Tải bản đầy đủ (.doc) (38 trang)

ĐỀ CƯƠNG MÔN TRIẾT DÀNH CHO ĐẠI HỌC VÀ CAO HỌC LUẬT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (263.16 KB, 38 trang )

ĐỀ CƯƠNG MÔN TRIẾT DÀNH CHO ĐẠI HỌC VÀ CAO HỌC LUẬT
Câu 1: Phân tích định nghĩa vật chất của Lê nin và rút ra ý nghĩa của
nó?
1.1. Các quan niệm về vật chất trong triết học trước C. Mác
* Thời kì cổ đại
- Tương ứng với thời kì này là chế độ chiếm hữu nô lệ. Vào thời kì này,
trình độ nhận thức của con người còn thấp, hiểu biết có hạn nên con người
thường đồng nhất vật chất nói chung với những dạng cụ thể của nó.
- Trong triết học Ấn Độ, người ta đồng nghĩa vật chất với những gì họ cho
là con người cần nhất, như: nước, lửa, khí, đất.
- Ở Trung Quốc, trường phái Âm dương cho rằng âm và dương là vật chất;
còn trường phái Ngũ Hành cho rằng vật chất chính là 5 yếu tố: kim, thủy, mộc,
hỏa, thổ.
- Ở Hy Lạp, Talet nói vật chất là nước, Hê ra clit nói vật chất là lửa. Và đỉnh
cao của tư tưởng duy vật cổ đại về vật chất là thuyết nguyên tử của Đê mô crit.
Ông cho rằng vật chất là nguyên tử. Ông định nghĩa nguyên tử là đơn vị (hạt)
nhỏ nhất, không thể xâm nhập được, không cảm giác được. Quan niệm vật chất
là nguyên tử đã trở thành quan niệm truyền thống trong nhân loại.
* Thời kỳ trung đại
- Tương ứng với thời kỳ này là chế độ phong kiến.
- Ở thời kỳ này, quan niệm vật chất bị biến mất vì đây là thời kỳ của tôn
giáo với những tư tưởng hoang đường về con người và thế giới. Thơi kỳ thần
quyền thắng vương quyền. Triết học lúc này trỏe thành tôi tớ cho thần học (đêm
trường trung cổ)
* Thế kỷ 17, 18
Loài người lúc này bước vào thời kỳ Phục Hưng, thời kỳ Ánh Sáng: khôi
phục lại quan niệm duy vật thời cổ đại, mở ra thời kỳ ánh sáng của khoa học.
- Thời kỳ này, khoa học đã được trỗi dậy và đi sâu nghiên cứu thế giới vi
mô, các ngành khoa học cụ thể được ra đời dẫn đến quan điểm siêu hình máy
móc về vật chất. Loài người đã đồng nhất các thuộc tính của vật chất là vật
chất.


- VD: người ta đồng nhất vật chất với khối lượng, trọng lượng, độ dài, tốc
độ,....
* Cuối thể kỷ 19, đầu thế kỷ 20
- Trong vật lý học có những phát minh mang tính bước ngoặt.
+ 1895: phát hiện ra tia phóng xạ
+ 1896: phát hiện ra tia X (Rownghen)
+ 1897: phát hiện ra điện tử
+1901 phát hiện ra thể tích của điện tử tăng khi gia tốc tăng
- Những phát minh này đã phủ nhận quan niệm truyền thống xưa nay rằng
vật chất là nguyên tử, bởi vì điện tử là một phần của nguyên tử.


- Lợi dụng điều này, chủ nghĩa duy tâm, nhà thờ, giáo hội đã tấn công chủ
nghĩa duy vật. Vật chất không phải là nguyên tử nên cơ sở của chủ nghĩa duy
vật bị phá vỡ. Vật lý học rơi vào tình trạng khủng hoảng về phương pháp luận.
Các nhà triết học duy vật bị lung lay, thậm chí còn chuyển sang chủ nghĩa duy
tâm. Chủ nghĩa duy vật rơi vào bế tắc, điều này dẫn đến sự bế tắc của khoa học.
- Đứng trước tình hình đó, V. I. Lê nin đã đưa ra định nghĩa về vật chất có
tính kinh điển nhằm bảo vệ và phát triển chủ nghĩa duy vật, chống chủ nghĩa
duy tâm, mở đường cho khoa học phát triển.
1.2. Quan điểm của C. Mác về vật chất
Lê nin đã định nghĩa: “Vật chất là một phạm trù triết học dùng để
chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác,
được cảm giác của chúng ra chép lại, chụp lại. phản ánh và tồn tại
không lệ thuộc vào cảm giác”
Trong định nghĩa này, Lê nin chỉ rõ:
+ “Vật chất là một phạm trù triết học”. Đó là một phạm trù rộng và khái
quát nhất, không thể hiểu theo nghĩa hẹp như các khái niệm vật chất thường
dùng trong các lĩnh vực khoa học cụ thể hoặc đời sống hằng ngày.
+ Thuộc tính cơ bản của vật chất là “thực tại khách quan”, “tồn tại không

lệ thuộc vào cảm giác”. Đó chính là tiêu chuẩn để phân biệt cái gì là vật chất và
cái gì không phải là vật chất.
+ “Thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác”. “tồn
tại không lệ thuộc vào cảm giác”. Điều đó khẳng định “thực tại khách quan” (vật
chất) là cái có trước (tính thứ nhất), còn “cảm giác” (ý thức) là cái có sau (tính
thứ hai). Vật chất tồn tại không lệ thuộc vào ý thức.
+ “Thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được
cảm giác của chúng ta chụp lại, chép lại, phản ánh”. Điều này nói lên “thực tại
khách quan” (vật chất) được biểu hiện thông qua các dạng cụ thể, bằng “cảm
giác” (ý thức) con người có thể nhận thức được. Và “thực tại khách quan” chính
là nguồn gốc, nội dung khách quan của “cảm giác”.
Định nghĩa của Lê nin về vật chất đã giải quyết được cả hai mặt của vấn
đề cơ bản của triết học theo lập trường của chủ nghĩa duy vật biện chứng
1.3. Ý nghĩa của định nghĩa
Định nghĩa vật chất của Lê nin có ý nghĩa:
- Khi khẳng định vật chất có trước, ý thức có sau, con người có khả năng
nhận thức thế giới, định nghĩa đã giải quyết được một cách triệt để vấn đề cơ
bản của triết học, qua đó chống lại tất cả các loại quan điểm của chủ nghĩa duy
tâm về phạm trù vật chất.
- Đấu tranh khắc phục triệt để tính chất trực quan, siêu hình, máy móc và
những biến tướng của nó trong quan niệm về vật chất của các nhà triết học tư
sản hiện đại, Do đó, định nghĩa này cũng giải quyết được sự khủng hoảng trong
quan điểm về vật chất của các nhà triết học và khoa học theo quan điểm của
chủ nghĩa duy vật siêu hình.
- Khi chỉ ra thuộc tính cơ bản của vật chất là thực tại khách quan, tồn tại
không lệ thuộc vào cảm giác, định nghĩa đã cung cấp một cơ sở khoa học để


nhận thức vật chất trong thế giới tự nhiên và xã hội. Nó còn là cơ sở, là phương
pháp luận để nghiên cứu vật chất trong lĩnh vực xã hội. Đó là tồn tại xã hội.

- Khẳng định thế giới vật chất khách quan là vô cùng, vô tận, luôn vận
động và phát triển không ngừng nên đã có rác động cổ vũ, động viên các nhà
khoa học đi sâu ngheien cứu thế giới vật chất, tìm ra những kết cấu mới, những
thuộc tính mới và những quy luật vận động của vật chất để làm phong phú thêm
kho tàng tri thức của nhân loại. Loài người sẽ tìm ra nhiều dạng lạ lùng khác
nhau của vật chất nhưng định nghĩa về vật chất của Lê nin vẫn giữ nguyên giá
trị.
- Định nghĩa về vật chất của Lê nin đã khẳng đinh: trong thế giới của
chúng ta không có gì khác ngoài vật chất hoặc do vật chất sinh ra.

Câu 2: Trình bày nguồn gốc, bản chất, kết cấu của ý thức. Vai trò
của ý thức trong hoạt động thực tiễn
2.1. Nguồn gốc của ý thức
Có nhiều quan điểm khác nhau về nguồn gốc của ý thức
- Quan điểm duy tâm cho rằng: Ý thức có nguồn gốc thần thánh (VD: Chúa
được sinh ra vào thứ Bảy, được tạo ra từ đất sét)
- Ngày nay, khi khoa học phát triển, người ta cho rằng loài người là do
người ngoài hành tinh sinh ra.
- Quan điểm của Mác – Lê nin khẳng định: ý thức gồm 2 nguồn gốc: nguồn
gốc tự nhiên và nguồn gốc xã hội.
* Nguồn gốc tự nhiên
- Muốn hiểu được nguồn gốc tự nhiên của ý thức, chứng ta phải hiểu được
thuộc tính phản ánh của vật chất.
+ Phản ánh là năng lực giữ lại, tái hiện thuộc tính kết cấu vật chất này
trong kết cấu vật chất khác khi hai kết cấu vật chất đó tương tác lẫn nhau.
VD: Khi cho 2 vật thể A, B va chạm với nhau thì cả hai đều sẽ bị tổn
thương, biến dạng hoặc phân hủy ( cỏ may bám vào quần).
+ Cùng với sự tiến hóa của thế giới vật chất, thuộc tính phản ánh cũng có
trình độ cao thấp khác nhau, kết cấu vật chất càng phát triển thì năng lực phản
ánh càng cao. Trình đọ thấp nhất của phản ánh là ở giới thực vật. Đó là tính cảm

ứng của thực vật.
VD: hoa hướng dương luôn xoay về hướng có ánh nắng mặt trơi, ngọn cây
luôn vươn về nơi có ánh sáng.
Tính phản ứng ở động vật bậc thấp: khi môi trường tác động lên cơ thể
động vật thì chúng phản ứng lại
VD: mùa đông chim bay về phương nam...
Trình độ phản ánh tâm lý ở động vật bậc cao (động vật đã có bán cầu đại
não). Động vật này đã xuất hiện cảm giác, tri giác và biểu tượng.
Trình độ phản ánh ý thức ở bộ não người. Đây là trình độ phản ánh cao
nhất và chỉ có ở con người. Não người là cơ quan nhục thể, nơi sinh ra ý thức, là
kết quả của quá trình phát triển hết sức lâu dài của vật chất. Não người có trọng


lượng bằng 1/45 trọng lượng cơ thể. Nó có khoảng 14 – 17 tỉ tế bào thần kinh (tế
bào thần kinh điều khiển mọi hoạt động của con người). Não bị tổn thương, hoạt
động của ý thức sẽ bị hỗn loại. Số lượng tế bào thần kinh tham gia điều khiển
hoạt động của cơ thể người là không đáng kế (khoảng 1000 tế bào). Muốn thông
minh phải huy động được càng nhiều tế bào tham gia càng tốt.
- Nguồn gốc tự nhiên của ý thức bao gồm não người và sự phản ánh của
thế giới xung quanh.
+ Bộ não người là cơ quan vật chất của ý thức. Ý thức là chức năng của cộ
óc con người diễn ra trên cơ sở sinh lý thần kinh của bộ óc người. Nghĩa là ý thức
phụ thuộc vào hoạt động của bộ não con người, do đó, khi bọ não bị tổn thương
thì hoạt động của ý thức sẽ không bình thường. Vì vậy, không thể tách rời ý thức
ra khỏi hoạt động của bộ óc.
+ Thế giới khách quan: Ý thức được hình thành nhờ có sự tác động của thế
giới khách quan lên bộ não người. Thế giới khách quan được phản ánh thông qua
hoạt động của các giác quan, đã tác động lên bỗ não con người, hình thành nên
ý thức.
* Nguồn gốc xã hội

