Tải bản đầy đủ (.pdf) (79 trang)

Công tác quản trị rủi ro tại các doanh nghiệp đầu tư và kinh doanh bất động sản và một số đề xuất liên quan an ninh kinh tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.03 MB, 79 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA QUẢN TRỊ VÀ KINH DOANH
*** *** ***

TRẦN HẢI ĐĂNG

CÔNG TÁC QUẢN TRỊ RỦI RO TẠI CÁC DOANH NGHIỆP ĐẦU TƢ
VÀ KINH DOANH BẤT ĐỘNG SẢN VÀ MỘT SỐ ĐỀ XUẤT
LIÊN QUAN AN NINH KINH TẾ

LUẬN VĂN THẠC SĨ
QUẢN TRỊ AN NINH PHI TRUYỀN THỐNG (MNS)

Hà Nội - 2018


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA QUẢN TRỊ VÀ KINH DOANH
*** *** ***

TRẦN HẢI ĐĂNG

CÔNG TÁC QUẢN TRỊ RỦI RO TẠI CÁC DOANH NGHIỆP ĐẦU TƢ
VÀ KINH DOANH BẤT ĐỘNG SẢN VÀ MỘT SỐ ĐỀ XUẤT
LIÊN QUAN AN NINH KINH TẾ
Chuyên ngành: Quản trị An ninh phi truyền thống
Mã số: Chƣơng trình thí điểm

LUẬN VĂN THẠC SĨ
QUẢN TRỊ AN NINH PHI TRUYỀN THỐNG (MNS)


NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. HOÀNG ĐÌNH PHI

Hà Nội - 2018


CAM KẾT

Tác giả cam kết rằng kết quả nghiên cứu trong luận văn là kết quả lao
động của chính tác giả thu được chủ yếu trong thời gian học và nghiên cứu và
chưa được công bố trong bất cứ một chương trình nghiên cứu nào của người
khác.
Những kết quản nghiên cứu và tài liệu của người khác (trích dẫn, bảng,
biểu, công thức, đồ thị cùng những tài liệu khác) được sử dụng trong luận văn
này đã được các tác giả đồng ý và trích dẫn cụ thể.
Tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm trước Hội đồng bảo vệ luận văn, Khoa
Quản trị và Kinh doanh và pháp luật về những cam kết nói trên.

Hà Nội, ngày

tháng …. năm 2017


LỜI CẢM ƠN

Em xin được gửi lời cảm ơn chân thành và sự tri ân sâu sắc đối với các
thầy cô của Khoa Quản trị và Kinh doanh (HSB) - ĐHQGHN, đặc biệt là thầy
giáo, thượng tướng, TS. Nguyễn Văn Hưởng và TS. Hoàng Đình Phi, đã cho
em những kiến thức nền tảng và khoa học về quản trị an ninh phi truyền
thống. Em cũng chân thành cảm ơn các thầy các cô trong khoa đã nhiệt tình
giúp đỡ hướng dẫn em hoàn thành tốt luận văn này.


Đây là chương trình đào tạo liên ngành mới ở nước ta đòi hỏi học viên
phải cập nhật những kiến thức rất mới và tổng hợp vì vậy em đã gặp không ít
khó khăn trong quá trình làm luận văn.
Do hạn chế về thời gian và kinh nghiệm nghiên cứu cho nên luận văn
không thể tránh khỏi những thiếu sót, em rất mong nhận được những ý kiến
đóng góp của các nhà khoa học để tiếp tục hoàn thiện kỹ năng nghiên cứu của
mình.
Em xin chân thành cảm ơn!


MỤC LỤC
Trang
LỜI CẢM ƠN
PHẦN MỞ ĐÀU

1

Chƣơng 1: LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ QUẢN TRỊ RỦI RO TẠI CÁC
DOANH NGHIỆP ĐẦU TƢ VÀ KINH DOANH BẤT ĐỘNG SẢN TẠI

5

VIỆT NAM
1.1. Khái niệm về rủi ro, quản trị rủi ro và quản trị an ninh phi truyền thống

5

1.1.1. Rủi ro


5

1.1.2. Quản trị rủi ro

7

1.1.3. Quản trị rủi ro và quản trị an ninh phi truyền thống

8

1.2. Doanh nghiệp đầu tư và kinh doanh bất động sản

14

1.2.1. Doanh nghiệp đầu tư và kinh doanh bất động sản tại Việt Nam

14

1.2.3. Nhận thức về rủi ro của doanh nghiệp đầu tư và kinh doanh dự án bất
động sản tại Việt Nam
1.2.4. Những yếu tố gây rủi ro cho các doanh nghiệp đầu tư, kinh doanh bất
động sản
1.2.4.1. Các yếu tố bên ngoài gây rủi ro cho các doanh nghiệp đầu tư và

kinh doanh BĐS
1.2.4.2. Các yếu tố từ môi trường bên trong của DN đầu tư và kinh doanh BĐS
1.3. Một số tiêu chí cơ bản đánh giá công tác quản trị rủi ro tại các doanh
nghiệp đầu tư và kinh doanh dự án bất động sản tại Việt Nam
1.3.1. Đạo đức và năng lực của lãnh đạo chủ chốt của doanh nghiệp
1.3.2. Mức độ hoàn thiện của các chính sách và quy trình quản trị rủi ro mà

doanh nghiệp đã ban hành
1.3.3. Số lượng và chất lượng đội ngũ nhân lực trực tiếp thực hiện công tác
quản trị rủi ro
1.3.4. Số lượng các lỗi vi phạm trong quá trình quản trị rủi ro doanh nghiệp

19
22

22
28
33
33
33
34
35

Chƣơng 2: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN TRỊ RỦI RO TẠI MỘT
SỐ DOANH NGHIỆP ĐẦU TƢ VÀ KINH DOANH BẤT ĐỘNG SẢN
TẠI VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN 2010-2015

