Tải bản đầy đủ (.docx) (39 trang)

NHÓM 19 TIỂU LUẬN PHÁP LUẬT đại CƯƠNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (245.16 KB, 39 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA HÀ NỘI

TIỂU LUẬN PHÁP LUẬT ĐẠI CƯƠNG
Chủ đề :Tìm hiểu về ngành luật kinh tế Việt Nam.
NHÓM :19
1. Sinh viên thực hiện:
2. Phạm Thị Hằng -NNA.06
3. Nguyễn Thị Trang-NNA.06
4. Trần Thị Quỳnh Anh-NNA.06
5. Nguyễn Ngọc Diệp-NNA.06
6. Phạm Hồng Ngọc-NNA.06
7. Phạm Thị Ngọc Mai- NNA.06
8. Nguyễn Thùy Dương- NNA.06
9. Nguyễn Thị Hồng Anh- NNA.0


I.KHÁI NIỆM
Luật kinh tế theo quan niệm truyền thống
Luật kinh tế là tổng hợp các quy phạm pháp luật do nhà nước ban hành để điều
chỉnh các quan hệ kinh tế phát sinh trong quá trình quản lý kinh tế và trong quá
trình sản xuất kinh doanh giữa các cơ quan quản lý nhà nước về kinh tế với các tổ
chức kinh tế XHCN hoặc giữa các tổ chức xã hội chủ nghĩa với nhau nhằm thực
hiện nhiệm vụ kế hoạch của nhà nước giao.
Khái niệm về luật kinh tế
Khái niệm
Luật kinh tế trong điều kiện nền kinh tế thị trường là tổng hợp các quy phạm pháp
luật do nhà nước ban hành để điều chỉnh các quan hệ kinh tế phát sinh trong quá
trình tổ chức và quản lý kinh tế của nhà nước và trong quá trình sản xuất kinh
doanh giữa các chủ thể kinh doanh với nhau

II.ĐẶC ĐIỂM NGÀNH LUẬT KINH TẾ VIỆT NAM.


1. Quá trình hình thành khung pháp lý về kinh tế ở Việt Nam
Phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự
quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa là một quyết sách quan
trọng được Đại hội VI của Đảng khởi xướng năm 1986 và ghi nhận trong nhiều
văn kiện khác. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội, thông qua tại Đại hội VII của Đảng (năm 1991) khẳng định: “Phát triển nền
kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành
theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước”. Đại hội lần thứ VIII của Đảng
năm 1996 tổng kết chặng đường 10 năm đổi mới, xác định rõ giai đoạn 1996 2000 là bước quan trọng của thời kỳ phát triển mới - đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước.


Từ những chủ trương, định hướng trên đây, Quốc hội Việt Nam đã ban hành
hàng loạt văn bản pháp luật về kinh tế: “Để phát triển kinh tế, thực hiện các chính
sách và mục tiêu kinh tế, sớm đưa đất nước ra khỏi tình trạng đói nghèo, chậm phát
triển thì một trong những giải pháp quan trọng là đẩy mạnh việc xây dựng, hoàn
thiện hệ thống pháp luật, nhất là pháp luật kinh tế”(1). Quá trình xây dựng, ban
hành những văn bản pháp luật kinh tế được tiến hành qua các giai đoạn sau:
Pháp luật về kinh tế giai đoạn 1986 - 1992
Dấu ấn đầu tiên trong việc hình thành pháp luật thời kỳ đổi mới là Luật Đất đai
năm 1987 và Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1987. Trong những năm
1988 - 1990, Đảng và Nhà nước đã tiến hành đổi mới có hệ thống, tương đối đồng
bộ và triệt để toàn bộ nền kinh tế, cụ thể là khoán 10 trong nông nghiệp; thiết lập
hệ thống ngân hàng hai cấp; thông qua Pháp lệnh về Ngân hàng Nhà nước, Pháp
lệnh Hợp đồng kinh tế năm 1989; ban hành Luật Công ty và Luật Doanh nghiệp tư
nhân năm 1990…
Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1987, Luật Công ty, Luật Doanh
nghiệp tư nhân năm 1990 là bước đột phá nhằm thể chế hóa chính sách mới và ghi
nhận nhiều điểm mới so với pháp luật hiện hành thời kỳ trước. Luật Đầu tư nước
ngoài tại Việt Nam cho phép chủ đầu tư huy động nguồn vốn từ nước ngoài vào

