đồn trong qn đội thời kỳ mới; nâng cao chất lượng hiệu quả và giành đỉnh cao của phong trào thi
đua "5 nhất, 3 không" thực hiện chương trình tri thức hóa cơng nhân lao động; xây dựng nhóm thợ kỹ
thuật cơng nghệ cao, nhóm thợ nòng cốt, câu lạc bộ thợ giỏi, thợ lành nghề… góp phần xây dựng quân
đội, nhất là xây dựng nền cơng nghiệp quốc phịng của thời kỳ mới, xứng đáng là những công nhân mang
bản chất giai cấp công nhân Việt Nam, phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ.
Được thử thách trong máu lửa, lại vốn cần cù, thông minh, năng động, sáng tạo… trong điều kiện
mới, giai cấp công nhân Việt Nam sẽ ngày càng lớn mạnh, đủ trí và lực, đủ đức và tài để hoàn thành
nhiệm vụ vẻ vang của mình, như Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X đã đề ra: "Phát triển giai
cấp công nhân về số lượng, chất lượng và tổ chức; nâng cao giác ngộ, bản lĩnh chính trị, trình độ học vấn
và nghề nghiệp, xứng đáng là lực lượng đi đầu trong sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước".
2. Bản chất giai cấp của quân đội và bản chất giai cấp công nhân của Quân đội nhân dân Việt Nam


Học thuyết Mác - Lênin về chiến tranh và quân đội đã khẳng định quân đội là một hiện tượng lịch sử.
Sự ra đời, tồn tại của quân đội gắn liền với sự ra đời và tồn tại của Nhà nước. Cách đây hơn nửa thế kỷ, Ph.
Ăngghen đã định nghĩa: "Quân đội là một tập đoàn có tổ chức gồm những người được vũ trang, được
Nhà nước đài thọ để thực hiện chiến tranh tấn công hoặc phòng ngự" 1. Với tư cách là một tổ chức của
Nhà nước, do Nhà nước xây dựng, nên quân đội bao giờ cũng mang bản chất giai cấp của Nhà nước;
"Bản chất giai cấp và nội dung của Nhà nước như thế nào thì quân đội - người bảo vệ lợi ích của nó như
thế ấy"2.
Qn đội chỉ mang bản chất của một giai cấp - giai cấp thống trị chi phối quyền lực Nhà nước và tổ
chức nuôi dưỡng, sử dụng qn đội đó. Khơng bao giờ và khơng ở đâu có Nhà nước "siêu giai cấp", có
qn đội "phi giai cấp". Những luận điệu "quân đội trung lập đứng trên các giai cấp" chỉ là những luận
điệu phản động, phản khoa học, lừa bịp nhân dân để phục vụ cho những ý đồ đen tối của các thế lực thù
địch. Trong điều kiện hiện nay, những luận điệu này đang cổ vũ cho hệ tư tưởng tư sản tấn công lại hệ tư
tưởng vô sản. Thực tiễn đang bác bỏ những luận điệu sai trái về bản chất giai cấp của quân đội. Tại các
nước vừa xảy ra những sự biến, luận điệu "phi chính trị hóa quân đội" chỉ là chiếc bình phong che chắn
cho âm mưu nhằm làm cho quân đội biến chất về chính trị, đi từ chính trị này sang chính trị khác. Luận
điệu "trung lập hố qn đội" chỉ nhằm vơ hiệu hóa quân đội cách mạng và dần dần hướng quân đội đó
phục vụ cho các thế lực chống chủ nghĩa xã hội. Việc xúc tiến thành lập các lực lượng quân sự mới để
bảo vệ cái gọi là "chế độ mới" càng chứng tỏ chế độ nào, giai cấp nào thống trị thì có qn đội đó, khơng
thể nào khác được.
1

. C. Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập, tập 14, Nxb Sự thật, H. 1954, tr. 11.

2

. Học thuyết Mác - Lênin về chiến tranh và quân đội, Nxb Quân đội nhân dân, H. 1998, tr. 152.


Bản chất giai cấp của quân đội không đồng nhất với "bản chất của quân đội", với "bản chất chính trịxã hội của quân đội". Nội dung "bản chất của quân đội" thể hiện sự thống nhất biện chứng giữa hai mặt

cấu thành nó, đó là mặt kinh tế - kỹ thuật quân sự và mặt chính trị - xã hội của quân đội. Bản chất giai
cấp của quân đội là một bộ phận và là hạt nhân cốt lõi trong mặt chính trị - xã hội của quân đội.
Quân đội chỉ có một bản chất giai cấp nhưng thành phần giai cấp, tầng lớp (gọi tắt là giai tầng)
trong qn đội có nhiều, khơng thuần nhất, ln biến đổi. Sự biến đổi này, xét đến cùng, do sự biến đổi
của nền kinh tế quy định. Tương quan giữa các giai tầng trong quân đội và sự biến đổi của nó có ảnh
hưởng nhất định tới bản chất giai cấp của quân đội nhưng không quyết định sự vận động phát triển bản
chất giai cấp. Bản chất giai cấp của quân đội không phải là sự cộng lại giản đơn bản chất các giai cấp
tham gia trong quân đội. Số lượng thành viên thuộc các giai tầng gia nhập vào quân đội sẽ tạo thuận lợi
hoặc khó khăn nhất định cho việc xây dựng, củng cố, tăng cường bản chất giai cấp của quân đội. Song
quân đội mang bản chất của giai cấp nào không phụ thuộc vào số lượng ít hoặc nhiều các thành viên của
giai cấp đó có trong quân đội.
Bản chất giai cấp của quân đội không chịu sự quy định của cơ cấu tổ chức quân sự "thuần tuý", trang
bị kỹ thuật quân sự, phương thức bổ sung số quân, phương pháp tiến hành tác chiến của qn đội. Những
yếu tố này có thể ln thay đổi theo những điều kiện cụ thể của quân đội và xã hội nhưng bản chất giai
cấp của quân đội vẫn khơng thay đổi theo.
Phương hướng chính trị đúng trong quá trình nghiên cứu về quân đội được thể hiện trước hết ở việc xác
định bản chất giai cấp của quân đội và sự đối lập về bản chất giai cấp giữa các kiểu quân đội trong lịch
sử.
Quân đội kiểu cũ là quân đội của các giai cấp thống trị, bóc lột, điển hình là qn đội tư sản. Qn
đội kiểu mới là quân đội của giai cấp vô sản - quân đội xã hội chủ nghĩa. Quân đội kiểu mới là một bộ
phận của Nhà nước kiểu mới - Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Quân đội này mang bản chất của giai cấp tiến
bộ cách mạng nhất trong lịch sử - giai cấp công nhân. Lần đầu tiên, quân đội kiểu mới được thành lập,
gắn liền với tên tuổi của V.I Lê-nin vĩ đại, đó là Hồng quân. Khẳng định bản chất giai cấp của quân đội
kiểu mới, V.I Lênin đã viết: "Quân đội chúng ta là quân đội giai cấp chống lại giai cấp tư sản" 1. Luận
điểm này của V.I Lênin có ý nghĩa quan trọng như một ngun lý chỉ đạo tồn bộ q trình củng cố, tăng
cường bản chất giai cấp công nhân của quân đội xã hội chủ nghĩa. Thực tiễn đã cho thấy rằng mọi sự xa
rời nguyên lý về sự đối lập bản chất giai cấp giữa quân đội tư sản và qn đội vơ sản thì đều phải trả
những giá nhất định. ở đâu có cái "bắt tay" nhau cùng đi một cách vô điều kiện giữa quân đội vô sản và
qn đội tư sản, thì ở đó, kẻ bị lừa khơng thể nào khác chính là qn đội vơ sản.
Quân đội kiểu mới mang bản chất giai cấp công nhân và chính bản chất giai cấp cơng nhân quy định

tính nhân dân thực sự của quân đội này. Chỉ có quân đội kiểu mới mang đầy đủ bản chất giai cấp công
nhân mới là quân đội của dân, do dân và vì dân. Khái niệm "tính nhân dân của qn đội" khơng có trong
qn đội do Nhà nước của các giai cấp thống trị, bóc lột xây dựng nên. Các loại hình qn đội kiểu cũ
khơng có sự thống nhất giữa bản chất giai cấp với tính nhân dân, mặc dù trong quân đội này cũng có con
em của nhân dân lao động tham gia. Do bản chất giai cấp quy định, quân đội kiểu cũ nói chung, quân đội
tư sản nói riêng khơng có tính nhân dân thực sự và cũng khơng có tính chất quốc tế.
Bản chất giai cấp công nhân của quân đội kiểu mới không phải là cái nhất thành bất biến mà là cái có
tính ổn định tương đối. Thực tiễn cho chúng ta thấy trong những điều kiện nhất định, nếu những nhân tố
chủ yếu quy định sự tồn tại và phát triển bản chất giai cấp công nhân của quân đội kiểu mới, mà trước hết
là sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, sự quản lý của Nhà nước xã hội chủ nghĩa đối với qn đội khơng cịn

1

.

tr. 277.