36


2.1. Thông tin chung về thị trường bất động sản và các DN đầu tư và kinh
doanh BĐS tại Việt Nam giai đoạn 2010-2015

2.1.1. Thị trường BĐS Việt Nam giai đoạn 2010 - 2015
2.1.2. Tình hình một số doanh nghiệp đầu tư và kinh doanh BĐS giai
đoạn 2010 - 2015
2.2. Thực trạng công tác quản trị rủi ro tại một số DN đầu tư và kinh doanh


37
37
38
44

BĐS tại Việt Nam trong giai đoạn 2010-2015

2.2.1. Công tác quản trị rủi ro trong giai đoạn chuẩn bị đầu tư dự án

45

2.2.2. Công tác quản trị rủi ro trong quá trình thực hiện dự án

48

2.2.3. Quản trị rủi ro trong kinh doanh bán sản phẩm BĐS

50

Chƣơng 3: DỰ BÁO VÀ ĐỀ XUẤT MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHO LỰC

51

LƢỢNG AN NINH KINH TẾ NHẰM TĂNG CƢỜNG GIÁM SÁT ĐỂ
TĂNG CƢỜNG QUẢN TRỊ RỦI RO ĐỐI VỚI CÁC DOANH NGHIỆP
ĐẦU TƢ VÀ KINH DOANH BẤT ĐỘNG SẢN TẠI VIỆT NAM TRONG
GIAI ĐOẠN 2018-2013

3.1. Dự báo về tình hình lĩnh vực BĐS trong thời gian tới


52

3.1.1. Lĩnh vực đầu tư, kinh doanh BĐS trong thời gian tới sẽ phục hồi

52

chậm, chịu sự tác động mạnh mẽ của sự phục hồi nền kinh tế
3.1.2. Tình hình an ninh trật tự trong lĩnh vực đầu tư kinh doanh

54

BĐS sẽ tiếp tục có những diễn biến phức tạp

3.1.3. Thuận lợi, khó khăn trong công tác an ninh phi truyền thống trên

59

lĩnh vực đầu tư kinh doanh BĐS
3.2. Một số giải pháp cho lực lượng ANKT nhằm giám sát để tăng cường

quản trị rủi ro đối với các doanh nghiệp đầu tư và kinh doanh BĐS tại
Việt Nam trong giai đoạn 2018 - 2023

60


3.2.1. Hoàn thiện hệ thống văn bản hướng dẫn về công tác quản trị rủi ro

61


hoạt động đầu tư, kinh doanh BĐS
3.2.2. Nâng cao nhận thức cho lực lượng ANKT về ý nghĩa, tầm
quan trọng của công tác quản trị rủi ro doanh nghiệp đầu tư, kinh doanh
BĐS phục vụ bảo vệ ANKT

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHIẾU ĐIỀU TRA KHẢO SÁT TÌNH HÌNH BẤT ĐỘNG SẢN TẠI VIỆT
NAM

63


DANH SÁCH CÁC TỪ VIẾT TẮT

TT

TÊN VIẾT TẮT

TÊN

1.

ANQG

An ninh Quốc gia

2.

ANTT


An ninh trật tự

3.

DN

Doanh nghiệp

4.

BĐS

Bất động sản

5.

SX-KD

Sản xuất kinh doanh

6.

7.

MNS

HSB

Chương trình đào tạo thạc sĩ

quản trị an ninh phi truyền thống
Khoa Quản trị và Kinh doanh
thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài luận văn
Trong những năm trở lại đây, để đáp ứng áp lực về nhu cầu nhà ở do sự
gia tăng dân số và sự phát triển của nền kinh tế, Nhà nước ta đã có nhiều chính
sách khuyến khích thúc đẩy các dự án đầu tư kinh doanh BĐS trên địa bàn cả
nước, trong đó trọng tâm là tại các tỉnh, thành phố lớn (Hà Nội và thành phố Hồ
Chí Minh), do đó, các doanh nghiệp đầu tư và kinh doanh BĐS đã không ngừng
tiến hành các hoạt động đầu tư xây dựng những dự án BĐS lớn, góp phần thay
đổi bộ mặt đô thị, nâng cao điều kiện sống của nhân dân, góp phần chuyển dịch
cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, đem lại
nguồn thu không nhỏ cho các nhà đầu tư và ngân sách nhà nước.
Các doanh nghiệp đầu tư và kinh doanh BĐS ngày càng tăng về số lượng
doanh nghiệp và quy mô các doanh nghiệp, hình thành những doanh nghiệp đầu
tư, kinh doanh BĐS lớn, có thương hiệu trên thị trường BĐS. Tuy nhiên, trong
thời gian vừa qua cũng không ít doanh nghiệp đầu tư và kinh doanh BĐS tại
Việt Nam làm ăn thua lỗ, nguy cơ dẫn đến phá sản, gây ảnh hưởng lớn tới nhiều
nhà đầu tư, người dân mua nhà tại các dự án, cũng như ảnh hưởng tới hệ thống
tín dụng BĐS, cũng như ảnh hưởng tới sự phát triển kinh tế đất nước nói chung.
Một trong những nguyên nhân dẫn đến việc doanh nghiệp đầu tư và kinh doanh
BĐS tại Việt Nam là do công tác quản trị rủi ro của doanh nghiệp chưa được
thực hiện, các doanh nghiệp còn đầu tư theo cảm tính, theo sức nóng của thị
trường, chưa lường trước được những nguy cơ tiềm ẩn các rủi ro cho doanh
nghiệp. Các rủi ro của doanh nghiệp đầu tư và kinh doanh BĐS có ảnh hưởng
lớn tới hệ thống tín dụng BĐS, người mua nhà, các nhà cung ứng nguyên vật
liệu, dịch vụ cho dự án BĐS.... nguy cơ gây ảnh hưởng tới an sinh xã hội,