kinh doanh và tìm kiếm lợi nhuận từ hoạt động đầu tư… Luật Doanh nghiệp tư
nhân, Luật Công ty quy định quyền sở hữu tư liệu sản xuất, quyền thừa kế vốn, tài
sản, lợi ích hợp pháp khác của chủ doanh nghiệp; thừa nhận sự tồn tại và phát triển
lâu dài của doanh nghiệp tư nhân.
Pháp luật về kinh tế giai đoạn 1992 - 2012
Hiến pháp năm 1992 được Quốc hội thông qua, thừa nhận nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng tạo lập sự bình đẳng giữa các
thành phần kinh tế, theo hướng thành phần kinh tế tư nhân có thể cạnh tranh bình
đẳng với kinh tế nhà nước và khẳng định sự bảo đảm đối với tài sản của cá nhân, tổ
chức, cũng như định rõ những trường hợp đặc biệt khi tiến hành quốc hữu hóa
(Điều
23).
Nhiều văn bản pháp lý là nền tảng cho sự xuất hiện của các loại thị trường lần
lượt được ban hành. Từ năm 1992, một số văn bản về thị trường hàng hóa, dịch vụ
đã lần lượt xuất hiện, trong đó có Bộ luật Dân sự năm 1995 và Luật Thương mại
năm 1997. Khung pháp lý cho thị trường lao động cũng bước đầu được hình thành
bằng Bộ luật Lao động năm 1994. Với thị trường tài chính, chúng ta có Luật Ngân
hàng Nhà nước và Luật Các tổ chức tín dụng năm 1997…


Từ năm 1996 - 2000, nhiều văn bản được ban hành như Luật Thương mại năm
1997, Luật Doanh nghiệp năm 1999, Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam (sửa đổi
năm 2000)…
Từ năm 2000 - 2005, lần lượt Luật Doanh nghiệp Nhà nước (2003), Luật Cạnh
tranh (2004), Bộ luật Dân sự (2005), Luật Thương mại (2005), Luật Đầu tư (2005),
Luật Sở hữu trí tuệ (2005), Luật Chứng khoán (2006)… ra đời, đáp ứng nhu cầu
điều chỉnh pháp luật, yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế và tạo dựng cơ sở pháp lý
cho các loại thị trường ở Việt Nam. Bộ luật Lao động năm 2012 ghi nhận nhiều
quyền, nghĩa vụ của người sử dụng và người lao động.
Một thay đổi có tính định hướng khác là chủ trương áp dụng án lệ. Ngày 24-52005, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 48-NQ/TW về Chiến lược xây dựng và

hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020,
trong đó xác định chủ trương về phát triển án lệ: “Nghiên cứu về khả năng khai
thác, sử dụng án lệ, tập quán (kể cả tập quán, thông lệ thương mại quốc tế) và quy
tắc của các hiệp hội nghề nghiệp, góp phần bổ sung và hoàn thiện pháp luật…”.
Nghị quyết số 49-NQ/TW, ngày 02-6-2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải
cách tư pháp đến năm 2020 cũng xác định: “Tòa án nhân dân tối cao có nhiệm vụ
tổng kết kinh nghiệm xét xử, hướng dẫn áp dụng pháp luật, phát triển án lệ và xét
xử giám đốc thẩm, tái thẩm”.
Pháp luật về kinh tế theo Hiến pháp năm 2013
Trước những thay đổi nhiều mặt của đời sống xã hội, Hiến pháp năm 2013 được
ban hành, trong đó, xác lập, ghi nhận quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân về
kinh tế, kinh doanh, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đất đai, tài
nguyên thiên nhiên...

