Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

Ứng dụng mo hinh kim cuong trong quan trị chien luoc doanh nghiep

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (246.82 KB, 13 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
VIỆN ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC
--------------

BÀI TIỂU LUẬN
MÔN: QUẢN TRỊ CHIẾN LƯỢC
Đề bài: Nêu mô hình kim cương và ứng dụng của nó trong định
hướng chiến lược của doanh nghiệp
Học viên thực hiện:
Mã học viên

:

Lớp

: CH27S

Giảng viên

:

Hà Nội, tháng 10 năm 2018


1. Lợi thế cạnh tranh quốc gia và mô hình kim cương của Michael Porter
1.1.
Lợi thế cạnh tranh quốc gia là gì?
1.1.1. Lợi thế cạnh tranh
Lợi thế cạnh tranh là giá trị mà doanh nghiệp mang đến cho khách hàng, giá trị đó
vượt quá chi phí dùng để tạo ra nó. Khi một doanh nghiệp duy trì được lợi nhuận vượt
trên mức trung bình ngành, doanh nghiệp đó được cho là có một lợi thế cạnh tranh so với


các đối thủ. Lợi thế cạnh tranh là nhân tố cấn thiết cho sự thành công và tốn tại lâu dài
của doanh nghiệp. Vì vậy, mục tiêu của nhiều chiến lược kinh doanh là đạt được một lợi
thế cạnh tranh bền vững.
Lợi thế cạnh tranh còn được hiểu như là các đặc điểm hay các biến số của sản phẩm
hoặc nhãn hiệu, mà nhờ có chúng doanh nghiệp tạo ra một số tính trội hơn, ưu việt hơn so
với những người cạnh tranh trực tiếp. Lợi thế cạnh tranh được coi là bên ngoài khi chúng
dựa trên chiến lược phân biệt sản phẩm, hình thành nên giá trị cho người mua, hoặc bằng
cách giảm chi phí sử dụng, hoặc bằng cách tăng khả năng sử dụng. Lợi thế này tạo cho
Doanh nghiệp "Quyền lực thị trường". Lợi thế cạnh tranh bên trong dựa trên tính ưu việt
của Doanh nghiệp trong việc làm chủ chi phí sản xuất. Nó tạo nên giá trị cho người sản
xuất bằng cách tạo ra cho Doanh nghiệp một giá thành thấp hơn so với người cạnh tranh
chủ yếu.
Michael Porter đã nhận diện được hai loại lợi thế cạnh tranh cơ bản, đó là:
- Lợi thế chi phí: tồn tại khi một doanh nghiệp có thể mang lại những lợi ích tương
tự như các đối thủ của mình nhưng ở mức chi phí thấp hơn
- Lợi thế khác biệt: tồn tại khi một doanh nghiệp mang lại những lợi ích vượt xa các
sản phẩm cạnh tranh
Lợi thế chi phí và lợi thế khác biệt được xem như là những ưu thế của doanh nghiệp
vì nó mô tả vị trí đứng đầu của doanh nghiệp trong ngành, cả về chi phí và sự khác biệt.
Như vậy, một lợi thế cạnh tranh cho phép doanh nghiệp cung cấp giá trị cao hơn cho
khách hàng, đồng thời tạo ra lợi nhuận lớn hơn cho chính công ty.
Ngày nay, quá trình cạnh tranh đang có khuynh hướng chuyển mục đích của cạnh
tranh từ phía cạnh tranh người tiêu dùng sang cạnh tranh đối thủ. Cốt lõi của cạnh tranh
hiện nay được quan niệm là tạo ưu thế của Doanh nghiệp so với đối thủ cạnh tranh. Thích
ứng với cạnh tranh đòi hỏi phải có sự sáng tạo và khai thác lợi thế cạnh tranh. Doanh
nghiệp có thể sáng tạo ra lợi thế cạnh tranh theo các cách khác nhau: Hoặc là chọn tuyến
thị trường khác với đối thủ cạnh tranh, hoặc là đầu tư giảm giá thành để cạnh tranh tranh
trong cùng một tuyến thị trường, hoặc khiểm soát hệ thống phân phối. Đằng sau các cách
này là hai thái độ cạnh tranh:



- Đối đầu trực tiếp với đối phương
- Phát triển con đường tránh cạnh tranh (chiến thắng mà không cần phải chiến đấu)
1.1.2.

