Tải bản đầy đủ (.doc) (97 trang)

Nghiên cứu đa dạng nhện ở vườn quốc gia cúc phương (tỉnh ninh bình)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.47 MB, 97 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ VIỆT NAM
VIỆN SINH THÁI VÀ TÀI NGUYÊN SINH VẬT

LƯƠNG THỊ HÀ

NGHIÊN CỨU ĐA DẠNG NHỆN (ARANEAE)
TẠI VƯỜN QUỐC GIA CÚC PHƯƠNG,
TỈNH NINH BÌNH
Chuyên ngành: Động vật học
Mã số: 60.42.01.03
LUẬN VĂN THẠC SĨ SINH HỌC

HÀ NỘI, 2014


LỜI CẢM ƠN
Trước tiên, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến TS. Phạm Đình Sắc, Phòng Sinh
thái môi trường Đất – Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật, người đã tận tình hướng dẫn,
chỉ bảo, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập và thực hiện đề tài cho luận văn này.
Tôi xin cảm ơn cơ sở đào tạo Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật đã tạo điều
kiện cho tôi thực hiện luận văn.
Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn tới tất cả người thân, gia đình, bạn bè,
những người đã động viên, ủng hộ, tạo điều kiện và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học
tập và nghiên cứu.

Học viên

Lương Thị Hà


LỜI CAM ĐOAN



Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Toàn bộ số
liệu và kết quả trong luận văn này là trung thực và chưa được sử dụng để bảo vệ bất
kỳ luận văn nào.
Tôi cũng xin cam đoan các thông tin trích dẫn trong luận văn này đều đã được chỉ
rõ nguồn gốc.
Hà Nội, ngày 12 tháng 12 năm 2014
Tác giả

Lương Thị Hà


MỘT SỐ THUẬT NGỮ SINH HỌC
1
2

5
6
7

Abdomen
Anal turbercle
Anterial laterial
spinnerets (ALS)
Anterial laterial eyes
(ALE)
Anterior median eyes
(AME)
Artrium
Booklung


8
9
10
11

Bulbus
Carapace
Cephalothorax
Chelicera

12
13
14

Claw
Clypeus
Copulatory

3
4

15
16

Coxa
Cribellum
(Cribellate)

17

18

Cymbium
Ecribellum

19
20

Embolus
Endite

21
22

Entelegyne
Entrance duct

Phần bụng của nhện
Hậu môn
Bộ phận nhả tơ bên phía trước
Mắt bên phía trước
Mắt giữa phía trước
Khoang ngoài của thể giao cấu con cái
Cơ quan hô hấp của nhện
Phần (khối) cấu trúc phức tạp của bộ phận
sinh dục đực, thường nằm ngay dưới vùng lõm
của cymbium
Tấm lưng ngực, giáp mai
Phần giáp đầu ngực
Chân kìm

Móng vuốt (ở các chân bò và chân xúc giác
ở một số nhện cái)
Khoảng từ mắt tới chân kìm
Thể giao cấu
Đốt háng (đốt số 1 ở các chân bò và chân
xúc giác)
Tấm nhả tơ
Mặt trên của đốt cuối râu nhện đực (cơ quan
xúc giác – cơ quan sinh dục đực)
Chỉ loài nhện không có tấm nhả tơ
Phần đưa vào trong của bullus, thường
mảnh, có đầu nhọn, chứa phần cuối cùng của
ống dẫn tinh
Môi trên
Cơ quan sinh dục của nhện có thể sinh dục
ngoài với các ống dẫn tách biệt cho việc vận
chuyển tinh dịch trong suốt quá trình thụ tinh
(đối với túi nhận tinh – spermathecae) và sự thụ
tinh (đối với tử cung – uterus)
Ống dẫn tinh dịch từ túi nhận tinh ra tử cung