2. Pháp luật về kinh tế của Việt Nam trong 30 năm đổi mới
Pháp luật tạo lập môi trường kinh doanh
Thứ nhất, pháp luật về đầu tư: Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, Luật Đầu
tư..; pháp luật về kinh doanh: Bộ luật Dân sự, Luật Thương mại, Luật Doanh
nghiệp tư nhân, Luật Doanh nghiệp Nhà nước…;
Thứ hai, pháp luật về lao động: Bộ luật Lao động, Luật về người lao động Việt
Nam đi lao động ở nước ngoài theo hợp đồng…


Các văn bản nêu trên đề cập tới các phương diện khác nhau, như kinh doanh,
đầu tư, quan hệ lao động, các lĩnh vực kinh doanh chuyên biệt… Điều này thể hiện
sự điều chỉnh bao quát của pháp luật đối với hoạt động kinh doanh, từ quan hệ bên
trong doanh nghiệp như: Luật Doanh nghiệp, Luật Phá sản doanh nghiệp, Luật
Doanh nghiệp Nhà nước, đến quan hệ bên ngoài doanh nghiệp như: Luật Đầu tư
nước ngoài tại Việt Nam, Luật Khuyến khích đầu tư trong nước, Luật Đầu tư...
Tuy nhiên, còn nhiều vấn đề cần được làm rõ đối với môi trường pháp lý về

kinh doanh ở Việt Nam. Trong số đó có thể kể đến những bất cập về điều kiện và
ngành, nghề kinh doanh; tổ chức, hoạt động, giải thể và phá sản tổ chức kinh
doanh; hệ thống chế tài trong kinh doanh…
Pháp luật về nghĩa vụ, giao dịch và hợp đồng
Văn bản quan trọng nhất về nghĩa vụ, giao dịch và hợp đồng là Bộ luật Dân sự.
Ngoài ra, còn có những văn bản như: Luật Thương mại, Bộ luật Hàng hải, Bộ luật
Lao động, Luật Kinh doanh… Về nguyên tắc áp dụng pháp luật, Bộ luật Dân sự là
luật gốc, quy định các vấn đề chung về nghĩa vụ, giao dịch và hợp đồng, là nền
tảng cho những quy định pháp luật về hợp đồng và áp dụng chung cho tất cả các
loại hợp đồng. Từ đó, tùy theo tính chất của các mối quan hệ hoặc các giao dịch,
các luật chuyên ngành có thể có những quy định riêng điều chỉnh các mối quan hệ
trong lĩnh vực đó.
Pháp luật về lĩnh vực này được xem là khá tiến bộ, điều chỉnh nhiều vấn đề cơ
bản của pháp luật kinh doanh hiện đại, như thuê mua tài chính, nhượng quyền, giao
dịch tư lợi, giao dịch nội gián, rửa tiền,... Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại nhiều vấn đề
về giao dịch và hợp đồng, như sự trùng lặp, thiếu nhất quán và không đồng bộ,
thiếu tính liên thông về dân sự và thương mại, nhiều quy định chưa tương thích với
pháp luật quốc tế…
Pháp luật về pháp nhân, doanh nghiệp
Hệ thống văn bản pháp luật này trực tiếp điều chỉnh pháp nhân và doanh nghiệp
như Luật Chứng khoán quy định về công ty đại chúng… Nhóm liên quan trực tiếp
gồm có Luật Kinh doanh bất động sản, Luật Luật sư, Luật Chứng khoán, Luật Hợp
tác xã...
Nhóm liên quan gián tiếp có Luật Thương mại, Luật Đầu tư, Bộ luật Lao động,
Luật Cán bộ, công chức, Luật Viên chức, Luật Cạnh tranh,... Hệ thống văn bản liên
quan tới pháp nhân và doanh nghiệp như Bộ luật Lao động, quy định về quyền
tuyển dụng lao động của người sử dụng lao động…