Lợi thế cạnh tranh quốc gia

Khả năng cạnh tranh của quốc gia/vùng lãnh thổ sẽ quyết định đến sự thịnh vượng
của vùng/lãnh thổ đó. Mặt khác, khả năng cạnh tranh này lại phụ thuộc vào năng lực sáng
tạo để nâng cao năng suất hay nói cách khác là năng lực đổi mới và nâng cấp của các
ngành công nghiệp trong quốc gia đó. Các công ty tạo ra được lợi thế so với các đối thủ
cạnh tranh giỏi nhất trên thế giới là nhờ phải chịu áp lực và thách thức. Các công ty này
hưởng lợi từ việc có những đối thủ cạnh tranh mạnh ở trong nước, các nhà cung ứng nội
địa năng động, và những khách hàng trong nước có nhu cầu. Trong một thế giới cạnh
tranh toàn cầu ngày càng khốc liệt, các quốc gia đã trở nên quan trọng hơn, chứ không
phải kém quan trọng đi. Vì cơ sở của sự cạnh tranh đã ngày càng dịch chuyển sang sự
sáng tạo và đồng hóa kiến thức, cho nên vai trò của quốc gia đã tăng lên. Lợi thế cạnh
tranh được tạo ra và duy trì thông qua một quá trình địa phương hóa cao độ. Tất cả những
khác biệt về giá trị, văn hóa, cơ cấu kinh tế, thể chế, và lịch sử của các nước đều đóng
góp cho sự thành công về cạnh tranh. Đây là những khác biệt đáng kể trong các mô thức
của năng lực cạnh tranh tại mọi quốc gia; không một quốc gia nào có thể hay sẽ có năng
lực cạnh tranh tại mọi hay thậm chí phần lớn các ngành. Cuối cùng, các nước thành công
trong các ngành cụ thể bởi vì môi trường nội địa của các nước đó hướng về tương lai
nhiều nhất, năng động nhất và thách thức nhất.
Theo Michael Porter: Cạnh tranh là tạo ra năng suất và năng suất là giá trị sản lượng
do một đơn vị lao động hoặc vốn sinh ra, nó phụ thuộc vào chất lượng và đặc điểm của
sản phẩm (yếu tố quyết định giá của sản phẩm). Có thể nói khả năng cạnh tranh và năng
suất mới có thể đảm bảo sự thịnh vượng kinh tế lâu dài. Do đó, các nền kinh tế cần xây
dựng và nuôi dưỡng môi trường kinh doanh kinh tế vi mô có tính cạnh tranh, cho phép
các doanh nghiệp cạnh tranh và thúc đẩy tăng trưởng thông qua việc giải phóng sức cạnh

tranh trong nội bộ.
Để có thể xây dựng và nuôi dưỡng môi trường kinh doanh kinh tế vi mô có tính
cạnh tranh cần biết được một quốc gia/vùng lãnh thổ đang ở giai đoạn phát triển kinh tế
nào với các ưu tiên chính sách khác nhau. Nền kinh tế lấy điều kiện sẵn có làm động lực
tạo ra giá trị nhờ khai thác tài nguyên và các điều kiện sẵn có do đó sẽ không đạt được sự
tăng trưởng kinh tế bền vững. Giai đoạn hai nền kinh tế sẽ dựa vào nguyên vật liệu đầu
vào để tạo ra hàng hóa và dịch vụ có giá trị hơn. Còn giai đoạn cuối cùng đó là tạo ra giá
trị độc đáo cho nhiều khách hàng, giúp cho năng suất cao hơn thông qua tổng hợp các
yếu tố.


1.2.

Mô hình kim cương của Michael Porter

Trong cuốn sách "The Competitive Advantage of Nations,", tác giả Michael Porter
đưa ra mô hình kim cương, mô hình được thiết kế để tìm hiểu các quốc gia hoặc nhóm có
lợi thế cạnh tranh do các yếu tố có sẵn, nhằm giúp cho một quốc gia hay một ngành công
nghiệp (trong quốc gia đó) có thể phân tích điểm mạnh, điểm yếu, cũng như lợi thế hay
bất lợi trong một môi trường kinh tế cạnh tranh toàn cầu.
Porter đã xây dựng lý thuyết về bốn thuộc tính lớn của một quốc gia hình thành nên
môi trường cạnh tranh cho các công ty tại nước đó, và những thuộc tính này thúc đẩy
hoặc ngăn cản sự tạo ra lợi thế cạnh tranh của quốc gia đó, đồng thời đánh giá một quốc
gia hay vùng lãnh thổ có môi trường kinh doanh vi mô lành mạnh hay không. Mô hình
đưa ra 4 nhân tố tác động qua lại lẫn nhau và quyết định lợi thế cạnh tranh quốc gia/vùng
lãnh thổ đó là:
- Điều kiện về các yếu tố đầu vào
- Điều kiện về nhu cầu
- Chiến lược, cơ cấu và sự cạnh tranh của công ty
- Cách ngành hỗ trợ và có liên quan

Porter đề xuất 4 yếu tố quan trọng này tác động qua lại lẫn nhau và đều bị ảnh
hưởng bởi sự thay đổi của chính sách chính phủ đưa ra. Điều này được chỉ ra trong hình
dưới.


1.2.1.

Điều kiện về các yếu tố đầu vào

"Yếu tố đầu vào" là những yếu tố đóng góp vào quá trình sản xuất hàng hoá, dịch
vụ. Theo truyền thống, đó là con người, nguyên liệu thô, đất đai và vốn. Điều kiện về các
yếu tố sản xuất này liên quan tới sự “có sẵn” hoặc “không có sẵn” của chúng ở một quốc
gia cụ thể.
- Điều kiện về yếu tố đầu vào sẵn có: Điều kiện sẵn có của một môi trường kinh
doanh bao gồm tính hiệu quả, chất lượng và sự chuyên môn hóa của các điều kiện sẵn có
cho doanh nghiệp. Các điều kiện này sẽ có tác động đến năng lực sáng tạo và năng suất
lao động, bao gồm: vốn, con người, tài nguyên thiên nhiên, cơ sở hạ tầng vật chất và
hành chính, công nghệ thông tin. Các yếu tố này cần được kết hợp một cách đầy đủ để
tạo sơ sở hình thành lợi thế cạnh tranh.
- Điều kiện về yếu tố đầu vào không có sẵn: Khi yếu tố đầu vào sản xuất thiểu hụt,
quốc gia cần phải đổi mới để vượt qua thách thức và sự đổi mới này có thể tạo ra lợi thế
cạnh tranh. Một ví dụ rõ ràng nhất về hiện tượng này là về Nhật Bản, một nước không có
nhiều đất trồng trọt và các nguồn khoáng sản, tuy nhiên thông qua đầu tư đã tạo lập được
một sự dồi dào rất lớn các yếu tố tiên tiến. Porter lưu ý rằng đội ngũ kỹ sư lành nghề
đông đảo ở Nhật Bản (phản ánh thông qua tỷ lệ số lượng người tốt nghiệp có bằng kỹ sư
trên bình quân đầu người hơn hẳn bất kỳ nước nào) là nhân tố chủ chốt dẫn tới sự thành
công của Nhật Bản trong nhiều ngành công nghiệp chế tạo.
1.2.2.