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN




23

Epigastric furrow


24

Femur

25
26

Ferrilization duct
Fovea

27
28

Haplogyne
Labium

29
30

Male palp
Median apophysis
Metatarsus
(metatarsi)
Palp

31
32
33
34


Patella
Posterial lateral eyes
(MLE)

của nhện cái
Vùng thượng vị
Đốt đùi ( đốt thứ 3 của chân bò và chân xúc
giác của nhện)
Ống dẫn tinh dịch từ túi nhận tinh ra tử cung
của nhện cái
Rãnh (hố) trên tấm lưng ngực của nhện
Cơ quan sinh dục của nhện thiếu thể sinh
dục ngoài, do đó chỉ có một cặp ống dẫn để vận
chuyển tinh dịch từ tử cung tới túi nhận tinh
trong suốt quá trình thụ tinh.
Môi dưới
Xúc biện (cơ quan sinh dục đực của nhện,
nằm trên chân xúc giác nhện đực)
Mấu giữa (một bộ phận trên male palp)
Đốt cổ chân (đốt thứ 6 của chân bò)
Chân xúc giác
Đốt đầu gối (đốt thứ 4 của chân bò và chân
xúc giác)
Mắt bên phía sau

Posterial median eyes
35
36
37
38


(PME)

Mắt giữa phía sau

Posterial lateral
spinnerets (PLS )
Posterial median
spinnerets (PMS)
Retrolateral tibial
apophysis

39
40
41
42
43

Scopula
Sperm duct
Spermathecae
Spinnerets
Sternum

44
45

Tarsus (Tarsi)
Tibia


Bộ phận nhả tơ bên phía sau
Bộ phận nhả tơ giữa phía sau
Mấu gai bên phía sau của male palp
Chùm lông có ở chân bò và phần cuối đốt
bàn chân của một số loài nhện giúp nhện bám chắc
hơn khi leo trèo
Ống dẫn tinh
Túi nhận tinh
Bộ phận nhả tơ
Tấm bụng ngực
Đốt bàn chân (đốt thứ 7 ở chân bò và đốt
thứ
6 của chân
xúc giác
nhện)
Đốt ống
châncủa
(đốt
thứ 5 ở chân bò của nhện)

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN




46
47

Trochanter
Uterus


Đốt chuyển (đốt thứ 2 ở chân bò của nhện)
Tử cung (nhện cái)
MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ..........................................................................................................
1
1. Đặt vấn đề
......................................................................................................................... 1
2. Mục têu của đề tài ...........................................................................................................
2
3. Nội dung nghiên cứu ........................................................................................................
2

CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU ........................................................ 3
1.1. Giới thiệu về nhện .........................................................................................................
3
1.1.1. Đặc điểm hình thái học của nhện .......................................................................
3
1.1.2. Đặc điểm cấu tạo bên trong của nhện.................................................................
8
1.1.3. Một số đặc điểm sinh thái, sinh học của nhện ....................................................
8
1.2. Nghiên cứu đa dạng nhện trên thế giới ..................................................................... 11
1.3. Nghiên cứu đa dạng nhện ở Việt Nam ...................................................................... 13
1.3. Vườn Quốc gia Cúc Phương ...................................................................................... 15

CHƯƠNG 2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ........ 18
2.1. Đối tượng nghiên cứu .................................................................................................
18

2.2. Thời gian thực hiện .....................................................................................................
18
2.3. Địa điểm và phạm vi nghiên cứu ............................................................................... 18
2.4. Phương pháp nghiên cứu ...........................................................................................
18
2.4.1. Thu mẫu ngoài thực địa ....................................................................................
18
2.4.2. Phương pháp xử lý và lưu trữ mẫu ...................................................................
20

CHƯƠNG 3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN ............................................... 21
3.1. Thành phần loài nhện ở khu vực VQG Cúc Phương .............................................. 21
3.1.1. Danh sách thành phần loài................................................................................
21
3.1.2. Mô tả các loài nhện ở VQG Cúc Phương......................................................... 23
3.1.3. Sự đa dạng thành phần loài nhện ở VQG Cúc Phương ....................................
61
3.2. Sự phân bố của nhện theo sinh cảnh ở khu vực VQG Cúc Phương – Tỉnh Ninh


Bình. ....................................................................................................................................
62
3.3. Sự phân bố của nhện theo mùa ở khu vực VQG Cúc Phương – Tỉnh Ninh Bình 68

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ...................................................................... 71
BÀI BÁO CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ ........................................................ 72
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 72
Tài liệu Tiếng Anh .............................................................................................................
72
Tài liệu Tiếng Việt..............................................................................................................