Pháp luật về doanh nghiệp của Việt Nam hiện nay nhìn chung phù hợp với

chuẩn mực và thông lệ quốc tế, đề cập tới nhiều vấn đề về quản trị doanh nghiệp
hiện đại, như trách nhiệm tiền công ty, bảo vệ cổ đông thiểu số, doanh nghiệp xã
hội... Tuy nhiên, vẫn còn nhiều vấn đề đặt ra như các điều kiện của pháp nhân,
phân loại pháp nhân, chế độ đại diện…
Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định 4 điều kiện để một tổ chức có thể có tư cách
pháp nhân. Tuy nhiên, Bộ luật này không quy định trực tiếp về điều kiện bảo đảm
tính hợp pháp của một tổ chức. Còn nhiều điểm khó giải thích như thế nào là có cơ
cấu tổ chức chặt chẽ, thế nào là có tài sản độc lập với cá nhân, tổ chức khác… Việc
phân chia pháp nhân dường như không theo một tiêu chí rõ rệt nào. Trong khi đó,
luật pháp của nhiều nước quy định rõ về các loại pháp nhân. Bộ luật Dân sự của Hà
Lan và Liên bang Nga đều có quy định về pháp nhân công và pháp nhân tư; pháp
nhân tìm kiếm lợi nhuận và pháp nhân phi lợi nhuận.
Đối với quy định về đại diện, việc đại diện cho từ hai pháp nhân trở lên chưa
được quy định rõ ràng. Bộ luật Dân sự cũng chưa làm rõ vấn đề một tổ chức có thể
làm đại diện được không. Trong khi đó, Bộ luật Dân sự của An-ba-ni và Lít-va cho
phép pháp nhân có thể làm đại diện.
Pháp luật về tài sản, đất đai và sở hữu
Pháp luật thuộc nhóm này gồm các văn bản như, Bộ luật Dân sự, Luật Đất đai,
Luật Nhà ở… Tuy nhiên, còn nhiều vấn đề cần được nhìn nhận và quy định phù
hợp với tình hình chung.
Quy định về tài sản và sở hữu được ghi nhận trong Bộ luật Dân sự năm 2005.
Quy định về tài sản nhà nước được quy định trong Bộ luật Dân sự, Luật Tổ chức
Quốc hội, Luật Tổ chức Chính phủ, Luật Đất đai…
Pháp luật về xác lập và thực hiện các thủ tục trong lĩnh vực kinh tế
Trong nhóm này có thể kể đến: Bộ luật Tố tụng hình sự, Bộ luật Tố tụng dân sự,
Luật Tố tụng hành chính… Các văn bản này tạo lập những cơ sở pháp lý cho việc
xác lập và thực hiện các thủ tục về kinh tế. Tuy nhiên, còn nhiều vấn đề chưa hoàn
toàn phù hợp với pháp luật về thủ tục ở Việt Nam, Bộ luật Tố tụng dân sự là một ví
dụ. Thực tiễn giải quyết các tranh chấp tại toà án cho thấy một số quy định được
xây dựng theo mô hình của nước ngoài nên không phù hợp với điều kiện, hoàn

cảnh thực tế của Việt Nam, như quy định về nghĩa vụ chứng minh, thủ tục cung
cấp, thu thập chứng cứ…