Các điều kiện về nhu cầu



Nhu cầu thị trường ảnh hưởng tới quy mô và tăng trưởng thị trưởng đồng thời liên
quan đến cả tính chất khách hàng. Người mua ngày càng có hành vi tiêu dùng phức tạp
và tinh vi, đồi hỏi các doanh nghiệp phải nỗ lực đổi mới và cho ra thị trường các sản
phẩm đạt tiêu chuẩn chất lượng cao mới có thể đứng vững trên thị trường và tăng tính
cạnh tranh. Nhìn chung, môi trường kinh doanh lành mạnh sẽ có mức cầu cao từ các
nhóm khách hàng địa phương phức tạp, do đó buộc các doanh nghiệp phải cung cấp hàng
hóa và dịch vụ chất lượng cao hơn mới có khả năng thành công. Vì vậy, đặc điểm nhu
cầu tại thị trường nội địa đóng vai trò quan trọng trong việc tạo nên các áp lực nâng cao
chất lượng sản phẩm hiện tại và hình thành nên sản phẩm mới. Một công ty sẽ có lợi thế
cao hơn nếu khách hàng trong nước của họ có những yêu cầu cao đối với sản phẩm.
Chính những áp lực này buộc các công ty trong nước phải thường xuyên đổi mới sản
phẩm, nâng cao chất lượng sản phẩm để đáp ứng các yêu cầu của thị trường nội địa. Ví
dụ: Hàng hóa bán tại Nhật chất lượng cao hơn hàng hóa xuất khẩu sang một số thị trường
khác. Kết cấu cầu nội địa,được xác định thông qua việc các doanh nghiệp nhận thức, nắm
rõ và đáp ứng những nhu cầu của người mua. Lợi thế cạnh tranh có thể đạt được, khi cầu
nội địa mang lại cho doanh nghiệp trong nước một bức tranh tốt hơn về nhu cầu của
người mua vào thời gian đầu so với các đối thủ cạnh tranh nước ngoài. Lợi thế này càng
được thúc đầy, khi chính những nguời mua trong nước buộc các doanh nghiệp nội địa
phải đổi mới nhanh chóng và thường xuyên. Quy mô và mô hình tăng trưởng cầu nội địa
càng trở nên quan trọng, khi kết cấu cầu nội địa là phức tạp và phản ánh trước được nhu
cầu bên ngoài. Sự tăng trưởng từ thị trường nội địa một cách nhanh chóng là một điều
khuyến khích khác nữa để đầu tư và chấp nhận những công nghệ mới một cách nhanh
hơn, từ đó xây dựng nên các đơn vị sản xuất có hiệu quả và quy mô lớn. Một nhu cầu nội
địa mới, đặc biệt là nếu nó mô phỏng trước được nhu cầu thế giới, thì sẽ mang lại cho
doanh nghiệp trong nước lợi thế nhanh hơn so với đối thủ cạnh tranh khi tham gia vào thị
trường quốc tế.
1.2.3.


Chiến lược cơ cấu và sự cạnh tranh của doanh nghiệp

Đây là yếu tố tạo nên sự cạnh tranh trong nước. Quy mô của các doanh nghiệp, cách
họ quản lý và cách họ cạnh tranh, là những yếu tố giúp các doanh nghiệp thành công
hoặc thất bại trên toàn cầu. Các quy định, quy tắc, cơ chế khuyến khích và áp lực chi phối
loại hình, mức độ cạnh tranh địa phương tạo ra những ảnh hưởng lớn tới chính sách thúc
đẩy năng suất nhằm tạo ra giá trị, tăng khả năng cạnh tranh cho công ty. Chiến lược quản
lý và cơ cấu tổ chức hiệu quả cũng sẽ tác động đến khả năng cạnh tranh. Bộ phận quản lý
phải luôn giám sát quá trình thực hiện kế hoạch và nỗ lực đạt được mục tiêu đã đề ra. Các
yếu tố ảnh hưởng tới điều này bao gồm:


­ Ngành phù hợp với điều kiện kinh doanh: Các ngành công nghiệp khác nhau phù
hợp với các loại hình tổ chức khác nhau. Chẳng hạn, có một tỷ lệ cao các doanh nghiệp
gia đình quy mô nhỏ ở Ý. Nó giúp nước này giữ vị trí hàng đầu trong ngành công nghiệp
thời trang (nơi có khả năng phản ứng nhanh với xu hướng, yếu tố rất quan trọng để thành
công). Bởi vì, thật khó để có cùng tốc độ linh hoạt trong những công ty lớn.
­ Phù hợp với phương thức đầu tư: Một ngành công nghiệp sẽ phát triển tốt nhất (ở
một quốc gia) nếu nhà đầu tư của nước này thấy rằng các phương thức hoạt động của
ngành đáp ứng được nhu cầu của họ. Điều này sẽ khuyến khích họ đầu tư. Những người
này tìm kiếm lợi nhuận lâu dài, ổn định, vì vậy họ có thể không hứng thú với các ngành
công nghiệp với tỷ trọng các công ty khởi nghiệp cao. Ngược lại, các nhà đầu tư mạo
hiểm muốn có lợi nhuận cao sẽ thích ngành có tỷ trọng khởi nghiệp lớn.
1.2.4.

Các ngành hỗ trợ và có liên quan

Yếu tố này liên quan đến khả năng cạnh tranh của các ngành khác trong nước. Để có
được sự thành công của môi trường kinh doanh vi mô cần có được số lượng lớn nhà cung
cấp có năng lực tại địa phương và thay vì từng ngành công nghiệp riêng lẻ cần có các

cụm ngành. Những lợi ích của việc đầu tư vào các yếu tố sản xuất tiên tiến bởi các ngành
hỗ trợ và liên quan có thể sẽ lan tỏa sang một ngành, từ đó giúp ngành này đạt được một
vị trí cạnh tranh vững mạnh trên thế giới. Sự có mặt của các nhà cung cấp chất lượng cao
và các ngành liên quan khác dẫn đến hai loại lợi thế chính:
­ Giá cả: Các ngành cạnh tranh cao thường mang lại lợi thế về chi phí. Khi các công
ty có lợi thế chi phí hoạt động trong cùng một quốc gia, chúng sẽ đem lại lợi thế về chi
phí cho các ngành liên quan khác. Một ví dụ điển hình, là ngành thuộc da và da giầy ở Ý.
Thành công của ngành này đã chuyển thành sự thành công của các ngành liên quan đến
sản xuất và chế biến da.
­ Đổi mới: Các công ty cạnh tranh cao có xu hướng sáng tạo. Các ngành công
nghiệp liên quan được hưởng lợi từ sự đổi mới này.
Porter khẳng định rằng mức độ thành công mà một nước có khả năng đạt được trên
thị trường thế giới về một ngành nhất định là một hàm số của sự kết hợp các thuộc tính:
điều kiện các yếu tố sản xuất, các điều kiện về cầu trong nước, các ngành công nghiệp hỗ
trợ và liên quan, và các đối thủ cạnh tranh trong nước. Theo ông, sự hiện diện của tất cả
bốn thuộc tính là yêu cầu để hình thành lên mô hình kim cương nhằm thúc đẩy năng lực
cạnh tranh (mặc dù vẫn tồn tại những ngoại lệ) và ông cũng khẳng định rằng chính phủ
có thể can thiệp tới từng thuộc tính trong số bốn thuộc tính thành phần của mô hình kim


cương – một cách tích cực hoặc tiêu cực. Điều kiện về yếu tố sản xuất có thể bị ảnh
hưởng bởi các khoản trợ cấp, các chính sách đối với thị trường vốn, các chính sách đối
với giáo dục, v.v…. Chính phủ có thể xác lập nhu cầu nội địa thông qua các tiêu chuẩn
sản phẩm nội địa hoặc bằng các quy định bắt buộc hoặc ảnh hưởng tới nhu cầu của người
mua hàng. Chính sách của chính phủ có thể tác động tới các ngành hỗ trợ và liên quan
thông qua các quy định và ảnh hưởng tới đối thủ cạnh tranh thông qua các công cụ như
quy định trên thị trường vốn, chính sách thuế, và luật chống độc quyền.
Như vậy, theo lý thuyết của M.Porter, các nước nên xuất khẩu những sản phẩm của
những ngành mà tại đó cả bốn thành phần của mô hình kim cương có điều kiện thuận lợi,
và nhập khẩu trong những lĩnh vực tại đó các thành phần không có điều kiện thuận lợi.

Liệu điều này có đúng hay không? Lý thuyết của M.Porter vẫn cần được kiểm chứng
bằng nhiều nghiên cứu thực nghiệm khác nhau. Nội dung phân tích của của lý thuyết chủ
yếu dựa trên những tổng kết thực tiễn, nhưng điều này cũng hoàn toàn có thể phát biểu
cho các lý thuyết thương mại mới, lý thuyết về lợi thế so sánh, và lý thuyết H-O. Có lẽ
chính xác nhất là từng lý thuyết này, vốn lẽ là các nghiên cứu bổ sung lẫn nhau, chỉ giải
thích một phần về mô hình của thương mại quốc tế mà thôi.
2. Ứng dụng mô hình kim cương của Michael Porter trong đinh hướng chiến
lược của các doanh nghiệp điện tử Việt Nam
Trong những năm gần đây, ngành công nghiệp điện tử có tốc độ tăng trưởng nhanh
và trở thành ngành công nghiệp chủ chốt trong nền kinh tế Việt Nam. Trong năm 2017,
tổng kim ngạch xuất khẩu của ngành này đạt hơn 71 tỉ USD, gấp 2,5 lần công nghiệp dệt
may và gấp gần 5 lần ngành da giày. Trong vòng 5 năm qua (2011-2015), số lượng các
DN điện tử tăng gấp 2 lần và đạt 1.237 DN (năm 2015). Số lao động trong ngành này
cũng tăng 2 lần và đạt khoảng 400.000 lao động trong năm 2015 và gần 600.000 lao động
trong năm 2017. Bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng đặt ra yêu cầu về
những giải pháp mạnh mẽ cũng như sự chuẩn bị về năng lực cạnh tranh và công nghệ để
các doanh nghiệp điện tử của nước ta có thể tham gia vào sâu hơn vào chuỗi giá trị sản
xuất toàn cầu.
2.1.