Nếu chỉ có nguồn gốc tự nhiên thì ý thức chưa thể xuất hiện, vì các loài
động vật cũng bị tác động bởi thế giới xung quanh như con ngời. Cùng với nguồn
gốc tự nhiên, ý thức còn có nguồn gốc xã hội. Đó là lao động và ngôn ngữ.
- Lao động là hoạt động đặc thù của con ngwoif, làm cho con người khác
với tất cả các động vật khác.
+ Trong lao động, con người đã biết chế tạo ra các công cụ lao động và sử
dụng những công cụ đó để tạo ra của cải, vật chất.
+ Lao động của con người là hành động có mục đích – tác động vào thế
giới vật chất khách quan làm biến đổi thế giới nhằm thảo mãn nhu cầu của con
người.
+ Trong quá trình lao động, bộ não người được phát triển và ngày càng
hoàn thiện, làm cho khả năng tư duy trưu tượng của con người cũng ngày càng
phát triển.
- Lao động sản xuất cong là cơ sở của sự hình thành và phát triển ngôn
ngữ:
+ Trong lao động, con người tất yếu có những quan hệ với nhau và có nhu
vầu cần trao đổi kinh nghiệm. Từ đó, nảy sinh sự “cần thiết phải nói với nhau
một cái gì đấy”. Vì vậy, ngôn ngữ ra đời và phát triển cùng với lao động.
+ Ngôn ngữ là hệ thống tín hiệu thứ hai, là cái “vỏ vật chất” của tư duy, là
phương tiện để con người giao tiếp trong xã hội, phản ánh một cách khái quá sự
vật, tổng kết kinh nghiệm thực tiễn và trao đổi chúng giữa các thế hệ. Chính vì
vậy, Ăng ghen coi lao động và ngôn ngữ là “hai sức kích thích chủ yếu” biến bọ
não con vật thành bộ não con người, phản ánh tâm lý động vật thành phản ánh
ý thức.
Như vậy, nguồn gốc trực tiếp qan trọng nhất quyết định sự ra đời và phát
triển của ý thức là lao động và thực tiễn xã hội, Ý thức phản ánh hiện thực khách
quan vào bộ não người, thông qua lao động, ngôn ngữ và các quan hệ xã hội.


2.1. Bản chất của ý thức

CNDVBC cho ý thức là sự phản ánh thế giới khách quan vào bộ não người
thông qua hoạt động thực tiễn, nên bản chất của ý thức là hình ảnh chủ quan
của thế giới khách quan, là sự phản ánh sáng tạo thế giới vật chất.
- Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Điều đó có nghĩa là
nội dung của ý thức là do thế giới khách quan quy định, nhưng ý thức là hình
ảnh chủ quan, hình ảnh tinh thần chứ không phải là hình ảnh vật lý, vật chất như
chủ nghĩa duy vật tầm thường quan niệm.
- Khi nói ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan cũng có
nghĩa là ý thức là sự phản ánh tự giác, sáng tạo thế giới, bởi
+ Phản ánh ý thức bao giờ cũng do nhu cầu thực tiễn quy định, Nhu cầu
đó đòi hỏi chủ thể phản ánh phải hiểu được cái được phản ánh, Trên cơ sở đó,
hình thành nên hình ảnh tinh thần và những hình ảnh đó ngày càng phản ánh
đúng đắn hơ nhiện thực khách quan. Song, sự sáng tạo của ý thức là sự sáng tạo
của phản ánh, dựa trên cơ sở phản ánh.
+ Phản ánh ý thức bao giờ cũng dựa trên hoạt động thực tiễn và là sản
phẩm của các quan hệ xã hội. Là sản phẩ của các quan hệ xã hội, bản chất của
ý thức có tính xã hội.
Quan điểm trên của triết học Mác về nguồn gốc và bản chất của ý thức
hoàn toàn đối lập với chủ nghĩa duy tâm, coi ý thức, tư duy là cái có trước, dinh
ra vật chất và chủ nghĩa duy vật tầm thường coi ý thức là một dạng vật chất
hoặc coi ý thức là sự pahnr ánh giản đơn, thụ động thế giới vật chất.
2.3. Vai trò của ý thức trong hoạt động thực tiễn.
MB: CNDVBC khẳng định vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức
đồng thời vạch rõ sự tác động trở lại vô cùng quan trọng của ý thức đối với vật
chất. Ý thức do vật chất sinh ra và quyết định, song sau khi ra đời, ý thức có tính
độc lập tương đối nên có sự tác động trở lại to lớn đối với vật chất thông qua
hoạt động thực tiễn của con người.
- Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định trong mối quan hệ giữa vật
chất và ý thức thì: Vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất là nguồn gốc của ý
thức, quyết định ý thức; song, ý thức có thể tác động ngược trở lại vật chất

thông qua hoạt động thực tiễn của con người. Vì vậy, con người phải tôn trọng
khách quan, đồng thời phát huy tính năng động chủ quan của mình.
- Phải xuất phát từ thực tế khách quan. Điều này đòi hỏi trong hoạt động
nhận thức và hoạt động thực tiễn, con người phải tôn trọng thực tiễn khách
quan, tuân theo các quy luật khách quan, xuất phát từ thực tế khách quan để đề
ra các chủ trương, đường lối. Đồng thời, phải dựa trên cơ sở thực tế khách quan
để kiểm nghiệm, đánh giá các chủ trương, đường lối đó. Nói cách khác, chúng ta
phải lấy thực tế khách quan làm căn cứ cho mọi hoạt động của mình.
- Phát huy tính năng động chủ quan. Điều này đòi hỏi con người phải tôn
trọng và biết làm chủ tri thức khoa học, truyền bá tri thức đó vào trong quần
chúng nhân dân để nó dẫn dắt quần chúng. Đồng thời, đòi hỏi mỗi người phải


biết tự giác tu dưỡng, rèn luyện để hình thành, cùng có nhân sinh quan tiến bộ
và nâng cao ý chí, nghị lực trong hoạt động thực tiễn.
- Vai trò của ý thức là ở chỗ trang bị cho con người những tri thức về bản
chất quy luật khách quan của đối tượng. Trên cơ sở ấy, con người xác định đúng
đắn mục tiêu và đề ra phương hướng hoạt động phù hợp. Tiếp theo, con người
vói ý thức của mình xác định các biện pháp để thực hiện tổ chức các hoạt động
thực tiễn. Cuối cùng, bằng sự nỗ lực và ý chí mạnh mẽ của mình, con người có
thể thực hiện được mục tiêu đề ra.
- Nhận thức rõ vai trò tích cực của ý thức, của nhân tố chủ quan, Đảng ta đã xác
định, trong thời kỳ công nghiệp hóa và hiện đại hóa hiện nay, phải “lấy việc phát
huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền
vững”, đồng thời phải “khơi dậy trong nhân dân lòng yêu nước, ý chí quật cường,
phát huy tài chí của người Việt Nam” (Văn kiện Đại hội Đảng VIII).
- Phải phòng, chống và khắc phục bệnh chủ quan duy ý chí, tức là khắc
phục tình trạng không tôn trọng quy luật khách quan, lấy ý chí áp đặt cho thực
tế, lấy tình cảm làm điểm xuât phát cho chiến lược, sách lược, lấy ý muốn chủ
quan làm chính sách...

- Phải phòng, chống và khắc phục bệnh bảo thủ, trì trệ, thụ động và bệnh
kinh nghiệm chủ nghĩa, coi thường tri thức khoa học, coi thường lý luận trong
hoạt động nhận thức và thực tiễn.

Câu 3. Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất – ý thức và ý nghĩa
của nó đối với nước ta hiện nay / bản thân mỗi người.
3.1. Trình bày vai trò của vật chất đối với ý thức
Giải quyết nguyên lý mối quan hệ giữa vật chất và ý thức là giải quyết vấn
đề cơ bản của triết học.
- Vật chất quyết định ý thức, điều đó được thể hiện ở chỗ:
+ Vật chất có trước, ý thức có sau. Vật chất là nguồn gốc của ý thức, giữ
vai trò quyết định đối với ý thức.
VD: Về thế giới quan cũng như trình tự về mặt thời gian, yếu tố vật chất
xuất hiện trước yếu tố ý thức. Cụ thể, phải có yếu tố vật chất mới sinh ra loài
người có ý thức.
+ Trong đời sống hiện thực, nhân tố vật chất có trước nhân tố tinh thần.
+ Trong đời sống xã hội của con người, kinh tế quyết định chính trị, đời
sống vật chất quyết đinh đời sống tinh thần.
VD: các nước nhỏ, yếu về kinh tế rất sợ các cường quốc. Kinh tế
Việt Nam có khởi sắc thì vị thế của Việt Namtrên trường quốc tế mới được nâng
cao.
“có thực mới vực được đạo”
- Ý thức có tính độc lập tương đối và có sự tác động ngược trở lại vật chất.
Sự tác động này theo hai hướng: tích cực và tiêu cực. Có nghĩa, nếu ý thức năng
động, sáng tạo, nhận thức đúng quy luật khách quan, hành động đúng thực tiễn
thì sẽ thúc đẩy sự phát triển. Ngược lại, nếu không năng động sáng tạo, rơi vào


tình trạng chủ quan duy ý chí sữ kìm hãm sự phát triển. Vì nói đến vai trò của ý
thức đối với vật chất là nói đến vai trò của con người trong nhận thức và trong