Pháp luật về quan hệ quốc tế
Để đáp ứng yêu cầu hợp tác và hội nhập quốc tế diễn ra ngày càng sâu rộng,
mạnh mẽ, Việt Nam xây dựng và ban hành nhiều văn bản pháp luật như Luật Ký
kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế; Luật Quốc tịch… Những văn bản này
đã thể hiện sự thay đổi trong pháp luật Việt Nam thể hiện ở hiệu lực pháp lý của
văn bản và nhiều văn bản từ pháp lệnh được nâng lên thành luật
Những hạn chế của hệ thống pháp luật về kinh tế hiện nay
Trong ba thập niên vừa qua Nhà nước đã nỗ lực, tích cực, khẩn trương xây
dựng, sửa đổi, ban hành phát luật phục vụ cho hoạt động kinh tế; cải cách thể chế
nhằm thúc đẩy kinh tế phát triển; xóa bỏ những quy định hạn chế cạnh tranh, phân
biệt đối xử; hoàn thiện các thủ tục hành chính về doanh nghiệp theo hướng tập
trung, đơn giản hóa, thực hiện chế độ công khai, minh bạch; ... Những cải cách đó
đã góp phần thúc đẩy kinh tế phát triển. Trong thời gian tới, mục tiêu phát triển
kinh tế được Đảng ta xác định: “Xây dựng nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập
quốc tế, có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, vận hành đầy đủ,
đồng bộ hiệu quả theo quy luật kinh tế thị trường...”(2). Vì vậy, cần đánh giá khách
quan những hạn chế cơ bản của pháp luật về kinh tế nhằm khắc phục những bất
cập, xây dựng một hệ thống pháp luật phù hợp yêu cầu phát triển kinh tế và hội
nhập quốc tế.
Xây dựng hệ thống pháp luật về kinh tế đáp ứng yêu cầu đổi mới cần tuân thủ
những nguyên tắc về xây dựng, ban hành pháp luật, vì lý do sau: “Khi pháp luật
phản ảnh không đúng, pháp luật được xây dựng không phù hợp với các điều kiện,
yêu cầu của nền kinh tế, những quy định pháp luật quá cao hoặc quá thấp so với sự
phát triển của nền kinh tế, chúng sẽ kìm hãm sự phát triển của kinh tế, thậm chí
còn có thể mang lại những tác hại nhất định cho nền kinh tế”(3). Những yêu cầu cơ
bản trong quá trình xây dựng hệ thống văn bản pháp luật kinh tế là những nguyên

tắc cần được các cơ quan chức năng tuân thủ và áp dụng. “Tuy nhiên, nhìn chung
hệ thống pháp luật nước ta vẫn chưa đồng bộ, thiếu thống nhất, tính khả thi thấp,
chậm đi vào cuộc sống…”(4). Đánh giá về pháp luật kinh tế trong ba thập niên vừa
qua, hiện có nhiều vấn đề cần được xem xét trong việc xây dựng và hoàn thiện hệ
thống pháp luật kinh tế:
Thứ nhất, tính cụ thể, minh bạch, tính thống nhất của hệ thống pháp luật về kinh
tế ở Việt Nam chưa cao. Môi trường pháp luật kinh tế ở Việt Nam hiện vẫn còn là
một hệ thống chồng chéo, thiếu đồng bộ của nhiều văn bản quy phạm pháp luật. Từ
đó dẫn tới sự thiếu minh bạch trong hệ thống văn bản pháp luật. Những thay đổi