Điều kiện về các yếu tố đầu vào

Với lợi thế là dân số trẻ, gần 60% trong tổng dân số ở độ tuổi lao động (17-60 tuổi),
nguồn lao động dồi dào, vị trí địa lý thuận lợi và nằm trong khu vực có nền công nghiệp
phát triển nhanh và năng động, đặc biệt là đối với ngành Công nghiệp điện tử. Cho nên
Việt Nam rất có cơ hội để thu hút vốn đầu tư, chuyển giao công nghệ và học tập các kiến
thức quản lý và đào tạo nhân lực từ các ngành Công nghiệp điện tử phát triển trong khu
vực. Chi phí cho lao động ở Việt Nam cũng tương đối thấp. Cụ thể, chi phí hoạt động và
giá thuê nhân công ở Việt Nam chỉ bằng 1/3 so với Ấn Độ và 1/2 so với Trung Quốc.



Bên cạnh đó, với đa dạng tài nguyên khoáng sản quan trọng cần thiết để phát triển
công nghiệp vật liệu điện tử như quặng sắt, đất hiếm, titan, rutin, barit, ilmenit… Việt
Nam hoàn toàn có khả năng để trở thành nhà cung ứng nguyên vật liệu, hóa chất cho
ngành Công nghiệp điện tử của các nước dưới hình thức khai tác nguyên liệu thô, thành
phẩm hoặc bán thành phẩm với giá rẻ. Với dân số trên 90 triệu người, Việt Nam là một
thị trường tiêu thụ đầy tiềm năng. Chính phủ Việt Nam luôn khuyến khích và hỗ trợ các
công ty nước ngoài đầu tư và hợp tác với các doanh nghiệp Việt Nam đặc biệt là trong
lĩnh vực Điện tử.
Tuy nhiên, ngành Công nghiệp Điện tử Việt nam vẫn được đánh giá là ngành công
nghiệp non trẻ. Sự phụ thuộc vào các nhà cung cấp nước ngoài về kỹ thuật là thách thức
lớn nhất đối với sự phát triển của công nghiệp Điện tử Việt Nam. Cuộc cách mạng công
nghiệp 4.0 mang lại nhiều lợi ích từ những ứng dụng thông minh và tự động hóa, máy
móc ngày càng trở nên thông minh và thay thế con người dẫn đến nguy cơ mất việc làm,
đặc biệt ở những khâu sản xuất giản đơn ngày càng tăng. Cùng với đó là sự cạnh tranh
khốc liệt trong sản xuất ngay tại thị trường nội địa khiến các doanh nghiệp trong lĩnh vực
công nghiệp Điện tử Việt Nam cần phải nâng cao năng suất lao động, giảm thiểu rủi ro
trong kinh doanh, nâng cao danh tiếng thương hiệu và khả năng cạnh tranh đồng thời cần
tăng cường hợp tác trong ngành đối với các vấn đề về lao động.
Đáng chú ý, trình độ chuyên môn kỹ thuật của các lao động làm việc trong các
doanh nghiệp điện tử không cao, 68,75% chưa có bằng cấp, chứng chỉ. Ở các doanh
nghiệp FDI, thì tỷ lệ này là 70.11%. Lao động trong ngành điện tử chủ yếu làm việc trong
nhóm nghề thợ có kỹ thuật lắp ráp và vận hành máy móc thiết bị là 57,11%; thợ thủ công
có kỹ thuật và các thợ kỹ thuật khác chiếm 18,9%; lao động có chuyên môn kỹ thuật bậc
cao và bậc trung chỉ chiếm 11,05%. Đáng lưu ý, một hiện tượng khá phổ biến trong
ngành điện tử là người lao động đã qua đào tạo có bằng cấp, chứng chỉ làm các công việc
giản đơn. Cùng với đó, hiện tại có đến 80% doanh nghiệp điện tử gặp khó khăn trong
tuyển dụng lao động kỹ thuật. Phần lớn là lao động làm nghề vận hành máy móc, thiết bị
trong đó có khoảng 76% không có bằng cấp, chứng chỉ.
2.2.