ANKT. Nhận thấy những yêu cầu bức thiết cả về thực tiễn và lý luận đối với
1


vấn đề này, tác giả đã mạnh dạn lựa chọn đề tài: "Công tác quản trị rủi ro tại
các doanh nghiệp đầu tư và kinh doanh BĐS tại Việt Nam và một số đề xuất
liên quan ANKT " làm đề tài luận văn thạc sĩ.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài luận văn
Đề tài được thực hiện với mục đích đề xuất một số giải pháp nâng cao
hiệu quả công tác quản trị rủi ro doanh nghiệp đầu tư và kinh doanh BĐS tại
Việt Nam và đề xuất một số công tác liên quan ANKT. Để đạt được mục đích
đó, đề tài có các nhiệm vụ sau:
+ Làm rõ cơ sở lý luận về công tác quản trị rủi ro tại các doanh nghiệp
hoạt động đầu tư và kinh doanh BĐS.
+ Đánh giá chung về thực trạng công tác quản trị rủi ro tại một số doanh
nghiệp đầu tư và kinh doanh BĐS trong giai đoạn 2010 - 2015.
+ Đưa ra dự báo về các rủi ro đối với các doanh nghiệp đầu tư và kinh
doanh BĐS thời gian tới
+ Đề xuất một số giải pháp cho lực lượng ANKT nhằm tăng cường
giám sát để tăng cường quản trị rủi ro đối với các doanh nghiệp đầu tư và kinh
doanh BĐS tại Việt Nam trong giai đoạn 2018-2023.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài luận văn
Về đối tượng nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu về công tác quản
trị rủi ro của các doanh nghiệp đầu tư và kinh doanh BĐS tại Việt Nam.
Về thời gian: Thời gian từ năm 2010 đến hết năm 2015.
Về chủ thể: Các doanh nghiệp đầu tư và kinh doanh BĐS tại Việt Nam.
4. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu đề tài
Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện
2



chứng của chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc, các quan điểm, tư tưởng của Đảng và chính sách, pháp luật của
Nhà nước về bảo vệ ANQG trong tình hình mới.
Đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học cụ thể là:
Phương pháp tổng kết kinh nghiệm: Tiến hành phương pháp này tác giả
đã tổng kết những bài học kinh nghiệm được rút ra qua một số báo cáo đánh
giá tình hình thị trường BĐS trong thời gian từ năm 2010 đến nay.
Phương pháp phân tích, tổng hợp: Tác giả dựa trên các số liệu về tình
hình thực tiễn được trình bày trong các báo cáo về lĩnh vực BĐS tại Việt Nam;
tổng hợp đối chiếu với tình hình thực tiễn, các quy định pháp luật có liên
quan.
Phương pháp chuyên gia: Tác giả tiến hành tham khảo ý kiến từ 15
chuyên gia trong lĩnh vực BĐS. Trong đó có 05 chuyên gia về lý luận; 10 lãnh
đạo trong lĩnh vực quản lý thị trường, đầu tư, kinh doanh BĐS.
5. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài
Thực hiện đề tài luận văn sẽ góp phần đánh giá thực trạng công tác
quản trị rủi ro đối với DN đầu tư và kinh doanh BĐS, đưa ra giải pháp nâng
cao hiệu quả công tác quản trị rủi ro đối với các doanh nghiệp đầu tư và kinh
doanh BĐS, từ đó đề xuất một số giải pháp cho lực lượng ANKT trong việc
đảm bảo ANKT đối với lĩnh vực đầu tư và kinh doanh BĐS góp phần đảm bảo
ANQG.
6. Cấu trúc nội dung đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo đề tài gồm
3 chương:
Chương 1: Lý luận cơ bản về quản trị rủi ro tại các doanh nghiệp đầu
3


tư và kinh doanh BĐS tại Việt Nam

Chương 2: Thực trạng công tác quản trị rủi ro tại một số doanh nghiệp
đầu tư và kinh doanh BĐS tại Việt Nam trong giai đoạn 2010 - 2015
Chương 3: Dự báo và đề xuất một số giải pháp cho lực lượng ANKT
nhằm tăng cường giám sát để tăng cường quản trị rủi ro đối với các doanh
nghiệp đầu tư và kinh doanh BĐS tại Việt Nam trong giai đoạn 2018-2023

4


Chƣơng I
LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ QUẢN TRỊ RỦI RO TẠI CÁC DOANH
NGHIỆP ĐẦU TƢ VÀ KINH DOANH BẤT ĐỘNG SẢN TẠI VIỆT
NAM
1.1. Khái niệm về rủi ro, quản trị rủi ro tại các doanh nghiệp đầu tƣ
và kinh doanh BĐS tại Việt Nam
1.1.1. Rủi ro
Rủi ro là khả năng xảy ra sự khác biệt giữa kết quả thực tế và kỳ vọng
theo kế hoạch. Rủi ro là tác động của những biến cố xảy ra trong tương lai lên
giá trị ròng của một chủ thể kinh tế hoặc một danh mục tài sản mà khả năng
xảy ra biến cố đó có thể dự đoán trước nhưng không thể dự đoán chính xác
biến cố đó sẽ xảy ra như thế nào.
Đối với một cá nhân thì rủi ro được hiểu là bất kỳ một sự kiện, hành
động, hay tác động nào có thể ảnh hưởng hay ngăn cản cá nhân đạt được các
mong muốn hợp lệ.
Đối với một tổ chức hay doanh nghiệp thì rủi ro được hiểu là bất kỳ sự
kiện hay hành động nào có thể tác động hoặc ngăn cản doanh nghiệp trong
việc đạt được các mục tiêu đã đề ra.
Rủi ro doanh nghiệp là nguy cơ xảy ra những sự kiện ngoài mong
muốn, gây ra những tác động bất lợi cho doanh nghiệp, các tác động này có
thể dẫn đến sự giảm sút trong doanh thu hoặc đặt doanh nghiệp vào tình trạng

khó khăn về tài chính. Ngoài ra, cá tác động này có thể biểu hiện dưới dạng
phi tài chính gây hậu quả tiêu cực đến uy tín, khả năng sinh lời trong tương lai
của ngân hàng. Rủi ro trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp còn được
hiểu là khả năng sinh lời trong tương lai của doanh nghiệp. Rủi ro trong hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp còn được hiểu là khả năng phá sinh những
5