V.I.

Lênin,

Bàn

về

thuế

lương

thực,


Tồn

tập,

tập

43,

Nxb

Tiến

bộ,

M.

1978,


nữa thì bản chất giai cấp cơng nhân của qn đội suy giảm và đi đến biến chất. Quân đội Liên Xơ là một
ví dụ điển hình về tình hình này.
ở nước ta, bản chất giai cấp công nhân của quân đội nhân dân Việt Nam đã được khẳng định rõ ràng
trong quan điểm của các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, quân đội và của nhiều nhà khoa học đang
hoạt động trong lĩnh vực quân sự. Đồng chí Lê Duẩn đã khẳng định: "Quân đội nhân dân Việt Nam ngay
từ đầu là một đội quân công nông mang bản chất của giai cấp công nhân, đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp
của Đảng1. Đại tướng Võ Nguyên Giáp chỉ rõ: "Quân đội ta là một tổ chức quân sự kiểu mới, do Đảng
của giai cấp công nhân tổ chức là lãnh đạo, mang bản chất của giai cấp công nhân" 2. Trung tướng, Giáo
sư Trần Xuân Trường đã xác định: "Quân đội ta là quân đội có bản chất giai cấp công nhân, đồng thời là
quân đội nhân dân"3 và nhấn mạnh: "Bản chất giai cấp công nhân của quân đội ta là sự quán triệt bản

chất giai cấp cơng nhân của Đảng, qn triệt chính trị, tư tưởng và tổ chức của một chính Đảng Mác Lênin vào trong quân đội phù hợp với những đặc điểm chức năng và tổ chức của một tổ chức quân sự" 1.
Quân đội nhân dân Việt Nam chỉ có một bản chất giai cấp, đó là bản chất giai cấp công nhân, bản chất
giai cấp công nhân của quân đội ta tồn tại và phát triển trong con người và tổ chức của nó. Nhưng khơng
thể đồng nhất bản chất giai cấp công nhân của quân đội ta với bản chất của giai cấp công nhân và với bản
chất giai cấp cơng nhân của Đảng - đội tiền phong có tổ chức cao nhất của giai cấp công nhân Việt Nam.
Bản chất giai cấp công nhân của Đảng Cộng sản Việt Nam và bản chất giai cấp công nhân của Quân đội
nhân dân Việt Nam về căn bản là thống nhất nhưng có sự thể hiện khác nhau.
Bản chất giai cấp công nhân của quân đội là sự quán triệt bản chất giai cấp công nhân của Đảng,
được thể hiện qua mục tiêu, lý tưởng chiến đấu; hệ tư tưởng; nguyên tắc tổ chức, đến hoạt động thực
hiện các chức năng, nhiệm vụ cụ thể của quân đội và được thể hiện qua các mối quan hệ chủ yếu quy
định sự tồn tại và phát triển của quân đội như: mối quan hệ giữa quân đội ta với Đảng, Nhà nước, với
Tổ quốc và nhân dân, với quốc tế, mối quan hệ trong nội bộ quân đội và quan hệ với kẻ thù.
Những nội dung cốt lõi của các mặt, các mối quan hệ chủ yếu về bản chất giai cấp công nhân của
quân đội ta, được thể hiện như sau:
Bản chất giai cấp công nhân của quân đội thể hiện tập trung ở mục tiêu, lý tưởng chiến đấu của quân
đội.
Mục tiêu, lý tưởng chiến đấu của quân đội ta theo mục tiêu, lý tưởng của đội tiền phong có tổ chức và
giác ngộ cao nhất của giai cấp công nhân Việt Nam - Đảng Cộng sản Việt Nam, đó là chiến đấu vì độc
lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội. Chính Đảng ta và người cha thân yêu của các lực lượng vũ trang Việt Nam - Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã xác định và thường xuyên giáo dục mục tiêu, lý tưởng chiến đấu cho quân đội ta.
Trình độ giác ngộ và tinh thần tự giác, hy sinh vì mục tiêu, lý tưởng của Đảng là thước đo cao nhất bản
chất giai cấp công nhân của quân đội ta. Trình đội giác ngộ và tính tự giác chiến đấu hy sinh nhằm thực
hiện mục tiêu, lý tưởng của Đảng càng cao thì bản chất giai cấp cơng nhân của quân đội càng được biểu
hiện sâu sắc. Một quân đội ngay từ đầu được thành lập đã mang bản chất giai cấp cơng nhân nhưng nếu
trong q trình vận động mà xa rời, từ bỏ mục tiêu lý tưởng chiến đấu vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
1

.




Duẩn,

Tiến

bước

dưới

ngọn

cờ

của

Đảng,

Nxb

Quân

đội

nhân

dân,

H.. 1980, tr. 73.
2


. Võ Nguyên Giáp, Vũ trang quần chúng cách mạng xây dựng Quân đội nhân dân, Nxb Sự thật, H. 1972, tr. 96-97.

3

.

Trần

Xuân

Trường,

Đổi

mới



độc

lập

dân

tộc



chủ


nghĩa



hội,

Nxb Quân đội nhân dân, H. 1996, tr. 535.
1



. Trần Xuân Trường, Tính quy luật của quá trình phát triển bản chất truyền thống của quân đội ta. Thông tin giáo dục
luận

(38)/1994, tr. 1, 2.

chính

trị

quân

sự,

số

4



hội thì bản chất giai cấp cơng nhân của qn đội sẽ khơng cịn nữa. Chính vì thế, vấn đề giác ngộ xã hội
chủ nghĩa giáo dục mục tiêu lý tưởng chiến đấu của quân đội luôn luôn được xem là vấn đề mấu chốt
trong giữ vững, củng cố và tăng cường bản chất giai cấp công nhân của quân đội ta.
Bản chất giai cấp công nhân của quân đội ta được thể hiện ở tư tưởng trong con người và tổ chức
quân sự. Hạt nhân giữ vai trò quyết định tư tưởng của quân đội ta là hệ tư tưởng Mác - Lênin. Trong bất
cứ điều kiện hoàn cảnh nào, bản chất giai cấp công nhân của quân đội ta đều phải được thể hiện ở sự kiên
định, trung thành với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm đường lối chính trị của
Đảng Cộng sản Việt Nam. Năng lực tiếp thu và vận dụng chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
đường lối của Đảng vào lĩnh vực quân sự của cán bộ, chiến sĩ là thước đo quan trọng bản chất giai cấp
công nhân của quân đội ta. Quân đội ta chỉ thật sự có được bản chất giai cấp cơng nhân khi giữ vững và
tăng cường được nền tảng tư tưởng cách mạng, khoa học. Nền tảng tư tưởng ấy chính là chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, đường lối chính trị, quân sự của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Về mặt tổ chức, bản chất giai cấp công nhân của quân đội ta được thể hiện qua hệ thống tổ chức đảng
trong quân đội; cơ quan chính trị, cơ chế lãnh đạo - chỉ huy, nguyên tắc tổ chức lực lượng quân sự… với
những đặc trưng cơ bản chỉ có ở tổ chức của những người hoạt động trong lĩnh vực quân sự, trên cơ sở
vận dụng nguyên tắc tổ chức xây dựng quân đội kiểu mới và kế thừa phát triển những đặc trưng cơ bản
về mặt tổ chức của giai cấp công nhân và của Đảng Cộng sản Việt Nam. Quân đội ta là một tổ chức có kỷ
luật quân sự nghiêm minh và tự giác cao. Kỷ luật này dựa trên tình đồng chí, dựa trên sự tơn trọng nhau,
dựa trên tính chủ động, sáng tạo và sự sẵn sàng hy sinh vì nhiệm vụ của cán bộ, chiến sĩ. Tinh thần đoàn
kết giai cấp và tính kỷ luật cao của giai cấp cơng nhân đã được Đảng đưa vào trong quân đội và được
phát triển theo yêu cầu của tổ chức và hoạt động quân sự. Những nguyên tắc tổ chức của Đảng và của
chính quyền nhà nước được thể hiện trong tổ chức quân sự như nguyên tắc tập trung dân chủ, chế độ phê
bình và tự phê bình…
Về mặt hoạt động, bản chất giai cấp công nhân của quân đội ta thể hiện qua việc thực hiện các chức
năng, nhiệm vụ của quân đội được Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó. Quân đội ta có các chức năng
cơ bản là chiến đấu, sẵn sàng chiến đấu, công tác và lao động sản xuất. Các nhiệm vụ cụ thể của quân đội
ta được xác định phù hợp với từng giai đoạn cách mạng. Nhận thức đúng và hoàn thành tốt các chức
năng nhiệm vụ của quân đội đó là vấn đề quán triệt đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước, là vấn
đề thuộc về lập trường giai cấp, về trách nhiệm chính trị của cán bộ, chiến sĩ ta. Việc phát huy cao độ
tinh thần chủ động, sáng tạo, tranh thủ lấy thuận lợi, vượt qua mọi khó khăn thử thách, hoàn thành mọi