75

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN




Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN




MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề
Nhện (Araneae, Arachnida) đã được ghi nhận xuất hiện trên Trái Đất cách
đây khoảng 400 triệu năm. Nhện phân bố rộng khắp và chiếm ưu thế về số lượng
loài cũng như số lượng cá thể trong 11 bộ của lớp hình nhện. Chúng hầu như được
tìm thấy ở tất cả các môi trường sống trên cạn (như hệ sinh thái đài nguyên, rừng
taiga, rừng mưa nhiệt đới, sa mạc, v.v) và một số môi trường sống dưới nước: các
hệ sinh thái ngập nước và bán ngập nước trên trái đất. Một số loài nhện là
thành viên của một họ nhện có gốc Á - Âu (Argyronetidae), được tìm thấy ở môi
trường nước ngọt và biển (Foelix, 1996). Một số ít trong chúng đã tiến hóa đặc
biệt hơn so với đồng loại để có thể tồn tại trong vài môi trường sống khắc
nghiệt. Nhện còn được tìm thấy cả trên đỉnh núi Everest, là một trong số ít loài
động vật có thể sống sót ở cực Bắc. Nhện được tìm thấy ở mọi nơi: trong nhà,
vườn cây, trên cánh đồng lúa, công viên, trong rừng, ven suối,…
Theo nghiên cứu của nhiều nhà khoa học Clause I.H.S., 1986, Foelix R.,
1996, Jean – Pierre Maelfaitl, 1997, nhện được coi là một trong những sinh vật chỉ
thị tốt để so sánh đặc điểm sinh thái của các khu hệ có điều kiện môi trường khác
nhau và đánh giá ảnh hưởng của môi trường lên hệ sinh thái.

Theo Barrion and Litsinger (1995), bộ nhện (Araneae, Arachnida) được xếp
vào trong nhóm động vật có sự biến động mật độ cao và độ đa dạng đứng thứ
bảy thế giới. Các nghiên cứu hệ ĐVKXS nói chung và nhện nói riêng ở các khu bảo
tồn, VQG đang ngày trở nên quan trọng dù chỉ mới phát triển bước đầu và tiến
hành ở mức kiểm kê. Những khảo sát khu hệ nhện Việt Nam của nhiều tác giả
trong nước và ngoài nước còn khá hạn chế và chủ yếu tập trung vào liệt kê
danh sách thành phần loài, công bố loài mới (Phạm Đình Sắc, 2005).
Là vườn quốc gia được thành lập đầu tiên trong cả nước, Vườn quốc gia
(VQG) Cúc Phương có hệ động thực vật vô cùng đa dạng và phong phú, đặc biệt có
hơn 1800 loài côn trùng thuộc 200 họ, nhiều loài côn trùng có giá trị kinh tế cao.
Tuy nhiên những nghiên cứu về nhện tại VQG Cúc Phương còn chưa nhiều, chưa
1


đánh giá đầy đủ sự đa dạng khu hệ nhện tại khu vực này. Các nghiên cứu trước
đây mới chỉ dừng lại ở việc kiểm kê, thu bắt định tính mà chưa có những nghiên
cứu về mặt sinh thái nhằm đánh giá sự ảnh hưởng của chất lượng môi trường đến
đa dạng nhện (Lin & Pham & Li, 2009). Từ những lý do trên, chúng tôi thực hiện đề
tài “Nghiên cứu đa dạng nhện ở Vườn quốc gia Cúc Phương (tỉnh Ninh Bình)”
nhằm góp phần bổ sung dẫn liệu cho những nghiên cứu về nhện tại địa điểm
nghiên cứu này.
2. Mục têu của đề tài
Xác định thành phần loài và đặc điểm phân bố của nhện tại một số sinh
cảnh điển hình của khu vực VQG Cúc Phương, phân bố nhện theo mùa, góp phần
khôi phục, bảo vệ tính đa dạng sinh học, sự cân bằng trong các hệ sinh thái ở khu
vực nghiên cứu.
3. Nội dung nghiên cứu
- Thành phần loài nhện tại VQG Cúc Phương tỉnh Ninh Bình.
- Phân bố của các loài nhện theo sinh cảnh: rừng tự nhiên, rừng keo tai tượng,
trảng cỏ cây bụi.

- Phân bố nhện theo mùa: mùa mưa, mùa khô, khoảng thời gian giữa 2 mùa mưa

mùa khô.