sự kiện gây tác động tiêu cực đến mục tiêu chiến lược và hoạt động của doanh
nghiệp, mang đến tổn thất của doanh nghiệp.
Rủi ro thường đi đôi với lợi ích, rủi ro càng cao thì lợi nhuận kỳ vọng
cho doanh nghiệp càng lớn. Các doanh nghiệp luôn phải đánh giá các cơ hội
kinh doanh dựa trên mối quan hệ rủi ro – lợi ích nhằm tìm ra những cơ hội đạt
được lợi ích xứng đáng với những rủi ro phải chấp nhận. Do đó, việc chấp
nhận rủi ro là yếu tố tất yếu đối với doanh nghiệp, tuy nhiên, rủi ro cần được
chấp nhận ở mức hợp lý, có thể kiểm soát được để đạt mức lợi nhuận mong
muốn.
Rủi ro doanh nghiệp bao gồm các loại rủi ro sau: Rủi ro thị trường, rủi
ro hoạt động. Rủi ro thị trường của các doanh nghiệp là khả năng xảy ra tổn
thất về thu nhập hoặc vốn của doanh nghiệp do những biến động bất lợi của
các yếu tố trên thị trường. Rủi ro hoạt động của doanh nghiệp là khả năng xảy
ra tổn thất do các quy trình nội bộ không đầy đủ hoặc bị lỗi, do con người, do
các hệ thống hoặc do sự kiện bên ngoài. Trong hoạt động của các doanh
nghiệp, cán bộ, nhân viên có thể có tình gian lận hoặc cố tình mắc lỗi hoặc do
doanh nghiệp thiếu mất những vị trí chủ chốt. Rủi ro hoạt động doanh nghiệp
có thể bị gây ra bởi công nghệ thông tin nếu chất lượng các phần mềm yếu
kém, dữ liệu thông tin không đầy đủ hoặc hệ thống bảo mật thông tin không an
toàn, sẽ dễ gây ra những sai sót hoặc lỗ hổng an ninh. Một nguyên nhân khác
là từ quy trình, hệ thống không đầy đủ, thiếu hướng dẫn cụ thể gây khó khăn
cho nhân viên hoặc có nhiều điểm bất cập, chưa hoàn chỉnh, tạo kẽ hở cho kẻ

xấu lợi dụng gây thiệt hại cho doanh nghiệp. Rủi ro này có thể xảy ra do các
yếu tố bên ngoài như pháp luật, thiên tai, tội phạm… Trên thực tế, rủi ro hoạt
động luôn hiện hữu trong tất các hoạt động của doanh nghiệp. Có thể xem xét
mức độ xảy ra và mức độ thiệt hại của rủi ro hoạt động theo hai khía cạnh:
những hoạt động có tần suất lớn nhưng mức độ thiệt hại nhỏ: như các nhầm
6


lẫn, sai sót của nhân viên… và những hoạt động có tần suất nhỏ nhưng mức độ
thiệt hại lớn.
1.1.2. Quản trị rủi ro
1.1.2.1.Khái niệm
Quản trị rủi ro chính là quá trình nhận diện, đo lường, kiểm soát và xử
lý rủi ro nhằm hạn chế tổn thất về thu nhập hoặc vốn của doanh nghiệp khi rủi
ro xảy ra. Hoạt động quản trị rủi ro dựa trên quan điểm hiện đại chính là quá
trình tiếp cận rủi ro một cách khoa học, toàn diện và có hệ thống nhằm nhận
dạng, kiểm soát, phòng ngừa và giảm thiểu những tổn thất, những ảnh hưởng
bất lợi của rủi ro.
Quản trị rủi ro của tổ chức và doanh nghiệp là các quy trình mà ở đó
những người có trách nhiệm tiến hành mọi hoạt động và sử dụng mọi công cụ
có thể để nghiên cứu, dự báo, hoạch định và thực thi các chiến lược và kế
hoạch để phòng ngừa các rủi ro và ứng phó với các khủng hoảng để đảm bảo
duy trì được khả năng cạnh tranh bền vững hay sự phát triển bền vững của tổ
chức hay doanh nghiệp.
1.1.2.2. Quy trình quản trị rủi ro doanh nghiệp
Để quản trị rủi ro doanh nghiệp cần tuân thủ quy trình bao gồm 4 bước
sau: Nhận diện rủi ro, đo lường rủi ro, kiểm soát rủi ro và xử lý rủi ro.
Nhận diện rủi ro là quá trình xác định liên tục và có hệ thống các rủi ro
của doanh nghiệp. Các hoạt động nhận dạng rủi ro nhằm phát triển thông tin
về nguồn rủi ro, các yếu tố mạo hiểm, hiểm họa và nguy cơ rủi ro. Các phương

pháp nhận diện rủi ro bao gồm: Phương pháp dựa vào mục tiêu; Phương pháp
đưa ra tình huống; phương pháp dựa vào kinh nghiệm, tiền lệ; phương pháp
hỗn hợp.
Đo lường rủi ro là quá trình lượng hóa những tổn thất do các rủi ro do
các biến cố đã được nhận diện từ bước 1 gây ra đối với định chế tài chính. Các
7