nhiệm vụ là một biểu hiện bản chất giai cấp công nhân của quân đội đồng thời là một tiêu chí để đánh giá
bản chất đó. Khơng thể nói được một quân đội có đầy đủ bản chất giai cấp cơng nhân khi mà trên thực tế
nó khơng hồn thành tốt các nhiệm vụ được giao trong bất cứ hoàn cảnh nào.
Cùng với việc nghiên cứu bản chất giai cấp công nhân của quân đội ta qua các mặt từ chính trị đến tư
tưởng tổ chức và hoạt động của quân đội, chúng ta cần xem xét bản chất giai cấp công nhân của quân
đội ta qua các mối liên hệ cơ bản quy định sự tồn tại, phát triển của nó.
Đối với Đảng, bản chất giai cấp công nhân của quân đội ta được thể hiện ở sự trung thành, lòng tin
tưởng vào đường lối và sự lãnh đạo của Đảng, tự giác phục tùng sự lãnh đạo của Đảng, nghiêm chỉnh
chấp hành đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, kiên quyết đấu tranh bảo vệ đường lối, nguyên
tắc, quan điểm của Đảng, hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ mà Đảng giao phó. Đối với chính quyền
cách mạng, quân đội ta tự giác chấp hành sự quản lý của Nhà nước đối với mọi hoạt động của quân đội,
luôn luôn nêu cao ý thức tơn trọng và bảo vệ chính quyền các cấp, đồn kết chặt chẽ với các cơ quan nhà
nước, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật của Nhà nước.
Đối với nhân dân, bản chất giai cấp công nhân của quân đội ta được thể hiện ở tinh thần tận tuỵ một
lòng một dạ phục vụ nhân dân. Vì nhân dân, cán bộ, chiến sĩ ta sẵn sàng quên mình, sẵn sàng hy sinh.


Cán bộ, chiến sĩ ln ln kính trọng dân và giúp đỡ dân, bảo vệ dân, tơn trọng lợi ích chính đáng và
phong tục tập quán của nhân dân, nghiêm chỉnh chấp hành kỷ luật quần chúng, thường xuyên tuyên
truyền vận động nhân dân chấp hành đường lối, chủ trương, chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước.
Mối quan hệ máu thịt giữa quân đội với nhân dân trở thành một nguyên tắc bất di bất dịch về xây dựng
quân đội kiểu mới mang bản chất giai cấp công nhân. Một quân đội mang bản chất giai cấp công nhân thì
tất yếu phải là một qn đội có tính nhân dân sâu sắc, gắn bó máu thịt với nhân dân. Tính nhân dân sâu
sắc của quân đội ta là một nội dung đặc trưng không thể thiếu được trong bản chất giai cấp công nhân
của quân đội ta.
Trong mối quan hệ nội bộ quân đội, bản chất giai cấp công nhân của quân đội thể hiện ở ý thức giữ
gìn sự đồn kết nội bộ, đề cao tự phê bình và phê bình, trung thực, bình đẳng, thương yêu, tôn trọng, bảo
vệ giúp đỡ nhau chân thành, đồng cam cộng khổ lúc chiến đấu và cả lúc bình thường. Đồng thời nêu cao
ý thức phục tùng tổ chức, nghiêm chỉnh chấp hành mọi mệnh lệnh, chỉ thị, nghị quyết của cấp trên, chấp
hành mọi điều lệ, điều lệnh, chế độ quy định của quân đội.

Trong nội bộ quân đội ta có một hệ thống các mối quan hệ xã hội giữa người với người, trong đó có
hai mối quan hệ đặc thù thể hiện bản chất giai cấp công nhân của quân đội. Đó là mối quan hệ đồng chí đồng đội và mối quan hệ cấp trên - cấp dưới. Việc nhận thức và giải quyết các mối quan hệ này theo
đúng nguyên tắc giai cấp, có ý nghĩa quan trọng đối với tăng cường bản chất giai cấp công nhân của quân
đội ta. Các mối quan hệ đồng chí - đồng đội, cấp trên - cấp dưới trong qn đội ta khơng mang tính cục
bộ địa phương, không chịu sự chi phối về thành phần giai cấp, dân tộc, lứa tuổi, giới tính, ngành nghề
chun mơn của quân nhân. Các mối quan hệ này chịu sự quy định của tổ chức và hoạt động quân sự và
được quy định rõ ràng trong "Điều lệnh Quản lý bộ đội" của Quân đội nhân dân Việt Nam.
Mối quan hệ đồng chí - đồng đội là mối quan hệ thuộc về bản chất của quân đội cách mạng, dựa trên
nền tảng thống nhất về mục tiêu, lý tưởng chiến đấu và về lợi ích căn bản giữa các quân nhân. Mọi quân
nhân trong quân đội ta đều là đồng chí, đồng đội của nhau, đều phải "Đoàn kết chặt chẽ với nhau như
ruột thịt trên tình thương yêu giai cấp, hết lòng giúp đỡ lẫn nhau lúc thường cũng như lúc ra trận, thực
hiện tồn qn một ý chí"1.
Mối quan hệ cấp trên - cấp dưới là mối quan hệ mang tính phổ biến ở các kiểu loại quân đội, được ghi
trong các văn bản có giá trị pháp lý bắt buộc các quân nhân phải chấp hành để hành động được thống
nhất, có tổ chức, có kỷ luật, nhằm thực thi các nhiệm vụ quân sự một cách hiệu quả. Song đối với các
quân đội khác nhau thì bản chất giai cấp được thể hiện qua
mối quan hệ này sẽ khác nhau. Trong quân đội ta,
"Cấp trên phải tôn trọng danh dự, thương yêu, giúp đỡ lắng nghe ý kiến, tâm tư, nguyện vọng của cấp
dưới. Cấp trên phải gương mẫu về đạo đức và hành động để cấp dưới học tập. Cấp dưới trong bất cứ điều
kiện nào cũng ln ln kính trọng và tuyệt đối phục tùng cấp trên, nghe lời khuyên bảo đúng đắn của
đồng đội, không bao che cho người vi phạm kỷ luật quân đội và pháp luật nhà nước" 1.
Xây dựng được những mối quan hệ tốt đẹp trong nội bộ quân đội mà trước hết là mối quan hệ đồng
chí - đồng đội và mối quan hệ cấp trên - cấp dưới sẽ góp phần làm cho lợi ích xã hội và cá nhân trong
qn đội trở nên nhất trí. Nếu khơng có được những quan hệ đó thì khơng thể có được sự thống nhất cao
về mục tiêu lý tưởng chiến đấu, sự tin tưởng lẫn nhau, đoàn kết cùng nhau thực hiện nhiệm vụ của các
quân nhân.
Đối với quân đội và nhân dân các nước anh em, quân đội ta luôn luôn nêu cao tinh thần quốc tế vô
sản, không quản mọi hy sinh gian khổ, chân thành đoàn kết với quân đội và nhân dân các nước anh em
đấu tranh chống kẻ thù chung, luôn luôn xem sự nghiệp cách mạng của các nước anh em như sự nghiệp
1


. Điều lệnh Quản lý bộ đội, Bộ Quốc phòng, Nxb Quân đội nhân dân, H. 1991, tr. 10.

1

. Điều lệnh Quản lý bộ đội, Bộ Quốc phòng, Nxb Quân đội nhân dân, H. 1991, tr. 10.


của chính mình. Bản chất giai cấp cơng nhân của quân đội ta thể hiện rõ ở chỗ nó là một đội quân kiên
cường của chủ nghĩa quốc tế vô sản.
Bản chất giai cấp công nhân của quân đội ta còn thể hiện ở lòng căm thù địch sâu sắc, luôn luôn nhạy bén
cảnh giác với âm mưu, thủ đoạn của mọi kẻ thù giai cấp, kẻ thù dân tộc và sẵn sàng hành động đập tan
âm mưu thủ đoạn đó. Trong chiến đấu nếu bị địch bắt, cán bộ, chiến sĩ quyết một lòng trung thành với sự
nghiệp cách mạng khơng phản bội xưng khai về bí mật của Đảng, Nhà nước, quân đội ta. Khi địch thất
bại đầu hàng, quân đội ta đối xử với tù hàng binh trên tinh thần khoan hồng, nhân đạo của Đảng, Nhà
nước và của chế độ ta.
Phân tích những biểu hiện bản chất giai cấp công nhân của Quân đội nhân dân Việt Nam, không thể
không xem xét các mặt đạo đức, lối sống, kỷ luật của nó. Các mặt đạo đức, lối sống, kỷ luật của quân đội
không phải là những cái đứng ngoài, độc lập tách rời với bản chất giai cấp công nhân của quân đội ta.
Các mặt ấy chịu sự chi phối của bản chất giai cấp công nhân, đồng thời là một trong những biểu hiện của
bản chất giai cấp công nhân của quân đội ta. Thực tế cho thấy, các quân đội có bản chất giai cấp khác
nhau thì những biểu hiện về đạo đức, lối sống, kỷ luật khác nhau, thậm chí đối lập nhau, bản chất giai
cấp công nhân của quân đội ta được thể hiện qua đạo đức cách mạng, lối sống cao đẹp của "Bộ đội Cụ
Hồ", kỷ luật quân sự tự giác nghiêm minh của cán bộ, chiến sĩ. Việc nhận thức và thực hiện những chuẩn
mực trong đạo đức, lối sống, kỷ luật của người quân nhân cách mạng là một trong những cái để đánh giá
bản chất giai cấp công nhân của quân đội ta hiện nay.
Trên đây là những biểu hiện chủ yếu bản chất giai cấp công nhân của qn đội ta. Những biểu hiện đó
khơng tồn tại cô lập tách rời nhau mà tác động biện chứng với nhau, quy định lẫn nhau. Trên thực tế, bản
chất giai cấp công nhân của quân đội ta không phải là cái hoàn toàn thuần khiết. Trong quân đội dù ở vào
thời điểm lịch sử cụ thể nào cũng có biểu hiện đúng bản chất giai cấp cơng nhân của quân đội, đồng