khó dự đoán trước của hệ thống pháp luật cũng là một vấn đề có tác động tiêu cực
đến hoạt động kinh doanh ở Việt Nam.
Thứ hai, năng lực xây dựng pháp luật của các cơ quan chức năng chưa hoàn
toàn đáp ứng yêu cầu của sự phát triển đời sống xã hội; nhu cầu điều chỉnh bằng
pháp luật ngày càng cao của xã hội; nhu cầu xây dựng nền kinh tế thị trường và hội
nhập quốc tế.
Thứ ba, tính khả thi và hiệu quả của pháp luật còn thấp. Các văn bản quy phạm
pháp luật được ban hành ngày càng nhiều hơn nhưng thường xuyên bị thay đổi,
gây tốn kém kinh phí, nguồn lực cho việc sửa đổi, bổ sung. Hiện nay, các đạo luật,
bộ luật có nhiều vướng mắc là: Luật Đất đai, Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư,
Luật Thương mại, Bộ luật Dân sự... Những bất cập đó có thể kể đến là: vấn đề về
tiếp cận đất đai; tiếp cận vốn; tiếp cận thị trường; thủ tục, điều kiện kinh doanh;
quản trị tài chính doanh nghiệp.
Thứ tư, vẫn còn tồn tại sự chưa tương thích giữa việc ban hành luật với thời
gian soạn thảo luật. Nhu cầu ban hành mới hoặc sửa đổi, bổ sung văn bản pháp
luật; áp lực từ chương trình lập pháp; yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội; yêu cầu
của hội nhập quốc tế… ngày càng cao, do đó, dẫn đến tình trạng thiếu thời gian,
vội vàng, thiếu kỹ lưỡng trong việc thảo luận và giải quyết thấu đáo những vấn đề
có liên quan trong quá trình soạn thảo nhiều dự án luật.

Thứ năm, thiếu quy trình lập pháp khoa học, hợp lý. Đối với một quy trình xây
dựng pháp luật khoa học thì “ban soạn thảo” và “tổ biên tập” là những chủ thể có
trách nhiệm trực tiếp, trong đó “ban soạn thảo” chịu trách nhiệm chính. Về tổ biên
tập, đó là tập hợp của các chuyên gia về luật pháp và các chuyên gia liên ngành.
Tuy nhiên, hiện nay, cách thức lựa chọn những thành viên này, sự phối kết hợp
giữa họ trong xây dựng pháp luật là một vấn đề pháp lý chưa được phân định rõ
ràng.
Thứ sáu, hội nhập kinh tế quốc tế đặt ra áp lực đối với việc thay đổi hệ thống
pháp luật trong nước. Áp lực này thể hiện qua những cam kết quốc tế của Việt
Nam về doanh nghiệp, đầu tư, hải quan… Bên cạnh đó còn là những áp lực từ sự
gia nhập của Việt Nam vào Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO); việc hình thành
Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC), cũng như các khối thương mại khu vực; các
hiệp định thương mại song phương; các hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư.

III. NỘI DUNG NGÀNH LUẬT KINH TẾ VIỆT NAM
1.Những vấn đề cơ bản của ngành luật kinh tế Việt Nam
Đối tượng điều chỉnh:


Các quan hệ kinh tế phát sinh trong quá trình quản lý kinh tế giữa các cơ quan
quản lý nhà nước về kinh tế với các tổ chức kinh tế xã hội chủ nghĩa.
Các quan hệ kinh tế phát sinh trong quá trình sản xuất kinh doanh giữa các tổ
chức kinh tế XHCN với nhau.
=> Đối tượng điều chỉnh của luật kinh tế là những quan hệ kinh tế vừa mang
yếu tố tài sản vừa mang yếu tố tổ chức kế hoạch.
Những yếu tố này thể hiện trong các nhóm quan hệ ở mức độ khác nhau
Cụ thể:
Trong nhóm quan hệ quản lý kinh tế:
Yếu tố tổ chức kế hoạch là tính trội còn yếu tố tài sản không đậm nét vì trong
quan hệ lãnh đạo yếu tố tài sản chỉ thể hiện ở những chỉ tiêu pháp lệnh mà nhà nước