phương pháp đo lường rủi ro bao gồm: Phân tích định tính (lịch sử, sở hữu,
mô hình tổ chức, đội ngũ Quản trị - Điều hành, đánh giá tín nhiệm bên ngoài),
đánh giá tín nhiệm nội bộ, chế độ kế toán – kiểm toán…; phân tích định lượng
(xây dựng các mô hình đo lường và dự báo rủi ro); phân tích ngành, đối thủ
cạnh tranh (thị phần, so với đối thủ cạnh tranh); phân tích xu hướng; phương
pháp khác (đo mức độ tập trung, tính đa dạng…).
Kiểm soát rủi ro: Tuân thủ nguyên tắc quản lý rủi ro cẩn trọng; đánh giá
rủi ro và xác lập hạn mức; xác lập trạng thái giao dịch; xác lập sản phẩm, dịch
vụ không được cung ứng; xác lập lượng vốn tương ứng mức rủi ro; xây dựng
văn hóa rủi ro trong doanh nghiệp; thiết lập chiến lược, chính sách và nguồn
lực (con người, công nghệ, quy trình quản lý rủi ro).
1.1.3. Quản trị rủi ro và quản trị an ninh phi truyền thống
1.1.3.1. An ninh phi truyền thống
Trong tiếng Anh, “An ninh phi truyền thống” là Nontraditional
Security. Đây là cụm từ mới xuất hiện trong những thập kỷ gần đây, nhưng đã
nhanh chóng trở thành mối quan tâm của các nhà học giả và chính phủ các
nước bởi tác động và ảnh hưởng của nó.
Cụm từ an ninh phi truyền thống bắt đầu xuất hiện và được bàn luận sôi
nổi trong các cuộc hội thảo ở quy mô quốc gia và quốc tế sau sự kiện 11.9.
Năm 2002, vấn đề ANPTT xuất hiện chính thức trong “Tuyên bố chung
ASEAN – Trung Quốc về hợp tác trên lĩnh vực an ninh phi truyền thống”
được thông qua tại Hội nghị thượng đỉnh lần thứ 6 giữa các nước thuộc Hiệp

hội các quốc gia Đông Nam á (ASEAN) và Trung Quốc tại Phnôm Pênh
(Cămpuchia) ngày 01-11-2002. Kể từ đó, ANPTT trở thành một nội dung
quan trọng trong chương trình nghị sự của nhiều diễn đàn quốc tế, đồng thời là
hướng ưu tiên trong chương trình hợp tác giữa các nước, các tổ chức quốc tế
như: ASEAN, Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Mỹ, EU. Một số nước cũng
8


đã tổ chức nghiên cứu và đưa vấn đề ANPTT vào chương trình, chính sách an
ninh quốc phòng (Pháp, Canada, Mỹ,…).
Tuy nhiên cho đến nay, việc nhận thức và xác định những vấn đề
ANPTT vẫn chưa có sự thống nhất. Trong Báo cáo hàng năm về sự phát triển
của con người được Chương trình phát triển của Liên hợp quốc (UNDP) đưa
ra năm 1994 đã chỉ ra 7 phương diện liên quan đến con người, đó là: ANKT,
an ninh lương thực, an ninh sức khoẻ, an ninh môi trường, an ninh cá nhân, an
ninh cộng đồng và an ninh chính trị. Kể từ đó, nhiều nghiên cứu đã viện dẫn
quan điểm này và cho đó là các vấn đề của ANPTT. Có nghiên cứu quy vấn
đề an ninh phi truyền thống vào 5 lĩnh vực cơ bản: kinh tế, môi trường, xã hội,
chính trị và văn hoá. Một quan điểm khác phân chia các vấn đề an ninh phi
truyền thống thành 6 nhóm chính: ô nhiễm môi trường, tình trạng thiếu hụt tài
nguyên, tội phạm xuyên quốc gia, nạn khủng bố, dịch bệnh truyền nhiễm và
thảm hoạ địa chất.
Trong tuyên bố chung ASEAN – Trung Quốc về hợp tác trên lĩnh vực
ANPTT xác định ANPTT là những vấn đề: tội phạm xuyên quốc gia, khủng
bố, ma tuý, buôn bán phụ nữ và trẻ em, buôn lậu vũ khí, rửa tiền, tội phạm
kinh tế quốc tế, tội phạm công nghệ cao.
Theo Giáo sư Tsuneo Akaha, giáo sư nghiên cứu chính sách quốc tế và
giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Đông Á, Viện Nghiên cứu quốc tế và tiền tệ,
khái niệm ANPTT được xây dựng trên cơ sở sự khác biệt với khái niệm an
ninh và ANQG. Ông đã nghiên cứu và chỉ ra 7 nhân tố ANPTT ở Đông Bắc Á,

đó là: các vấn đề về môi trường; thiếu hoặc sụt giảm nguồn lực và nguồn
nước; nhập cư quốc tế; phân biệt chủng tộc, việc làm bất hợp pháp và mại
dâm; ma tuý và buôn lậu vũ khí; HIV/ADIS và SARS; chủ nghĩa khủng bố.

9


Qua nhiều nghiên cứu về ANPTT có thể thấy ANPTT những đặc điểm
chung sau:
- ANPTT là quan niệm an ninh sau chiến tranh lạnh, dùng để phân biệt
với an ninh truyền thống.
- ANPTT nhắc đến những nhân tố mới xuất hiện, hoặc mới trở thành xu
hướng phổ biến trong những thập kỷ gần đây có khả năng đe doạ đến sự sinh
tồn và phát triển của nhiều chủ thể không chỉ là quốc gia, đó là: con người,
cộng đồng, khu vực và quốc tế.
- Nguồn gốc của những vấn đề ANPTT không bắt nguồn từ quân sự,
hay sự đối đầu giữa các thể chế chính trị.
- Những vấn đề ANPTT đều có tính chất khu vực hoặc quốc tế, không
phải là vấn đề riêng của bất cứ một quốc gia nào.
- Đối tượng bảo vệ của an ninh phi truyền thống không chỉ là quốc gia,
mà còn là các chủ thể khác: con người, cộng đồng, khu vực và toàn cầu.
Từ đó có thể nhận thức rằng: ANPTT là khái niệm tổng quát dùng để
chỉ quan niệm về an ninh sau chiến tranh lạnh, bao gồm việc xác định và giải
quyết những mối đe doạ có tính chất xuyên quốc gia do những nhân tố phi
chính trị, phi quân sự gây ra, trực tiếp ảnh hưởng đến sự phát triển của quốc
gia, khu vực hoặc toàn cầu.
Như vậy, có thể thấy ANPTT không phải là vấn đề hoàn toàn mới, mà
là sự mở rộng nội hàm khái niệm ANTT trong bối cảnh, điều kiện mới nhằm
giúp các quốc gia trên thế giới nhận thức cho đúng bản chất vấn đề an ninh
trong điều kiện toàn cầu hoá hiện nay. Khái niệm nêu trên về ANPTT cũng chỉ

