Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Quản trị công ty luật theo pháp luật việt nam tt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (726.98 KB, 27 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN VĂN BỐN

QUẢN TRỊ CÔNG TY LUẬT
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM

Ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 9.38.01.07

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2019


Công trình đã được hoàn thành tại:
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

Người hướng dẫn khoa học: GS.TS Lê Hồng Hạnh

Phản biện 1: GS.TS. Hoàng Thế Liên
Phản biện 2: GS.TS. Nguyễn Thị Mơ

Phản biện 3: PGS.TS. Nguyễn Thị Quế Anh

Luận án được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án tiến sĩ,
tổ chức tại Học viện Khoa học xã hội
Vào lúc phút, Ngày Tháng Năm 201


Có thể tìm hiểu luận án tại:
Thư viện Quốc gia
Thư viện Học viện Khoa học xã hội.


DANH MỤC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ
1. Nguyễn Văn Bốn (2017), Hình thức tổ chức hành nghề luật sư ở
Việt Nam - Thực trạng và một số kiến nghị, Tạp chí Nghề luật số 01 năm
2017 của Học viện Tư pháp, tr.29 - 33.
2. Nguyễn Văn Bốn (2016), Ba năm thi hành Luật sửa đổi, bổ sung
Luật Luật sư - kết quả, hạn chế và kiến nghị, Tạp chí Dân chủ & Pháp luật số
tháng 10 (295) năm 2016 của Bộ Tư pháp, tr.16 -21 và 24.
3. Nguyễn Văn Bốn (2013), Quản lý luật sư và hành nghề luật sư ở
Việt Nam - thực trạng và định hướng trong thời gian tới, Tạp chí Quản lý
nhà nước số 204 (1/2013) của Học viện Hành chính, tr.40 - 44.
4. Nguyễn Văn Bốn, Nguyễn Thị An Na (2012), Kinh nghiệm đào
tạo luật sư một số nước trên thế giới, Tạp chí nghề luật số 1/2012 của Học
viện Tư pháp, Bộ Tư pháp, tr.67 - 69.
5. Nguyễn Văn Bốn (2008), Đạo đức và quy tắc ứng xử của luật sư Một số vấn đề cần được quan tâm trong hành nghề của luật sư, Tạp chí Dân
chủ & Pháp luật số tháng 6 (195) năm 2008 của Bộ Tư pháp, tr.43 - 47.
6. Nguyễn Văn Bốn (2007), Một số vấn đề về xây dựng, ban hành
Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư ở Việt Nam, Tạp chí Dân chủ
& Pháp luật số tháng 6 (183) năm 2007 của Bộ Tư pháp, tr.43 - 45.
7. Nguyễn Văn Bốn (2006), Một số vấn đề về quản lý luật sư theo
Luật Luật sư, Tạp chí Dân chủ & Pháp luật, số tháng 10 (175) năm 2006 của
Bộ Tư pháp, tr.44 - 46.
8. Nguyễn Văn Bốn (2006), Một số vấn đề về tiêu chuẩn, điều kiện
hành nghề và quyền, nghĩa vụ của luật sư, Tạp chí Dân chủ & Pháp luật, số
chuyên đề về luật sư - Hà Nội - 2006 của Bộ Tư pháp, tr.28 - 36.
9. Nguyễn Văn Tư (Nguyễn Văn Bốn) (2006), Hình thức tổ chức

hành nghề luật sư theo Luật luật sư, Tạp chí Dân chủ & Pháp luật, số chuyên
đề về luật sư - Hà Nội - 2006 của Bộ Tư pháp, tr.51 - 54.
10. Nguyễn Văn Bốn (2001), Hình thức tổ chức hành nghề luật sư
theo Pháp lệnh luật sư năm 2001, Tạp chí Dân chủ & Pháp luật số tháng 12
năm 2001 của Bộ Tư pháp, số chuyên đề về Pháp lệnh luật sư năm 2001,
tr.60 - 66.
11. Nguyễn Văn Bốn (1995), Suy nghĩ về đào tạo, bồi dưỡng luật sư,
Tạp chí Luật học số 2/1995 của trường Đại học Luật Hà Nội, tr.32,33 và 43.


MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
Quá trình đổi mới toàn diện đất nước đòi hỏi bộ máy nhà nước, trong đó có
các cơ quan tư pháp phải hoàn thiện để đáp ứng yêu cầu của quá trình đổi mới
đó. Chính vì vậy, cải cách tư pháp cùng với cải cách hành chính được coi là
những nền tảng quan trọng của việc xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Một trong những nhiệm vụ quan trọng nhằm
hoàn thiện tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp là đổi mới tổ chức và
hoạt động của các cơ quan, tổ chức bổ trợ tư pháp, trong đó đổi mới tổ chức,
hoạt động luật sư và các tổ chức hành nghề luật sư là một trong những vấn đề
trung tâm, có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
Tổ chức, hoạt động luật sư và các tổ chức hành nghề luật sư trong thời gian
qua đã đáp ứng kịp thời một phần nhu cầu giúp đỡ pháp lý ngày càng cao của
cá nhân, tổ chức, góp phần quan trọng trong việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của bị can, bị cáo và các đương sự khác, phục vụ tích cực cho công cuộc
cải cách tư pháp, từng bước tạo lập môi trường pháp lý thuận lợi và tin cậy cho
các hoạt động đầu tư, kinh doanh, thương mại.
Hoạt động luật sư được kỳ vọng rất nhiều trong giai đoạn phát triển hiện
nay. Tuy nhiên, kỳ vọng này có được hiện thực hóa hay không phụ thuộc rất
nhiều vào hoạt động của các tổ chức hành nghề luật sư, nhất là công ty luật và

việc quản trị các tổ chức này. Mặt khác, những nền tảng lý luận về quản trị
doanh nghiệp còn rất thiếu đặt trọng bối cảnh đặc thù của Việt Nam là xây dựng
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong bối cảnh đó, pháp luật về
quản trị công ty luật cũng khó được coi là đầy đủ và hoàn chỉnh. Chính vì thế,
câu hỏi quản trị công ty luật như thế nào cho phù hợp bản chất của công ty luật
trong bối cảnh phát triển của đất nước vẫn chưa có câu trả lời thỏa đáng. Quản
trị công ty luật có những nguyên tắc và những yêu cầu đặc thù. Công ty luật
không phải là một thực thể thương mại thuần túy. Tổ chức công việc, quan hệ
giữa luật sư trong công ty luật khác nhiều với quan hệ giữa người quản lý, nhân
viên và người lao động trong các doanh nghiệp thương mại thuần túy. Đặc biệt,
việc phân chia lợi ích có được từ hoạt động của công ty luật cũng khác. Hoạt
động của luật sư liên quan tới một giá trị xã hội vô cùng quan trọng nhưng
không thể thương mại hóa - đó là công lý.
Xuất phát từ những phân tích trên, việc nghiên cứu vấn đề "Quản trị công
ty luật theo pháp luật Việt Nam" là cần thiết, có ý nghĩa cả về mặt lý luận và
thực tiễn.
2. Mục đích và đối tượng nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu là tạo ra một công trình nghiên cứu tương đối hoàn
chỉnh, đáp ứng các đòi hỏi của Luận án tiến sỹ luật học trên cơ sở phân tích
toàn diện những vấn đề lý luận về quản trị công ty, quản trị công ty luật, pháp
1


luật về quản trị công ty luật; thực trạng pháp luật về quản trị công ty luật và từ
đó đề xuất những định hướng hoàn thiện thể chế về quản trị công ty luật.
- Luận án có đối tượng nghiên cứu bao gồm: (i) Các quan điểm, học thuyết
pháp lý, học thuyết kinh tế về quản trị công ty và việc áp dụng các quan điểm
đó với quản trị công ty luật; vai trò của quản trị công ty luật đối với việc thúc
đẩy phát triển dịch vụ pháp lý; bản chất, nội dung, các nguyên tắc quản trị công
ty luật nhìn từ nhiều phương diện, đặc biệt là phương diện pháp lý, sự tương

đồng và khác biệt giữa quản trị công ty luật và quản trị công ty cổ phần, công ty
trách nhiệm hữu hạn hoạt động trong các lĩnh vực khác; (ii) Các yếu tố ảnh
hưởng đến quản trị công ty luật trong bối cảnh ở Việt Nam trong đó có xu
hướng phát triển và kinh nghiệm của một số quốc gia trong việc xây dựng nền
tảng pháp lý cho quản trị công ty luật; (iii) Thực trạng pháp luật Việt Nam
quy định các nền tảng cơ bản của quản trị công ty luật và thực tiễn thi hành
các quy định này trong cơ cấu tổ chức, hoạt động của các công ty luật; thực
trạng các thiết chế phi chính thức gồm Điều lệ, quy chế của các công ty luật
và Hiệp hội luật sư là Liên đoàn luật sư Việt Nam, các Đoàn luật sư ở mỗi
địa phương; (iv) Những giải pháp hoàn thiện thể chế quản trị công ty luật
trong bối cảnh của Việt Nam, đặc biệt là yêu cầu bảo vệ quyền con người,
yêu cầu cải cách tư pháp.
3. Phạm vi nghiên cứu
Trong giới hạn về dung lượng, Luận án chỉ tập trung nghiên cứu:
- Về lý luận, Luận án nghiên cứu các quan điểm về quản trị công ty, quản
trị công ty luật, mô hình quản trị công ty hiện có trên thế giới, tập trung vào
những quốc gia mà lý luận, pháp luật về quản trị công ty, quản trị công ty luật
phát triển.
- Về thực tiễn, Luận án tập trung nghiên cứu thực trạng quản trị công ty
luật ở Việt Nam để tìm hiểu những hạn chế và bất cập so với hệ thống pháp luật
Việt Nam hiện hành. Pháp luật hiện hành của Việt Nam về doanh nghiệp, về
hành nghề luật sư là nội dung chính của nghiên cứu thực trạng pháp luật. Bên
cạnh đó, luận án nghiên cứu pháp luật của Pháp, Anh, Hoa Kỳ và Trung Quốc
với mục đích so sánh.
- Về phạm vi thời gian, Luận án chủ yếu tập trung nghiên cứu về quản trị
công ty luật và pháp luật về quản trị công ty luật kể từ thời điểm 2005, khi Việt
Nam ban hành Luật Doanh nghiệp năm 2005 và sau đó là Luật Luật sư năm
2006 cùng với nhiều bổ sung, thay đổi theo thời gian.
4. Nhiệm vụ của Luận án
Luận án thực hiện các nhiệm vụ chủ yếu sau:

- Nghiên cứu các vấn đề lý luận về quản trị công ty luật
- Nghiên cứu lý luận pháp luật về quản trị công ty luật;
- Nghiên cứu nguồn “luật” nội bộ của quản trị công ty.
2


- Luận án nhận diện và phân tích những hạn chế, bất cập trong các nguồn
luật điều chỉnh hoạt động quản trị công ty luật cũng như những nguyên nhân
của chúng.
- Luận án đề xuất một số quan điểm, phương hướng và các giải pháp đổi
mới và hoàn thiện thể chế quản trị công ty luật.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của Luận án
- Luận án sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch
sử. Luận án sử dụng các quan điểm, tư tưởng của Hồ Chí Minh, của Đảng Cộng
sản Việt Nam.
- Luận án sử dụng các cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu cụ thể
khác nhau. Luận án sử dụng cách tiếp cận hệ thống, tiếp cận liên ngành (kinh
tế, chính trị, lịch sử, luật học). Luận án sử dụng phương pháp phân tích, tổng
hợp, thống kê,phân tích, đánh giá; phương pháp lịch sử; phương pháp luật học
so sánh; phương pháp xã hội học pháp luật, phương pháp tiên liệu, dự báo để
xử lý độc lập hoặc phối hợp các vấn đề nghiên cứu được đặt ra từ đề tài Luận
án trong suốt quá trình nghiên cứu của toàn bộ nội dung Luận án.
6. Những đóng góp mới về khoa học của Luận án
Kết quả nghiên cứu của Luận án có những đóng góp chủ yếu sau đây:
Một là, đã bổ sung cho khoa học pháp lý những phân tích, đánh giá về các
công trình khoa học trong nước và ngoài nước liên quan đến quản trị công ty
nói chung và công ty luật nói riêng. Những phân tích và đánh giá này không chỉ
giúp tác giả Luận án xác định được các vấn đề cần nghiên cứu mà còn giúp cho
những nghiên cứu sau này có được bức tranh đầy đủ hơn về quản trị công ty
luật theo pháp luật, một cách nhìn thực chất hơn về quản trị công ty đặt trong

bối cảnh nguyên tắc quản trị tốt (good Governance).
Hai là, những vấn đề lý luận về quản trị, quản trị công ty, nguyên tắc quản
trị công ty, hình thức, vai trò và nội hàm của quản trị công ty luật tạo ra những
giá trị gia tăng mới.
Ba là, Luận án đã tạo ra được những so sánh về quản trị công ty luật với
các công ty khác trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Những điểm tương đồng
và tính đặc thù trong quản trị công ty luật và quản trị công ty trong một số lĩnh
vực là những giá trị khoa học mới, góp phần hoàn thiện lý thuyết về quản trị
công ty ở Việt Nam.
Bốn là, Luận án đã có những đánh giá tương đối đầy đủ, hệ thống về thực
trạng pháp luật Việt Nam về quản trị công ty luật; thực tiễn thi hành, những kết
quả đạt được, những hạn chế, bất cập của việc quản trị công ty luật; nguyên
nhân của những hạn chế, bất cập này. Những kết quả này có giá trị tham khảo
đối với các cơ quan xây dựng pháp luật khi hoàn thiện các quy định pháp luật
hướng tới quản trị tốt trong các doanh nghiệp nói chung và trong các công ty
luật nói riêng.
3


Năm là, Luận án đề xuất một số quan điểm và giải pháp cụ thể cho việc
đổi mới, hoàn thiện thể chế về quản trị công ty luật ở nước ta hướng.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của Luận án
Luận án đã làm phong phú thêm số lượng các công trình nghiên cứu lý
luận và thực tiễn quản trị công ty ở Việt Nam, đóng góp những quan điểm lý
luận riêng về quản trị công ty, quản trị công ty luật, cung cấp những quan điểm,
học thuyết quốc tế, nước ngoài về quản trị công ty, quản trị công ty luật. Đặc
biệt, Luận án đã có những đề xuất về cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc hoàn
thiện pháp luật hiện hành nhằm thúc đẩy quản trị công ty luật theo hướng dân
chủ, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển dịch vụ luật sư.
Là công trình nghiên cứu tương đối toàn diện về quản trị công ty luật,

Luận án có giá trị tham khảo đối với các công ty luật, các doanh nghiệp
trong quá trình hoàn thiện cơ cấu tổ chức, hiện đại hóa nền quản trị vi mô
của doanh nghiệp mình. Luận án còn là tài liệu chuyên khảo hữu ích cho
công tác nghiên cứu, giảng dạy luật, quản trị vi mô trong các Trung tâm đào
tạo luật học ở Việt Nam.
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. Tình hình nghiên cứu về quản trị công ty
* Quản trị công ty trong các công trình nghiên cứu ở nước ngoài
- QTCT được đề cập trong nhiều công trình nghiên cứu, trong đó có thể kể
đến cuốn sách “Nguyên tắc QTCT” (OECD Principle of Corporate
Governance) xuất bản năm 2004, Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế
(OECD) phát hành; cuốn “Managing the Modern Law Firm: New Challenges,
New Perspectives”[QTCT luật hiện đại: Những thách thức mới và viễn cảnh
mới] của Laura Empson (2007), Oxford University Press. Trong công trình
nghiên cứu các lý thuyết về quản trị doanh nghiệp có tác giả Emelia Klepczarek
chia sẻ quan điểm của Blair khi định nghĩa về QTCT. Những quan điểm lý luận
về QTCT cũng được Abid, G. Khan, B. Rafiq, Z. and Ahmad, A. phân tích
trong bài viết „Theoretical Perspectives of Corporate Governance”.
* Quản trị công ty trong các công trình nghiên cứu trong nước
- Ở Việt Nam, các nghiên cứu về QTCT được thể hiện trên một số công
trình nghiên cứu, sách và các bài báo, cụ thể: Giáo trình quản trị học của
Trường Đại học Nông Lâm Thành phố Hồ Chí Minh, Giáo trình quản trị học
đại cương của Trường Đại học Kinh tế quốc dân, Giáo trình quản trị doanh
nghiệp, Nxb Đại học Kinh tế quốc dân, 2016, Hà Nội; Giáo trình Luật Thương
mại - Phần chung và thương nhân, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội (2013) của
tác giả Ngô Huy Cương; Giáo trình Luật Kinh tế Việt Nam của Khoa Luật - Đại
học Quốc gia Hà Nội, Nxb Đại học Quốc gia của tác giả Nguyễn Như Phát,
Phạm Duy Nghĩa (2001). Ngoài ra, còn có các bài viết về QTCT như: Bài viết
4



trên Tạp chí Pháp luật và Phát triển “Công ty Luật hợp danh trách nhiệm hữu
hạn - Một mô hình tổ chức kinh doanh mới của luật sư” của tác giả Đồng Thái
Quang; bài viết của TS. Nguyễn Quý Trọng “Thách thức trong QTCT CP ở
Việt Nam - từ lý thuyết đến thực tiễn áp dụng”, tạp chí Luật học, số 2/2014.
Nghiên cứu của tác giả Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Đình Cung (2009), Công
ty: vốn, quản lý và tranh chấp theo Luật Doanh nghiệp năm 2005, Nxb Tri thức,
Hà Nội và Báo cáo đánh giá của Ngân hàng Thế giới đối với việc thực hiện
nguyên tắc QTCT Việt Nam.
1.2. Tình hình nghiên cứu về quản trị công ty luật
* Các nghiên cứu ở nước ngoài về quản trị công ty luật
- Về nền tảng của QTCT luật, có những công trình tiêu biểu như:
“Fundamentals of Law Office Management: Systems, Procedures and Ethics”
(Nền tảng của QTCT luật: cơ chế, thủ tục và đạo đức) của Everett-Nollkamper,
Pamela” (2008), West Legal Studies Series (4th ed.); “Legal Ethics: A
Comparative Study” (Đạo đức pháp lý: Cách nhìn theo học thuyết so sánh) của
Geoffrey C. Hazard, Jr. và Angelo Doldi (2004), Stanford University Press.
Bên cạnh đó, cũng có những công trình đề cập tới nền tảng của QTCT từ góc
độ lịch sử hình thành và sự thăng trầm của nghề luật từ đế chế La Mã thế kỷ thứ
VI và sự trở lại của nó ở Tây Âu bảy trăm năm sau. Nội dung này được trình
bày trong cuốn “The Medieval of the Legal Profession: Canonists, Civilians,
and Courts” (Cội nguồn nghề luật: giáo sĩ, dân thường và Tòa án) của
Brundage, James A. (2008), University of Chicago Press.
- Về quản trị tài chính và kế toán trong công ty luật, có một số công trình
nghiên cứu như “Business Development for Law Firms” (Phát triển công ty
luật) của Quinn, John P., Bailey, Joseph A; “Law firm accounting and financial
management, third edition” (Quản trị tài chính và kế toán trong công ty luật, tái
bản lần thứ 3) của David E. Gaulin (2001).
- Về quản trị rủi ro, các công trình nghiên cứu “Quản trị các dịch vụ