cân đối vật tư tiền vốn cho các tổ chức kinh tế XHCN để các tổ chức kinh tế này thực
hiện nhiệm vụ kế hoạch của nhà nước giao.
Trong nhóm quan hệ ngang:
Yếu tố tài sản lại thể hiện rõ nét còn yếu tố tổ chức kế hoạch mờ nhạt hơn
Yếu tố tổ chức kế hoạch trong quan hệ ngang chỉ thể hiện ở chỗ:
 Nhà nước bắt buộc các đơn vị kinh tế có liên quan phải ký kết hợp đồng
kinh tế.
 Khi ký kết hợp đồng kinh tế phải dựa vào chỉ tiêu pháp lệnh. Trường hợp kế
hoạch nhà nước thay đổi hoặc huỷ bỏ thì hợp đồng đã ký cũng phải thay đổi
hoặc sửa đổi theo (như vậy quan hệ hợp đồng theo cơ chế cũ không được
hiểu theo đúng nghĩa truyền thống: Tự do khế ước, tự do ý chí).
=> phương pháp điều chỉnh
Để phù hợp với đặc điểm của đối tượng điều chỉnh, luật kinh tế áp dụng
phương pháp điều chỉnh riêng. Theo quan niệm truyền thống phương pháp điều
chỉnh của luật kinh tế là phương pháp kết hợp hài hoà giữa phương pháp thoả
thuận bình đẳng với phương pháp mệnh lệnh hành chính . Nghĩa là khi điều chỉnh
1 quan hệ kinh tế cụ thể, luật kinh tế phải sử dụng đồng thời cả 2 phương pháp thoả
thuận và mệnh lệnh


=> Chủ thể của luật kinh tế
Đặc trưng của nền kinh tế XHCN là dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản
xuất và được quản lý bằng cơ chế kế hoạch hoá tập trung vì vậy hoạt động kinh tế
không do từng công dân riêng lẻ thực hiện mà do tập thẻe người lao động của các
tổ chức kinh tế nhà nước và tập thể, các cơ quan kinh tế và các tổ chức xã hội khác
thực hiện.
Chủ thể của luật kinh tế gồm:

Pháp nhân là 1 khái niệm được sử dụng để ám chỉ 1 loại chủ thể pháp lý độc
lập để phân biệt với các chủ thể của con người (bao gồm cá nhân và tập thể). Như

vậy pháp nhân là 1 thực thể trìu tượng được hư cấu, thể hiện tình trạng tách bạch
về mặt tài sản của nó với tài sản còn lại của chủ sở hữu, người đã sáng tạo ra nó
Theo quan niệm truyền thống thì cá nhân không được công nhận là chủ thể của
luật kinh tế bởi lẽ trong nền kinh tế XHCN không tồn tài thành phần kinh tế tư
nhân.
Ngày nay Việt Nam đang chuyển sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần
theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước thì những quy định của luật kinh
tế trước đây không còn phù hợp với nền kinh tế thị trường- một nền kinh tế có
những bản sắc khác hẳn với nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung.
Đó là

Nền kinh tế thị trường là nền kinh tế hàng hoá
Các thành phần kinh tế đều bình đẳng với nhau tuy nhiên trong nền kinh tế thị
trường của Việt Nam kinh tế quốc doanh vẫn giữ vai trò chủ đạo nhằm đảm bảo sự
cân đối nhất định cho toàn bộ nền kinh tế.
Trong nền kinh tế thị trường hình thức tổ chức kinh doanh rất đa dạng và phong
phú -> Chủ thể kinh doanh không còn bó hẹp ở các tổ chức kinh tế quốc doanh và
tập thể (HTX) mà mở rộng đến các loại hình kinh doanh của tư nhân, nước
ngoài…Như vậy chủ thể của luật kinh tế sẽ đa dạng hơn nhiều so với cơ chế trước
đây.


Tự do kinh doanh, chủ động sáng tạo trong kinh doanh của các chủ thể kinh
doanh, sự cạnh tranh và phá sản của các doanh nghiệp là những đặc tính tất yếu
của nền kinh tế thị trường mà nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung không thể có.
Những đặc tính này chứng tỏ:
 Các chủ thể kinh doanh trong nền kinh tế thị trường có thể tự do lựa chọn
ngành nghề kinh doanh, tự quyết định quá trình kinh doanh và tự chịu trách
nhiệm về kết quả hoạt động sản xuất của mình và có nghĩa vụ đóng góp với
nhà nước mà không bị chi phối bởi hệ thống chỉ tiêu pháp lệnh của nhà