là tương đối, bởi việc xác định nội hàm của nó phụ thuộc vào quan điểm chính
trị và ưu tiên chiến lược của mỗi quốc gia. Trong bối cảnh vấn đề ANPTT
đang trở thành mối quan tâm của chung của tất cả các quốc gia, dân tộc hiện
10


nay, đối với nước ta, việc nhận thức và chỉ rõ mối đe doạ ANPTT có vai trò
quan trọng trong xây dựng phương án, giải pháp, chiến lược bảo vệ ANQG.
Trên cơ sở những vấn đề đã làm rõ về ANPTT nêu trên và quan điểm
của Đảng, Nhà nước ta về ANQG, để xác định mối đe doạ ANPTT cần dựa
trên các tiêu chí sau đây:
- Thứ nhất, cần dựa trên quan điểm của Đảng, Nhà nước về bảo vệ
ANQG: Tại nước ta hiện nay, quan điểm về ANQG cũng được hiểu là an ninh
toàn diện, trong đó mục tiêu của ANQG là đảm bảo sự ổn định và phát triển
của nhà nước, xã hội, cá nhân; đảm bảo ANQG trên mọi lĩnh vực, từ chính trị,
đến kinh tế, văn hoá tư tưởng, quốc phòng an ninh, đối ngoại, biên giới lãnh
thổ,… Tuy nhiên, trong điều kiện đang chuyển đổi của nước ta hiện nay, cần
đặt trọng tâm công tác an ninh vào hai vấn đề: bảo vệ vững chắc chế độ chính
trị và Nhà nước XHCN (an ninh chính trị) và bảo vệ độc lập, thống nhất, chủ
quyền, toàn vẹn lãnh thổ (an ninh lãnh thổ). “…mục tiêu, nhiệm vụ quốc
phòng, an ninh là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn
lãnh thổ; giữ vững chủ quyền biển đảo, biên giới, vùng trời; bảo vệ Đảng,
Nhà nước, nhân dân và chế độ XHCN, giữ vững ổn định chính trị, trật tự an
toàn xã hội; chủ động ngăn chặn, làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống
phá của các thế lực thù địch…". Đây cũng chính là định hướng để xác định
các mối đe doạ đối với ANQG, trong đó có mối đe doạ ANPTT.
- Thứ hai, cần dựa trên quan điểm và cách tiếp cận quốc tế về vấn đề
ANPTT và mối đe doạ ANPTT, trong đó đặc biệt quan tâm đến quan điểm của
những nước có liên quan trực tiếp đến nước ta trên lĩnh vực an ninh, như: Mỹ,
Trung Quốc, ASEAN,… Điều đó giúp cho việc xác định mối đe doạ ANPTT

ở nước ta không đi ngược với nhận thức của quốc tế, nhất là các nước liên
quan trong hợp tác an ninh. Từ đó giúp chúng ta tìm được tiếng nói chung, đặt
lợi ích quốc gia của chúng ta tồn tại hài hoà trong lợi ích chung của quốc tế,
11


tạo ra sự bảo vệ đối với lợi ích của chúng ta từ cộng đồng quốc tế thông qua
thúc đẩy hợp tác.
- Thứ ba, cần căn cứ vào khả năng, tiềm lực ANQG của chúng ta hiện
nay. Việc nhận diện mối đe doạ ANQG nói chung, ANPTT nói riêng mục đích
cuối cùng là để giải quyết nó. Do đó, phải có tính thực tế trong việc xác định
mối đe doạ. Cần căn cứ vào thực trạng lực lượng, tổ chức bộ máy, trang thiết
bị vũ khí, công cụ phương tiện, cơ sở vật chất, vị thế, tầm ảnh hưởng,… hiện
nay của đất nước xác định số lượng và trọng tâm của các mối đe doạ ANPTT.
Tránh tình trạng xác định quá nhiều mối đe doạ, kể cả những mối đe doạ gián
tiếp mà ta chưa có khả năng giải quyết, dẫn đến phi thực tế trong xây dựng
chiến lược bảo vệ ANQG.
Trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế, ANKT có vai trò đặc
biệt quan trọng đối với ANQG, là một trong những mối đe dọa đối với
ANPTT của nước ta hiện nay. Thực tế khủng hoảng đã chứng minh một cách
sâu sắc hơn vai trò trung tâm của ANKT trong ANQG và vai trò hạt nhân của
an ninh tài chính – tiền tệ trong bối cảnh toàn cầu hoá. Sẽ không có ANQG
thật sự nếu không đảm bảo được ANKT, và sẽ không có ANKT thật sự nếu
không khống chế được cơ chế vận hành của hệ thống tài chính – tiền tệ.
Những năm qua, mặc dù được đánh giá là điểm sáng trong tăng trưởng
kinh tế ở khu vực, nhưng nền kinh tế nước ta mới chỉ vừa vượt qua ngưỡng
kém phát triển để trở thành nước đang phát triển. Quy mô nền kinh tế còn nhỏ
bé, khả năng tự chủ kém, nội lực chưa cao, còn phụ thuộc vào nguồn vốn và
làm ăn với nước ngoài (nợ nước ngoài lớn (nợ công khoảng 57%), 50% GDP
hàng năm còn phụ thuộc vào xuất khẩu), vẫn có khoảng cách lớn so với kinh

tế thế giới và khu vực. Bên cạnh đó, năng lực điều hành, quản lý vĩ mô của ta
đối với nền kinh tế còn yếu kém, đã tạo ra nhiều sơ hở, thiếu sót, gây thất
thoát, lãng phí tài sản nhà nước. Thị trường tài chính, tiền tệ, chứng khoán
12