2


CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Giới thiệu về nhện
Tên khoa học: Araneae
Tên tiếng Anh: Spider
Tên Việt Nam: Nhện
Bộ nhện (Araneae) là một bộ lớn thuộc lớp hình nhện (Arachnida), ngành
chân khớp (Arthropoda). Bộ nhện chiếm ưu thế về số lượng loài và số lượng cá thể
trong 11 bộ của lớp hình nhện (bao gồm: Acarina, Amblypygi, Araneae, Opiliones,
Palpigradi, Pseudoscorpiones, Ricinulei, Schizomida, Scopionoides, Solifugae,
Thelyphonida).
Nhện được chia làm hai phân bộ dựa vào số đôi phổi sách (book-lungs)
thuộc cơ quan hô hấp và số cặp núm nhả tơ (spinnerets) thuộc bộ phận nhả tơ.
Cụ thể Platnick (2014) đã chia hai phân bộ nhện là:
 Mygalomorphae: có 2 đôi phổi sách và 2 cặp núm nhả tơ
 Araneomorphae: có 1 đôi phổi sách và 3 cặp núm nhả tơ
Việc đặt tên khoa học cho nhện được bắt đầu từ năm 1757, tác giả Ovid và
Clerek đã đưa ra tên của bộ nhện là Araneae và Aranei. Đến năm 1801, Latreille
đưa ra tên bộ nhện là Araneida. Năm 1862, Dallas cũng nêu ra tên của bộ nhện là
Araneida. Năm 1938, Bristowe đưa tên bộ nhện là Araneae và tên này được sử
dụng cho đến ngày nay (Platnick. N.I, 2014).
1.1.1. Đặc điểm hình thái học của nhện
Đặc điểm nổi bật của nhện là có 4 đôi chân (trong khi côn trùng có 3 đôi
chân), cơ thể chia 2 phần rõ rệt: phần giáp đầu – ngực (Cephalothorax) và phần

bụng (Abdomen) được nối với nhau bởi cuống bụng (pedicel).
- Phần đầu - ngực bao gồm tấm lưng ngực và tấm bụng ngực.
+ Phía trên đầu của giáp đầu - ngực có: miệng, 1 đôi chân kìm, 1 đôi chân
xúc giác.

3


Chân số I

Chân xúc
xúc giác
giác

Chân kìm

4


Chân số I
Chân kìm

Chân
Chân
số II
II

Mắt
Giáp đầu ngực


Bụng
Bụng

Bộ phận nhả tơ

Chân
Chânsố
sốIII
III

Bộ phận nhả tơ
Hậu môn

Chân
Chânsố
sốIV
IV
Hình 1: Hình thái bên ngoài của nhện (mặt lưng)
Nhện có 4 đôi chân bò nằm trên phần giáp đầu ngực, xếp dọc hai bên ức
theo thứ tự từ trước ra sau là I, II, III và IV. Mỗi chân gồm bảy đốt: háng (coax) nối
liền với ngực, chuyển (trochanter), đùi (femur), gối (patella), cẳng hay ống (tbia),
bàn trong hay đốt bàn (metatasus) và bàn ngoài hay đốt cổ chân (tarsus). Thông
thường đốt bàn ngoài mang hai hoặc ba móng vuốt (mấu nhọn) (claws) tùy theo
loài, nếu có ba vuốt thì hai trong số ba vuốt tạo thành một đôi và vuốt còn lại nằm
ở giữa. Các vuốt có thể không có răng lược hoặc có răng lược để kéo tơ.

5


Đốt đầu gối

Đốt đùi
Đốt chuyển

Đốt ống chân

Đốt háng
Đốt cổ chân
Đốt bàn chân
Móng vuốt

Hình 2: Các bộ phận của chân nhện.
Ngoài ra, chân nhện còn được phủ bởi lông, túm lông hoặc gai cứng đặc biệt.
Chiều dài, hình dạng của các chân, hình dáng và vị trí cũng như số lượng các lông
hay gai là những đặc điểm được sử dụng trong phân loại và định danh nhện.
+ Tấm lưng ngực có vị trí của mắt. Phần lớn các nhóm nhện thường gặp có 8
mắt xếp thành hai hàng phía trước phần đầu: hàng mắt trước (AE) và hàng mắt sau
(PE). Mỗi hàng gồm bốn mắt: hai mắt trong (ME) và hai mắt ngoài (LE). Vì thế,
trong phân loại nhện, người ta gọi tên như sau: bốn mắt của hàng mắt trước
gồm một cặp mắt trong (AME) và một cặp mắt ngoài (ALE), bốn mắt của hàng sau
gồm một cặp trong (PME) và một cặp ngoài (PLE). Hai mắt trong của hàng mắt
trước và hai mắt trong của hàng mắt sau tạo thành tứ giác mắt (MOQ). Hình
dạng, kích thước, vị trí, khoảng cách của các mắt và tứ giác mắt được sử dụng
trong phân loại nhện. Ngoài ra có những nhóm nhện có 6 hoặc 4 hoặc 2 mắt.