thời có cả những biểu hiện cá biệt trái với bản chất giai cấp công nhân của qn đội. Chính vì vậy,
những biểu hiện này, về thực chất là những chuẩn mực, những tiêu chí, cần phải dựa vào đó để xem xét
đánh giá bản chất giai cấp công nhân của quân đội ta.
Bản chất giai cấp công nhân của quân đội ta thường xuyên chịu sự tác động biện chứng giữa những
điều kiện khách quan và vai trị của nhân tố chủ quan. Vì thế, khơng thể xem xét bản chất giai cấp công
nhân của quân đội ta trong trạng thái tĩnh tại mà cần phải thấy bản chất đó trong sự vận động phát
triển, trong trạng thái động. Thực tế cho thấy bản chất giai cấp cơng nhân của qn đội ta có sự thống
nhất biện chứng giữa nội dung và hình thức, giữa cái thường xuyên biến đổi và cái ổn định tương đối.
Cái tương đối ổn định chính là hệ thống khung cốt (các mặt, các yếu tố, các mối quan hệ) cấu thành bản
chất giai cấp công nhân của quân đội ta. Cái thường xun biến đổi, phát triển khơng ngừng chính là
những nội dung cụ thể hợp thành bản chất giai cấp công nhân của quân đội ta qua các mặt, các yếu tố,
các mối quan hệ đó.
Bản chất giai cấp công nhân của quân đội ta không hề đối lập với tính nhân dân và tính dân tộc, trái
lại, nó quyện chặt nhuần nhuyễn với tính nhân dân và tính dân tộc. Có thể nói, trong bản chất giai cấp
cơng nhân của quân đội ta đã bao hàm tính nhân dân và tính dân tộc. Bản chất giai cấp cơng nhân, tính
nhân dân, tính dân tộc của quân đội ta là thống nhất. Quân đội ta mang bản chất giai cấp công nhân,
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và chính vì vậy nó là qn đội kiểu mới chân chính, thực
sự có tính nhân dân và tính dân tộc. Khơng phải tính nhân dân, tính dân tộc quy định bản chất giai cấp
công nhân của quân đội mà chính bản chất giai cấp cơng nhân của quân đội quy định tính nhân dân và
tính dân tộc của quân đội ta. Bất luận trong điều kiện nào, nếu nhấn mạnh tính nhân dân, tính dân tộc
của quân đội ta mà xem nhẹ, lảng tránh bản chất giai cấp cơng nhân của nó thì đều là một sai lầm về mặt
lý luận và trên thực tế sẽ tiếp tay cho hệ tư tưởng tư sản, thực hiện phi chính trị hố qn đội.
3. Những nhân tố chủ yếu quy định bản chất giai cấp công nhân của Quân đội nhân dân Việt Nam


Bàn về những nhân tố chủ yếu quy định bản chất giai cấp công nhân của Quân đội ta thực chất là bàn
về những vấn đề có tính quy luật quyết định sự hình thành và phát triển bản chất giai cấp công nhân của
Quân đội.
Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Quân đội nhân dân Việt Nam là nhân tố hàng đầu
trực tiếp quyết định bảo đảm cho quân đội ngay từ khi được thành lập đã mang bản chất giai cấp công

nhân Việt Nam và bản chất ấy ngày càng được củng cố tăng cường. Song cần phải nhận thức sâu sắc rằng
tiền đề cơ bản của sự hình thành và phát triển bản chất giai cấp công nhân của quân đội ta là sự tồn tại
của một chính đảng có đầy đủ bản chất giai cấp công nhân và bản chất giai cấp công nhân của Đảng
ngày càng được củng cố, tăng cường. Đồng chí Lê Khả Phiêu đã khẳng định: "Sự lãnh đạo của Đảng đối
với quân đội, bản chất giai cấp của các tổ chức đảng và đội ngũ đảng viên là nhân tố cơ bản và quyết
định việc củng cố và phát huy bản chất giai cấp công nhân của quân đội, bảo đảm cho quân đội không
chỉ là lực lượng chiến đấu mà trước hết là lực lượng chính trị trung thành tin cậy của, Đảng của Nhà
nước"1.
Ngay trong những ngày Đảng ta vừa mới được thành lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ bản chất
giai cấp của Đảng và sứ mệnh lịch sử của Đảng ta, đó là Đảng của giai cấp vơ sản, Đảng sẽ dìu dắt giai
cấp vơ sản lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta
và Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên chăm lo xây dựng Đảng, coi trọng nhiệm vụ chỉnh đốn Đảng
nhằm giữ vững, tăng cường bản chất giai cấp cơng nhân của Đảng ta. Chính vì thế, vượt qua muôn vàn
thử thách khắc nghiệt, Đảng ta vẫn giữ vững được quyền độc tôn lãnh đạo sự nghiệp cách mạng, lãnh
đạo Quân đội nhân dân Việt Nam. Nhờ có được bản chất giai cấp công nhân thực sự, kiên định vững
chắc, Đảng ta đã hoàn toàn nắm được quân đội và quân đội ta hoàn toàn tự nguyện tự giác phục tùng sự
lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng.
Bản chất giai cấp công nhân của Đảng và sự lãnh đạo của Đảng để tăng cường bản chất giai cấp công
nhân của quân đội ta là hai mặt không thể tách rời nhau được. Nếu bản chất giai cấp cơng nhân của
Đảng bị suy giảm, thối hố thì sớm hoặc muộn Đảng sẽ khơng cịn giữ được vai trị lãnh đạo qn đội,
theo đó bản chất giai cấp cơng nhân của qn đội sẽ khơng cịn trên thực tế . Bản chất giai cấp công nhân
của quân đội chỉ có thể được tăng cường khi bản chất giai cấp công nhân của Đảng ta được củng cố, tăng
cường. Điều này góp phần giải thích tại sao việc giữ vững, tăng cường bản chất giai cấp công nhân của
Đảng luôn luôn là một nhiệm vụ ý nghĩa quan trọng hàng đầu đối với Đảng ta.
Để bản chất giai cấp công nhân của quân đội được tăng cường, quân đội ta phải nỗ lực, tự giác, chấp
hành nghiêm chỉnh hệ thống các nguyên tắc xây dựng quân đội kiểu mới. Các nguyên tắc này được rút ra
từ thực tiễn xây dựng quân đội ở các nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Chỉ có chấp hành tốt những
nguyên tắc đó thì qn đội ta mới thực sự là qn đội của nhân dân, mang bản chất của giai cấp tiến bộ
cách mạng nhất - giai cấp công nhân. Thực tế cho thấy khi quân đội coi trọng, thực hiện đầy đủ những
yêu cầu trong nguyên tắc xây dựng quân đội kiểu mới thì bản chất giai cấp cơng nhân của quân đội được

khẳng định. Bản chất giai cấp công nhân của quân đội không tránh khỏi sự suy giảm, thay đổi căn bản
khi những nguyên tắc mácxít về xây dựng quân đội kiểu mới bị xem thường hoặc bị phủ nhận trên thực
tế.
Bản chất giai cấp công nhân của quân đội được tăng cường là kết quả của sự giáo dục, tự giáo rèn
luyện theo những chuẩn mực bản chất giai cấp công nhân của con người và tổ chức trong quân đội.
Trong đó đội ngũ đảng viên, đội ngũ những người trực tiếp chuyên trách làm công tác chính trị và cơ
quan chính trị các cấp trong quân đội có vị trí đặc biệt quan trọng. Khơng có được đội ngũ cán bộ, đảng
viên quân đội thực sự mẫu mực, tiêu biểu về bản chất giai cấp công nhân, có trách nhiệm chính trị cao
trong thực hiện nhiệm vụ tăng cường bản chất giai cấp công nhân của qn đội thì bản chất giai cấp cơng
nhân của qn đội không thể được tăng cường.