thực tiễn. Điều đố lý giải vì sao, cùng một xuất phát điểm nhưng người tiến về
phía trước, kẻ lại lùi lại phía sau.
VD: Sau năm 1975, cả Việt Nam và Hàn Quốc đều bị tàn phá bởi chiến
tranh và mới giành lại độc lập, nhưng hiện nay, kinh tế Việt Namthua xa Hàn
Quốc.
Sau năm 1975, người dân Thái Lan rất ngưỡng mộ Sài Gòn – “hòn ngọc
Viễn Đông”. Nhưng chỉ sau 10 năm, Việt Namsai lầm về đường lối kinh tế xã hội,
còn Thái Lan nhanh chóng thể chế hóa theo đường lối kinh tế thị trường nên họ
đã bứt lên nhanh chóng và vượt qua Việt Nam.
- Trong đời sống hiện thực, với những điều kiện cụ thể, không gian và thời
gian xác định, nhân tố ý thức có thể là nhân tố quyết định chứ không phải là vật
chất.
VD: Trong tất cả các cuộc kháng chiến chống ngoại tộc của dân tộc ta,
chúng ta thường yếu hơn kẻ thù về tiềm năng vật chất, binh lực nhưng cuối
cùng, chúng ta là người chiến thắng. Vì ta có sức mạnh tinh thần đoàn kết dân
tộc, có lòng yêu nước nồng nàn và có nghệ thuật đánh giặc rất tài tình (lấy nhu
thắng cương, lấy ít địch nhiều, lấy yếu thắng mạnh).
- Tuy nhiên, ý thức chỉ giữ vai trò quyết định trong những điều kiện không
gian, thời gian nhất định. Vượt ra khỏi giới hạn đó, vai trò của ý thức sẽ bị mất
đi.
VD: người ta chỉ có thể chịu đựng hoàn cảnh khó khăn trong một thời gian
nhất định, còn nếu hoàn cảnh khó khăn kéo dài thì sẽ không chịu được.
Trong một khu phố, nếu tất cả mọi người cùng nghèo, người ta vẫn sống
vui vẻ được, nhưng nếu chỉ cần một nhà giàu lên, cả khu phố đó sẽ có sự đố kỵ
và sẽ tan rã.
- Như vậy, ngay cả khi yếu tố ý thức trở thành yếu tố quyết định thì đã bị
nhân tố vật chất quy định. Bởi tự bản thân ý thức không làm thay đổi được gì
trong hiện thực nếu không có vật chất tác động, làm nền tảng
3.2. Ý nghĩa của việc nghiên cứu vấn đề này.
- Khi thừa nhận vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức thf trong

nhận thức và trong hoạt động thực tiễn phải tôn trọng quy luật khách quan. Mọi
hành động đều phải xuất phát từ thực tế khách quan, phải căn cứ vào những
điều kiện vật chất và năng lực vật chất hiện có khi đề ra các quyết sách; không
được xuất phát từ ý chí, nguyện vọng cá nhân.
VD: Trước thời kỳ đổi mới, đường lối phát triển kinh tế của Đảng ta đã
không xuất phát từ thực tế khách quan, kết quả đưa đến tình trạng khủng hoảng
về mọi mặt. Và hiện nay, căn bệnh đó vẫn chưa được khắc phục hoàn toàn.
- Khi khẳng định ý thức có sự tác động trở lại đối với vật chất thì trong
cuộc sống và trong kiến tạo các quyết định, thi hành các quyết định phải luôn
luôn phát huy tính năng động của ý thức bằng cách không ngừng trau dồi nhận
thức lý luận và chuyên môn, gắn bó với thực tiễn, luôn luôn năng động.


- Đối với nước ta: Nếu khi lien hệ với Việt Nam, trong mọi đường lối chính
sách, Đảng ta luôn xuất phát từ thực tiễn khách quan, tôn trọng các quy luật
khách quan. Vì vậy, đã đưa cách mạng nước ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi
khác. Nhất là trong cuộc cách mạng giải phóng dân tộc. Tuy nhiên, thời kỳ trước
đổi mới, nước ta đã vấp phải những sai lầm chủ quan trong hoạch định chiến
lược kinh tế - xã hội. Hạn chế đó đang đượ từng bước khắc phục. Đảng ta khẳng
định: mọi đường lối, chủ trương phát triển đất nước đều lấy chủ nghĩa Mác – Lê
nin, tư tưởng HCM làm nền tảng tư tưởng lý luận. Đồng thời, xuất phát từ hiện
thực của đất nước, quốc tế và thời đại.
Câu 4. Hai nguyên lý cơ bản của phép biện chứng duy vật
* Phép biện chứng là gì?
Phép biện chứng chẳng qua là khoa học về các quy luật phổ biến của tự
nhiên, xã hội và tư duy. Phép biện chứng được thể hiện cô đọng trong hai
nguyên lý. Đó là “nguyên lý về mối liên hệ phổ biến của sự vật, hiện tượng” và
“nguyên lý về sự phát triển”.
1. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến.
Khái niệm mối liên hệ phổ biến là khái niệm dùng để chỉ sự tác động và

ràng buộc lẫn nhau, quy định và chuển hóa lẫn nhau giữa các mặt, các yếu tố,
các bộ phận trong một sự vật hoặc giữa các sự vật, hiện tượng với nhau.
a, Nội dung của nguyên lý
- Các sự vật, hiện tượng trong thế giới có mối liên hệ với nhat không? Nếu
có thì tính chất của các mối liên hệ đó như thế nào và ý nghĩa của việc nghiên
cứu vấn đề này như thế nào?
- Phép siêu hình cho rằng: các sự vật, hiện tượng trong TGKQ không có
liên hệ gì với nhau, chúng tồn tại một cách biệt lập nhau. Do đó, không có sự tác
động qua lại, ảnh hưởng, chi phối lẫn nhau. Đây là một quan niệm sai lầm,
không phản ánh đúng bản chất của thế giới.
VD: Trong tự nhiên: Giới tự nhiên là một thể thống nhất, nó phụ thuộc lẫn
nhau. Nếu một loài sinh vật tuyệt chủng thì mắt xích của sự sống trên thế giới sẽ
bị tổn thương.
Trong xã hội, các sự kiện kinh tế - chính trị ở một quốc gia nào đó
không chỉ ảnh hưởng đến quốc gia đó mà còn lan tỏa khắp thế giới.
Về tư duy, các truyền thống, phong tục tập quán ảnh hưởng rất mạnh
mẽ trong cộng đồng. Hay như ông cho có câu “gần mực thì đen, gần đèn thì
rạng”
- Trong thế giới, các sự vật, hiện tượng cũng như cá bộ phận của chúng
không tồn tại biệt lập với nhau mà có sự liên hệ, tác động qua lại, chuyển hóa
lẫn nhau. Phép biện chứng duy vật sử dụng phạm trù mối liên hệ phổ biến để
khái quát thực trạng trên.
- Cơ sở của mối liên hệ phổ biến là tính thống nhất vật chất của thế giới.
Trên cơ sở đó, phép biện chứng duy vật xem xét thế giơi như một chỉnh thể.
Theo đó, các sự vật, hiện tượng dù có phong phú, đa dạng thế nào thì cũng chỉ


là những dạng cụ thể của một thế giới duy nhất và thống nhất – thế giới vật
chất.
- Nội dung của nguyên lý về mối liên hệ phổ biến của phép biện chứng

duy vật thể hiện ở các luận điểm cơ bản sau: Mọi sự vật, hiện tượng trong thế
giới hay giữa các mặt, các bội phận, yếu tố trong cùng một sự vật, hiện tượng
luôn tồn tại trong những mối liên hệ, tác động qua lại, chuyển hóa lẫn nhau; bản
chất, tính quy luật trong sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng chủ yếu
được bộc lộ thông qua sự tác động qua lại lẫn nhau của chúng. Để thấy rõ hơn
nội dung này, hãy xem xét các khía cạnh sau:
- Về sự tồn tại của các mối liên hệ:
+ Những người theo chủ nghĩa duy tâm khách quan và chủ quan cho
rằng, cái quyết định mối liên hệ, sự chuyển hóa lẫn nhau giữa các sự vật, hiện
tượng là một lực lượng siêu tự nhiên (như trời) hay ở ý thức, cảm giác của con
người.
+ Những người theo quan điểm siêu hình cho rằng các sự vật, hiện tượng
tồn tại biệt lập, tách rời nhau, cái này tồn tại bên cạnh cái kia. Chúng không có
sự phụ thuộc, không có sự ràng buộc và quy định lẫn nhau. Nếu giữa chúng có
sự quy định lẫn nhau thì cũng chỉ là những quy định bề ngoài, mang tính ngẫu
nhiên. Tuy nhiên cũng có một số người cho rằng, các sự vật hiện tượng có mối
liên hệ với nhau và mối liên hệ rất đa dạng, phong phú, song các hình thức liên
hệ khác nhau không có khả năng chuyển hóa lẫn nhau.
+ Những người theo quan điểm biện chứng duy vật cho rằng: các sự vật,
hiện tượng, các quá trình khác nhau vừa tồn tại độc lập, vừa quy định, tác động
qua lại, chuyển hóa lẫn nhau; Tính thống nhất vật chất của thế giới là cơ sở của
mối liên hệ giữa các sự vật hiện tượng. Các sự vật, hiện tượng tạo thành thế giới,
dù có đa dạng, phong phú, có khác nhau bao nhiêu, song chúng đều chỉ là
những dạng khác nhau của một thế giới duy nhất, thống nhất – thế giới vật chất.
Nhờ có tính thống nhất đó, chúng không thể tồn tại biệt lập, tách rời nhau, mà
tồn tại trong sự tác động qua lại, chuyển hóa lẫn nhau theo những quan hệ xác
định.
- Về vai trò của các mối liên hệ:
+ Phép biện chứng duy vật khẳng định rằng các sự vật, hiện tượng trong
thế giới chỉ biểu hiện sự tồn tại của mình thông qua sự vận động, sự tác động

qua lại lẫn nhau.
+ Do sự tồn tại cũng như bản chất của sự vật hiện tượng cũng chỉ bộc lộ
qua các mối quan hệ, cho nên, trong hoạt động thực tiễn và hoạt động nhận
thưc, chúng ta không được tuyệt đối hóa, hay xem nhẹ một mối quan hệ nào,
cũng không nên tách rời các mối qaun hệ với nhau mà phải tính đến tổng thể
các mối liên hệ trong sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng.
b, Tính chất của mối liên hệ:
Gồm 3 tính chất cơ bản: Tính khách quan, tính phổ biến và tính đa dạng
phong phú.
- Tính khách quan của mối liên hệ biểu hiện: các mối liên hệ là vốn có của
mọi sự vật, hiện tượng; nó không phụ thuộc vào ý thức con người.