Hình 3. .Hình vẽ cách sắp xếp mắt của một số họ nhện
( />)
1. Họ Lycosidae

13. Họ Agelenidae, giống Eratigena


2. Họ Salticidae

14. Họ Agelenidae, giống Agelenopsis

3. Họ Salticidae, giống Lyssomanes

15. Họ Selenopidae, giống Selenops

4. Họ Araneidae

16. Họ Sparassidae, giống Heteropoda

5. Họ Pisauridae, giống Dolomedes

17. Họ Sparassidae, giống Olios

6. Họ Pisauridae, giống Pisaurina

18. Họ Sicariidae, giống Loxosceles

7. Họ Ctenidae

19. Họ Uloboridae, giống Hyptiotes

8. Họ Oxyopidae

20. Họ Zoropsidae, species Zoropsis

9. Họ Philodromidae


spinimana

10. Họ Dysderidae

21. Họ Deinopidae, species Deinopis spinosa

11. Họ Tetragnathidae, giống Tetragnatha

22. Họ Diguetidae, giống Diguetia

12. Họ Thomisidae, giống Xysticus

23. Họ Antrodiaetidae, giống Antrodiaetus
24. Họ Segestriidae
25. Họ Scytodidae


Cơ quan sinh dục con cái nằm mặt dưới của bụng. Cơ quan sinh dục con đực
trưởng thành nằm ở hai đốt cuối cùng của đôi chân xúc giác, hai đốt này phình to
và có cấu tạo phức tạp. Con cái có chân xúc giác bình thường, thuôn dài đều.
(Jocque, R. and A. S. Dippenaar-Schoeman, 2007)

Hình 4. Cơ quan sinh dục cái

Hình 5. Cơ quan sinh dục đực

Việc phân loại nhện chỉ tiến hành trên nhện trưởng thành, đặc điểm cơ bản
nhất sử dụng trong phân loại đến cấp độ giống và loài là xúc biện của con đực (đốt
ngoài cùng của chân xúc giác) và bộ phận sinh dục của con cái.

Phần cuối của bụng là hậu môn và bộ phận nhả tơ (núm nhả tơ –
Spinnerests). Bộ phận nhả tơ thường có 2 ống nhả tơ bên trước (ALS), 2 ống nhả tơ
bên sau (PLS), một số loài có thêm 2 ống nhả tơ giữa sau (PMS). Một số loài nhện
thuộc bộ Araneomorphae có tấm nhả tơ (cribellum – cribella) ở phía trước bộ
phận nhả tơ.


Hình 6. Vị trí tấm nhả tơ (cribellum) và núm nhả tơ (spinnerets)

1.1.2. Đặc điểm cấu tạo bên trong của nhện
Bên trong nhện chứa hệ thống tiêu hóa và bài tiết, tuần hoàn, hô hấp, bộ
máy sinh dục và các giác quan có liên quan đến hệ thần kinh và các tuyến nội tiết.
Nhện mang tuyến tơ nằm dưới cuống bụng. Theo Rod & Ken (1998), công dụng của
tơ nhện là tạo thành mạng lưới để bắt mồi. hoặc tạo thành kén để bảo vệ trứng
(Gasterocantha, Plesippus, Heteropoda,…) hoặc dùng để di chuyển từ nơi này sang
nơi khác.
Tất cả các loài nhện đều có bộ phận sản xuất tơ. Bản chất của tơ nhện là
Protein, được cấu thành bởi nhiều amino acid, trong đó có một số amino acid đặc
biệt nên tơ nhện có độ bền rất vững chắc đã được nghiên cứu sử dụng trong sản
xuất áo quân sự và kính chống đạn. So sánh các vật liệu tự nhiên và vật liệu nhân
tạo thì tơ nhện là vật liệu đáng chú ý: nó có độ bền và sự dẻo dai gấp 2 đến 3 lần
xenlulo, cao su, xương, gân và bằng 1/2 độ bền của sắt thép. Vải sản xuất từ tơ
nhện cũng như tơ tằm để thay thế một số loại vải từ sợi hoá học gây ô nhiễm môi
trường.
1.1.3. Một số đặc điểm sinh thái, sinh học của nhện
Theo Foelix (1996) nhện phát triển biến thái không hoàn toàn qua 3 giai