chuyên nghiệp của công ty” (Managing the Professional Service Firm) của
David H Maister (1993); công trình “Những công cụ/phương pháp sống còn
của Công ty luật” (Risk Management: Survival Tools for Law Firms) của
Anthony E. Davis, Peter R. Jarvis (2007). Một số nghiên cứu của The
Rainmaker Institute (2018) về quản trị công ty luật cũng đáng được lưu ý.
* Các nghiên cứu trong nước về quản trị công ty luật
- Trong số các công trình nghiên cứu về vấn đề này, phải kể đến Đề tài
nghiên cứu khoa học cấp Bộ (năm 2005) do TS Nguyễn Văn Tuân làm chủ
nhiệm: “Dịch vụ pháp lý ở Việt Nam, thực trạng, nhu cầu và định hướng phát
triển”; Cuốn Đạo đức & kỹ năng của luật sư trong nền kinh tế thị trường định
hướng Xã hội chủ nghĩa” do PGS.TS Lê Hồng Hạnh (chủ biên), Nxb Đại học
sư phạm (2002) và “Quản trị nội bộ công ty luật HD - góc nhìn từ thực tiễn”,
5


tạp chí Dân chủ & Pháp luật, số 11/2017 của TS. Nguyễn Quý Trọng, Nguyễn
Minh Đức về một mô hình QTCT luật HD tốt cần được tạo bởi những thành tố
tác động, được thiết kế trên cơ sở hệ thống các cơ quan và sự giám sát nhằm
hướng tới mục tiêu phát triển của công ty cũng như của các thành viên công ty.
1.3 Đánh giá tổng quan tình hình nghiên cứu
Thứ nhất, các công trình nghiên định của QTCT có rất nhiều ở trong khoa
học pháp lý và thực tiễn đào tạo ở nhiều quốc gia. Quản trị công ty hầu như
được nghiên cứu và giảng dạy ở rất nhiều cơ sở đào tạo. Phạm vi, nội dung
nghiên cứu của các công trình ở nước ngoài tập trung chủ yếu vào quản trị công
ty thương mại, doanh nghiệp hoạt động trong các ngành nghề thương mại thuần
túy. Về cơ bản, các công trình nghiên cứu đã luận giải về khái niệm và mô hình
QTCT trên nhiều phương diện khác nhau từ mối quan hệ, sở hữu, điều hành
hay lợi ích của các bên.
Ở Việt Nam, khác với ở nhiều nước trên thế giới, các công trình nghiên
cứu về QTCT còn khá ít bởi QTCT chỉ mới đặt ra gần đây khi Việt Nam phát

triển kinh tế thị trường. Các công trình nghiên cứu ở Việt Nam viện dẫn đến các
quan điểm của các học giả nước ngoài về QTCT. Ít có các công trình phát triển
các quan điểm về QTCT ở trong bối cảnh đặc thù của Việt Nam.
Một điểm chung trong các công trình nghiên cứu trong nước và nước ngoài
về QTCT là việc nhấn mạnh nguyên tắc minh bạch và hiệu quả, việc nhận diện
và phân tích tác động của rất nhiều thành tố khác nhau như sở hữu, mối quan hệ
giữa tổ chức điều hành và quản lý, hoặc về vốn, cấu trúc vốn, về vị trí, phương
thức phân chia lợi ích, rủi ro, vai trò, tư cách, thẩm quyền và trách nhiệm của
chủ thể quản trị đối với QTCT luật, khẳng định vai trò quan trọng, tất yếu của
quản trị trong sự tồn tại và phát triển của công ty.
Thứ hai, QTCT luật được học giả, nhà nghiên cứu, các chuyên gia nước
ngoài tiếp cận ở nhiều góc độ khác nhau, cụ thể là dưới góc độ pháp lý, góc độ
kinh tế, góc độ chính trị, hay góc độ lịch sử. Các công trình nghiên cứu chuyên
sâu về QTCT luật không nhiều, dù đề cập khái quát hay cụ thể cũng đã làm rõ
hơn một số vấn đề lý luận về QTCT luật như: khái niệm, đặc điểm cũng như
các thành tố tác động tới hiệu quả của QTCT luật. Các nghiên cứu này cũng đã
đề cập đến vai trò, nền tảng, nguyên tắc QTCT luật, vai trò chủ thể QTCT luật
theo thông lệ chung và phù hợp với điều kiện chính trị, kinh tế xã hội của từng
quốc gia trên thế giới.
Thứ ba, các công trình nghiên cứu ở trong nước về QTCT luật còn thiếu
vắng do nghề luật sư ở nước ta mới được hình thành, chưa phát triển như ở
nhiều quốc gia khác. Một số công trình nghiên cứu, bài viết về QTCT luật mới
chỉ đi nghiên cứu về một số vấn đề cụ thể của QTCT luật như mô hình, bản
chất pháp lý, cung cấp dịch vụ pháp lý.

6


1.4. Những vấn đề luận án tập trung giải quyết
Thứ nhất, về một số vấn đề lý luận về quản trị công ty luật: QTCT luật là

gì? Câu hỏi nghiên cứu này hướng tới những vấn đề cụ thể như khái niệm
QTCT luật; nội hàm và phương thức QTCT luật? Tại sao phải thực hiện QTCT
luật? Tại sao phải xây dựng các quy định của pháp luật về QTCT luật, mức độ
can thiệp của pháp luật nhà nước vào QTCT và vai trò của Điều lệ, quy chế
công ty trong hoạt động quản trị vi mô? Yêu cầu của pháp luật điều chỉnh
những quan hệ này là gì? Ai sẽ là chủ thể quản trị, đối tượng nào bị tác động
của QTCT luật? Sự tương đồng và khác biệt giữa QTCT luật và công ty CP,
công ty HD như thế nào? Sự khác biệt đó ảnh hưởng ra sao đối với hiệu quả
hoạt động của QTCT luật.
Thứ hai, về một số vấn đề pháp lý liên quan đến quản trị công ty luật: Nội
hàm của pháp luật về QTCT luật là gì? Các nguyên tắc cơ bản của pháp luật
trong việc điều chỉnh hoạt động QTCT luật, những yếu tố ảnh hưởng đến các
quy định pháp luật về QTCT luật, các quy định cụ thể điều chỉnh các khía cạnh
khác nhau của QTCT như chủ thể quản trị, đối tượng, phương pháp điều chỉnh.
Thứ ba, về thực trạng pháp luật và thực tiễn thi hành pháp luật về quản trị
công ty luật: QTCT luật theo pháp luật ở Việt Nam đang ở trong tình trạng như
thế nào? Mức độ tương thích của các quy định pháp luật hiện hành với những
giá trị phổ quát về QTCT nói chung và công ty luật nói riêng, mức độ hài hòa
và thống nhất nội tại của các quy định trong những lĩnh vực khác nhau trực tiếp
liên quan đến QTCT, tính khả thi, tính hiệu quả của các quy định pháp luật hiện
hành về QTCT luật.
Thứ tư, Pháp luật điều chỉnh QTCT cần được hoàn thiện theo những định
hướng và giải pháp cụ thể nào?
Chương 2
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUẢN TRỊ CÔNG TY LUẬT
VÀ PHÁP LUẬT VỀ QUẢN TRỊ CÔNG TY LUẬT
2.1. Những vấn đề lý luận về quản trị công ty luật
2.1.1. Quản trị công ty trong nền kinh tế thị trường
2.1.1.1. Khái niệm, nội hàm của quản trị công ty
Trong khoa học quản lý tồn tại một số khái niệm có nội hàm về sự liên kết

và định hướng hoạt động của con người khá tương đồng nhưng không hoàn
toàn giống nhau. Những khái niệm thường gặp là quản lý, quản trị, điều hành.
- Trong số các viện dẫn thì tác giả Luận án chia sẻ về cơ bản với định
nghĩa quản trị là “… quá trình hoạch định, tổ chức, điều khiển và kiểm soát
công việc và những nỗ lực của con người, đồng thời vận dụng một cách có hiệu
quả mọi tài nguyên, để hoàn thành các mục tiêu đã định” (Giáo trình “Quản trị
học” của Trường đại học Kinh tế - Tài chính do Tiến sĩ Trương Quang Dũng
chủ biên).
7


Qua các khái niệm về “Quản trị” trên đây có thể thấy, điểm chung của các
khái niệm “Quản trị” mà các tác giả đưa ra đều đề cập đến, bao gồm: Ai là
người quản trị (chủ thể quản trị); Quản trị ai và quản trị gì? (đối tượng quản trị
và mục tiêu quản trị); Quản trị như thế nào? phương thức, phương pháp quản
trị, cách thức tổ chức quản trị và các thiết chế để quản trị. Nói tóm lại, “Quản
trị” có thể hiểu chung nhất là phương thức, cách thức mà các chủ thể quản trị,
bằng các thiết chế, luật lệ… áp dụng lên các đối tượng quản trị nhằm đạt được
mục tiêu đề ra.
- Quản trị doanh nghiệp nói chung và QTCT nói riêng có vai trò quan
trọng trong tổ chức và hoạt động của doanh nghiệp. NCS cho rằng, QTCT có
thể được khái quát như sau: QTCT được xem là hệ thống các thiết chế, chính
sách, luật lệ nhằm định hướng, vận hành và kiểm soát công ty. QTCT cũng bao
hàm mối quan hệ giữa nhiều bên, không chỉ trong nội bộ như các thành viên,
Ban giám đốc, HĐTV mà còn những bên có lợi ích liên quan bên ngoài công ty
như cơ quan quản lý nhà nước, các đối tác kinh doanh, các yếu tố tác động của
môi trường kinh doanh.
2.1.1.2. Những nguyên tắc phổ biến trong quản trị doanh nghiệp
Thứ nhất, quản trị doanh nghiệp phải gắn với phương hướng, mục đích
hoạt động của doanh nghiệp.