1

. Lê Khả Phiêu, Xây dựng Quân đội nhân dân về chính trị dưới ánh sáng Nghị quyết Đại hội VII của Đảng, Nxb

Quân đội nhân dân H. 1994, tr. 84.


Nói tới vai trị của các tổ chức trong qn đội đối với tăng cường bản chất giai cấp công nhân của
qn đội khơng chỉ thấy vai trị đặc biệt quan trọng của tổ chức đảng, tổ chức chỉ huy, hệ thống cơ quan
chính trị mà cịn phải nói tới vai trò của các tổ chức quần chúng và mang tính chất quần chúng ở trong
quân đội ta. Các tổ chức quần chúng trong quân đội ta gồm: Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh,
Cơng đồn Quốc phịng, Hội Phụ nữ. Bên cạnh các tổ chức này, hiện nay trong qn đội cịn có tổ chức
Hội đồng qn nhân. Tất cả các tổ chức quần chúng và mang tính chất quần chúng được xây dựng ở cơ
sở, đặt dưới sự lãnh đạo của chi bộ, đảng bộ cơ sở.
Thực tế cho thấy ở đâu mà vai trò của các tổ chức quần chúng và mang tính chất quần chúng trong
quân đội được phát huy đầy đủ dưới sự lãnh đạo của Đảng thì ở đó ít có những hiện tượng vi phạm kỷ
luật quân đội, đạo đức cách mạng của quân nhân, ở đó thu được nhiều thắng lợi trong thực hiện các
nhiệm vụ chính trị quân sự. Ngược lại, ở đâu mà hoạt động của các tổ chức nói trên chỉ mang tính chất
phơ trương, hình thức, thiếu tính thiết thực, nhất là tổ chức Đồn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh

bng lỏng cơng tác giáo dục cộng sản cho thanh niên qn đội thì ở đó có nhiều hiện tượng vi phạm
những chuẩn mực bản chất giai cấp công nhân và truyền thống tốt đẹp của quân đội ta.
Bản chất giai cấp công nhân của quân đội ta chỉ có thể được củng cố tăng cường khi quân đội phát
huy cao độ "nội lực" của mình. Nội lực đó nằm trong con người và các tổ chức trong quân đội. Trong quá
trình xây dựng và trưởng thành của quân đội ta cho thấy vai trò của con người và các tổ chức quân đội đã
được phát huy tốt. Nhờ đó, bản chất giai cấp cơng nhân của quân đội được củng cố, tăng cường. Hiện
nay trong điều kiện đất nước phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, để tiếp
tục củng cố tăng cường bản chất giai cấp công nhân của quân đội ta đòi hỏi phải phát huy hơn nữa vai trò
của chủ thể quân đội.
Bên cạnh những mối quan hệ trong đời sống của quân nhân tại các đơn vị, chịu sự quy định của tính
đặc thù của hoạt động qn sự, qn nhân cịn có các mối quan hệ với con người và tổ chức ngoài quân
đội. Trong đó mối quan hệ của họ với các tổ chức chính trị - xã hội ở địa phương và gia đình có ảnh
hưởng nhiều tới nhận thức và hoạt động của họ.
Các tổ chức đảng, chính quyền và đồn thể như Đoàn Thanh niên, Hội Phụ nữ, Hội Cựu chiến binh...
ở địa phương không phải là lực lượng trực tiếp chủ yếu thường xuyên theo dõi, quản lý, giáo dục, rèn
luyện bản chất giai cấp công nhân của quân đội. Song khơng vì thế mà khơng thấy vai trị quan trọng của
các tổ chức ấy đối với việc xây dựng, củng cố và tăng cường bản chất giai cấp cơng nhân của qn đội.
Vai trị của các tổ chức chính trị - xã hội ở địa phương thể hiện trước hết ở việc cung cấp chất lượng
nguồn đầu vào quân đội. Chất lượng đầu vào của thanh niên nhập ngũ, trong đó chất lượng về mặt chính
trị được bảo đảm tốt là điều kiện thuận lợi cho việc giáo dục, rèn luyện bản chất giai cấp công nhân của
quân đội. Không chỉ nỗ lực trong xây dựng và cung cấp cho quân đội những con người đủ tiêu chuẩn trở
thành "Bộ đội Cụ Hồ", các tổ chức chính trị - xã hội ở địa phương cịn tiếp tục góp phần cùng quân đội
giáo dục, rèn luyện họ khi họ đã là quân nhân của quân đội ta.
Cùng với các tổ chức chính trị - xã hội ở địa phương, gia đình của qn nhân có ảnh hưởng rất lớn tới
quá trình hình thành và phát triển bản chất giai cấp công nhân của mỗi quân nhân. Mối quan hệ giữa
quân nhân tại ngũ với gia đình họ là mối quan hệ bền vững, thường xuyên và chi phối rất lớn tới tư
tưởng, hành động của họ. Những tác động tích cực phù hợp với yêu cầu hoạt động quân sự của gia đình
tới quân nhân sẽ làm cho họ yên tâm, phấn khởi, nỗ lực hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ. Sự động viên,
chăm sóc khích lệ cả về mặt vật chất và tinh thần đối với người cầm súng từ gia đình của họ, sự kiên
quyết khơng bao che, dung túng trước những nhận thức và hành vi trái với bản chất truyền thống tốt đẹp

của quân đội, của con em mình, có tác dụng khơng nhỏ tới củng cố, tăng cường bản chất giai cấp công
nhân của qn đội ta. Trong điều kiện hồ bình, đất nước phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa thì vai trị của gia đình đối với việc xây dựng quân đội nói chung, tăng cường bản chất giai
cấp cơng nhân của qn đội nói riêng càng trở nên quan trọng hơn.


4. Vai trò của việc giáo dục bản chất giai cấp công nhân của quân đội

Giáo dục tăng cường bản chất giai cấp cơng nhân của qn đội có vai trò rất to lớn trong nâng cao
sức mạnh chiến đấu của quân đội ta, bảo đảm cho quân đội ta hồn thành thắng lợi các nhiệm vụ được
giao phó trong mọi tình huống. Thực tế cho thấy, nhờ có bản chất giai cấp công nhân được củng cố, tăng
cường, Quân đội nhân dân Việt Nam mới có thể đạt được những thành tích và chiến cơng to lớn trong
hơn nửa thế kỷ qua.
Sức mạnh chiến đấu của quân đội ta là tổng hợp các yếu tố vật chất và tinh thần nói lên trình độ sẵn
sàng chiến đấu và khả năng hoàn thành các nhiệm vụ của quân đội. Sức mạnh ấy là sản phẩm của sự kết
hợp biện chứng giữa con người và vũ khí, chính trị và kỹ thuật, khoa học quân sự và phương tiện chiến
tranh, tư tưởng và tổ chức. Thực tiễn khẳng định trong các yếu tố tạo thành sức mạnh chiến đấu của quân
đội, con người ở vị trí trung tâm và đóng vai trò chủ thể quyết định trong tổng thể các yếu tố đó . Vai trị
nhân tố con người của cán bộ, chiến sĩ trong sức mạnh chiến đấu của quân đội đã được chứng minh sáng
tỏ qua lịch sử chiến đấu và trưởng thành của quân đội ta. Chất lượng nhân tố con người trong sức mạnh
chiến đấu của quân đội thể hiện trước hết ở chất lượng chính trị của cán bộ, chiến sĩ. Cái chủ yếu quyết
định nâng cao chất lượng chính trị của quân đội là tăng cường bản chất giai cấp công nhân của quân
đội ta. Nếu khơng có bản chất giai cấp cơng nhân ngày càng được tăng cường thì qn đội ta khơng thể
có được sức mạnh chiến đấu cao hơn sức mạnh chiến đấu của qn đội đối phương, khơng thể có được
những thành tích, chiến cơng vĩ đại và do đó cũng khơng thể có những truyền thống vẻ vang như ngày
nay. Vai trị của tăng cường bản chất giai cấp cơng nhân trong nâng cao sức mạnh chiến đấu của quân đội
ta khơng tách rời vai trị của chất lượng nhân tố con người, của yếu tố chính trị - tinh thần quân đội.
Trong các yếu tố tạo thành sức mạnh chiến đấu, nếu so sánh đơn thuần yếu tố vật chất - kỹ thuật của
quân đội ta với quân đội đối phương thì qn đội ta khơng có ưu thế bằng họ. Hơn nửa thế kỷ xây dựng,
chiến đấu và trưởng thành, quân đội ta đã phải trực tiếp đương đầu đọ sức với những quân đội xâm lược