đoạn: trứng – con non – nhện trưởng thành. Nhện non phải qua nhiều lần lột
xác



mới trưởng thành và hình thành bộ phận sinh dục đực và cái. Nhện đực khi đến
tuổi thành thục thường ngừng tìm kiếm thức ăn và chuyên tâm vào việc tìm
kiếm bạn đời. Nhện đực chuyển túi tinh cho nhện cái và bị chết do chính nhện cái
ăn thịt. Sau giao phối nhện cái đẻ trứng thành ổ và bao bọc ổ trứng bằng tơ nhện
do chính mình tạo ra. Trứng của mỗi loài có sự khác nhau về số lượng và kích
thước. Bọc trứng thường được treo trên lưới nhện, dính chặt vào bờ tường, hốc
cây, phiến lá (họ Clubionidae), hoặc được nhện mẹ mang gần cuối bụng (một số
loài thuộc họ nhện sói Lycosidae). Nhện mẹ canh giữ trứng và con mới nở cho đến
khi chúng đủ cứng cáp, có khả năng phân tán. Nhện con mới nở thường tập trung
trong ổ trứng.
Dựa trên tập tính săn mồi, nhện được chia làm hai nhóm lớn: nhện
chăng lưới bắt mồi và nhện săn mồi tự do không chăng lưới. (Nguyễn Văn Huỳnh
(2002).
Nhện chăng lưới bắt mồi vào ban ngày thường săn mồi hay rình mồi
trên lưới nhện. Khi con mồi vướng vào lưới, nhện nhả tơ để cuốn chặt con mồi rồi
tiêm nọc độc giết chết con mồi. Thường thì nhện sẽ treo con mồi trên lưới để dành
ăn khi đói. Các loài nhện chăng lưới ban đêm thì hoạt động vào lúc chiều tối. Chúng
chăng lưới khi trời bớt gió và cuốn lưới lại và mang con mồi bắt được về nơi trú
ẩn (một số loài thuộc họ Araneidae và Tetragnathidae). Những loài nhện săn mồi
tự do, chúng rình và vồ con mồi sau đó nhanh chóng tiêm nọc độc, dùng hàm
nghiền nát con mồi; tiết nước bọt tiêu hóa và hút hết dịch chất của con mồi rồi bỏ
lại xác khô (Foelix, 1996).
Thức ăn chủ yếu của nhện là các động vật chân khớp nhỏ, thậm chí chúng
còn ăn thịt lẫn nhau. Trong các loại côn trùng thì ruồi, muỗi, bọ nhảy là nguồn thức
ăn chủ yếu của nhện. Tuy nhiên, cũng có những nhóm côn trùng mà nhện
phải kiêng dè như ong bắp cày, một số loại kiến, hay một số loại sâu bướm và bọ
cánh cứng. Những côn trùng này thường tiết ra mùi khó chịu hoặc chất độc để bảo
vệ bản thân (Foelix, 1996). Song song đó, nhện được ghi nhận giữ vai trò chủ

đạo và là một trong những nhóm ăn thịt quan trọng nhất trong hầu hết các hệ sinh


thái. Chúng là nguồn thức ăn cho một số nhóm động vật như: chim, rắn, ong và
nhiều loài động vật khác (Peterson et al, 1989). Đặc biệt những nhóm nhện sống
trong và trên mặt