Các điều kiện về nhu cầu

Sự thay đổi trong sản xuất do tác động của cách mạng khoa học 4.0 đã dẫn tới
những thay đổi trong thị trường lao động toàn cầu hiện nay. Phân công lao động quốc tế
ngày càng theo cả chiều rộng và chiều sâu. Các phương thức sản xuất mới ra đời khai
thác triệt để các tiến bộ của khoa học, công nghệ nhằm tăng năng suất lao động. Vai trò
của ngành Điện tử trở nên hết sức quan trọng do các yếu tố của thế giới số trog cách
mạng khoa học 4.0 chính là Trí tuệ nhân tạo. Đây là ngành khoa học máy tính liên quan
đến việc tự động hóa các hành vi thông minh. Internet vạn vật với mạng Internet kết nối


toàn cầu các thiết bị công nghệ, trở thành một công cụ đóng vai trò quan trọng trong việc
cung cấp các dịch vụ, ứng dụng tiên tiến. Điện tử sẽ đóng vai trò là ngành công nghiệp
mũi nhọn tạo ra các giá trị mới trong chuỗi sản xuất, phân phối sản phẩm.
Cùng với sự tăng trưởng nhanh của nền kinh tế, nhu cầu tiêu dùng hàng điện tử và
các thiết bị điện tử theo đó cũng tăng lên. Đặc biệt, để đáp ứng nhu cầu, ngoài việc nhập
khẩu ồ ạt linh kiện, nguyên liệu để lắp ráp, các doanh nghiệp trong nước đã hình thành ý
tưởng chiến lược xây dựng thương hiệu riêng cho các sản phẩm Việt Nam. Điều này tạo
nền tảng cho sự xuất hiện và phát triển các cơ sở lắp ráp chuyên dụng, tiếp cận công nghệ
mới để học tập và sáng tạo tiến tới xóa bỏ khoảng cách với các công ty nước ngoài…
Thực tế cho thấy, quá trình nội địa hóa các sản phẩm điện tử Việt Nam vẫn đang bị tác
động, bị chi phối bởi các công ty nước ngoài, vì trình độ công nghệ sản xuất của ngành
điện tử Việt Nam vẫn còn quá xa so với các nước trong khu vực. Vai trò của doanh
nghiệp trong nước còn mờ nhạt, phần lớn chủ yếu tham gia vào các công đoạn lắp ráp,
cung cấp dịch vụ và linh kiện đơn giản nên giá trị gia tăng thấp, thiếu sức cạnh tranh hoặc
thiếu định hướng chiến lược rõ ràng. Việc thiếu chiến lược dài hạn, thị trường điện tử
Việt Nam đang mất cân đối nghiêm trọng. Việt Nam hiện nay đang trở thành công xưởng
sản xuất hàng điện tử của thế giới và là điểm đến hấp dẫn của dòng vốn FDI trong ngành
Công nghiệp điện tử.

2.3.

Chiến lược cơ cấu và sự cạnh tranh của doanh nghiệp

Được biết, các nhà đầu tư khi chọn địa điểm đầu tư thường căn cứ vào hai yếu tố
chính, đó là giá thuê nhân công và thuế. Giá các sản phẩm điện tử, viễn thông sẽ giảm
nhiều khi gỡ bỏ hàng rào thuế quan và đây cũng là động lực phát triển nền công nghiệp
điện tử, công nghiệp sản xuất thiết bị viễn thông tại Việt Nam. Các nước đang phát triển
vốn đã có lợi thế về giá thuê nhân công rẻ, khi tham gia vào WTO, cụ thể là Hiệp định
Công nghệ thông tin (ITA) sẽ có thêm lợi thế về thuế suất đối với mặt hàng này, do vậy
sức hút với các nhà đầu tư nước ngoài chắc chắn sẽ tăng rõ rệt, đặc biệt là vốn đầu tư trực
tiếp nước ngoài từ các tập đoàn lớn trên thế giới. Đây cũng chính là cơ hội lớn nhất cho
Việt Nam. Theo số liệu từ Cục Đầu tư nước ngoài, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, đến nay, lĩnh
vực công nghiệp điện tử Việt Nam đã thu hút hơn 10 tỷ USD vốn FDI với các tên tuổi lớn
như Samsung, Foxconn, LG, Panasonic, Intel, Electronics, Nokia… Sức hấp dẫn của
công nghiệp điện tử Việt Nam hiện nay vẫn chính là các nhà máy sản xuất điện thoại di
động quy mô lớn, trong đó Samsung là lớn nhất với hai nhà máy 2,5 tỷ USD ở Bắc Ninh
và 2 tỷ USD ở Thái Nguyên.
Tuy nhiên, công nghiệp điện tử trong nước mới chỉ dừng ở mức độ gia công gây khó
khăn trong việc đáp ứng quy tắc xuất xứ trong AEC và TPP. Doanh nghiệp điện tử trong


nước chưa đóng góp nhiều trong chuỗi cung ứng hàng điện tử. Cụ thể như vừa qua,
Samsung Việt Nam cho biết, trong số 80 doanh nghiệp vệ tinh đang cung cấp linh kiện,
phụ kiện, tỷ lệ doanh nghiệp Việt Nam cung cấp cho Samsung chỉ dưới 10%, đặc biệt lại
chủ yếu cung ứng in ấn và bao bì, phần hưởng giá trị gia tăng thấp nhất, không tiếp thu
được công nghệ cao, không có sức lan tỏa tới nền kinh tế. Đến năm 2017, kim ngạch xuất
khẩu điện tử vượt ngưỡng 70 tỷ USD. Tuy nhiên, điều đáng buồn là 95% kim ngạch xuất
khẩu lại đến từ khối DN FDI. Chỉ tính riêng năm 2016, trong tổng số điện thoại di động
và linh kiện xuất khẩu với trị giá hơn 34 tỷ USD thì các DN FDI đã chiếm đến 99,8%.