hoạt động chưa lành mạnh, tiềm ẩn nguy cơ đổ vỡ,… Tình trạng tham nhũng,
buôn lậu diễn biến phức tạp đe doạ nhiều ngành sản xuất kinh doanh nội địa,
gây thất thu ngân sách, ảnh hưởng xấu đến bình ổn vật giá, đời sống nhân dân
và tác động nhiều mặt đến nội bộ ta, gây mất lòng tin trong nhân dân. Bên
cạnh nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế, điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế,
thực thi các cam kết của WTO cũng làm gia tăng nguy chệch hướng và tái
khủng hoảng kinh tế. Những điểm yếu của nền kinh tế đất nước và các nguy
cơ ngày càng bộc lộ sâu sắc trong bối cảnh suy giảm kinh tế toàn cầu, tồn tại
nhiều vấn đề kinh tế bức xúc, nguy cơ trở thành vấn đề gây bất ổn chính trị
với những biểu hiện rủi ro (lạm phát, nhập siêu tăng cao, hoạt động của hệ
thống ngân hàng, thị trường chứng khoán kém hiệu quả, làm đình đốn sản xuất
trong nước, sự thua lỗ, làm ăn thiếu hiệu quả của các Tập đoàn kinh tế nhà
nước). Tất cả những vấn đề đó đã trở thành mối đe doạ đối với ANQG xuất
phát từ kinh tế. Nếu chúng ta không giữ vững được định hướng vĩ mô, nâng
cao được năng lực tự chủ, cạnh tranh của nền kinh tế; không ứng phó hiệu quả
với các thách thức của suy giảm kinh tế toàn cầu, không cải thiện được môi
trường đầu tư,... nền kinh tế nước ta chắc chắn sẽ không thoát khỏi các nguy
cơ tụt hậu, khủng hoảng, chệch hướng. Từ đó sẽ đẩy đất nước vào khủng
hoảng chính trị, các thế lực thù địch sẽ lợi dụng can thiệp, đe doạ đến sự tồn
vong của chế độ.
Do vậy, có thể thấy rằng công tác bảo vệ ANKT là một trong những
nhiệm vụ, công tác trọng tâm của ANPTT.
1.1.3.2. Quản trị rủi ro và an ninh phi truyền thống
Công tác quản trị rủi ro với mục đích nhằm hạn chế tổn thất cho doanh

nghiệp, tức là đảm bảo về an toàn đối với hoạt động đầu tư và kinh doanh của
doanh nghiệp, đảm bảo sự phát triển bền vững của nền kinh tế, góp phần đảm
bảo ANKT. Công tác bảo vệ ANKT là một phần của công tác an ninh phi
13


truyền thống, góp phần đảm bảo an toàn cho nền kinh tế phát triển bền vững.
Như vậy, công tác quản trị rủi ro có mối quan hệ mật thiết đối với an ninh phi
truyền thống, góp phần đảm bảo an ninh phi truyền thống. Làm tốt công tác
quản trị rủi ro tại các doanh nghiệp đầu tư và kinh doanh nói chung, công tác
quản trị rủi ro các doanh nghiệp đầu tư và kinh doanh BĐS nói riêng góp phần
giúp các doanh nghiệp phát triển bền vững, an toàn, phục vụ cho sự phát triển
kinh tế của đất nước, đảm bảo ANKT, ANQG.
Để công tác quản trị an ninh phi truyền thống được thuận lợi, hiệu quả,
trước hết chúng ta cần tiến hành công tác quản trị rủi ro các doanh nghiệp có
hoạt động đầu tư, kinh doanh, sự phát triển ổn định bền vững của các doanh
nghiệp đầu tư và kinh doanh chính là góp phần sự phát triển bền vững nền
kinh tế, đảm bảo an ninh.
Công tác quản trị rủi ro và kiểm soát chi phí quản trị rủi ro hàng năm
(C1) của mỗi doanh nghiệp có vai trò hết sức quan trọng trong việc đảm bảo
an toàn cho doanh nghiệp (S1) và ổn định (S2) xét theo phương trình cơ bản
quản trị an ninh phi truyền thống của một chủ thể (theo phương trình S = 3S 3C của Thượng tướng TS Nguyễn Văng Hưởng và PGS.TS. Hoàng Đình Phi,
MNS,HSB).
1.2. Doanh nghiệp đầu tƣ và kinh doanh BĐS
1.2.1. Doanh nghiệp đầu tư và kinh doanh BĐS tại Việt Nam
Theo Điều 174 của Bộ Luật Dân sự năm 2005:
BĐS là những tài sản không di dời được, bao gồm: Đất đai; nhà ở,
công trình xây dựng gắn liền với đất đai, kể cả các tài sản gắn liền với nhà ở,
công trình xây dựng đó; các tài sản khác gắn liền với đất; các tài sản khác do
pháp luật quy định.

Như vậy, BĐS trước hết là tài sản nhưng không phải tài sản nào cũng là
14


BĐS, chỉ những tài sản nào không di dời được mới là BĐS. Vì vậy, đặc điểm
riêng của BĐS là không di dời được. Theo đó, BĐS trước hết là đất đai và các
công trình, kiến trúc gắn liền với đất đai. Đất đai là yếu tố ban đầu, yếu tố
không thể thiếu của BĐS.
Theo quy định tại Luật doanh nghiệp năm 2014:
Doanh nghiệp là tổ chức có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch,
được đăng ký thành lập theo quy định của pháp luật nhằm mục đích kinh
doanh.
Doanh nghiệp Việt Nam là doanh nghiệp được thành lập hoặc đăng ký
thành lập theo pháp luật Việt Nam và có trụ sở chính tại Việt Nam.
Theo Khoản 5 Điều 3 Luật đầu tư năm 2014:
"Đầu tư kinh doanh là việc nhà đầu tư bỏ vốn đầu tư để thực hiện hoạt
động kinh doanh thông qua việc thành lập tổ chức kinh tế; đầu tư góp vốn,
mua cổ phần, phần vốn góp của tổ chức kinh tế; đầu tư theo hình thức hợp
đồng hoặc thực hiện dự án đầu tư."
Theo Khoản 1 Điều 3 Luật kinh doanh BĐS năm 2014:
Kinh doanh BĐS là việc đầu tư vốn để thực hiện hoạt động xây dựng,
mua, nhận chuyển nhượng để bán, chuyển nhượng; cho thuê, cho thuê lại, cho
thuê mua BĐS; thực hiện dịch vụ môi giới BĐS; dịch vụ sàn giao dịch BĐS;
dịch vụ tư vấn BĐS hoặc quản lý BĐS nhằm mục đích sinh lợi.
Như vậy, doanh nghiệp đầu tư và kinh doanh BĐS là việc tổ chức có
tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch, được đăng ký thành lập theo quy định
pháp luật bỏ vốn để thực hiện hoạt động xây dựng dự án BĐS, mua, nhận
chuyển nhượng để bán, chuyển nhượng dự án BĐS; cho thuê, cho thuê lại, cho
thuê mua dự án BĐS; thực hiện dịch vụ môi giới BĐS; dịch vụ sàn giao dịch
15