- Tính phổ biến của mối liên hệ biểu hiện: bất kỳ một sự vật, hiện tượng
nào; ở bất kỳ không gian nào và ở bất kỳ thời gian nào cũng có mối liên hệ với
những sự vật hiện tượng khác. Ngay trong cùng một sự vật, hiện tượng thì bất kỳ
một thành phần nào, một yếu tố nào cũng có mối liên hệ với những thành phần,
những yếu tố khác.
- Tính đa dạng, phong phú của mối liên hệ biểu hiện: sự vật khác nhau,
hiện tượng khác nhau, không gian khác nhau, thời gian khác nhau thì các mối
liên hệ biểu hiện khác nhau. Phát triển có thể từ thấp đến cao, từ đơn giản đến
phức tạp, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện hơn.
VD: sự học tập phát triển từ thấp đến cao, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện
hơn; sự sống phát triển từ đơn giản (đơn bào) đến phức tạp (động vật)
2. Nguyên lý về sự phát triển
a. Nội dung nguyên lý:
Trong thế giới, các sự vật, hiện tượng cũng như các bộ phận của chúng
không tồn tại một cách tĩnh tại, bất biến mà luôn vận động, chuyển hóa lẫn
nhau, sự vật mới ra đời thay thế cho sự vật cũ. Phép biện chứng duy vật sử dụng
phạm trù phát triển để chỉ quá trình vận động tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn

giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn của sự vật, hiện
tượng.
- Cơ sở của nguyên lý này là quan niệm về vật chất vận động, theo đó, vật
chất luôn luôn vận động, không có vận động nào lại không phải là vận động của
vật chất; vận động là thuộc tính của sự vật, là phương thức tồn tại của vật chất.
- Nội dung cơ bản của nguyên lý về sự phát triển được thể hiện ở những
điểm sau:
Mọi sự vật, hiện tượng đều nằm trong quá trình vận động, phát triển,
trong đó phát triển được xem như trường hợp đặc biệt của sự vận động. Trong
quá trình phát triển, sự vật, hiện tượng chuyển hóa sang chất mới cao hơn, hoàn
thiện hơn. Phương thức của sự phát triển là sự thay đổi về chất trên cơ sở những
thay đổi về lượng. Nguồn gốc, động lực của sự phát triển là những mâu thuẫn và
giải quyết mâu thuẫn bên trong sự vật, hiện tượng, khuynh hướng của sự phát
triển diễn ra theo đường “xoáy ốc”
- Để hiểu rõ nội dung này, chúng ta hãy xem xét cá khía cạnh sau:
+ Quan điểm siêu hình xem sự phát triển chỉ là sự tăng lên hay sự giảm
đi đơn thuần về mặt lượng, không có sự thay đổi gì về mặt chất của sự vật; hoặc
nếu có sự thay đổi nhất định về chất thì sự thay đổi ấy cũng chỉ diễn ra theo một
vòng tròn khép kín, chứ không có sự sinh thành ra cái mới với những chất mới.
+ Theo quan điểm biện chứng, sự phát triển là kết quả của quá trình thay
đổi dần dần về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất, là quá trình diễn ra theo
đường xoắn ốc và hết mỗi chu kỳ sự vật lập lại dường như sự vật ban đầu nhưng
ở cấp độ cao hơn.
+ Quan điểm siêu hình phủ nhận sự phát triển, họ cho rằng mọi sự vật,
hiện tượng từ lúc sinh ra cho đến lức mất đi không hề phát triển

b, Tính chất của sự phát triển :


Ba tính chất cơ bản : Tính khách quan, tính phổ biến và tính đa dạng,

phong phú.
- Sự phát triển bao giờ cũng mang tính khách quan. Bởi vì, theo quan
điểm duy vật biện chứng, nguồn gốc của sự phát triển nằm ngay trong bản thân
sự vật. Đó là quá trình giải quyết liên tục những mâu thuẫn nảy sinh trong sự tồn
tại và vận động của sự vật, nhờ đó sự vật luôn phát triển.
- Sự phát triển mang tính phổ biến. Tính phổ biến của sự phát triển được
hiểu là nó diễn ra ở mọi lĩnh vực: tự nhiên, xã hội và tư duy; ở bất cứ sự vật, hiện
tượng nào của thế giới khách quan.
- Sự phát triển còn có tính đa dạng, phong phú. Phát triển là khuynh
hướng chung của mọi sự vật, mọi hiện tượng, song mỗi sự vật, mỗi hiện tượng
lại có quá trình phát triển không giống nhau.
3. Ý nghĩa phương pháp luận :
- Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến đòi hỏi trong nhận thức sự vật cần có
quan điểm toàn diện. Với quan điểm này, khi nghiên cứu sự vật phải xem xét tất
cả các mối liên hệ của bản thân sự vật với sự vật và hiện tượng khác.
Phải phân loại các mối liên hệ để hiểu rõ vị trí, vai trò của từng mối liên hệ
đối với sự vận động và phát triển của sự vật.
- Nếu khuynh hướng của các sự vật, hiện tượng trong TGKQ là vận động đi
lên thì trong nhận thức và thực tiễn cần phải có những quan đểm phát triển.
Quam điểm phát triển đòi hỏi: phải phân tích sự vật trong sự phát triển, cần phát
hiện cái mới, ủng hộ cái mới, cần phải tìm nguồn gốc của sự phát triển trong bản
thân sự vật.
Tóm lại: Hai nguyên lý cơ bản của phép biện chứng duy vật là cơ sở lý
luận của quan điểm toàn diện, lịch sử, cụ thể và phát triển. Với cách xem xét,
nghiên cứu theo quan điểm toàn diện và phát triển sẽ giúp ta hiểu được bản
chất sự vật, làm cho nhận thức phản ánh đúng đắn về sự vật và hoạt động thực
tiễn có hiệu quả cao.

Câu 5. Nội dung và ý nghĩa của quy luật từ thay đổi về lượng dẫn đến
thay đổi về chất và ngược lại.

Sự vật nào cũng bao hàm hai mặt: chất và lượng. Hai mặt này tác động
qua lại lẫn nhau tạo thành quy luật phổ biến của sự phát triển. Đó là quy luật từ
sự thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất
1. Khái niệm chất và khái niệm lượng.
- Chất:
+ Là phạm trù dùng để chỉ tính quy định vốn có của sự vạt, là sự thống
nhất hữu cơ của những thuộc tính làm cho sự vật là nó chứ không phải là cái
khác.
+ Mỗi sự vật, hiện tượng trong thế giới đều có những chất vốn có, làm nên
chính chúng. Nhờ đó chúng mới khác với các sự vật, hiện tượng khác. Thuộc tính
của sự vật là những tính chất, những trạng thái, những yếu tố cấu thành sự vật,



VD: Nước nguyên chất là chất lỏng nên có khả năng hòa tan, ăn mòn kim
loại, không dẫn điện, không màu, không mùi, không vị, nhiệt độ sôi là 100 0C.
Tập hợp tất cả những thuộc tính đó chính là nước nguyên chất.
Đó là những cái vốn có của sự vật từ khi sự vật được sinh ra hoặc được
hình thành trong sự vận động và phát triển của nó. Muốn nhận thức đúng đắn về
những thuộc tính của sự vật, chúng ta phải thông qua sự tác động qua lại của sự
vật đó với các sự vật khác.
+ Chất có thuộc tính cơ bản và thuộc tính không cơ bản. Thuộc tính cơ
bản quyết định chất của sự vật. Do vậy, nếu thuộc tính cơ bản của sự vật còn
tồn tại thì chất còn tồn tại; nếu thuộc tính cơ bản của sự vật không còn thì chất
cũng không còn nữa.
VD: thuộc tính cơ bản của nước nguyên chất là không màu, không mùi,
không vị dùng để phân biệt với các chất khác.
Tuy nhiên, ranh giới giữa thuộc tính cơ bản và thuộc tính không cơ bản
cũng chỉ có tính tương đối. Bởi, cũng thuộc tính ấy trong quan hệ này là thuộc
tính cơ bản nhưng trong quan hệ khác nó lại không phải là thuộc tính cơ bản.

VD: Cốc nước thủy tinh, trong quan hệ dùng để uống nước thì thuộc tính
có đáy cốc là thuộc tính cơ bản, còn những thuộc tính khác như trọng lượng,
chiều cao, màu sắc không phải là thuộc tính cơ bản. Nhưng khi dùng để chặn
giấy thì thuộc tính trọng lượng lại là thuộc tính cơ bản.
Mỗi sự vật có rất nhiều thuộc tính; mỗi thuộc tính lại biểu hiện một chất
của sự vật. Do vậy, mỗi sự vật có rất nhiều chất. Chất và sự vật có mối quan hệ
chặt chẽ, không tách rời nhau. Trong hiện thực khách quan không thể tồn tại sự
vật không có chất và không thể có chất nằm ngoài sự vật.
- Lượng:
+ Khái niệm: Lượng dùng để chỉ tính quy định vốn có của sự vật về mặt
số lượng, quy mô, trình độ, nhịp điệu của sự vận động và phát triển cũng như
các thuộc tính của sự vật.
Lượng là cái vốn có của sự vật, song lượng chưa làm cho sự vật là nó,
chưa làm cho nó khác với những cái khác. Lượng tồn tại cùng với chất của sự vật
và cũng có tính khách quan như chất của sự vật.
Lượng của sự vật biểu thị kích thước dài hay ngắn, số lượng nhiều hay ít,
quy mô lớn hay nhỏ, trình độ cao hay thấp,… trong thực tế, lượng của sự vật
thường được xác định bởi những đơn vị đo lường cụ thể (vd: vận tốc ánh sáng là
300000km/s). Bên cạnh đó có những lượng chỉ có thể biểu thị dưới dạng trừu
tượng và khái quát như ý thức trách nhiệm cao hay thấp,.. Khi đó, ta chỉ có thể
nhận thức được lượng của sự vật bằng con đường trừu tượng và khái quát hóa.
- Sự phân biệt chất và lượng của sự vật chỉ mang tính tương đối. Có
những tính quy định trong mối quan hệ này là chất của sự vật, song trong mối
quan hệ khác lại biểu thị lượng của sự vật và ngược lại (vd: số học sinh giỏi trong
lớp- lượng- lại biểu thị chất lượng học tập của lớp đó-chất)
2. Quan hệ biện chứng giữa sự thay đổi về lượng và sự thay đổi về
chất.
- Những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất:



+ Bất kỳ sự vật hay hiện tượng nào cũng là sự thống nhất giữa mặt chất
và mặt lượng. Chúng tác động qua lại lẫn nhau. Trong sự vật, quy định về lượng
không bao giờ tồn tại, nếu không có tính quy định về chất và ngược lại.
+ Sự thay đổi về lượng và về chất của sự vật diễn ra cùng với sự vận động
và phát triển của sự vật. Sự thay đổi về lượng của sự vật có ảnh hưởng tới sự
thay đổi về chất và ngược lại, sự thay đổi về chất của sự vật tương ứng với thay
đổi về lượng của nó.
Để thấy rõ phương thức thay đổi này, chúng ta cần làm rõ quan hệ biện
chững giữa thay đổi về lượng và thay đổi về chất qua các phạm trù: độ, điểm
nút, bước nhảy.
+ Độ là phạm trù triết học dùng để chỉ khoảng giới hạn trong đó sự thay
đổi về lượng của sự vật chưa làm thay đổi căn bản chất của sự vật ấy. Độ là mối
liên hệ giữa lượng và chất của sự vật, ở đó thể hiện sự thống nhất giữa lượng và
chất của sự vật.
VD: chỉ khi bản án, quyết định của TA có hiệu lực thi hành thì một người
mới được coi là tội phạm.
Điểm nút là phạm trù triết học dùng để chỉ điểm giới hạn mà tại đó sự
thay đổi về lượng đã đủ làm thay đổi về chất của sự vật. Sự tích lũy đủ về lượng
sẽ tạo ra bước nhảy, chất mới ra đời.
VD: nhiệt độ sôi của nước là ở 99,99oC = 100oC. đây chính là điểm nút
Bước nhảy là phạm trù triết học dùng để chỉ sự chuyển hóa về chất của
sự vật do sự thay đổi về lượng của sự vật trước đó gây nên. Bước nhảy là sự kết
thúc quá trình biến đổi của lượng cũ, chất cũ; chúng sẽ mất đi và chất mới ra
đời, thay thế sự vật cũ.
VD: Cách mạng tháng 8 năm 1945 là bước nhảy về chất, nó đã kết thúc
hàng nghìn năm chế độ phong kiến, hàng trăm năm chế độ thực dân, chuyển
nước ta sang một giai đoạn mới của sự độc lập, hòa bình và phát triển.
- Những thay đổi về chất dẫn đến những thay đổi về lượng:
Chất mới của sự vật ra đời sẽ tác động trở lại lượng của sự vật. Sự tác
động ấy thể hiện: chất mới có thể làm thay đổi kết cấu, quy mô, trình độ, nhịp