đất giữ vai trò quan trọng trong việc chuyển hóa năng lượng trực tiếp từ mảnh vụn
thức ăn bên dưới bề mặt đất đến mạng lưới thức ăn trên bề mặt đất cho nhiều họ
chim, bò sát, lưỡng cư và thú (Johnston, 2000).
Nghiên cứu khả năng ăn mồi của loài nhện Pardosa birmanica tại Ấn Độ,
cho thấy 1 nhện cái trưởng thành tiêu diệt 28,4 sâu xanh hại cây bông trong 1 ngày
đêm, 1 nhện đực trưởng thành tiêu diệt 14,1 sâu xanh trong 1 ngày đêm.
Sebastian và Sudhikumar (2002) đã thử nghiệm sức ăn rệp Aphis craccivora của
một số loài thuộc họ nhện nhảy Saticidae. Nhện đực trưởng thành loài Phidipus
pateli tiêu diệt
6,4 con rệp trong 1 ngày đêm, nhện cái trưởng thành loài Phidipus pateli tiêu
diệt
6,6 con rệp trong 1 ngày đêm, nhện đực trưởng thành loài Plexippus paykulli tiêu
diệt 10,2 con rệp trong 1 ngày đêm, nhện cái trưởng thành loài Plexippus paykulli
tiêu diệt 12,4 con rệp trong 1 ngày đêm. Điều này cho thấy khả năng săn mồi của
nhện không chỉ phụ thuộc vào loại thức ăn mà còn chịu ảnh hưởng của số lượng
con mồi. Khi số lượng con mồi tăng cao, nhện có thể ăn nhiều hơn bình thường
nhằm hấp thu đầy đủ năng lượng, đẩy nhanh và rút ngắn quá trình tăng trưởng
của nhện. Ngoài ra, việc ăn nhiều cũng giúp cho nhện dự trữ năng lượng lớn phòng
khi gặp điều kiện bất lợi về thức ăn chúng vẫn có thể duy trì sự sống. Việc khan
hiếm thức ăn là một trong những nguyên nhân làm giảm thành phần loài nhện.
Loài nhện nào có kĩ năng săn mồi tốt hoặc dự trữ và tích lũy được nhiều năng
lượng để chịu đói được trong thời gian dài thì sẽ sống sót và ngược lại. Rod & Ken

(1998) cho rằng: khi săn mồi nhện tiêu tốn rất nhiều năng lượng nhưng chúng lại
có khả năng nhịn đói trong suốt một tuần. Điều này giúp chúng có thể sống được
ở những nơi có môi trường sống khắc nghiệt. Đây cũng chính là lí do nhện phân bố
rộng khắp trên nhiều hệ sinh thái. Bổ sung thêm dẫn liệu cho những nghiên cứu về
vai trò của nhện trong việc phòng trừ tổng hợp sâu hại trên cây trồng nồng nghiệp,
Song và Zhu (1999) đã đưa ra nhận xét, so với côn trùng ký sinh và các loài thiên
địch khác nhện có nhiều ưu thế hơn. Thứ nhất, nhện có kích thước quần thể lớn.


Thứ hai, nhện là loài phàm ăn. Thứ ba, nhện xuất hiện trên cây trồng sớm hơn các
loài thiên địch khác. Thứ tư,


trong điều kiện thiếu thức ăn nhện vẫn có thể tồn tại trong thời gian dài. Thứ
năm,
khả năng sinh sản của nhện
cao.
Nhện còn được sử dụng như chỉ thị sinh thái học để đánh giá chất
lượng môi trường sống, điển hình là nhóm nhện thuộc họ nhện cuốn tổ
Clubionidae rất mẫn cảm với các kim loại nặng như chì và kẽm. Các kết quả nghiên
cứu cho thấy thuốc trừ sâu hại ảnh hưởng lớn tới nhện. Chen và Gao (1990) đã chỉ
rõ: việc sử dụng thuốc trừ sâu trên vườn cây ăn quả làm giảm đáng kể số lượng
nhện sống ở trên đó. Tác giả cho rằng nhện rất mẫn cảm với thuốc hoá học,
thuốc hoá học là nhân tố xua đuổi nhện ra khỏi nơi hoạt động và cư trú đặc biệt là
thời điểm nhện tìm nơi ẩn nấp qua mùa đông.
Ở Việt Nam, các nghiên cứu về sinh học sinh thái nhện còn rất rải rác. Kết
quả nghiên cứu của Bùi Hải Sơn (1995) cho thấy: loài nhện Pardosa
pseudoannulata giai đoạn con non có 8 tuổi; thời gian phát dục của nhện non đực
từ
76,2 - 155,7 ngày, của nhện non cái từ 92,6 - 167,7 ngày; vòng đời của nhện từ