BĐS; dịch vụ tư vấn BĐS hoặc quản lý BĐS nhằm mục đích sinh lợi. Thực tế
cho thấy, có các loại doanh nghiệp đầu tư và kinh doanh BĐS:
- Doanh nghiệp đầu tư xây dựng dự án BĐS: Đây là những doanh
nghiệp bỏ vốn để thực hiện hoạt động đầu tư xây dựng dự án BĐS, các doanh
nghiệp này sẽ thực hiện hoạt động đầu tư dự án ngay từ giai đoạn đầu như quy
hoạch xây dựng dự án, xin chủ trương đầu tư, xin giấy phép quy hoạch, giấy
phép xây dựng, lựa chọn nhà thầu xây dựng dự án cho đến khi hoàn thành dự
án. Các doanh nghiệp này có thể thành lập sàn giao dịch BĐS để bán các sản
phẩm BĐS do doanh nghiệp đầu tư và có thể chuyển nhượng, bán dự án BĐS
cho các nhà đầu tư thứ cấp là các sàn giao dịch BĐS.
- Doanh nghiệp thực hiện dịch vụ môi giới BĐS: đây là các doanh nghiệp
làm nhiệm vụ trung gian cho các bên trong mua bán, chuyển nhượng, cho
thuê, cho thuê lại, cho thuê mua dự ná BĐS. Hiện nay, ở nước ta, các doanh
nghiệp thực hiện dịch vụ môi giới BĐS còn ít, chủ yếu thông qua các sàn giao
dịch BĐS để thực hiện dịch vụ môi giới BĐS hoặc hoạt động môi giới BĐS
còn hình thành một cách tự phát, manh mún, do các cá nhân tự thực hiện.
- Doanh nghiệp thực hiện dịch vụ sàn giao dịch BĐS: đây là các doanh
nghiệp chỉ thực hiện nhiệm vụ mua bán, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê
lại, cho thuê mua các dự án BĐS.
- Doanh nghiệp thực hiện dịch vụ tư vấn BĐS và quản lý BĐS: đây là
những doanh nghiệp thực hiện việc tư vấn mua bán BĐS, quản lý và vận hành
các dự án BĐS.
Trên thực tế ở Việt Nam hiện nay có hai loại doanh nghiệp đầu tư và
kinh doanh BĐS đó là doanh nghiệp đầu tư xây dựng dự án BĐS và doanh
nghiệp thực hiện chức năng môi giới, tư vấn và là sàn giao dịch BĐS.
Để tiến hành đầu tư, kinh doanh BĐS thông qua các dự án đầu tư BĐS
16



các nhà đầu tư phải tiến hành các bước:
+ Chuẩn bị đầu tư, bao gồm các công việc như: Tìm kiếm đất để tiến
hành đầu tư, xây dựng dự án, lên ý tưởng kinh doanh, nghiên cứu thị trường
BĐS, phân tích tài chính và tìm kiếm nguồn tài chính để đầu tư dự án và cuối
cùng là lập dự án đầu tư. Quá trình lập dự án đầu tư phải đảm bảo các yêu cầu:
phù hợp với quy hoạch xây dựng và kế hoạch phát triển đô thị, đồng bộ hệ
thống công trình hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội trong khu đô thị, đạt tiêu
chuẩn vệ sinh môi trường về cấp, thoát nước và vệ sinh đô thị, tuân thủ quy
chuẩn xây dựng, tiêu chuẩn xây dựng đô thị, có khả năng đáp ứng đầy đủ các
dịch vụ công cộng đô thị. Sau khi lập dự án, các chủ đầu tư phải làm thủ tục
xin cấp phép đầu tư dự án, đối với các dự án phát triển nhà ở trên phạm vi địa
bàn tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thì thẩm quyền phê duyệt dự án là
Chủ tịch UBND cấp tỉnh, đối với dự án phát triển nhà ở thương mại có mức
vốn đầu tư dưới 30 tỷ đồng thì thẩm quyền phê duyệt dự án là Chủ tịch UBND
cấp huyện.
+ Tiến hành đầu tư bao gồm các công việc cụ thể như: giải phóng mặt
bằng, thiết kế; đấu thầu, chọn thầu; vay vốn, giải ngân; giám sát, quản lý dự án
đầu tư xây dựng.
+ Kinh doanh dự án BĐS: tiếp thị, bán, quản lý tài sản. (xem phụ lục
1.1,1.2,1.3). Các doanh nghiệp này có thể bán tự bán sản phẩm BĐS đầu tư
thông qua sàn giao dịch của mình nhưng cũng có thể bán sản phẩm BĐS đầu
tư thông qua một hoặc nhiều doanh nghiệp có chức năng sàn giao dịch BĐS
khác.
Như vậy, để thực hiện một dự án đầu tư kinh doanh BĐS, chủ đầu tư
phải trải qua rất nhiều công đoạn, được sự phê duyệt cho phép của rất nhiều cơ
quan, ban, ngành những thủ tục này được quy định và điều chỉnh bởi rất nhiều
17



×