rất mạnh về mặt vật chất - kỹ thuật, từ phát xít Nhật hùng mạnh ở châu á, đế quốc Pháp- một cường quốc
thực sự già đời ở châu Âu, cho đến đế quốc Mỹ - tên đế quốc đầu sỏ, kẻ thù của nhân loại tiến bộ u
chuộng hồ bình trên thế giới. Đó là những quân đội đế quốc lớn, đất rộng, người đơng, có lực lượng,
kinh tế rất mạnh bảo đảm, được trang bị đầy đủ và rất hiện đại, được huấn luyện tốt, có nhiều âm mưu
thủ đoạn xảo quyệt trong tiến hành chiến tranh xâm lược và đàn áp phong trào cách mạng của nhân dân.
Tuy vậy, những quân đội nhà nghề của những nước đế quốc rất mạnh khi xâm lược nước ta đều không
tránh khỏi sự thất bại nhục nhã. Sự thất bại đó bắt nguồn từ bản chất của chế độ chính trị - xã hội, từ bản
chất giai cấp tư sản thống trị trong xã hội tư bản, từ đường lối và mục tiêu quân sự phản động, từ tư
tưởng cá nhân chủ nghĩa ích kỷ, cực đoan tồn tại trong quân đội mang bản chất giai cấp tư sản. Sự thắng
lợi của quân đội ta trước những quân đội đối phương không phải chỉ nhờ có yếu tố chính trị - tinh thần.
Yếu tố này vốn là ưu thế tuyệt đối của qn đội ta nhưng cịn phải có yếu tố vật chất - kỹ thuật nhất định.
Vấn đề đáng phải nhấn mạnh là ở chỗ tuy quân đội ta thua kém quân đội địch về mặt vật chất - kỹ thuật
nhưng lực lượng vật chất, vũ khí trang bị đã được quân đội ta sử dụng với hiệu quả cao nhất bởi những
người lính hiểu rất rõ mình bảo vệ ai, bắn ai và hiểu thấu rằng vì sao mình chiến đấu và sẵn sàng hy sinh.
Sự giác ngộ sâu sắc mục tiêu lý tưởng, nhiệm vụ chiến đấu vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội của
cán bộ, chiến sĩ là một biểu hiện tập trung bản chất giai cấp công nhân của quân đội và là cái chủ yếu
quyết định làm nên chiến thắng của quân đội ta.
Bản chất giai cấp công nhân của quân đội quy định phương hướng chính trị giai cấp, định hướng
đúng đắn cho sự vận động phát triển của các yếu tố tạo thành sức mạnh chiến đấu của quân đội ta .
Chính từ vai trị quan trọng của bản chất giai cấp công nhân đối với xây dựng quân đội về chính trị nói
riêng, đối với xây dựng sức mạnh chiến đấu của quân đội nói chung và việc giáo dục nhằm tăng cường
bản chất giai cấp công nhân của quân đội đã trở thành một nguyên tắc chỉ đạo thực tiễn xây dựng quân
đội ta. Ngày nay nguyên tắc đó càng có ý nghĩa quan trọng hơn bao giờ hết. Mọi quan điểm, mọi hành vi


coi thường, hạ thấp vai trò của việc giáo dục tăng cường bản chất giai cấp công nhân của quân đội đều
cần phải được phê phán kịp thời.
II. những nhân tố chủ yếu tác động
đến giáo dục bản chất
giai cấp công nhân của quân đội ta

1. Tác động của kinh tế thị trường ở nước ta tới giáo dục bản chất giai cấp công nhân của Quân đội nhân dân
Việt Nam

ở nước ta, từ một nền kinh tế thuần nhất về thành phần và chế độ sở hữu (quốc doanh và tập thể)
chuyển sang nền kinh tế nhiều thành phần, từ nền kinh tế hiện vật chuyển sang nền kinh tế hàng hoá, từ
cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp chuyển sang cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, từ nền kinh tế đóng cửa sang nền kinh tế mở cửa với bên ngồi - đó là một sự
chuyển hướng lớn lao, một sự đột phá tạo nên thay đổi sâu sắc trong xây dựng kinh tế và xây dựng xã hội
chủ nghĩa. Đại hội VI của Đảng ta (tháng 12-1986) là mốc đánh dấu sự đổi mới căn bản của Đảng ta về
tư duy kinh tế. Đại hội VI quyết định xoá bỏ cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp chuyển sang phát triển
kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, sử dụng đúng đắn quan hệ hàng - tiền, thực hiện hạch toán kinh
doanh. Song ở Đại hội VI chưa nói tới kinh tế thị trường, cơ chế thị trường, nói phát triển sản xuất hàng
hố cịn dè dặt, chưa bao quát hết các mặt, các nội dung của nó. Đến Hội nghị lần
thứ 6 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VI (tháng 3-1989) đã khẳng định cơ chế thị trường thể
hiện sự vận động của các quy luật sản xuất và lưu thông hàng hoá phải được vận dụng nhất quán trong kế
hoạch hoá và chính sách kinh tế.
Đại hội VII của Đảng (6-1991) xác định phát triển "Kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo
cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước là hoàn toàn cần thiết để giải phóng và phát huy được các
tiềm năng sản xuất trong xã hội" 1. Hội nghị Đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ (khoá VII) của Đảng
(tháng 1-1994) đã xác định "Cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa" đang trở thành cơ chế vận hành của nền kinh tế nước ta. Trong Văn kiện Hội nghị đại biểu toàn
quốc giữa nhiệm kỳ (khoá VII) đã sử dụng cụm từ "nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ
nghĩa".
Đại hội VIII của Đảng (tháng 6-1996) đã chỉ rõ nền kinh tế nước ta xây dựng là "nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, đi đơi với tăng cường vai trị quản lý của Nhà nước
theo định hướng xã hội chủ nghĩa" 1.
Đến Đại hội IX và Đại hội X, Đảng ta đã xác định mơ hình kinh tế tổng qt ở nước ta là nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Nền kinh tế nước ta hiện nay đang ở trong giai đoạn quá độ, chuyển tiếp từ nền kinh tế tập trung, bao
cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nếu nhìn

nhận một cách nghiêm túc, đến nay nền kinh tế thị trường của nước ta vẫn còn là nền kinh tế thị trường
sơ khai. Đây chính là những điểm cần phải nắm vững trong nghiên cứu về tính hai mặt của nền kinh tế nước
ta.
Mặc dù nền kinh tế thị trường nước ta vừa được hình thành, cịn đang trong những bước chập chững
ban đầu và được điều tiết một cách có ý thức theo định hướng xã hội chủ nghĩa, song cũng đã tác động
1

Đại

hội

Đại

biểu

tồn

quốc

lần

thứ

VII,

Nxb

Chính

trị


quốc gia, H. 1991, tr. 55.
1
.
Văn
kiện
Đại

.

Văn

kiện

hội

Đại

biểu

tồn

quốc

lần

thứ

VIII,


Nxb

Chính

trị

quốc gia, H. 1996, tr. 72.


khá rõ nét đến mọi mặt đời sống của xã hội. Có thể nói "kinh tế thị trường đã làm "bung ra", phơi bày
mọi mối quan hệ xã hội, mọi vấn đề lâu nay bị ẩn giấu. Nó đặt lại rất nhiều vấn đề một cách cơ bản từ
quan niệm lý luận về xã hội chủ nghĩa, xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước, công tác tư tưởng của Đảng,
đến xây dựng con người, đạo đức, lối sống, nhân cách, phát triển văn hố, giáo dục, khoa học... khơng
tính đến tác động của kinh tế thị trường - với cả mặt tích cực và tiêu cực của nó - thì sẽ khơng thể đưa ra
một chính sách hợp lý, thực tế được" 1.
Quân đội nhân dân Việt Nam là một bộ phận cấu thành của Nhà nước, đồng thời là một bộ phận kiến
trúc thượng tầng chính trị của xã hội ta. Do đó, sự vận động phát triển của qn đội nói chung, bản chất
giai cấp cơng nhân của qn đội nói riêng khơng thể đứng ngồi sự tác động to lớn của nền kinh tế đất
nước. Thực tiễn cho thấy bản chất giai cấp công nhân của quân đội ta đang hàng ngày, hàng giờ chịu sự
tác động hai mặt của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Khơng thể vì những nét đặc thù
thuộc về bản chất, chức năng, nhiệm vụ, quy luật hoạt động của quân đội mà phủ nhân sự tác động của
nền kinh tế - xã hội tới các mặt, các yếu tố, các mối quan hệ thể hiện bản chất giai cấp công nhân của
quân đội ta.
ở nước hiện nay, sự phát triển của nền kinh tế thị trường luôn tác động tới tất cả các mặt, các lĩnh vực
của đời sống và hoạt động của quân đội. Tuy nhiên, sự tác động của nền kinh tế này tới mặt kỹ thuật quân sự, tới đời sống vật chất của quân đội có thể dễ dàng nhận thấy hơn là sự tác động của nói tới bản
chất giai cấp cơng nhân của qn đội ta. Nhiều cơng trình khoa học của cá nhân và tập thể đã đưa ra
những nhận định chung về tác động hai mặt của nền kinh tế hiện nay ở nước ta tới xây dựng quân đội về
chính trị nhưng chưa đi sâu vào phân tích tác động của nó tới yếu tố cốt lõi trong mặt chính trị của quân
đội là bản chất giai cấp cơng nhân. Chính vì thế, phân tích sự tác động của nền kinh tế thị trường mà
chúng ta đang xây dựng tới bản chất giai cấp công nhân của qn đội phải là một q trình tìm tịi, khám