Điều đó cho thấy, vai trò của DN trong nước rất mờ nhạt, thiếu sức sống. Phần lớn DN
nội vẫn chủ yếu tham gia vào công đoạn lắp ráp, cung cấp dịch vụ và linh kiện đơn giản
nên giá trị gia tăng thấp, thiếu sức cạnh tranh hoặc thiếu định hướng chiến lược rõ ràng.
2.4.

Các ngành hỗ trợ và có liên quan

Việt Nam đang là điểm đến hấp dẫn của dòng vốn đầu tư nước ngoài (FDI) trong
ngành công nghiệp điện tử, với hơn 10 tỷ USD vốn đầu tư. Đặc biệt, nhiều hãng điện tử
hàng đầu thế giới đã đầu tư những khoản tiền rất lớn xây dựng các cơ sở sản xuất sản
phẩm điện tử công nghệ cao phục vụ xuất khẩu ở Việt Nam. Đây chính là cơ hội để các
doanh nghiệp trong nước liên kết sản xuất, cung cấp linh kiện, lắp ráp và tham gia từng
công đoạn cho các tập đoàn đã có thương hiệu, qua đó xây dựng và phát triển ngành công
nghiệp hỗ trợ cho ngành điện tử Việt Nam. Tuy nhiên, thực tế nhiều năm qua, ngành C
công nghiệp hỗ trợ điện tử Việt Nam vẫn trong tình trạng kém phát triển. Số lượng các
doanh nghiệp Việt Nam tham gia vào chuỗi cung ứng của các công ty đa quốc gia tại Việt
Nam hiện còn rất nhỏ. Cung ứng sản phẩm công nghiệp hỗ trợ cho ngành điện tử cấp 1 và
cấp 2 vẫn chủ yếu là doanh nghiệp FDI và những doanh nghiệp này chủ yếu dựa vào linh
kiện nhập khẩu. Trong một thời giai dài ở Việt Nam đã có quá nhiều doanh nghiệp đầu tư
vào lĩnh vực này nhưng chủ lực xuất khẩu điện tử vẫn là các doanh nghiệp nước ngoài,
còn doanh nghiệp trong nước chỉ thuần khâu lắp ráp, gia công hoặc tham gia vào khâu
hoàn thiện sản phẩm bằng việc làm các loại bao bì, sách hướng dẫn, linh kiện chi tiết
nhựa mà chưa có các linh kiện quan trọng có giá trị gia tăng cao hơn. Thực tế cho thấy,
Việt Nam hiện nay đang trở thành công xưởng sản xuất hàng điện tử của thế giới và là
điểm đến hấp dẫn của dòng vốn FDI trong ngành công nghiệp điện tử. Chưa kể, ngành
điện tử hiện phải nhập khẩu khoảng 77% giá trị sản phẩm vì tỷ lệ cung ứng các linh kiện
điện tử từ DN nội địa rất thấp. Phần sản xuất nội địa chỉ tập trung vào một số linh kiện cơ
khí, nhựa - cao su. Trong khi các DN FDI trong ngành này đang đứng trước sức ép phải
giảm chi phí linh kiện, phụ kiện thì các DN điện tử trong nước vẫn gần như chỉ khai thác
sản phẩm cũ, lợi nhuận rất thấp và giá trị gia tăng chỉ ước tăng 5% - 10% nên khó có thể

cạnh tranh với DN ngoại. Nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên là do Việt Nam còn thiếu


chiến lược dài hạn để phát triển ngành công nghiệp điện tử. Việc thực thi chính sách phát
triển công nghiệp hỗ trợ còn chậm.
Bên cạnh đó, công tác nghiên cứu, thiết kế phát triển sản phẩm (R&D) của DN Việt
Nam còn yếu. Do vậy, hầu hết DN Việt Nam chỉ thực hiện gia công sản phẩm chứ chưa
thực hiện được các công đoạn chủ lực trong chuỗi giá trị của ngành. Hiện ở Việt Nam vẫn
tồn tại sự thiếu hụt lớn về nguồn nhân lực chất lượng cao cũng như nguồn vốn đầu tư vào
lĩnh vực sản xuất ngành điện tử, đặc biệt là lĩnh vực sản xuất công nghiệp hỗ trợ ngành
điện tử.
2.5.
Việt Nam

Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp điện tử

Để chủ động và phát triển nhanh, bền vững ngành công nghiệp điện tử, các chuyên
gia khuyến nghị cần tập trung nghiên cứu, xây dựng các dự án cấp quốc gia nhằm xác
định rõ chiến lược phát triển của ngành; trong đó, chú trọng tới việc xác định sản phẩm
cốt lõi, có sức đột phá để thúc đẩy ngành điện tử phát triển nhanh và hiệu quả hơn. Mỗi
DN cũng cần xác định phân khúc sản phẩm và khách hàng phù hợp cũng như tính đến
khả năng đón đầu xu hướng tiêu dùng và phát triển công nghệ chung của thế giới.
Bên cạnh đó, phải có sự kết hợp nhiều yếu tố, từ cấp vĩ mô đến doanh nghiệp, sự
ủng hộ và chia sẻ hiệu quả của hiệp hội ngành nghề. “Muốn xây dựng ngành điện tử đích
thực, đòi hỏi có sự táo bạo, nguồn đầu tư vật chất lớn của đội ngũ DN. Đặc biệt, cần vận
động DN nước ngoài chủ động chuyển giao công nghệ hiện đại cho đối tác Việt Nam, kể
cả kinh nghiệm, cách làm phù hợp để tiệm cận, làm chủ tình hình trong bối cảnh hội
nhập”, TS Nguyễn Thị Kiều đề xuất giải pháp. Ngoài ra, cần xây dựng cơ chế huy động
nguồn lực tổng hợp, nhất là chất xám để tạo ra sự đột phá, ứng dụng chất xám trong việc
sáng tạo ra sản phẩm mới, với ý tưởng độc đáo nhằm tạo dựng uy tín của ngành điện tử