điệu của sự vận động và phát triển của sự vật. Như vậy, không chỉ những thay
đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất mà những thay đổi về chất cũng đã
dẫn đến những thay đổi về lượng.
VD: khi đun nước đạt đến 100 oC, nước sẽ bốc hơi, thể tích sẽ lớn hơn, tốc
độ hoạt động cảu các phân tử nước nhanh hơn, khả năng dẫn nhiệt kém hơn.
- Trong tính đa dạng của những hình thức thay đổi về chất, chúng
ta lưu ý tới một số loại bước nhảy cơ bản sau đây:
Bước nhảy để chuyển hóa về chất của sự vật hết sức đa dạng và phong
phú với những hình thức rất khác nhau.
Dựa theo nhịp điệu thực hiện bước nhảy của bản thân sự vật có thể phân
chia thành bước nhảy đột biến và bước nhảy dần dần. Bước nhảy đột biếnlà
bước nhảy được thực hiện trong một thời gian rất ngắn làm thay đổi chất của
toàn bộ kết cấu cơ bản của sự vật. Bước nhảy dần dần là bước nhảy được thực


hiện từ từ, từng bước bằng cách tích lũy dần dần những nhân tố của chất mới và
những nhân tố của chất cũ dần dần mất đi.
Căn cứ vào quy mô thực hiện bước nhảy của sự vật có bước nhảy toàn
bộ và bước nhảy cục bộ. Bước nhảy toàn bộ là bước nhảy làm thay đổi chất của
toàn bộ các mặt, các yếu tố cấu thành sự vật. Bước nhảy cục bộ là bước nhảy
làm thay đổi chất của những mặt, những yếu tố riêng lẻ của sự vật.
=> Nghiên cứu mối quan hệ qua lại giữa chất và lượng, chúng ta có thể
phát biểu nội dung của quy luật này như sau: Mọi sự vật đều là sự thống nhất
giữa lượng và chất, sự thay đổi dần dần về lượng tới điểm nút sẽ dẫn đến sự
thay đổi về chất của sự vật thông qua bước nhảy; chất mới ra đời tác động trở
lại sự thay đổi của lượng mới lại có chất mới cao hơn... Quá trình tác động đó
diễn ra liên tục làm cho sự vật không ngừng biến đổi và phát triển .(quy luật này
đôi khi được gọi vắn tắt là quy luật lượng, chất hoặc quy luật từ những thay đổi
về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất và ngược lại) .
c. Ý nghĩa phương pháp luận:

- Sự vận động và phát triển của sự vật bao giờ cũng diễn ra bằng cách tích
lũy dần dần về lượng đến một giới hạn nhất định, thực hiện bước nhảy để
chuyển về chất. Do đó, trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn, con
người phải biết từng bước tích lũy về lượng để làm biến đổi về chất theo quy
luật. Trong hoạt động của mình, ông cha ta đã rút ra những tư tưởng sâu sắc như
“tích tiểu thành đại”, “năng nhặt chặt bị”, “góp gió thành bão”... Những việc làm
vĩ đại của con người bao giờ cũng là sự tổng hợp của những việc làm bình
thường của con người đó. Phương pháp này giúp chúng ta tránh được tư tưởng
chủ quan, duy ý chí, nôn nóng, đốt cháy giai đoạn muốn thực hiện bước nhảy
liên tục.
- Quy luật của tự nhiên và quy luật của xã hội đều có tính khách quan.
Song quy luật của tự nhiên diễn ra một cách tự phát, còn quy luật của xã hội chỉ
được thực hiện thông qua hoạt động có ý thức của con người. Do đó, khi đã tích
lũy đủ về số lượng phải có quyết tâm để tiến hành bước nhảy, phải kịp thời
chuyển những sự thay đổi mang tính chất tiến hóa sang những thay đổi mang
tính chất cách mạng.
- Trong hoạt động con người còn phải biết vận dụng linh hoạt các hình
thức của bước nhảy.
- Trong hoạt động thực tiễn, chúng ta cần vận dụng linh hoạt các hình thức
của bước nhảy để trong những điều kiện cụ thể, chúng ta có thể lựa chọn bước
nhảy để trong những điều kiện cụ thể, chúng ta có thể lựa chọn bước nhảy phù
hợp đem lại hiệu quả cao nhất.

Câu 6. nội dung và ý nghĩa của quy luật về sự thống nhất và đấu tranh
giữa các mặt đối lập
1. Các khái niệm cơ bản:


- Mặt đối lập: là những mặt có những đặc điểm, những thuộc tính, những
tính quy định có khuynh hướng biến đổi trái ngược nhau.

VD: điện tích âm và điện tích dương, quá trình đồng hóa và dị hóa, giai
cấp thống trị và giai cấp bị trị,...
- Các mặt đối lập nằm trong sự liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau tạo
thành mâu thuẫn biện chứng. Mâu thuẫn biện chứng tồn tại một cách khách
quan và phổ biến trong tự nhiên, xã hội và tư duy. Mâu thuẫn là sự tác động qua
lại giữa cá mặt đối lập bên trong của sự vật hoặc giữa các sự vật đối lập với
nhau. Các mặt đối lập vừa thống nhất, vừa đấu tranh với nhau.
- Sự thống nhất của các mặt đối lập là sự nương tựa vào nhau, không tách
rời nhau giữa các mặt đối lập, sự tồn tại của mặt này phải lấy sự tồn tại của mặt
kia làm tiền đề.
VD: không có quá trình đồng hóa thì không có quá trình dị hóa và ngược
lại.
- Các mặt đối lập tồn tại không tách rời nhau nên giữa chúng bao giờ cũng
có những nhân tố giống nhau. Những nhân tố giống nhau đó gọi là sự “đồng
nhất” của các mặt đối lập. Với ý nghĩa đó, “sự thống nhất của các mặt đối lập”
còn bao hàm sự “đồng nhất” của các mặt đối lập mà trong sự triển khai của mâu
thuẫn đến một lúc nào đó, các mặt đối lập có thể chuyển hóa lẫn nhau.
- Các mặt đối lập không chỉ thống nhất, mà còn luôn luôn “đấu tranh” với
nhau. Đấu tranh của các mặt đối lập là sự tác động qua lại theo xu hướng bài trừ
và phủ định lẫn nhau.
VD: giai cấp địa chủ và giai cấp nông dân ở nước ta luôn có khuynh hướng
phủ định, bài trừ, tieu diệt nhau.
Hình thức đấu tranh của các mặt đối lập hết sức phong phú, đa dạng, tùy
thuộc vào tính chất, vào mối quan hệ qua lại giữa các mặt đối lập và tùy điều
kiện cụ thể diễn ra cuộc đấu tranh giữa chúng.
2. Mâu thuẫn là nguồn gốc của sự vận động và sự phát triển:
- Sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là hai xu hướng tác động
khác nhau của các mặt đối lập tạo thành mâu thuẫn. Như vậy mâu thuẫn biện
chứng bao hàm cả “sự thống nhất” lẫn “đấu tranh” của các mặt đối lập. Sự
thống nhất gắn liền với sự đứng im, với sự ổn định tạm thời của sự vật. Sự đấu

tranh gắn liền với tính tuyệt đối của sự vận động và phát triển. Lúc đầu mới xuất
hiện, mâu thuẫn chỉ là sự khác nhau căn bản, nhưng theo khuynh hướng trái
ngược nhau. Sự khác nhau đó càng ngày càng phát triển và đi đến đối lập. Khi
hai mặt đối lập xung đột gay gắt đã đủ điều kiện, chúng sẽ chuyển hóa lẫn
nhau, mâu thuẫn được giải quyết. Nhờ đó mà thể thống nhất cũng được thay thế
bằng thể thống nhất mới; sự vật cũ mất đi sự vật mới ra đời thay thế. Lênin
viết :”Sự phát triển là một cuộc đấu tranh giữa các mặt đối lập”, tuy nhiên
không có thống nhất của các mặt đối lập thì cũng không có đấu tranh giữa
chúng. Thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là không thể tách rời nhau
trong mâu thuẫn biện chứng.
Từ sự phân tích trên, chúng ta có thể đưa ra nội dung của quy luật này
như sau: Mọi sự vật, hiện tượng đều chứa đựng những mặt, khuynh hướng đối


lập tạo thành mâu thuẫn biện chứng trong bản thân nó, sự thống nhất và đấu
tranh giữa các mặt đối lập là nguồn gốc, động lực của sự vận động và phát triển,
làm cho cái cũ mất đi, cái mới ra đời thay thế cái cũ. Chúng ta cũng có thể diễn
đạt ngắn gọn: sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là nguồn gốc,
động lực của sự phát triển.
- Phân loại mâu thuẫn:
Từ nội dung khái quát trên, để hiểu sâu hơn về quy luật này, cần
tìm hiểu cụ thể hơn về các loại mâu thuẫn.
+ Căn cứ vào quan hệ đối với sự vật được xem xét, người ta phân biệt các
mâu thuẫn thành mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài.
Mâu thuẫn bên trong là sự tác động qua lại giữa các mặt, các khuynh
hướng đối lập của cùng một sự vật.
VD: Mâu thuẫn giữa giai cấp nông dân và giai cấp địa chủ trong xã hội
Việt Namtrước cách mạng tháng 8
Mâu thuẫn bên ngoài đối với một sự vật nhất định là mâu thuẫn diễn ra
trong mối quan hệ giữa sự vật đó với các sự vật khác.