Thứ hai, chuyên môn hoá và cân đối.
Thứ ba, linh hoạt và thích nghi với môi trường.
Thứ tư, hiệu lực và hiệu quả.
2.1.2. Những mô hình quản trị doanh nghiệp phổ biến trên thế giới
Với sự đa dạng trong các lý thuyết về quản trị doanh nghiệp, điều kiện
kinh tế xã hội và văn hóa của các quốc gia, vùng lãnh thổ dẫn tới sự đa dạng
trong các mô hình quản trị doanh nghiệp trên thế giới, trong đó các mô hình
quản trị doanh nghiệp phổ biến có thể kể đến: mô hình quản trị doanh nghiệp
của Nhật Bản; mô hình quản trị doanh nghiệp của Hàn Quốc; mô hình quản trị
doanh nghiệp của Hoa Kỳ; mô hình quản trị doanh nghiệp của Anh quốc; mô
hình quản trị doanh nghiệp của CHLB Đức.
2.1.3. Về quản trị công ty luật
2.1.3.1. Hành nghề luật sư, đặc trưng của hoạt động hành nghề luật sư
Hành nghề luật sư là khái niệm chỉ hoạt động cung cấp dịch vụ của luật sư,
một loại dịch vụ đặc thù. Hoạt động hành nghề luật sư có những đặc thù cụ thể.
2.1.3.2. Công ty luật, chủ thể đặc thù trong quan hệ thương mại dịch vụ
Công ty luật có những đặc điểm cơ bản sau đây:
Thứ nhất, công ty luật thường là một pháp nhân đối nhân. Ngay cả khi có
yếu tố đối vốn thì yếu tố này có vai trò khiêm tốn. Việc đăng ký hoạt động của
công ty luật khác việc đăng ký thành lập đối với các công ty thương mại hay
các pháp nhân khác.
8


Thứ hai, chủ sở hữu công ty hoặc thành viên công ty phải là luật sư đáp
ứng các quy định về năng lực hành vi dân sự, về trình độ năng lực, phẩm chất,
đạo đức nghề nghiệp. Sự tham gia của luật sư là điều kiện bắt buộc đối với việc
thành lập công ty luật.
Thứ ba, trách nhiệm của công ty luật cũng như bản thân nó thể hiện rõ nhất
trong công ty luật hoạt động dưới hình thức HD thông thường hay văn phòng

luật sư. Ở các loại công ty theo hình thức công ty TNHH thì có kết hợp áp dụng
cả trách nhiệm vô hạn và TNHH đối với từng thành viên tùy theo đó là thành
viên góp vốn hay thành viên HD.
2.1.3.3. Quản trị công ty luật
* Khái niệm và bản chất pháp lý của quản trị công ty luật
- Khái niệm quản trị công ty luật
QTCT luật là hệ thống các cấu trúc, chức năng, nhiệm vụ, quy trình và
truyền thống vốn có được huy động để vận hành hiệu quả và minh bạch công ty
luật, đảm bảo thực hiện đúng chương trình, kế hoạch cung cấp dịch vụ pháp lý
hướng tới lợi ích của luật sư thành viên và các chủ thể liên quan dựa trên pháp
luật nhà nước và Điều lệ, quy chế của hiệp hội, của bản thân công ty luật.
* Nội hàm của quản trị công ty luật gồm:(i) Chủ thể quản trị công ty

luật;(ii) Chủ thể chịu sự quản trị;(iii) Cơ chế quản trị
* Những lưu ý trong việc áp dụng nguyên tắc chủ yếu của quản trị công ty
trong quản trị công ty luật
QTCT luật cũng tuân thủ các nguyên tắc phổ biến của QTCT được trình bày
trong tiểu mục 2.1.1.2. “Những nguyên tắc phổ biến trong QTCT” gồm: QTCT
phải gắn với phương hướng, mục đích hoạt động của công ty; chuyên môn hoá và
cân đối; linh hoạt và thích nghi; hiệu lực và hiệu quả. Tuy nhiên, các nguyên tắc
này khi được áp dụng trong QTCT luật sẽ có những đặc thù nhất định.
* Vai trò của quản trị công ty luật và các yếu tố chi phối quản trị công ty
luật
- Vai trò của quản trị công ty luật
Thứ nhất, QTCT luật góp phần thúc đẩy và nâng cao chất lượng hoạt động
nghề nghiệp của luật sư.
Thứ hai, QTCT luật tốt có vai trò quan trọng trong việc xây dựng các công
ty luật phát triển bền vững.
Thứ ba, QTCT luật nhằm bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp cho luật sư
chủ sở hữu, luật sư là Giám đốc công ty, các luật sư là thành viên sáng lập khác,

các luật sư làm việc theo hợp đồng và những người khác.
Thứ tư, QTCT luật có vai trò quan trọng trong việc xây dựng hình ảnh,
thương hiệu của công ty luật.
- Các yếu tố chi phối quản trị công ty luật

9


Thứ nhất, những đặc trưng của nghề luật sư và hoạt động hành nghề luật
sư chi phối rất rõ đến QTCT. Điển hình nhất là mối liên hệ giữa việc hành nghề
luật sư với thực thi công lý.
Thứ hai, hệ thống pháp luật nói chung và hệ thống pháp luật về doanh
nghiệp nói riêng của quốc gia quyết định đến nền tảng pháp lý cơ bản của
QTCT luật.
Thứ ba, sự tồn tại và ảnh hưởng của các Hiệp hội luật sư toàn quốc hoặc
Đoàn luật sư ở địa phương. Những quy tắc đạo đức, quy chế, Điều lệ của các
Hiệp hội luật sư ảnh hưởng lớn đến QTCT luật.
Thứ tư, Điều lệ công ty luật đóng vai trò ảnh hưởng lớn đến QTCT.
Thứ năm, nền tư pháp quốc gia chi phối rất mạnh đến QTCT luật.
2.2. Pháp luật về quản trị công ty luật
2.2.1. Định nghĩa và nội hàm của pháp luật về quản trị công ty luật
Pháp luật về QTCT luật là tổng hợp các quy phạm pháp luật xác định các
nền tảng cơ bản cho việc tổ chức và điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh
trong quá trình tổ chức, quản lý, điều hành hoạt động của công ty luật.
- Pháp luật về QTCT luật quy định những nền tảng cơ bản của việc tổ chức
và hoạt động của công ty luật.
- Pháp luật về QTCT luật quy định các điều kiện, tiêu chuẩn chung để xác
định chủ thể quản trị và mối quan hệ giữa chủ thể quản trị với những chủ thể
khác trong công ty luật.
- Cơ chế theo dõi, giám sát, chế độ trách nhiệm của các thành viên trong công

ty luật dù xây dựng theo mô hình nào đều phải phù hợp với các nguyên tắc cơ bản
áp dụng đối với loại hình doanh nghiệp mà theo đó công ty luật đang hoạt động.
2.2.2. Tương quan giữa pháp luật về quản trị công ty luật và các lĩnh
vực pháp luật có liên quan
- Những nền tảng cơ bản của QTCT luật được quy định trong các lĩnh vực
pháp luật khác nhau, đặc biệt là pháp luật về luật sư và pháp luật về doanh
nghiệp. Luật Luật sư năm 2006 (sửa đổi, bổ sung năm 2012) quy định các vấn
đề về hành nghề luật sư, điều kiện công nhận luật sư, tổ chức và hoạt động của
Hiệp hội luật sư, công ty luật.
- Luật Doanh nghiệp quy định các loại hình công ty, những cấu trúc quyền
lực, cách thức góp vốn. Bên cạnh đó, một số vấn đề về thuế, kế toán, thống kê
công ty luật chịu sự điều chỉnh của các luật chuyên ngành khác.
- Luật Luật sư năm 2006 (sửa đổi, bổ sung 2012) đóng vai trò là luật
chuyên ngành đối với lĩnh vực QTCT luật.
2.2.3. Tương quan giữa pháp luật về quản trị công ty luật và các quy
định của Hiệp hội luật sư, Điều lệ, quy chế của công ty luật
Do pháp luật quốc gia chỉ mang tính nền tảng nên muốn quản trị tốt, công
ty luật phải dựa vào những quy định khác gắn với tính chất đặc thù của hoạt
10


động dịch vụ pháp lý. Các quy định đó có thể do công ty luật ban hành trong
Điều lệ, quy chế của mình hoặc áp dụng các quy định do Hiệp hội luật sư. Thực
tế, Điều lệ, quy chế của công ty luật hay của Hiệp hội luật sư có ảnh hưởng trực
tiếp và lớn hơn đối với QTCT luật.
2.3. Nền tảng quản trị công ty luật trong pháp luật và thực tiễn ở một
số quốc gia trên thế giới và giá trị tham khảo đối với Việt Nam
2.3.1. Pháp luật về quản trị công ty luật ở Cộng hòa Pháp
- Quy định về hình thức hành nghề và hình thức tổ chức hành nghề luật sư,
điều kiện thành lập tổ chức hành nghề luật sư