122,9 - 219 ngày. Loài nhện Oxyopes javanus giai đoạn con non có 9 tuổi; thời gian
phát dục của nhện non đực từ 152,9 - 204,0 ngày, của nhện non cái từ 159,6 223,7 ngày; vòng đời của nhện từ 185,0 - 238,5 ngày. Nhện Pardosa
pseudonnulata có khả năng ăn 9,4 - 22,5 con rầy nâu trong một ngày, nhện
Oxyopes javanus có khả năng ăn 0,32 - 0,48 sâu non cuốn lá nhỏ trong một ngày.
Phạm Văn Lầm (2004) đã tiến hành thí nghiệm tìm hiểu phổ vật mồi của một số
loài nhện trên cánh đồng lúa, cho rằng: các loài Pardosa pseudonnulata và
Oxyopes javanus biểu hiện tính đa thực. Loài Dyschiriognatha tenera và Theridium
octomaculatum chỉ sử dụng 4 loài rầy nâu hại lúa trong phòng thí nghiệm để làm
thức ăn. Còn loài Myrmaracha elongata và Clubiona japonicola không ăn các loài
bọ xít hại lúa. Nhện là nhóm có số lượng loài lớn, phân bố rộng, có vai trò trong
nhiều lĩnh vực do đó các nghiên cứu về khu hệ bổ sung thành phần loài và sinh
học sinh thái là việc làm cần thiết.


1.2. Nghiên cứu đa dạng nhện trên thế giới
Nhận thức rõ tầm quan trọng của các loài nhện trong khoa học và thực tiễn
đời sống, năm 1965 một tổ chức với tên gọi là Hội nhện Quốc tế (International


Society of rachnology) đã được thành lập. Cho đến nay tổ chức này đã đón nhận
thành viên từ hơn 70 quốc gia khác nhau trên thế giới. Với sự phát triển không
ngừng của các công trình nghiên cứu về nhện, môn khoa học mới đã được ra đời
là Arachnology - Nhện học.
Được bắt đầu nghiên cứu từ cuối thế kỷ 18 (theo tác giả Barrion &
Litsinger, 1995) nhưng thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20 mới là giai đoạn có hàng loạt các
nghiên cứu chi tiết cũng như các công trình công bố loài mới ngày càng nhiều, được
đánh giá là thời kỳ hoàng kim của phân loại học về nhện.
Dofour – tác giả người Pháp, được cho là người đầu tiên sử dụng các hình vẽ
chi tiết về hình thái học của nhện để mô tả so sánh, ghi nhận loài mới với 12 bài
báo có giá trị công bố loài mới từ năm 1820 đến 1831.

Blackwall, một trong những cha đẻ của ngành nhện học, có nhiều công trình
quan trọng đến họ Araneidae, một họ lớn của bộ nhện có nhiều đại diện ở
vùng nhiệt đới. Đặc biệt vào năm 1841, ông là người đầu tiên đề nghị sử dụng
mắt nhện để định loại đến loài, đặc điểm phân loại mà những nhà khoa học trước
đó chưa có ai đề cập đến.
Theo thống kê gần đây nhất của Platnick (2014), trên thế giới hiện nay đã ghi
nhận được 44.906 loài thuộc 3.935 giống của 114 họ
nhện.
Ở khu vực Đông và Đông Nam Á, từ năm 1841, Walokenaer đã mô tả chi
tiết 22 loài nhện chăng lưới thuộc 2 giống: Epeira (11 loài) và Plectanna (11 loài)
của 2 họ Araneidae và Tetragnathidae ở Philippine trong 2 quyển của bộ “ Historie
Naturelle des Insects Aptères” . Tiếp theo đó các công trình nghiên cứu khu hệ
nhện ở các quốc gia khác: Nhật Bản (Karsch 1897, Kishida 1913-1914); Malaysia
(Pocock 1892, Thorell 1890s).
Trong những năm gần đây, số lượng các loài nhện được ghi nhận ở khu vực
này gia tăng. Murphy & Murphy (2000) đã đưa ra danh sách các loài nhện đã ghi
nhận được tại các nước khu vực Đông Nam châu Á, sắp xếp theo thứ tự số


×