VD: mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp, mâu
thuận giữa quốc gia này với quốc gia khác.
+ Căn cứ vào ý nghĩa đối với sự tồn tại và phát triển của toàn bộ sự vật,
mâu thuẫn được chia thành mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn không cơ bản.
Mâu thuẫn cơ bản là mâu thuẫn quy định bản chất của sự vật, quy định sự
phát triển ở tất cả các giai đoạn của sự vật, nó tồn tại trong suốt quá trình tồn
tại các sự vật.
VD: mâu thuẫn giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội trong thời đại
ngày nay là mâu thuẫn cơ bản, còn những mâu thuẫn khác trong thời đại ngày
nay là những mâu thuẫn không cơ bản
Mâu thuẫn không cơ bản là mâu thuẫn chỉ đặc trưng cho một phương diện
nào đó của sự vật, nó không quy định bản chất của sự vật.
+ Căn cứ vào vai trò của mâu thuẫn đối với sự tồn tại và phát triển của sự
vật trong một giai đoạn nhất định, các mâu thuẫn được chia thành mâu thuẫn
chủ yếu, mâu thuẫn thứ yếu.
Mâu thuẫn chủ yếu là mâu thuẫn nổi lên hàng đầu ở một giai đoạn phát
triển nhất định của sự vật, nó chi phối các mâu thuẫn khác trong giai đoạn đó.
VD: Ở nước ta hiện nay, vấn đề tham nhũng là mâu thuẫn chủ yếu; còn
các mâu thuẫn khác giữa các giai cấp, các thành phần kinh tế là mâu thuẫn thứ
yếu
Mâu thuẫn thứ yếu là những mâu thuẫn ra đời, tồn tại trong một giai đoạn
phát triển nào đó của sự vật, nhưng nó không đóng vai trò chi phối mà bị mâu
thuẫn chủ yếu chi phối.
+ Căn cứ vào tính chất của các quan hệ lợi ích, người ta chia mâu thuẫn
trong xã hội thành mâu thuẫn đối kháng và mâu thuẫn không đối kháng.
Mâu thuẫn đối kháng là mâu thuẫn giữa những giai cấp, những tập đoàn
người có lợi ích cơ bản đối lập nhau.
Mâu thuẫn không đối kháng là mâu thuẫn giữa những lực lượng xã hội có
lợi ích cơ bản thống nhất với nhau, chỉ đối lập về những lợi ích không cơ bản, cục
bộ, tạm thời.



VD: mâu thuẫn giữa địa chủ và nông dân trước cách mạng tháng 8 ở Việt
Nam là mâu thuẫn đối kháng; còn mâu thuẫn giữa các giai cấp khác trong xã hội
là mâu thuẫn không đối kháng.
Mọi sự vật đều chứa đựng những mặt có khuynh hướng biến đổi ngược
chiều nhau gọi là những mặt đối lập. Mối liên hệ của hai mặt đối lập tạo nên
mâu thuẫn. Các mặt đối lập vừa thống nhất với nhau và chuyển hóa lẫn nhau
làm mâu thuẫn được giải quyết, sự vật biến đổi và phát triển, cái mới ra đời thay
thế cái cũ.
3. Ý nghĩa phương pháp luận
:
- Để nhận thức đúng bản chất sự vật và tìm ra phương hướng và giải pháp
đúng cho hoạt động thực tiễn phải đi sâu nghiên cứu phát hiện ra mâu thuẫn
của sự vật. Muốn phát hiện ra mâu thuẫn phải tìm ra trong thể thống nhất
những mặt, những khuynh hướng trái ngược nhau, tức tìm ra những mặt đối lập
và tìm ra những mối liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau giữa các mặt đối lập đó.
- Khi phân tích mâu thuẫn, phải xem xét quá trình phát sinh, phát triển
của từng mâu thuẫn, xem xét vai trò, vị trí và mối quan hệ lẫn nhau của các
mâu thuẫn; phải xem xét quá trình phát sinh phát triển và vị trí của từng mặt đối
lập, mối quan hệ tác động qua lại giữa chúng, điều kiện chuyển hóa lẫn nhau
giữa chúng.
- Để thúc đẩy sự vật phát triển phải tìm mọi cách để giải quyết mâu
thuẫn, không được điều hòa mâu thuẫn. Phải tìm ra các hình thức giải quyết
mâu thuẫn một cách linh hoạt, vừa phù hợp với từng loại mâu thuẫn, vừa phù
hợp với điều kiện cụ thể.
Câu 7. Trình bày nội dung và ý nghĩa của quy luật phủ định của phủ
định
1. Các khái niệm phủ định, phủ định biện chứng
- Phủ định là sự thay thế sự vật này bằng sự vật khác.

VD: đốt cháy cây, quả trứng nở thành con gà, chế độ tư bản chủ nghĩa
được thay thế bằng chế độ xã hội chủ nghĩa
- Phủ định biện chứng là phạm trù triết học dùng để chỉ sự phủ định tự
thân vừa có kế thừa và có đổi mới, phát triển, là mắt khâu trong quá trình dẫn
tới sự ra đời của cái mới, tiến bộ hơn cái cũ.
Như vậy, phủ định biện chứng là quá trình vừa mang tính khách quan vừa
mang tính kế thừa. Tính khách quan thể hiện ở chỗ nguyên nhân của sự phủ
dịnh nằm ngay trong bản thân sự vật, do kết quả giải quyết các mâu thuẫn bên
trong sự vật quyết định. Hơn nữa, phương thức phủ định sự vật cũng không tùy
thuộc ý muốn của con người. Mỗi sự vật có phương thức phủ định riêng tùy
thuộc vào tính chất mâu thuẫn và phương thức giải quyết mâu thuẫn của bản
thân sự vật. Như vậy là phủ định biện chứng được thực hiện nhờ việc giải quyết
cá mâu thuẫn bên trong sự vật. Chính điều này mà phủ định biện chứng là một
tất yếu khách quan của sự vận động và phát triển.
- Phủ định biện chứng không phải là sự thủ tiêu, sự phá hủy hoàn toàn cái
bị phủ định. Trái lại, để dẫn tới sự ra đời của cái mới, quá trình phủ định biện


chứng bao hàm trong đó nhân tố giữ lại những nội dung tích cực của cái bị phủ
định. Phủ định biện chứng do vật là sự phủ định mang tính kế thừa.
2. Phủ định của phủ định – khuynh hướng của sự phát triển
- Phủ định của phủ định là dùng để chỉ một vòng khâu của sự phát triển,
trong đó diễn ra hai lần phủ định biện chứng, sự vật dường như quay lại cái cũ
nhưng ở trên một trình độ cao hơn.
`- Sự phủ định lần thứ nhất được thực hiện một cách căn bản sẽ làm cho
sự vật cũ chuyển thành cái đối lập của mình. Sự phủ định lần thứ hai sẽ ra đời
một sự vật mới mang nhiều đặc trưng giống như cái ban đầu, song thực chất,
không phải giống như cái cũ, mà dường như lặp lại cái cũ, nhưng trên cơ sở cao
hơn. Chỉ có thông qua phủ định của phủ định mới dẫn tới việc ra đời một sự vật
mới, trong đó có sự lặp lại một số đặc trưng cơ bản của cái xuất phát ban đầu,

nhưng trên cơ sở cao hơn.
VD: hạt lúa – cây lúa – bông lúa
- Quy luật phủ định của phủ định khái quát tính chất tiến lên của sự phát
triển. Sự phát triển đi lên đó không phải diễn ra theo đường thẳng, mà theo
đường “xoáy trôn ốc”. Nó nói lên tính kế thừa của quy luật này.
Từ sự phân tích trên, có thể phát biểu quy luật này như sau: “Mọi sự vật,
hiện tượng trong quá trình vận động và phát triển của mình đều phải trải qua
một chuỗi các phủ định biện chứng, phủ định của phủ định nói lên một chu kỳ
của sự phát triển, theo đó sự vật mới dường như quay trở lại cái cũ nhưng trên
cơ sở ca hơn về chất, sự phát triển không diễn ra theo đường thẳng mà theo
đường “xoáy ốc”
3. Ý nghĩa phương pháp luận.
-Quy luật này giúp chúng ta nhận thức đúng về xu hướng phát triển của
sự vật, hiện tượng. Sự phát triển không bao giờ diễn ra theo đường thẳng, mà
quanh co, phức tạp, phải trải qua nhiều lần phủ định. Vì vậy, tránh thái độ phiến
diện, đơn giản trong nhận thức đối tượng, đặc biệt là các hiện tượng xã hội.
Trong sự phát triển của xã hội loài người ở giai đoạn hiện nay của thời đại, chủ
nghĩa xã hội với tính cách một chế độ xã hội là cái mới. Sự khủng hoảng thoái
trào của chủ nghĩa xã hội hiện nay chỉ là một trạng thái tạm thời. Chúng ta có đủ
căn cứ để khẳng định rằng sớm hay muộn, chủ nghĩa xã hội sẽ được khôi phục,
được phát triển, và cuối cùng, sẽ thay thế hoàn toàn chủ nghĩa tư bản. Những
thành tựu đạt được trong công cuộc đổi mới ở nước ta, những vấn đề phát sinh
trong chủ nghĩa tư bản hiện đại và tính bất lực của nó trong việc giải quyết các
vấn đề đó là cơ sở cho niềm tin đó.
- Trong quá trình phát triển luôn xuất hiện cái mới thay thế cho cái cũ, cái
tiến bộ thay thế cho cái lạc hậu, vì vậy phải có thái độ ủng hộ cái mới, tạo điều
kiện cho cái mới, cái tiến bộ ra đời. Trong công tác chúng ta phải biết phát hiện
và quý trọng cái mới, phải tin tưởng vào tương lai phát triển của cái mới, mặc dù
lúc đầu nó còn yếu ớt, ít ỏi; phải ra sức bồi dưỡng, phát huy cái mới, tạo điều
kiện cho nó chiến thắng cái cũ.

- Chúng ta không được phép có thái độ phủ định sạch trơn mà phải biết
kế thừa có chọn lọc những tinh hoa của cái cũ. Bên cạnh việc chống thái độ hư


vô chủ nghĩa, phủ định sạch trơn qua khứ, chúng ta cũng phải khắc phục thái độ
bảo thủ, khư khư giữ lại cả những gì đã lỗi thời cản trở bước tiến của lịch sử.
Quan điểm biện chứng duy vật về sự phát triển đòi hỏi trong hoạt động lý luận
và thực tiễn, chúng ta phải biết kế thừa có phê phán, có chọn lọc những nhân tố
tích cực của tư tưởng trước, của giai đoạn phát triển trước, của cái bị phủ định
nói chung, sử dụng như là tiền đề cho sự ra đời của cái mới.
Câu 8. Thực tiễn và vai trò của thực tiễn đối với nhận thức.
1. Bản chất của nhận thức
C. Mác và Ăngghen đã xây dựng nên học thuyết về nhận thức dựa trên
những nguyên tắc cơ bản sau:
- Một là, thừa nhận thế giới vật chất tồn tại khách quan độc lập đối với ý
thức của con người.
- Hai là, thừa nhận khả năng nhận thức được thế giới của con người. Coi
nhận thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong bộ óc con người, là
hoạt động tìm hiểu khách thể của chủ thể. Không có cái gì là không thể nhận
thức được mà chỉ có cái con người chưa nhận thức được nhưng sẽ nhận thức
được.
- Ba là, khẳng định sự phản ánh đó là một quá trình biện chứng, tích cực,
tự giác và sáng tạo. Quá trình phản ánh ấy diễn ra theo trình tự từ chưa biết đến
biết, từ biết ít đến biết nhiều, đi từ hiện tượng đến bản chất và từ bản chất kém
sâu sắc đến bản chất sâu sắc hơn.
- Bốn là, coi thực tiễn là cơ sở chủ yếu và trực tiếp nhất của nhận thức, là
động lực, mục đích của nhận thức và là tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý.
Dựa trên 4 nguyên tắc cơ bản đó, chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng
định:
Về bản chất, nhận thức là quá trình phản ánh tích cực, tự giác và sáng tạo

thế giới khách quan vào bộ óc người trên cơ sở thực tiễn.
2. Thực tiễn và vai trò của thực tiễn đối với nhận thức
- Khái niệm:
Thực tiễn là toàn bộ những hoạt động vật chất có mục đích, mang tính
lịch sử - xã hội của con người nhằm cải biến tự nhiên và xã hội.
- Khác với hoạt động tư duy, hoạt động thực tiễn, là hoạt động mà con
người sử dụng những công cụ vật chất tác động vào những đối tượng vật chất
làm biến đổi chúng theo những mục đích của mình. Những hoạt động ấy là
những hoạt động đặc trưng và bản chất của con người. Nó được thực hiện một
cách tất yếu khách quan và không ngừng được phát triển bởi con người qua các
thời kì lịch sử. Chính vì vậy mà thực tiễn bao giờ cũng là hoạt động vật chất có
mục đích và mang tính lịch sử - xã hội.
- Thực tiễn biểu hiện rất đa dạng với nhiều hình thức ngày càng phong
phú, song có ba hình thức cơ bản là:
+ Hoạt động sản xuất vật chất: Đây là hoạt động thực tiễn nguyên thủy
nhất và cơ bản nhất vì nó quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội loài
người và quyết định các dạng khác của hoạt động thực tiễn, nó tạo thành cơ sở
của tất cả các hình thức khác của hoạt động sống của con người, giúp con người
thoát khỏi giới hạn tồn tại của động vật.