- Quy định về quản lý, điều hành công ty luật
2.3.2. Pháp luật về quản trị công ty luật ở Vương quốc Anh
- Cơ sở hành nghề luật:
- Về cơ cấu tổ chức, điều kiện, tiêu chuẩn.
2.3.3. Pháp luật về quản trị công ty luật ở Hoa Kỳ
- Văn phòng luật sư cá nhân độc lập (sole practitioner).
- Công ty HD (partnership).
2.3.4. Pháp luật về quản trị công ty luật ở Trung Quốc
- Quy định về hình thức tổ chức hành nghề luật sư.
- Quy định về điều kiện thành lập tổ chức hành nghề luật sư, cơ chế quản
lý, điều hành công ty luật
2.3.5. Một số hàm ý cho Việt Nam qua kinh nghiệm của các quốc gia khác
- Về điều kiện thành lập công ty luật
- Về mô hình công ty luật
- Về quản trị công ty luật
Chương 3
PHÁP LUẬT VỀ QUẢN TRỊ CÔNG TY LUẬT VÀ THỰC TIỄN
QUẢN TRỊ CÔNG TY LUẬT Ở VIỆT NAM
3.1. Thực trạng pháp luật về quản trị công ty luật ở Việt Nam
3.1.1. Nguồn pháp luật về quản trị công ty luật
Nguồn cơ bản và có giá trị pháp lý cao nhất đối với việc tạo dựng các nền
tảng pháp lý cho QTCT luật là Luật Luật sư năm 2006 (sửa đổi, bổ sung năm
2012). Nền tảng pháp lý cho QTCT luật được củng cố bằng các văn bản dưới
luật quy định chi tiết và hướng dẫn Luật Luật sư năm 2006 (sửa đổi, bổ sung
năm 2012) như Nghị định số 123/2013/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và
biện pháp thi hành Luật Luật sư, Thông tư số 19/2013/TT-BTP hướng dẫn tập
sự hành nghề luật sư, Thông tư số 10/2014/TT-BTP quy định nghĩa vụ tham gia
bồi dưỡng bắt buộc về chuyên môn, nghiệp vụ của luật sư, Quyết định số
3101/QĐ-BTP ban hành Chương trình khung đào tạo nghề luật sư.
Một nguồn luật quan trọng khác của QTCT luật là Luật Doanh nghiệp năm

2014 và các văn bản quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành luật này. Luật
11


Doanh nghiệp 2014 quy định các loại hình doanh nghiệp, cơ cấu tổ chức và cấu
trúc phân chia quyền lực trong các doanh nghiệp, vốn và các phương thức huy
động vốn mà doanh nghiệp được quyền thiết kế và huy động. Luật cũng quy
định một số nguyên tắc cơ bản trong quản trị doanh nghiệp.
3.1.2. Các quy định của pháp luật hiện hành về nền tảng của quản trị
công ty luật
3.1.2.1. Các quy định về điều kiện, tiêu chuẩn trở thành luật sư - chủ thể
quản trị công ty luật
Nghiên cứu về điều kiện, tiêu chuẩn trở thành luật sư có vị trí quan trọng
gắn với quá trình tổ chức, quản lý công ty luật. Một nền QTCT luật tốt thì
không thể thiếu được thành tố cấu thành nên nó là các luật sư thành viên.
3.1.2.2. Quy định về lựa chọn hình thức hành nghề luật sư, phạm vi
hành nghề luật sư, quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của luật sư - chủ thể quản
trị công ty luật
Hành nghề luật sư là quyền của luật sư. Tùy thuộc vào điều kiện, khả năng
của mình luật sư có thể lựa chọn một hình thức hành nghề và hình thức tổ chức
hành nghề phù hợp. Khi luật sư tự thành lập hoặc tham gia thành lập tổ chức
hành nghề luật sư, luật sư có quyền lựa chọn hình thức tổ chức hành nghề luật
sư là văn phòng luật sư hoặc công ty luật.
3.1.2.3. Điều kiện thành lập và đăng ký hoạt động công ty luật của chủ thể
quản trị công ty luật
- Luật sư thành lập hoặc tham gia thành lập công ty luật phải có ít nhất hai
năm hành nghề liên tục làm việc theo hợp đồng lao động cho văn phòng luật sư
hoặc công ty luật hoặc hành nghề với tư cách cá nhân theo hợp đồng lao động
cho cơ quan, tổ chức; công ty luật phải có trụ sở làm việc (khoản 3 Điều 32).
Một luật sư chỉ được thành lập hoặc tham gia thành lập một công ty luật.

- Luật sư thành lập công ty luật phải tiến hành đăng ký hoạt động theo
đúng thủ tục quy định tại Luật Luật sư năm 2006 (sửa đổi, bổ sung năm 2012)
(Điều 35) và phải đăng ký những thay đổi về nội dung hoạt động. Công ty luật
thành lập chi nhánh của mình phải đăng ký hoạt động cho chi nhánh (Điều 41).
3.1.2.4. Cơ cấu tổ chức, hoạt động của công ty luật
Công ty luật là một trong hai hình thức tổ chức hành nghề luật sư bao gồm
công ty luật HD và công ty luật TNHH. Thành viên của công ty luật phải là luật
sư ( Điều 34).
- Đối với công ty luật HD
Công ty luật HD do ít nhất hai thành viên (các luật sư) đồng thuận thành
lập (Điều 34). Công ty luật HD không có thành viên góp vốn.
Theo quy định của Luật Doanh nghiệp năm 2014, cơ cấu tổ chức của công
ty hợp danh nói chung bao gồm HĐTV, Chủ tịch HĐTV kiêm Giám đốc hoặc

12


TGĐ công ty nếu Điều lệ công ty không có quy định khác (Điều 177 của Luật
Doanh nghiệp năm 2014).
- Đối với loại hình công ty luật trách nhiệm hữu hạn
Công ty luật TNHH được tổ chức theo hai mô hình: công ty luật TNHH
một thành viên và công ty luật TNHH hai thành viên trở lên. Các thành viên
công ty luật TNHH hai thành viên trở lên thỏa thuận cử một thành viên làm
Giám đốc công ty.
- Luật Doanh nghiệp năm 2014 quy định, công ty TNHH một thành viên
do cá nhân là chủ sở hữu có Chủ tịch công ty, Giám đốc hoặc TGĐ nên hiện
nay một số công ty luật TNHH một thành viên do một luật sư thành lập và làm
chủ sở hữu áp dụng quy định này.
- Công ty luật TNHH hai thành viên trở lên do ít nhất hai luật sư thành lập,
thỏa thuận cử một thành viên làm Giám đốc công ty. HĐTV là cơ quan quyết

định cao nhất của công ty bao gồm tất cả các luật sư. Chủ tịch HĐTV là người
đứng đầu HĐTV do các thành viên bầu, thực hiện các chức năng chủ yếu phục
vụ cho cuộc họp của HĐTV và các hoạt động khác của HĐTV. Chủ tịch HĐTV
có thể kiêm Giám đốc hoặc TGĐ công ty (Điều 57 của Luật Doanh nghiệp năm
2014).
3.1.2.5. Quy định về cơ chế phân chia quyền lực và kiểm soát trong
công ty luật
- Cơ chế phân chia quyền lực trong công ty luật được định hình tùy thuộc
vào từng loại hình công ty (công ty luật TNHH và công ty luật hợp danh). Cơ
cấu tổ chức, điều hành, cơ chế quản lý công ty luật dựa trên nền tảng luật định
nhưng vẫn chịu sự chi phối của những yếu tố khác nhau, kể cả thể chế phi chính
thức. Trong cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý công ty luật có sự phân chia quyền
lực rõ ràng giữa các luật sư thành viên.
- Vấn đề kiểm soát trong công ty, đặc biệt là việc kiểm soát nhân sự, kiểm
soát công việc của chủ thể QTCT, các luật sư khác, kiểm soát tài chính, thị
trường và những vấn đề rủi ro, các giao dịch có nguy cơ phát sinh tư lợi
3.1.3. Một số đánh giá chung về pháp luật về quản trị công ty luật
Thứ nhất, có thể khẳng định rằng, pháp luật về QTCT luật đã được quy
định trong các văn bản quy phạm pháp luật về luật sư và hành nghề luật sư
(Luật Luật sư và các văn bản quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành), văn bản
quy phạm pháp luật về doanh nghiệp (Luật Doanh nghiệp và các văn bản quy
định chi tiết và hướng dẫn thi hành).
Thứ hai, Luật Luật sư năm 2006 (sửa đổi, bổ sung năm 2012) là luật
chuyên ngành quy định về QTCT luật, tập trung quy định về tiêu chuẩn, điều
kiện trở thành luật sư, chủ thể QTCT luật; về lựa chọn hình thức hành nghề luật
sư, phạm vi hành nghề luật sư, quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của luật sư - chủ
thể QTCT luật; điều kiện thành lập và đăng ký hoạt động công ty luật của chủ
13



thể QTCT luật và một số vấn đề về cơ cấu tổ chức của công ty luật, cơ chế phân
chia quyền lực và kiểm soát công ty luật.
Thứ ba, Luật Doanh nghiệp năm 2014 với tư cách là luật chung quy định
về QTCT, tập trung quy định về mô hình công ty áp dụng chung cho tất cả các
lĩnh vực, trong đó có công ty luật; quy định về cơ cấu tổ chức của công ty; cách
thức phân chia quyền lực và kiểm soát trong công ty v.v.
Thứ tư, hiện nay các quy định của pháp luật về minh bạch hóa thông tin vẫn
còn rất khái quát nên chưa khắc phục được sự bất cân xứng thông tin trong
QTCT, gây ảnh hưởng tiêu cực đến hiệu quả hoạt động của công ty.
3.2. Điều lệ, quy chế của công ty luật, Điều lệ của Liên đoàn luật sư
Việt Nam, Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam trong
quản trị công ty luật
3.2.1. Điều lệ, quy chế của công ty luật
- Điều lệ công ty luật đã được pháp luật quy định bắt buộc là một bộ phận
cấu thành trong tổ chức và hoạt động của công ty luật. Mỗi công ty luật có quy
định riêng trong bản Điều lệ trên cơ sở các quy định của pháp luật và sự đồng
thuận của các luật sư thành viên.
- Luật Doanh nghiệp năm 2014 quy định về Điều lệ chung cho các loại
hình công ty. Luật Luật sư năm 2006 (sửa đổi, bổ sung năm 2012) và các văn
bản quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành quy định về Điều lệ công ty luật.
Thực tế, các bản Điều lệ công ty luật hiện nay, ngoài những nội dung theo
quy định của pháp luật về luật sư và hành nghề luật sư thì nhiều nội dung khác
của Điều lệ công ty luật được áp dụng quy định của Luật Doanh nghiệp năm
2014. Mỗi công ty luật có bản Điều lệ riêng và có những quy định riêng.
3.2.2. Điều lệ của Liên đoàn luật sư Việt Nam, Quy tắc đạo đức và ứng
xử nghề nghiệp luật sư
- Luật Luật sư năm 2006 (sửa đổi, bổ sung năm 2012) quy định nhiệm vụ,
quyền hạn của Đoàn luật sư. Theo đó, Đoàn luật sư có trách nhiệm giám sát
hoạt động hành nghề của luật sư thành viên, tổ chức hành nghề luật sư tại địa
phương trong việc tuân thủ pháp luật, tuân theo Điều lệ của Liên đoàn luật sư