Việt Nam. Đồng thời, phát triển mở rộng thị trường trong nước và xuất khẩu cho ngành
Công nghiệp điện tử. Đối với thị trường trong nước: Tăng cường công tác khảo sát, đánh
giá nhu cầu về sử dụng sản phẩm ngành Công nghiệp điện tử trong cơ quan Nhà nước,
DN và xã hội. Xây dựng cơ chế khuyến khích các tổ chức, cơ quan Nhà nước sử dụng các
sản phẩm điện tử sản xuất trong nước; Đối với thị trường xuất khẩu: Xây dựng chương
trình quảng bá hình ảnh sản phẩm điện tử “an toàn, chất lượng cao” có xuất xứ tại Việt
Nam tại các thị trường nước ngoài. Tăng cường các hoạt động hợp tác quốc tế, xúc tiến
thương mại, tiếp cận thị trường độc lập hoặc trong khuôn khổ Chương trình xúc tiến
thương mại quốc gia. Hỗ trợ các DN thành lập các chi nhánh, văn phòng đại diện của DN
hoặc các trung tâm thương mại ở nước ngoài để tìm hiểu về nhu cầu, thị hiếu của thị
trường, quảng bá sản phẩm, thương hiệu và ký kết hợp đồng, tổ chức tiêu thụ sản phẩm.
Cùng với đó, nỗ lực thu hút đầu tư các DN điện tử hàng đầu trên thế giới thông qua việc


cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực đầu tư để thu hút các DN điện tử hàng đầu trên
thế giới và DN vệ tinh liên quan đầu tư tại Việt Nam. Hỗ trợ thu hút và triển khai các dự
án đầu tư FDI lớn trong ngành Công nghiệp điện tử.
Chính phủ cần xác định công nghiệp điện tử là ngành công nghiệp trọng yếu trong
nền kinh tế quốc dân để có kế hoạch dài hạn phát triển ngành này, có sự quan tâm đầu tư
thích đáng. Xem xét ưu đãi hỗ trợ đầu tư từ nguồn ngân sách nhà nước đối với các doanh
nghiệp công nghiệp hỗ trợ cho các công đoạn R&D, sản xuất thử nghiệm sản phẩm và
các chương trình xúc tiến thương mại, hỗ trợ đầu tư sản xuất tại các khu công nghiệp tập
trung và cần xây dựng chính sách khoa học công nghệ. Trong đó, khuyến khích chuyển
giao công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực, khuyến khích đầu tư cho R&D của doanh
nghiệp, ký kết hợp đồng hợp tác công nghệ với các doanh nghiệp Nhật Bản, Mỹ, Hàn
Quốc, liên kết giữa viện nghiên cứu và doanh nghiệp, lựa chọn sản phẩm và lĩnh vực
nghiên cứu ưu tiên. Xây dựng Luật sở hữu trí tuệ chặt chẽ, quy định thời hạn bảo hộ các
sản phẩm điện tử dài để các nhà đầu tư trong và ngoài nước yên tâm đầu tư, chuyển giao
công nghệ và phát triển sản phẩm, cần quy hoạch các cụm công nghiệp điện tử nhằm thu
hút đầu tư. Tiến hành hoạt động R&D trong lĩnh vực điện tử: Từ ngân sách hoặc kêu gọi

kết hợp đầu tư từ các tập đoàn điện tử lớn có mặt tại Việt Nam như Samsung, Intel, Sony,
Canon.
Ngoài ra, cần xây dựng và đào tạo đội ngũ nghiên cứu thiết kế và phát triển các sản
phẩm công nghệ có hàm lượng trí tuệ cao, tận dụng lợi thế về thiết kế, tích hợp hệ thống
và khả năng lập trình để có những sản phẩm giá trị gia tăng vượt trội. Đồng thời, nghiên
cứu ban hành các tiêu chuẩn quốc gia, quy chuẩn kỹ thuật tương thích, hài hòa với các
chuẩn quốc tế trong lĩnh vực điện tử; tạo điều kiện trong việc tiếp thu, phát triển và tương
thích hóa các công nghệ và hệ thống thiết bị điện tử trong điều kiện Việt Nam. Xây dựng
và ban hành nghị định riêng về phát triển công nghiệp điện tử; trong đó quy định các biện
pháp tổng hợp như phát triển kỹ thuật, đào tạo nhân lực, hỗ trợ tài chính, đảm bảo vị trí,
khai thác thị trường... Đặc biệt cần có giải pháp thiết thực để chọn được một vài sản
phẩm chiến lược để đầu tư nghiên cứu; đào tạo nguồn nhân lực theo hướng thực hành,
thực hiện chiến lược phát triển công nghiệp phụ trợ.



×