+ Ngoài ra, còn có hoạt động chính trị- xã hội nhằm biến đổi các quan hệ
xã hội, chế độ xã hội.
+ Bên cạnh đó, với sự ra đời và phát triển khoa học, cũng đã xuất hiện
thêm hoạt động thực nghiệm khoa học.
Mỗi hình thức hoạt động cơ bản của thực tiễn có một chức năng quan
trọng khác nhau, không thể thay thế được cho nhau. Song giữa chúng có mối
quan hệ chặt chẽ với nhau, tác động qua lại lẫn nhau. Trong đó, hoạt động sản
xuất vật chất là hoạt động cơ bản nhất, đóng vai trò quyết định đối với các hoạt
động khác.

- Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức
+ Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức được thể hiện trước hết ở
chỗ: thực tiễn là cơ sở của nhận thức, là động lực của nhận thức, là mục đích
của nhận thức và là tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý.
Sở dĩ như vậy bởi vì thực tiễn là điểm xuất phát trực tiếp của nhận thức.
Nó đề ra nhu cầu, nhiệm vụ, cách thức và khuynh hướng vận động và phát triển
của nhận thức. Chính con người có nhu cầu tất yếu, khách quan là giải thích và
cải tạo thế giới mà buộc con người phải tác động trực tiếp vào các sự vật, hiện
tượng bằng hoạt động thực tiễn của mình. Sự tác động đó làm cho các sự vật,
hiện tượng bộc lộ những thuộc tính, những mối liên hệ và quan hệ khác nhau
giữa chúng, đem lại những tài liệu cho nhận thức, giúp cho nhận thức nắm bắt
được bản chất, các quy luật vận động và phát triển của thế giới. Trên cơ sở đó
mà hình thành nên các lý thuyết khoa học. Có thể nói, suy cho cùng, không có
một lĩnh vực tri thức nào mà không xuất phát từ thực tiễn, không nhằm vào việc
phục vụ, hướng dẫn thực tiễn. Do đó, nếu thoát ly thực tiễn, không dựa vào thực
tiễn thì nhận thức sẽ xa rời cơ sở hiện thực nuôi dưỡng sự phát sinh, tồn tại và
phát triển của mình.
Ngoài ra, vì nhờ có hoạt động thực tiễn mà các giác quan của con người
ngày càng được hoàn thiện; năng lực tư duy logic không ngừng được củng cố và
phát triển; các phương tiện nhận thức ngày càng hiện đại, có tác dụng “nối dài”
các giác quan của con người trong việc nhận thức thế giới.
+Thực tiễn còn đóng vai trò là tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý. Có nghĩa là:
thực tiễn là thước đo giá trị của những tri thức đã đạt được trong nhận thức.
Đồng thời thực tiễn không ngừng bổ sung, điều chỉnh, sửa chữa, phát triển và
hoàn thiện nhận thức. Mác đã viết: “vấn đề tìm hiểu xem tư duy của con người
có thể đạt tới chân lý khách quan hay không, hoàn toàn không phati là vấn đề lý
luận mà là một vấn đề thực tiễn. Chính trong thực tiễn mà con người phải chứng
minh chân lý”.
=> Như vậy, thực tiễn chẳng những là điểm xuất phát của nhận thức, là
yếu tố đóng vai trò quyết định đối với sự hình thành và phát triển của nhận thức

mà còn là nơi nhận thức phải luôn luôn hướng tới để thể nghiệm tính đúng đắn
của mình. Lênin đã viết: “quan điểm về đời sống, về thực tiễn, phải là quan điểm
thứ nhất và cơ bản của lý luận về nhận thức”.
Câu 9. Biện chứng của quá trình nhận thức


- Nhận thức là quá trình diễn ra rất phức tạp, bao gồm nhiều giai đoạn,
trình độ, vòng khâu khác nhau song đây là quá trình biện chứng đi từ trực quan
sinh động đến tư duy trừu tượng và từ duy trừu tượng đến thực tiễn.
1. Trực quan sinh động
Trực quan sinh động còn được gọi là giai đoạn nhận thức cảm tính; đây là
giai đoạn con người sử dụng các giác quan để tác động trực tiếp vào các sự vật
nhằm nắm bắt các sự vật ấy. Trực quan sinh động bao gồm 3 hình thức là cảm
giác, tri giác và biểu tượng.
+ Cảm giác là sự phản ánh những thuộc tính riêng lẻ của các sự vật, hiện
tượng khi chúng đang tác động trực tiếp vào các giác quan của con người. Cảm
giác là nguồn gốc của mọi sự hiểu biết, là kết quả của sự chuyển hóa những
năng lượng kích thích từ bên ngoài thành yếu tố của ý thức. Chính vì thế mà
Lênin đã viết “cảm giác là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan”
+ Tri giác là hình ảnh tương đối toàn vẹn về sự vật khi sự vật đó đang
trực tiếp tác động vào các giác quan. Tri giác nảy sinh dựa trên cơ sở của cảm
giác, là sự tổng hợp của nhiều cảm giác. So với cảm giác thì tri giác là hình thức
nhận thức cao hơn, đầy đủ hơn, phong phú hơn về sự vật.
+ Biểu tượng là hình thức phản ánh cao nhất và phức tạp nhất của giai
đoạn trực quan sinh động. Đó là hình ảnh có tính đặc trưng và tương đối hoàn
chỉnh còn lưu lại trong bộ óc con người về sự vật khi sự vật đó không còn trực
tiếp tác động vào các giác quan. Biểu tượng được hình thành nhờ sự phối hợp,
bổ sung lẫn cho nhau của các giác quan nhưng đã có sự tham gia của các yếu tố
phân tích, tổng hợp và ít nhiều mang tính chất trừu tượng hóa.
2. Tư duy trừu tượng

Tư duy trừu tượng (nhận thức lý tính): Nhận thức lý tính là giai đoạn
phản ánh gián tiếp, trừu tượng và khái quát những thuộc tính, những đặc điểm
bản chất của đối tượng. Đây là giai đoạn nhận thức thực hiện chức năng quan
trọng nhất là tách ra và nắm lấy cái bản chất có tính quy luật của các sự vật
hiện tượng. Nhận thức lý tính được thể hiện với 3 hình thức: khái niệm, phán
đoán và suy lý.
+ Khái niệm là hình thức cơ bản của tư duy trừu tượng, phản ánh những
đặc tính bản chất của sự vật. Sự hình thành khái niệm là kết quả của sự khái
quát, tổng hợp biện chứng các đặc điểm, thuộc tính của sự vật hay một lớp sự
vật. Vì vậy, khái niệm vừa có tính khách quan vừa có tính chủ quan, vừa có mối
quan hệ tác động qua lại với nhau, vừa thường xuyên vận động và phát triển. Nó
chẳng những rất linh động, mềm dẻo, năng động mà còn là “điểm nút” của quá
trình tư duy trừu tượng, là cơ sở để hình thành phán đoán.
+ Phán đoán là hình thức của tư duy liên kết các khái niệm lại với nhau
để khẳng định hoặc phủ định một đặc điểm, một thuộc tính nào đó của đối
tượng.
+ Suy lý là hình thức của tư duy liên kết các phán đoán lại với nhau để
rút ra tri thức mới bằng phán đoán mới. Ví dụ, nếu liên kết phán đoán “kim loại
thì dẫn điện” với phán đoán “đồng là kim loại” ta rút ra được một phán đoán mới
là: “đồng dẫn điện”.


Tùy theo sự kết hợp các phán đoán theo trật tự nào (từ phán đoán đơn
nhất qua phán đoán đặc thù, rồi tới phán đoán phổ biến hoặc ngược lại) mà
người ta có được hình thức suy luận quy nạp hay diễn dịch.
3 Mối quan hệ giữa nhận thức cảm tính, nhận thức lý tính với
thực tiễn
+ Nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính là những nấc thang hợp thành
chu trình nhận thức. Trên thực tế, chúng thường diễn ra đan xen vào nhau trong
một quá trình nhận thức; song chúng có những nhiệm vụ và chức năng khác

nhau. Nếu nhận thức cảm tính gắn liền với hoạt động thực tiễn, với sự tác động
của khách thể cảm tính, là cơ sở cho nhận thức lý tính thì nhận thức lý tính, nhờ
có tính khái quát cao, lại có thể hiểu biết được bản chất, quy luật vận động và
phát triển sinh động của sự vật; giúp cho nhận thức cảm tính có định hướng
đúng và trở nên sâu sắc hơn.
+ Tuy nhiên, nếu dừng lại ở nhận thức lý tính thì con người mới chỉ có
được những tri thức đối tượng, còn bản thân những tri thức ấy có chân thực hay
không thì con người chưa biết được. Trong khi đó, nhận thức đòi hỏi phải xác
định xem những tri thức ấy có chân thực hay không. Để thực hiện điều đó, nhận
thức nhất thiết phải trở về với thực tiễn, dùng thực tiễn làm tiêu chuẩn, làm
thước đo tính chân thực của những tri thức đã đạt được trong quá trình nhận
thức.