Việt Nam, Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư.
- Luật Luật sư năm 2006 (sửa đổi, bổ sung năm 2012) quy định Liên đoàn
luật sư Việt Nam có Điều lệ (Khoản 2 Điều 64) và nhiệm vụ, quyền hạn của
Liên đoàn luật sư Việt Nam (Điều 65). Liên đoàn luật sư Việt Nam có trách
nhiệm giám sát luật sư, Đoàn luật sư trong việc tuân thủ pháp luật, tuân theo
Điều lệ của Liên đoàn luật sư Việt Nam; ban hành và giám sát việc tuân theo
Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư.
- Luật Luật sư năm 2006 (sửa đổi, bổ sung năm 2012) cũng quy định
những nội dung chính của Điều lệ của Liên đoàn luật sư Việt Nam, trong đó
đáng chú ý có quy định về: (i) quyền, nghĩa vụ của thành viên Liên đoàn luật sư
14


Việt Nam; (ii) thủ tục gia nhập Đoàn luật sư, rút tên ra khỏi danh sách luật sư
của Đoàn luật sư, chuyển Đoàn luật sư của luật sư; (iii) khen thưởng, kỷ luật
luật sư và giải quyết khiếu nại, tố cao.
Điều lệ Liên đoàn luật sư Việt Nam được phê duyệt kèm theo Quyết định
số 1573/QĐ-BTP ngày 28/8/2015 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã quy định
những vấn đề liên quan đến luật sư, chủ thể QTCT luật bao gồm luật sư là
thành viên của Liên đoàn luật sư (Điều 26); quyền, nghĩa vụ của Luật sư (Điều
27), thủ tục gia nhập Đoàn luật sư, cấp Thẻ luật sư (Điều 28, 29); thủ tục rút tên
khỏi danh sách luật sư của Đoàn luật sư, chuyển Đoàn luật sư (Điều 30); khen
thưởng (Điều 39), kỷ luật luật sư (Điều 40) và giải quyết khiếu nại, tố cáo (Điều
41, 42, 43).
Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam được Liên đoàn
luật sư Việt Nam ban hành kèm theo Quyết định số 68/QĐ-HĐLSTQ ngày
20/7/2011 đã quy định: (i) Quy tắc về quan hệ với khách hàng; (ii) Quy tắc
quan hệ với đồng nghiệp; (iii) Quy tắc quan hệ với cơ quan tiến hành tố tụng;
(iv) Quy tắc quan hệ với cơ quan nhà nước khác.
3.2.3 Một số đánh giá chung về Điều lệ, quy chế của công ty luật, Điều

lệ của Liên đoàn luật sư Việt Nam, Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp
luật sư Việt Nam trong quản trị công ty luật
Thứ nhất, nội dung Điều lệ của công ty luật đều được pháp luật về luật sư
và hành nghề luật sư và pháp luật về doanh nghiệp quy định. Có thể thấy, Điều
lệ là nền tảng trực tiếp và thiết thực nhất để các chủ thể QTCT luật quản lý,
điều hành công ty luật.
Thứ hai, Điều lệ Liên đoàn luật sư Việt Nam, Quy tắc đạo đức và ứng xử
nghề nghiệp luật sư Việt Nam không trực tiếp quy định về QTCT luật, chỉ quy
định một số vấn đề về tư cách thành viên Liên đoàn luật sư, thủ tục gia nhập
Đoàn luật sư, cấp Thẻ luật sư để trở thành luật sư và đủ điều kiện hành nghề
luật sư
Thứ ba, một số hạn chế, bất cập về các quy định của Điều lệ Liên đoàn luật
sư Việt Nam, Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam đã ảnh
hưởng đến chế độ tự quản của tổ chức luật sư và dĩ nhiên tác động tiêu cực đến
QTCT luật.
3.3. Thực tiễn thi hành quản trị công ty luật theo pháp luật Việt Nam
3.2.1. Những kết quả đạt được
Thứ nhất, các quy định về tiêu chuẩn, điều kiện trở thành luật sư, chủ
thể QTCT luật đã được thực hiện theo quy định của Luật Luật sư năm 2006
(sửa đổi, bổ sung năm 2012).
Thứ hai, chất lượng của luật sư - chủ thể QTCT luật ngày được nâng cao.
Thực tế cho thấy, chất lượng luật sư thành viên công ty đáp ứng tiêu chuẩn về

15


chuyên môn, tiêu chuẩn về đạo đức từng bước được nâng cao đáp ứng hiệu quả
hơn yêu cầu cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế.
Thứ ba, việc lựa chọn thành lập hình thức công ty luật ngày càng có xu
hướng phát triển, số lượng công ty luật ngày càng tăng nhanh so với hình thức

văn phòng luật sư. Với những nền tảng cơ bản được pháp luật quy định với việc
ban hành Luật Luật sư năm 2006 (sửa đổi, bổ sung năm 2012) và Luật Doanh
nghiệp năm 2014, số lượng các công ty luật được thành lập ngày càng cao và có
chiều hướng chuyên môn hóa trong quản trị nội bộ.
Thứ tư, các quy định về cơ cấu tổ chức, cơ chế phân chia quyền lực và
kiểm soát trong công ty luật cũng đã được thực hiện theo quy định của pháp
luật.
Một là, quản trị nhân sự và dịch vụ trong công ty luật
- Về tổng thể, các công ty luật được thành lập hợp pháp ở Việt Nam đều
tuân thủ những quy định bắt buộc theo pháp luật ở khía cạnh quản trị nhân sự,
dịch vụ trong công ty luật.
- Sự phân định rõ quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của Chủ tịch công ty,
Giám đốc hoặc TGĐ (công ty luật hợp danh), HĐTV, Chủ tịch HĐTV, Giám
đốc hoặc TGĐ, Ban kiểm soát, Kiểm soát viên (công ty luật TNHH) và những
người khác trong công ty luật.
- Việc quản lý dịch vụ trong công ty luật cũng được quan tâm bởi đây là
yếu tố quan trọng quyết định thành công hay thất bại của công ty.
- Việc mở rộng lĩnh vực tư vấn pháp luật của công ty luật đối với tổ chức,
cá nhân.
Hai là, quản trị tài chính và thị trường của công ty luật
Công ty luật nói riêng đã thực hiện quản trị tài chính theo quy định của
pháp luật về doanh nghiệp và pháp luật về luật sư. Luật Luật sư năm 2006 (sửa
đổi, bổ sung năm 2012) không quy định cụ thể về thù lao, tiền lương, tiền
thưởng cho Chủ tịch HĐTV, Giám đốc và TGĐ công ty luật, điều kiện để chia
lợi nhuận trong công ty luật. Luật Doanh nghiệp năm 2014 đã quy định nguyên
tắc về vấn đề này, theo đó việc trả thù lao, tiền lương, tiền thưởng cho Chủ tịch
HĐTV, Giám đốc và TGĐ công ty dựa trên kết quả và hiệu quả kinh doanh.
Thực tế cho thấy, các công ty luật bước đầu đã vận dụng và thực hiện các
quy định của pháp luật về doanh nghiệp, pháp luật về tài chính, pháp luật về
thuế và được cụ thể hóa trong Điều lệ công ty luật phù hợp với tính chất, đặc

điểm nghề luật sư.
Quản trị thị trường (Quản trị marketing) của công ty luật cũng có những
điểm riêng biệt. Để xây dựng thương hiệu và hình ảnh của công ty luật, Chủ
tịch HĐTV, Giám đốc hoặc TGĐ công ty luật cần phải thực hiện một số vấn đề
về quản trị thị trường như: (i) Nghiên cứu về thị trường dịch vụ pháp lý ở Việt
Nam; (ii) Lựa chọn lĩnh vực hành nghề luật sư phù hợp; (iii) Đào tạo, bồi
16


dưỡng và sử dụng luật sư phù hợp với từng vị trí, sở trường của luật sư; (iv)
Tuân thủ pháp luật và Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư; (v) Nâng
cao chất lượng sản phẩm của dịch vụ đáp ứng yêu cầu của cá nhân, tổ chức là
khách hàng.
Ba là, minh bạch trong quản trị công ty luật
Minh bạch luôn đóng vai trò quan trọng trong hoạt động quản trị của bất
cứ công ty nào nhưng đối với công ty luật thì minh bạch càng cần phải được
đảm bảo ở mức cao do tính chất đặc thù của hành nghề luật sư và dịch vụ pháp
lý.
Thứ năm, xuất phát từ đòi hỏi của các điều kiện mới hội nhập quốc tế, các
công ty nói chung và các công ty luật nói riêng đã tiếp cận và tận dụng những
thời cơ mới do quá trình hội nhập do đất nước mang lại.
Thứ sáu, việc thực hiện Điều lệ, quy chế của công ty luật, Điều lệ của Liên
đoàn luật sư Việt Nam, Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt
Nam cũng góp phần thúc đẩy quản trị tốt.
Việc tuân thủ Điều lệ Liên đoàn luật sư Việt Nam, Quy tắc đạo đức và ứng
xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam cũng được đa số luật sư, chủ thể quản trị công
ty luật thực hiện nghiêm.
3.2.2. Một số hạn chế trong quản trị công ty luật
Thứ nhất, năng lực của các chủ thể QTCT luật chưa thực sự đáp ứng được
yêu cầu phát triển của dịch vụ pháp luật, hành nghề luật sư trong bối cảnh kinh

tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập quốc tế.
Thứ hai, việc lựa chọn mô hình hành nghề luật sư dưới hình thức công
ty luật còn chưa phổ biến. Công ty luật chỉ chiếm trên 34% tổng số các tổ
chức hành nghề luật sư. Các công ty luật được thành lập đa số có quy mô
nhỏ, chỉ có từ 1-2 luật sư, cơ sở vật chất thiếu thốn, trụ sở thường đặt tại nhà
riêng của cá nhân luật sư.
Thứ ba, trong một số công ty luật có cơ cấu quản trị nhất định thì việc các
nội dung QTCT chưa hoàn chỉnh, chủ yếu là về cơ cấu tổ chức, quản lý hành
chính nội bộ. Quản trị tài chính, thị trường, xây dựng chương trình, chiến lược
phát triển chưa được chú trọng. Đặc biệt sự tương tác giữa các khâu trong hệ
thống QTCT còn lỏng lẻo, thiếu tính chuyên nghiệp và thiếu tính thống
nhất. Số lượng các công ty luật áp dụng phương pháp điều hành, quản lý
tiên tiến như quản trị theo nhóm, giao ban công việc hằng tuần, hằng tháng,
áp dụng phương pháp quản trị không lớn. Nhiều công ty luật quản trị công
việc tùy tiện, lỏng lẻo.
Thứ tư, trách nhiệm của các cơ quan nhà nước khác trong việc tạo điều
kiện để luật sư thực hiện đầy đủ, nghiêm túc pháp luật QTCT luật chưa được
quy định rõ. Vai trò của Liên đoàn luật sư Việt Nam, Đoàn luật sư đối với

17


QTCT luật còn mờ nhạt trong khi ý thức, trách nhiệm của chủ thể quản trị trong
công ty luật chưa cao, coi nhẹ QTCT.
Thứ năm, cơ chế kiểm soát rủi ro trong QTCT luật hầu như rất ít được chú
trọng. Các Điều lệ công ty luật hầu như sao chép lại các quy định về kiểm soát.
Thứ sáu, hiện nay việc công khai các thông tin về hoạt động của doanh
nghiệp chưa được thực hiện rộng rãi nên nhiều công ty luật vẫn e ngại khi công
khai các hoạt động của mình.
Thứ bảy, về vấn đề thừa kế và đại diện gắn liền với thừa kế trong công ty

luật cũng là một tồn tại trong QTCT.
Những hạn chế nêu trên bắt nguồn từ những nguyên nhân chủ quan:
Thứ nhất, nhận thức của một số thành viên công ty luật về vai trò, vị trí
của QTCT luật trong tổ chức và hoạt động của công ty còn rất hạn chế, thậm
chí một số thành viên còn coi nhẹ QTCT luật.
Thứ hai, sự chuyên nghiệp hóa, chuyên môn hóa trong hoạt động của
thành viên, của các cơ quan trong QTCT luật còn hạn chế.
Thứ ba, cơ chế kiểm soát các hoạt động có tính chất tư lợi của người
quản lý công ty luật hay thành viên công ty hoặc chưa có hoặc có nhưng
chưa hiệu quả.
Bên cạnh những nguyên nhân chủ quan nêu trên, những hạn chế trong
QTCT luật còn do những nguyên nhân khách quan dưới đây:
Thứ nhất, Luật Luật sư năm 2006 (sửa đổi, bổ sung năm năm 2012) chỉ
mới quy định chung về tiêu chuẩn, điều kiện trở thành luật sư. Các quy định về
tiêu chuẩn chuyên môn, tiêu chuẩn về đạo đức, thời gian, nội dung, chương
trình đào tạo nghề luật sư vẫn chưa được quy định cụ thể.
Thứ hai, pháp luật hiện hành quy định điều kiện thành lập, tham gia thành
lập, hình thức tổ chức hành nghề luật sư còn khá chung chung, chưa phân biệt
rõ ràng giữa văn phòng luật sư, công ty luật. Loại hình công ty HD trong Luật
Doanh nghiệp hiện hành cần được phát triển thêm nhằm phù hợp với điều kiện
nghề luật sư ở Việt Nam.
Thứ ba, cơ cấu tổ chức, hoạt động của công ty luật hiện nay được quy định ở
những vấn đề chủ yếu trong Luật Luật sư năm 2006 (sửa đổi, bổ sung năm 2012)
và Luật Doanh nghiệp năm 2014. QTCT luật không chỉ dựa trên nền tảng pháp
luật mà còn dựa trên nhiều yếu tố khác mà đa phần trong đó đều mang tính nội
bộ. Trong bối cảnh các công ty luật Việt Nam nhận thức vai trò của quản trị chưa
đầy đủ, chưa chú trọng xây dựng nền quản trị tốt và các Hiệp hội luật sư, trước
hết là Liên đoàn luật sư Việt Nam chưa có nhiều các chương trình, giải pháp thúc
đẩy sự phát triển hoạt động quản trị.
Thứ tư, sự hợp tác giữa các công ty luật, việc trao đổi, giao lưu, hợp tác

giữa các công ty luật trong nước và với các tổ chức luật sư nước ngoài nhằm
nâng cao năng lực quản trị cũng chưa được chú trọng.
18


Chương 4
QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN THỂ CHẾ VỀ
QUẢN TRỊ CÔNG TY LUẬT Ở VIỆT NAM
4.1. Quan điểm về hoàn thiện thể chế về quản trị công ty luật
4.1.1. Sự cần thiết phải hoàn thiện thể chế quản trị công ty luật
Từ phân tích thực trạng pháp luật về QTCT luật và thực tiễn thi hành
QTCT luật ở Chương 3 Luận án cho thấy, thể chế về QTCT luật nói chung và
pháp luật về QTCT luật nói riêng vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập. Công ty luật
muốn tốt phải có nền quản trị tốt. Muốn có nền QTCT luật tốt cần phải có pháp
luật về QTCT luật tốt. Vì vậy, cần thiết phải hoàn thiện thể chế về QTCT luật.
4.1.2. Các quan điểm cơ bản hoàn thiện thể chế về quản trị công ty luật
4.1.2.1. Hoàn thiện thể chế về quản trị công ty luật nhằm nâng cao vai trò
của công ty luật trong bảo vệ quyền con người, bảo vệ công lý
Cần khẳng định hành nghề luật sư là một nghề đặc thù, gắn với hoạt động
bảo vệ quyền con người, bảo vệ công lý chống lại mọi hành vi xâm hại. Mặt
khác, thực tế cho thấy, việc sử dụng dịch vụ tư vấn pháp lý của cơ quan, tổ
chức, cá nhân, doanh nghiệp vẫn còn thấp. Hiện nay mới chỉ có khoảng 30%
các doanh nghiệp sử dụng dịch vụ pháp lý của luật sư, trong số đó có chưa đến
19,5% doanh nghiệp ký hợp đồng sử dụng dịch vụ thường xuyên, còn lại là hợp
đồng theo vụ việc. Việc cung cấp tư vấn pháp luật, đại diện ngoài tố tụng và
thực hiện các dịch vụ pháp lý khác của luật sư trong công ty luật chưa được cá
nhân, tổ chức, doanh nghiệp tin tưởng và sử dụng trong việc tạo lập môi trường
đầu tư, kinh doanh, phát triển thị trường dịch vụ, tạo việc làm, giải quyết các
tranh chấp.
4.2.2.2. Hoàn thiện thể chế về quản trị công ty luật nhằm hướng đến tính

chuyên nghiệp, hiệu quả và năng lực cạnh tranh của công ty luật Việt Nam
Hoạt động hành nghề của luật sư, tổ chức hành nghề luật sư chưa chuyên
nghiệp cả về tính chất hoạt động lẫn số lượng luật sư hành nghề kiêm nhiệm.
Những mục tiêu hướng đến tính chuyên nghiệp, hiệu quả có thể đạt được
hay không phụ thuộc khá nhiều vào các công ty luật. Để trở thành chuyên
nghiệp, để nâng cao năng lực cạnh tranh, công ty luật phải xây dựng hoặc hoàn
thiện nền quản trị của mình.
4.2.2.3. Hoàn thiện thể chế quản trị công ty luật theo yêu cầu của hội nhập
quốc tế
Trong xu thế hội nhập quốc tế ở tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế xã hội, tổ chức và hoạt động luật sư ở nước ta không thể đứng ngoài tiến trình
đó. Vì vậy, đổi mới, hoàn thiện thể chế về QTCT luật cũng góp phần hội nhập
quốc tế về nghề luật sư nhằm phát triển đội ngũ luật sư, công ty luật Việt Nam
ngang tầm quốc tế.
4.2.2.4. Hoàn thiện thể chế quản trị công ty luật phải phù hợp với tính chất
19


nghề nghiệp luật sư ở Việt Nam và thông lệ nghề luật sư trên thế giới
Thông lệ chung của nghề luật sư trên thế giới nói chung và ở Việt nam nói
riêng có những đặc thù khác với nghề kinh doanh và được điều chỉnh không chỉ
bằng những quy định của pháp luật mà còn bằng quy tắc đạo đức và ứng xử
nghề nghiệp luật sư.
Đề cao trách nhiệm cá nhân của luật sư, nâng cao vai trò tự quản của tổ
chức hành nghề của luật sư, tổ chức xã hội - nghề nghiệp luật sư là yêu cầu
quan trọng của hoạt động nghề nghiệp luật sư. Đoàn luật sư có trách nhiệm
giám sát tổ chức hành nghề luật sư trong đó có công ty luật về hoạt động nghề
nghiệp và đạo đức nghề nghiệp luật sư. Vì vậy, Đoàn luật sư được xem như
thiết chế phù hợp để hỗ trợ các công ty luật quản trị tốt hoạt động hành nghề
của các thành viên.
4.2. Những giải pháp hoàn thiện thể chế về quản trị công ty luật ở Việt Nam