phá lâu dài.
a) Một số đặc điểm cơ bản về tác động của nền kinh tế thị trường tới bản chất giai cấp công nhân của
quân đội ta
Thứ nhất, nền kinh tế thị trường tác động tới bản chất giai cấp cơng nhân của qn đội ta với cả hai
mặt, tích cực và tiêu cực, thông qua con đường tác động trực tiếp và gián tiếp, trong đó con đường tác
động gián tiếp là chủ yếu.
Nền kinh tế thị trường mà chúng ta đang xây dựng có tính hai mặt tích cực và tiêu cực, hai mặt này
tác động tới bản chất giai cấp công nhân của quân đội ta. Ngay cả trong trường hợp nền kinh tế thị
trường giữ vững được định hướng xã hội chủ nghĩa thì nó vẫn có những tác động tiêu cực tới bản chất
giai cấp công nhân của quân đội ta. Không phải những tác động tiêu cực của nền kinh tế thị trường ở
nước ta tới bản chất giai cấp công nhân của quân đội chỉ có ở những con người và đơn vị làm kinh tế
hoặc chỉ ở những nơi có nắm vật tư, tiền bạc của quân đội, còn những nơi khác khơng có cơ sở cho mặt
trái của kinh tế thị trường xâm nhập, gây tác hại. Quân đội ta có khả năng nhận thức và hạn chế đến mức
thấp nhất tác động tiêu cực của nền kinh tế nước ta hiện nay, nhưng khơng thể loại bỏ được hồn tồn tác
động tiêu cực đó. Chỉ thấy những tác động tích cực mà không thấy những tác động tiêu cực của nền kinh
tế thị trường tới bản chất giai cấp công nhân của quân đội ta và ngược lại chỉ thấy những tác động tiêu
cực mà không thấy những tác động tích cực của nền kinh tế này tới bản chất giai cấp công nhân của quân
đội ta đều là sai lầm. Càng sai lầm hơn nếu phủ nhận sự tác động hai mặt của nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa tới bản chất giai cấp công nhân của quân đội ta, cho rằng bản chất giai cấp cơng
nhân của qn đội hồn tồn kỳ thị và xa lạ với kinh tế thị trường.
Hai mặt tích cực và tiêu cực của nền kinh tế thị trường tác động tới bản chất giai cấp công nhân của
quân đội ta theo con đường trực tiếp và gián tiếp trong đó tác động gián tiếp là chủ yếu. Kinh tế thị
1

. Lê Hữu Nghĩa, Phép biện chứng của công cuộc đổi mới ở nước ta, Tạp chí Nghiên cứu lý luận, số 14,

4/1997, tr. 4.


trường có thể tác động trực tiếp vào từng cán bộ, chiến sĩ nhưng cũng có thể qua tổ chức trong quân đội

hoặc thông qua môi trường xã hội bên ngồi, qua gia đình, qua các mối quan hệ phong phú, phức tạp của
quân nhân. Kinh tế thị trường có thể tác động ngay vào các mặt, các yếu tố nào đó trong bản chất giai
cấp cơng nhân của qn đội nhưng cũng có thể qua các mắt khâu trung gian từ đó tác động tới làm tăng
cường hoặc suy giảm bản chất giai cấp công nhân của quân đội ta... Chính vì vậy, khơng thể chỉ nghiên
cứu tác động trực tiếp của nền kinh tế thị trường tới bản chất giai cấp công nhân của quân đội ta mà
không thấy tác động gián tiếp và ngược lại. Những tác động trực tiếp của nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa tới bản chất giai cấp công nhân của quân đội có thể dễ nhận thấy hơn so với
những tác động gián tiếp. Tuy nhiên, không thể đơn giản xem những tác động trực tiếp là quan trọng còn
những tác động gián tiếp của nền kinh tế thị trường nước ta tới bản chất giai cấp công nhân của quân đội
là không quan trọng. Hơn thế, không thể cho rằng những tác động trực tiếp của kinh tế thị trường đưa lại
hậu quả tiêu cực tới bản chất giai cấp công nhân của quân đội là chủ yếu và ngược lại những tác động
gián tiếp sẽ đưa lại kết quả tích cực là chủ yếu. Tương quan giữa tác động của mặt tích cực và tiêu cực
của nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa tới bản chất giai cấp công nhân của quân đội
không phụ thuộc vào con đường tác động trực tiếp hay gián tiếp, mà chủ yếu phụ thuộc vào vai trò của
chủ thể quân đội trước sự tác động hai mặt của nền kinh
tế đó.
Thứ hai, nền kinh tế thị trường ở nước ta tác động tới bản chất giai cấp công nhân của quân đội thể
hiện ở mọi con người và tổ chức trong quân đội, song cách thức, mức độ và hiệu quả của sự tác động
này tới từng đối tượng, trong từng điều kiện hoàn cảnh cụ thể là không ngang bằng nhau .
Bằng con đường trực tiếp và gián tiếp, hai mặt tích cực và tiêu cực của nền kinh tế thị trường nước ta
tác động tới bản chất giai cấp công nhân của mọi cán bộ, chiến sĩ đang phục vụ trực tiếp trong Quân đội
nhân dân Việt Nam. Mọi quân nhân trong quân đội ta, từ người binh nhì đến cán bộ cao cấp, từ người đã
qua chiến đấu được thử thách qua khói lửa của chiến tranh, đến những người vừa rời ghế nhà trường vào
bộ đội đều chịu tác động của nền kinh tế thị trường cho dù họ có nhận thức được hay khơng nhận thức
được điều đó. Kinh tế thị trường tác động tới tất cả các tổ chức như tổ chức đảng, tổ chức chỉ huy, Đoàn
Thanh niên, Hội Phụ nữ, Cơng đồn..., ở các đơn vị chiến đấu, cơ quan, học viện, nhà trường, bệnh viện
quân đội, nhà máy xí nghiệp quốc phịng... Khơng phải nền kinh tế thị trường nước ta chỉ tác động tới
những con người và tổ chức có nhiệm vụ chuyên lao động sản xuất, làm kinh tế. Bất cứ ở đâu có sự tồn
tại, hoạt động của con người và tổ chức qn sự thì ở đó có sự tác động của nền kinh tế thị trường với cả
mặt tích cực và tiêu cực.

Mỗi cán bộ, chiến sĩ trong quân đội, mỗi tổ chức cụ thể của quân đội ta là một cái riêng. Các cá nhân
trong quân đội không đồng nhất về thành phần xuất thân,
về học vấn, nhận thức xã hội, về sự trải nghiệm thực tiễn, về phẩm chất, đạo đức, lối sống và bản lĩnh
chính trị... Họ cịn khác nhau về chuyên môn nghiệp vụ do sự phân công lao động trong lĩnh vực quân sự,
khác nhau về địa bàn đóng qn... Chính vì thế mà tác động của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa tới bản chất giai cấp công nhân của mỗi người không giống nhau. Các tổ chức trong quân đội
cũng không giống nhau về đặc điểm, chức năng, nhiệm vụ, về cơ chế hoạt động. Do đó kết quả sự tác
động của nền kinh tế thị trường tới bản chất giai cấp công nhân của các tổ chức sẽ khác nhau. Chúng ta
không thể dựa vào thực trạng bản chất giai cấp công nhân dưới sự tác động của nền kinh tế thị trường ở
một vài con người, vài đơn vị, vài tổ chức nào đó trong điều kiện khơng thời gian nhất định mà kết luận
chung về sự tác động của nền kinh tế thị trường tới bản chất giai cấp công nhân của quân đội không thay
thế và bác bỏ những đánh giá riêng về tác động của nền kinh tế này tới bản chất giai cấp công nhân ở
từng con người, từng đơn vị cụ thể trong quân đội ta.


Thứ ba, tác động của nền kinh tế thị trường ở nước ta tới bản chất giai cấp công nhân của quân đội
ta là sự tác động to lớn nhưng không phải là duy nhất mà sự tác động này nằm trong hệ thống gồm nhiều
nhân tố có quan hệ biện chứng với nhau cùng tác động tới bản chất giai cấp công nhân của quân đội ta .
Cùng với sự tác động của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cịn có những nhân tố
khác đang tác động tới bản chất giai cấp công nhân của quân đội ta theo những chiều hướng khác nhau
và tạo thành một tổng hợp lực chung, thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển bản chất giai cấp cơng nhân
của quân đội. Những nhân tố tác động tới bản chất giai cấp công nhân của quân đội bao gồm cả ở trong
nước ta và quốc tế. ở trong nước ta, sự tác động của nền kinh tế thị trường tới bản chất giai cấp công
nhân của quân đội là sự tác động to lớn. Tuy vậy, không thể tách rời, cơ lập, tuyệt đối hố nó mà khơng
tính tới sự tác động của các nhân tố khác tới bản chất giai cấp công nhân của quân đội. Kinh tế thị trường
và các nhân tố khác tồn tại khách quan trong đời sống xã hội tất yếu có sự tác động của mỗi nhân tố khác
nhau thì có vai trị không ngang bằng nhau đối với sự vận động phát triển bản chất giai cấp công nhân
của quân đội ta.
Thứ tư, kết quả sự tác động của nền kinh tế thị trường tới bản chất giai cấp công nhân của quân đội
ta có thể bộc lộ sớm, dễ nhận biết được và cũng có những mặt phải qua một thời gian dài mới lộ rõ.