Câu 10.Biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan
hệ sản xuất.
1. Biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
* Khái niệm:
Sản xuất vật chất được tiến hành bằng phương thức sản xuất nhất định.
- Phương thức sản xuất: là cách thức con người thực hiện quá trình sản
xuất vật chất ở những giai đoạn lịch sử nhất định của xã hội loài người. Phương
thức sản xuất chính là sự thống nhất giữa lực lượng sản xuất ở một trình độ nhất
định và quan hệ sản xuất tương ứng.
VD: phương thức sản xuất thời nguyên thủy là săn bắt, hái lượm; thời nô
lệ, phong kiến là phương thức thủ công; thời tư bản đến nay là phương thức sản
xuất bằng máy móc, công nghệ
- Lực lượng sản xuất: biểu hiện mối quan hệ giữa con người với tự nhiên
trong quá trình sản xuất. Trong quá trình sản xuất, con người kết hợp sức lao
động của mình với tư liệu sản xuất tạo thành sức mạnh khai thác giới tự nhiên,
tạo ra sản phẩm cần thiết cho đời sống. Như vậy, lực lượng sản xuất là năng lực
thực tiễn cải biến giới tự nhiên của con người nhằm đáp ứng nhu cầu đời sống

của mình.
+ Lực lượng sản xuất gồm 3 yếu tố: TLSX, người lao động và khoa học
công nghệ. Trong tư liệu sản xuất thì công cụ lao động là yếu tố quan trọng nhất,


nó biểu hiện cho trình độ chinh phục tự nhiên của con người. Trong 3 yếu tố của
lực lượng sản xuất thì người lao động giữ vai trò quan trọng nhất
Lực lượng sản xuất là sự kết hợp người lao động và tư liệu sản xuất, trong
đó “lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn thể nhân loại là công nhân, là người
lao động” – Lênin. Chính người lao động là chủ thể của quá trình lao động sản
xuất với sức mạnh và kỹ năng lao động của mình, sử dụng tư liệu lao động, trước
hết là công cụ lao động, tác động vào đối tượng lao động để sản xuất ra của cải
vật chất.
Cùng với người lao động, công cụ lao động cũng là một yếu tố cơ bản của
lực lượng sản xuất, đóng vai trò quyết định trong tư liệu sản xuất. Công cụ lao
động là yếu tố động nhất của lực lượng sản xuất, được con người cải tiến và
hoàn thiện không ngừng. Chính điều đó đã làm biến đổi toàn bộ tư liệu sản xuất
mà xét đến cùng nó là nguyên nhân sâu xa của mọi biến đổi xã hội. Trình độ
phát triển của công cụ lao động là thước đo trình độ chinh phục tự nhiên của con
người, là tiêu chuẩn phân biệt các thời đại kinh tế trong lịch sử.
Ngày nay, khoa học đóng vai trò ngày càng to lớn trong sự phát triển của
LLSX, nó gắn liền và là động lực mạnh mẽ thúc đẩy sản xuất phát triển. Có thể
nói, khoa học và công nghệ hiện đại là đặc trưng cho LLSX hiện đại.
+ Quan hệ sản xuất: là quan hệ giữa người với người trong quá trình sản
xuất (sản xuất và tái sản xuất xã hội). Quan hệ sản xuất bao gồm 3 mặt: quan
hệ về sở hữu đối với tư liệu sản xuất, quan hệ trong tổ chức và quản lý sản xuất,
quan hệ trong phân phối sản phẩm sản xuất ra.
Quan hệ sản xuất là hình thức xã hội của sản xuất; giữa 3 mặt của quan
hệ sản xuất thống nhất với nhau, tạo thành một hệ thống mang tính ổn định
tương đối so với sự vận động, phát triển không ngừng của lực lượng sản xuất.

Trong 3 mặt này, quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất là quan hệ xuất phát,
quan hệ cơ bản, đặc trưng cho QHSX trong từng xã hội. Quan hệ sở hữu về tư
liệu sản xuất là sự phân chia tư liệu sản xuất như thế nào. Nó quyết định quan
hệ về tổ chức quản lý sản xuất, quan hệ phân phối sản phẩm cũng như các quan
hệ xã hội khác. Trong lịch sử có 2 loại hình sở hữu cơ bản về tư liệu sản xuất là:
sở hữu công cộng và sở hữu tư nhân. Sở hữu công cộng là loại hình sở hữu mà
trong đó tư liệu sản xuất thuộc về mọi thành viên của mỗi cộng đồng (thời
nguyên thủy). Sở hữu tư nhân là loại hình sở hữu mà trong đó tư liệu sản xuất
tập trung vào trong tay một số ít người, còn đại đa số không có hoặc có rất ít tư
liệu sản xuất (từ thời nô lệ đến nay). Tính chất của tư liệu sản xuất sẽ quyết định
tính chất của quan hệ xã hội.
+ Quan hệ tổ chức và quản lý sản xuất trực tiếp tác động đến quá trình
sản xuất, đến việc tổ chức, điều khiển quá trình sản xuất. Nó có thể thúc đẩy
hoặc kìm hãm quá trình sản xuất.
+ Quan hệ về phân phối sản phẩm sản xuất ra mặc dù do quan hệ sở hữu
về tư liệu sản xuất và quan hệ tổ chức quản lý sản xuất chi phối, song nó kích
thích trực tiếp đến lợi ích của con người, nên nó tác động đến thái độ của con
người trong lao động sản xuất, do đó có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sản xuất
phát triển.


Ba mặt trên có quan hệ hữu cơ với nhau, trong đó, quan hệ sở hữu về tư
liệu sản xuất giữ vai trò quyết đinh. Bản chất của bất cứ kiểu quan hệ sản xuất
nào trước hết do quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất quyết định
* Quan hệ biện chứng: Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản
xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
LLSX và quan hệ sx là hai mặt của phương thức sx, chúng tồn tại không
tách rời nhau, tác động qua lại lẫn nhau một cách biện chứng, tạo thành quy
luật về sự phù hợp của QHSX với trình độ phát triển của LLSX- quy luật cơ bản
nhất của sự vận động phát triển xã hội.

- Sự vận động, phát triển của LLSX quyết định và làm thay đổi QHSX cho
phù hợp với nó:
+ Sự vận động, phát triển của lực lượng sản xuất quyết định và làm thay
đổi quan hệ sản xuất cho phù hợp với nó. Khi một phương thức sản xuất mới ra
đời, khi đó quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất. Sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất là một trạng thái mà trong đó quan hệ sản xuất là "hình thức phát triển"
của lực lượng sản xuất. Trong trạng thái đó, tất cả các mặt của quan hệ sản xuất
đều "tạo địa bàn đầy đủ" cho lực lượng sản xuất phát triển. Điều đó có nghĩa là,
nó tạo điều kiện sử dụng và kết hợp một cách tối ưu giữa người lao động với tư
liệu sản xuất và do đó lực lượng sản xuất có cơ sở để phát triển hết khả năng
của nó.
- QHSX cũng có tính độc lập tương đối và tác động trở lại sự phát triển
của LLSX.
Vì QHSX quy định mục đích của sản xuất, tác động đến thái độ của con
người trong lao động sản xuất, đến tổ chức phân công lao động xã hội, đến phát
triển và ứng dụng khoa học công nghệ,… do đó tác động đến sự phát triển của
LLSX.
+ Do đó QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX là động lực thúc
đẩyLLSX phát triển.
+ Ngược lại, QHSX lỗi thời, hoặc tiên tiến hơn một cách giả tạo so với trình
độ phát triển của LLSX sẽ kìm hãm sự phát triển của LLSX. Tuy nhiên việc giải
quyết mâu thuẫn này ko phải đơn giản. Nó phải thông qua nhận thức và hoạt
động cải tạo xã hội của con người, trong xã hội có giai cấp thì phải thông qua
đấu tranh giai cấp, thông qua cách mạng xã hội.
2. Vận dụng vào điều kiện ở nước ta hiện nay:
– Sau thời kỳ đổi mới, trên cơ sở xác định rõ trình độ của LLSX ở nước ta,
Đảng ta đã chủ trương thiết lập một QHSX phù hợp với LLSX, đó là:
+ Về quan hệ sở hữu: phát triển nền kinh tế nhiều hình thức sở hữu, nhiều
thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo.

+ Về tổ chức, quản lý sản xuất: thực hiện việc quản lý, điều tiết nền kinh
tế theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN.
Đây là QHSX phù hợp với lực lượng sản xuất ở nước ta hiện nay vốn còn
nhiều yếu kém có sự phát triển không đồng đều, đan xen nhiều trình độ (thủ


công, cơ khí, hiện đại), do vậy nó có tác dụng giải phóng, thúc đẩy mạnh mẽ sự
phát triển của lực lượng sản xuất.
- Hiện nay, hai nhiệm vụ quan trọng nhất có tính quyết định đối với sự
phát triển của xã hội ta:
+ Thứ nhất, đẩy mạnh thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Một trong
những mục tiêu cơ bản của quá trình đó là xây dựng lực lượng sản xuất hiện đại
(đặc biệt là tư liệu sản xuất và con người).
+ Thứ hai, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trong đó cần đổi mới về quan hệ sản xuất, tạo sự phù hợp của nó với lực lượng
sản xuất nhằm khai thác mọi nguồn lực, mọi tiềm năng của đất nước tham gia
vào phát triển lực lượng sản xuất.
3. Ý nghĩa phương pháp luận:
- Phải thấy được tầm quan trọng của quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản
xuất trong quan hệ sản xuất, nhưng không được tuyệt đối hóa nó. Một khi quan
hệ sản xuất được thiết lập thì cần phải quan tâm thực sự đến việc củng cố, hoàn
thiện quan hệ tổ chức, quản lý sản xuất, phải tìm ra những hình thức quản lý đa
dạng để có thể sử dụng có hiệu quả sức lao động, tư liệu sản xuất, nguồn vốn
đất đai, tài nguyên.
- Khi tiến hành hoạt động sản xuất, cùng với việc coi trọng quan hệ sở hữu
và quan hệ tổ chức, quản lý sản xuất, không thể không tính đến quan hệ phân
phối sản phẩm, tức là phải quan tâm thỏa đáng đến những nhu cầu, lợi ích đa
dạng và cụ thể của người lao động. Phải thực hiện quan hệ phân phối công
bằng, đủ sức kích thích, tạo động lực cho người lao động tích cực sản xuất, kinh
doanh.

- Trong giai đoạn cuối mỗi phương thức sản xuất, khi lực lượng sản xuất đã
thay đổi về chất, mâu thuẫn gay gắt với quan hệ sản xuất, thì cần phải tiến
hành cách mạng xã hội để thiết lập một quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất.
- Trong quá trình xây dựng xã hội mới, vì lực lượng sản xuất quyết định
quan hệ sản xuất; do vậy, muốn phát triển kinh tế - xã hội thì trước hết phải
phát triển lực lượng sản xuất. Tuy nhiên, quan hệ sản xuất có tính độc lập tương
đối, tác động mạnh mẽ trở lại lực lượng sản xuất, nên cần thiết phải kịp thời
phát hiện và điều chỉnh những yếu tố không phù hợp trong quan hệ sản xuất
theo nguyên tắc: quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất.

Câu 11. Biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến
trúc thượng tầng
1. Khái niệm cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng
Trên cơ sở quan hệ sản xuất hình thành nên các quan hệ về kinh tế và
chính trị của xã hội. Hai mặt đó của đời sống xã hội được khái quát thành cơ sở
hạ tầng và kiến trúc thượng tầng của xã hội.


×