4.2.1. Những giải pháp hoàn thiện nền tảng pháp luật về quản trị công
ty luật
Thứ nhất, nghiên cứu sửa đổi, bổ sung các quy định về QTCT luật trong
các văn bản quy phạm pháp luật về luật sư và hành nghề luật sư. Cụ thể:
Một là, quy định cụ thể về tiêu chuẩn trở thành luật sư, chủ thể QTCT luật
bao gồm: Sửa đổi, bổ sung Điều 13 theo hướng giảm các đối tượng được miễn
đào tạo nghề luật sư; sửa đổi, bổ sung Điều 14 về tập sự hành nghề luật sư;
Điều 15, Điều 16 về kiểm tra kết quả tập sự hành nghề luật sư theo hướng việc
tập sự đảm bảo thực chất, trung thực, bỏ quy định về miễn, giảm thời gian tập
sự hành nghề luật sư.
Hai là, cần phân biệt điều kiện thành lập, tham gia thành lập tổ chức hành
nghề luật sư giữa văn phòng luật sư và công ty luật (Khoản 3 Điều 32).
Điều 39 của Luật Luật sư năm 2006 (sửa đổi, bổ sung năm 2012) cần được
sửa đổi theo hướng công ty luật có quyền đăng ký hoạt động trong các lĩnh vực
tham gia hoạt động tố tụng, tư vấn pháp luật và đại diện ngoài tố tụng, thay thế
quy định hiện hành về quyền của công ty luật.
Ba là, bổ sung những quy định về từng loại luật sư. Tính chuyên nghiệp theo
lĩnh vực trong hành nghề luật sư cũng là yêu cầu của QTCT luật có hiệu quả.
Bốn là, bổ sung quy định về thời hạn sử dụng của Chứng chỉ hành nghề
luật sư (Điều 17), theo đó cần quy định Chứng chỉ hành nghề luật sư có giá trị
sử dụng trong thời hạn 05 năm và có thể được cấp lại.
Năm là, quy định bổ sung mô hình công ty luật hợp danh TNHH, phù hợp
với nghề luật sư và điều kiện kinh tế - xã hội ở Việt Nam, phù hợp với hình
thức hành nghề luật sư trong khu vực và trên thế giới.
Sáu là, cơ cấu tổ chức, cơ chế phân chia quyền lực và kiểm soát công ty
luật cần được nghiên cứu sửa đổi, bổ sung toàn diện theo hướng cho phép các
công ty luật tổ chức bộ máy quản trị theo yêu cầu và quy mô hoạt động và xu
20



hướng phát triển của mình. Đồng thời, sửa đổi bổ sung Điều 38 của Luật Luật
sư năm 2006 (sửa đổi, bổ sung năm 2012) theo hướng đa dạng các phương thức
công bố nội dung đăng ký hoạt động của tổ chức hành nghề luật sư. Ngoài việc
phải đăng báo, các công ty luật phải xây dựng các website của công ty.
Thứ hai, Luật Doanh nghiệp năm 2014 và các văn bản quy định chi tiết và
hướng dẫn thi hành với tư cách là luật chung về tổ chức và hoạt đông của doanh
nghiệp, các văn bản pháp luật khác có liên quan cũng cần sửa đổi, bổ sung ở
một số điểm sau:
Một là, cần bổ sung mô hình công ty hợp danh trách nhiệm hữu hạn vào
Chương VI Công ty HD của Luật Doanh nghiệp năm 2014.
Hai là, nghiên cứu sửa đổi quy định tại Khoản 1 Điều 57 Luật Doanh
nghiệp năm 2014 như sau “…Chủ tịch HĐTV có thể kiêm Giám đốc hoặc TGĐ
công ty”, đảm bảo hai chức danh Chủ tịch HĐTV và Giám đốc hoặc TGĐ công
ty độc lập với nhau.
Ba là, nghiên cứu quy định bổ sung trường hợp thành viên HD bị tuyên bố
mất tích thì người đại diện hợp pháp của người bị tuyên bố mất tích có quyền
thực hiện các quyền, nghĩa vụ của người bị tuyên bố mấy tích và được trở thành
thành viên HD nếu được HĐTV chấp thuận. Đồng thời bổ sung quy định trách
nhiệm của thành viên HD còn lại (trong trường hợp công ty HD có hai thành
viên HD) trong việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của thành viên HD bị chết
hoặc bị tuyên bố mất tích (quy định tại Điểm h Khoản 1 Điều 176 Luật Doanh
nghiệp năm 2014).
Bốn là, các quy định của pháp luật về bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp,
về thuế của công ty luật cũng cần được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với nghề
luật sư.
Nghiên cứu sửa đổi, bổ sung các quy định về trách nhiệm, mức bảo hiểm
trách nhiệm nghề nghiệp đối với công ty luật trong tất cả các lĩnh vực hoạt động
của luật sư, các chế tài nếu công ty luật không thực hiện hoặc thực hiện không
đúng trách nhiệm mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp.
Pháp luật về thuế đối với công ty luật cũng cần được sửa đổi, bổ sung theo

hướng sửa đổi, bổ sung những quy định ưu đãi, miễn, giảm thuế cho công ty
luật khi tham gia tư vấn pháp luật trong lĩnh vực hoạt động đầu tư, kinh doanh,
thương mại có yếu tố nước ngoài, tài chính, ngân hàng, các dự án của Chính
phủ. Miễn, giảm thuế cho hoạt động luật sư ở các tỉnh có điều kiện kinh tế - xã
hội kém phát triển, cho các công ty luật có số lượng giờ tư vấn miễn phí theo
chính sách và pháp luật trợ giúp pháp lý.
4.2.2. Những giải pháp hoàn thiện thể chế phi chính thức về quản trị
công ty luật
Thứ nhất, về hoàn thiện Điều lệ, quy chế trong các công ty luật

21


Điều lệ công ty phải có đầy đủ: (i) Tên, địa chỉ trụ sở; loại hình công ty
luật; lĩnh vực hành nghề; (ii) Họ, tên, địa chỉ thường trú của luật sư chủ sở hữu
(đối với công ty luật TNHH một thành viên) hoặc các luật sư thành viên (đối
với công ty luật TNHH hai thành viên trở lên và công ty luật hợp danh); Họ,
tên, địa chỉ thường trú của luật sư đại diện theo pháp luật của công ty; (iii)
Quyền và nghĩa vụ của luật sư chủ sở hữu hoặc các luật sư thành viên; (iv) Điều
kiện và thủ tục tham gia hoặc rút tên khỏi danh sách luật sư thành viên (đối với
công ty luật TNHH hai thành viên trở lên và công ty luật hợp danh); (v) Cơ cấu
tổ chức, quản lý, điều hành của HĐTV, Chủ tịch HĐTV, Chủ tịch công ty,
giám đốc, tổng giám đốc, thể thức thông qua quyết định, nghị quyết, nguyên tắc
giải quyết tranh chấp nội bộ; (vi) Vốn điều lệ và phương thức góp vốn, nguyên
tắc phân chia lợi nhuận và trách nhiệm của các luật sư thành viên đối với nghĩa
vụ của công ty (đối với công ty luật TNHH hai thành viên trở lên và công ty
luật hợp danh); (vii) Luật sư làm việc theo chế độ hợp đồng và trách nhiệm bảo
hiểm nghề nghiệp; (viii) Nhận và thực hiện vụ việc, trách nhiệm bảo mật thông
tin; (ix) Chế độ kế toán thống kê; (x) Các trường hợp tạm ngừng, chấm dứt hoạt
động và thủ tục thanh lý tài sản, trách nhiệm vật chất, thể thức sửa đổi, bổ sung

Điều lệ công ty luật.
Công ty luật bên cạnh việc đáp ứng các yêu cầu chung này cần xây dựng
Điều lệ của mình đáp ứng các yêu cầu cụ thể sau:
(i) Điều lệ phải hình thành được cơ chế triển khai hoạt động marketing phù
hợp; (ii) Thực hiện giao dịch: Đàm phán tốt và ký kết các hợp đồng với khách
hàng; (iii) Dịch vụ: Xác định đúng phân khúc dịch vụ thích hợp cho mình trong
thiết kế các hoạt động chủ yếu của công ty. Điều này có ý nghĩa trong việc
tuyển dụng nhân sự và sắp xếp các mối quan hệ nội bộ của công ty; (iv) Xây
dựng hệ thống tài chính nội bộ có thể kiểm soát tốt nhất các nguồn thu chi. Trong
chế độ khen thưởng, trả lương cho thành viên và nhân viên, cần coi trọng không
chỉ người kiếm ra tiền mà cả những người biết cách tiết kiệm cho công ty; (v)
Điều lệ công ty phải có những quy định cụ thể về nguyên tắc minh bạch trong
quản trị.
Thứ hai, hoàn thiện Điều lệ Liên đoàn luật sư Việt Nam, Quy tắc đạo đức
và ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam.
Một là, cần xác định những bất cập của Điều lệ Liên đoàn Luật sư trong
việc cụ thể hóa các quy định về quyền tự chủ của luật sư, những quy định về
mối quan hệ nội bộ trong các công ty luật, giữa công ty luật với Liên đoàn.
Hai là, nhiệm vụ, quyền hạn của Liên đoàn luật sư Việt Nam, quyền, nghĩa
vụ của Đoàn luật sư trong việc giám sát việc thực hiện các quy định của Điều
lệ, quy chế của Liên đoàn trong hoạt động của các công ty luật, đặc biệt là các
chuẩn mực đạo đức của luật sư hành nghề.

22


×