Không thể đánh giá được đầy đủ, chính xác kết quả sự tác động của nền kinh tế thị trường nước ta tới
bản chất giai cấp cơng nhân của qn đội bằng nhận thức cảm tính.
Việc phân tích kết luận về sự tác động tích cực và tiêu cực của nền kinh tế thị trường tới bản chất giai
cấp công nhân của quân đội ta là một việc lớn, rất phức tạp vì nền kinh tế thị trường nước ta đang còn sơ
khai, nhiều vấn đề ở phía trước rất mới mẻ khó lường đốn được chính xác.
Kết quả sự tác động của nền kinh tế thị trường tới các lĩnh vực của đời sống xã hội dễ nhận thấy hơn
sự tác động của nền kinh tế này tới bản chất giai cấp công nhân của quân đội ta. So với các tổ chức khác,
tác động của nền kinh tế thị trường nước ta tới bản chất giai cấp cơng nhân của qn đội là khó nhận biết
hơn, tích tụ lâu dài, thơng qua việc làm tăng cường gây suy yếu các mối quan hệ, trong hồn cảnh đặc
biệt của cách mạng có thể tạo nên những đột biến khó lường. kinh tế thị trường tác động tới các tổ chức
kinh tế rất rõ, lỗ lãi biết được ngay, đời sống vật chất lên xuống biết được ngay, khả năng đứng vững phát
triển hoặc phá sản cũng biết được ngay, có khi chỉ trong vài tuần hoặc vài tháng... Nhưng tác động của
kinh tế thị trường tới bản chất giai cấp công nhân của quân đội ta không phải tương tự như vậy. Ngay so
với một số tổ chức chính trị khác do Đảng Cộng sản lãnh đạo như Cơng đồn, Đồn Thanh niên Cộng
sản... thì sự vận động biến đổi về chính trị của các tổ chức này cũng dễ nhận biết hơn, nhanh hơn so với
quân đội.
Những tác động tích cực của nền kinh tế thị trường tới bản chất giai cấp công nhân của quân đội
thường bộc lộ rõ, dễ nhận thấy và được nhiều người thừa nhận hơn là những tác động tiêu cực. Hậu quả
tác động bởi mặt trái của nền kinh tế thị trường tới bản chất giai cấp công nhân của qn đội có những
cái được thẩm thấu tích tụ dần dần và được nguỵ trang một cách tinh vi, khiến cho sự quan sát thơng
thường khó nhận biết được. Trong những điều kiện nhất định, sự tác động của nền kinh tế thị trường
nước ta tới bản chất giai cấp công nhân của quân đội không phải mờ ảo, bí ẩn nhưng cũng khơng phải là
cái dễ đo lường chính xác và có thể lượng hố, thuyết phục bằng những con số đại lượng
cụ thể.
b) Biểu hiện tác động của nền kinh tế thị trường tới bản chất giai cấp công nhân của quân đội.
Đổi mới kinh tế vừa qua là thành tựu nổi bật nhất và nhờ đó mới giữ được ổn định chính trị và đổi
mới hệ thống chính trị theo yêu cầu phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhờ
có đổi mới kinh tế, đất nước đã đứng vững, vượt qua nhiều thử thách khắc nghiệt, mở rộng quan hệ với
nhiều nước trên thế giới, giữ vững được an ninh quốc phòng, tạo điều kiện thuận lợi đổi mới các mặt
khác của đời sống xã hội. Điểm rất quan trọng là những thành tựu lớn do phát triển nền kinh tế thị trường

định hướng xã hội chủ nghĩa đã củng cố niềm tin của nhân dân với Đảng, Nhà nước và chế độ mới, tạo


cơ sở nền tảng vững chắc cho sự đoàn kết thống nhất dân tộc, đồng thời đưa dân tộc ta hoà nhập vào cộng
đồng thế giới, khai thác những nhân tố mới của thời đại để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Thứ nhất, những tác động tích cực của nền kinh tế thị trường tới việc giáo dục bản chất giai cấp
công nhân của quân đội
Những thành tựu to lớn do phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã tác động
tích cực tới xây dựng quân đội nói chung, tới tăng cường bản chất giai cấp cơng nhân của qn đội ta nói
riêng. Tác động tích cực của nền kinh tế thị trường nước ta tới bản chất giai cấp công nhân của quân đội
được biểu hiện qua những điểm chủ yếu sau đây:
Một là, thành tựu của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã góp phần to lớn bảo vệ
chế độ xã hội chủ nghĩa, giữ vững sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, tăng cường hiệu lực của
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, tạo ra những tiền đề để tăng cường bản chất giai cấp công nhân
của quân đội ta.
Hai là, sự phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã từng bước củng cố
niềm tin chính trị và nâng cao sự giác ngộ xã hội chủ nghĩa cho cán bộ, chiến sĩ, tạo nên tinh thần phấn
chấn, nỗ lực cao đối với việc thực hiện nhiệm vụ quân sự và củng cố vững chắc của mục tiêu, lý tưởng
chiến đấu của quân đội ta.
Niềm tin của cán bộ, chiến sĩ trong quân đội vào sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đối
với các lĩnh vực của đời sống xã hội và niềm tin vào sự tất thắng của xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là một
biểu hiện của bản lĩnh chính trị đồng thời là một biểu hiện bản chất giai cấp công nhân của quân đội ta.
Trong những năm nền kinh tế đất nước lâm vào khủng hoảng gay gắt với biểu hiện rõ rệt như đời sống
nhân dân gặp nhiều khó khăn, lạm phát đến mức phi mã, sản xuất bị đình đốn, đã làm giảm sút niềm tin
của nhân dân lao động và của quân đội vào Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội mới. Một bộ phận cán bộ,
chiến sĩ quân đội nảy sinh tâm trạng ức chế, hoài nghi về năng lực lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà
nước đối với lĩnh vực kinh tế. Từ đó thiếu yên tâm, phấn khởi trong nhận thức và hồn thành các nhiệm
vụ. Song nhờ có sự phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với những thành
tựu to lớn bước đầu, đã từng bước củng cố niềm tin của cán bộ, chiến sĩ quân đội vào sự lãnh đạo của
Đảng, sự quản lý của Nhà nước ta đối với lĩnh vực mới mẻ, khó khăn, phức tạp có ý nghĩa quyết định thắng

lợi của chủ nghĩa xã hội - lĩnh vực xây dựng và phát triển nền kinh tế. Khi niềm tin của cán bộ, chiến sĩ
được củng cố vững chắc thì quân đội càng tự nguyện, tự giác phục tùng sự lãnh đạo của Đảng và chấp
hành nghiêm chỉnh sự quản lý của Nhà nước ta.
Cùng với tác dụng tích cực trong việc củng cố niềm tin của cán bộ, chiến sĩ vào Đảng, Nhà nước và
chế độ xã hội mới, những thành tựu to lớn của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã góp
phần vào việc củng cố tính vững chắc của mục tiêu lý, tưởng chiến đấu của quân đội ta. Mục tiêu, lý
tưởng đó mang tính khoa học và cách mạng. Những tác động của nền kinh tế thị trường ở nước ta làm
cho quân đội ngày càng kiên định với mục tiêu, lý tưởng chiến đấu chính là góp phần tăng cường bản
chất giai cấp công nhân của quân đội ta. Giữa mục tiêu, lý tưởng cao đẹp của quân đội với hiện thực có
một khoảng cách và mâu thuẫn nhất định. Khoảng cách đó đang được rút ngắn dần, mâu thuẫn từng bước
được giải quyết, nhờ tác động tích cực của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Công tác
giáo dục nâng cao giác ngộ của cán bộ, chiến sĩ trong quân đội ta về mục tiêu, lý tưởng chiến đấu trong
điều kiện nền kinh tế đất nước phát triển với những thành tựu to lớn tất nhiên sẽ có nhiều thuận lợi. Đồng
thời, trong điều kiện đó cũng đặt ra những yêu cầu mới nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả của công tác
giáo dục mục tiêu, lý tưởng chiến đấu của quân đội ta so với trước đây.
Ba là, sự phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tạo điều kiện kinh tế và
đặt ra yêu cầu mới đối với các mối quan hệ trong nội bộ quân đội và quan hệ giữa quân đội với nhân dân.


×