nước.
 Những quan hệ kinh tế được thiết lập với mục đích chủ yếu là kinh doanh
kiếm lời.
Tuy nhiên khác với một số nước trong nền kinh tế thị trường những đặc tính
trên nằm trong 1 giới hạn nhất định có nghĩa là nền kinh tế thị trường của Việt
Nam phải đảm bảo có sự quản lý của nhà nước và theo định hướng XHCN.
Nhận thức được đúng đắn những đặc tính cố hữu của nền kinh tế thị trường nói
chung cùng với những sắc thái riêng của nền kinh tế thị trường của Viịet Nam các
nhà làm luật đã có thay đổi đáng kể trong việc xem xét các vấn đề lý luận về luật
kinh tế nhằm phát huy được vai trò điều tiết các hoạt động kinh tế của luật kinh tế.
Đối tượng điều chỉnh của luật kinh tế
Đối tượng điều chỉnh của luật kinh tế là những quan hệ kinh tế do luật kinh tế
tác động vào bao gồm:
Nhóm quan hệ quản lý kinh tế
 Là quan hệ phát sinh trong quá trình quản lý kinh tế giữa các cơ quan quản
lý nhà nước về kinh tế với các chủ thể kinh doanh
 Đặc điểm của nhóm quan hệ này:
o Quan hệ quản lý kinh tế phát sinh và tồn tại giữa các cơ quan quản lý
và các cơ quan bị quản lý (Các chủ thể kinh doanh) khi các cơ quan
quản lý thực hiện chức năng quản lý của mình.


o Chủ thể tham gia quan hệ này ở vào vị trí bất đẳng (Vì quan hệ này
hình thành và được thực hiện dựa trên nguyên tắc quyền uy phục
tùng)
o Cơ sở pháp lý: Chủ yếu thông qua các văn bản pháp lý do các cơ quan
quản lý có thẩm quyền ban hành.
Quan hệ kinh tế phát sinh trong quá trình kinh doanh giữa các chủ thể kinh
doanh với nhau
 Đây là những quan hệ kinh tế thường phát sinh do thực hiện hoạt động sản

xuất, hoạt động tiêu thụ sản phẩm hoặc thực hiện các hoạt động dịch vụ trên
thị trường nhằm mục đích sinh lời.
Trong hệ thống các quan hệ kinh tế thuộc đối tượng điều chỉnh của luật kinh tế,
nhóm quan hệ này là nhóm quan hệ chủ yếu, thường xuyên và phổ biến nhất.
 Đặc điểm:
o Chúng phát sinh trực tiếp trong quá trình kinh doanh nhằm đáp ứng
các nhu cầu kinh doanh của các chủ thể kinh doanh
o Chúng phát sinh trên cơ sở thống nhất ý chí của các bên thông qua
hình thức pháp lý là hợp đồng kinh tế hoặc những thoả thuận.
o Chủ thể của nhóm quan hệ này chủ yếu là các chủ thể kinh doanh
thuộc các thành phần kinh tế tham gia vào quan hệ này trên nguyên
tắc tự nguyện, bình đẳng và các bên cùng có lợi.
o Nhóm quan hệ này là nhóm quan hệ tài sản - quan hệ hàng hoá- tiền tệ
Quan hệ kinh tế phát sinh trong nội bộ một số doanh nghiệp
Là các quan hệ kinh tế phát sinh trong quá trình hoạt động kinh doanh giữa
tổng công ty, tập đoàn kinh doanh và các đơn vị thành viên cũng như giữa các đơn
vị thành viên trong nội bộ tổng công ty hoặc tập đoàn kinh doanh đó với nhau..
Cơ sỏ pháp lý : Thông qua nội quy, quy chế, điều lệ, cam kết.
Phương pháp điều chỉnh


Do luật kinh tế vừa điều chỉnh quan hệ quản lý kinh tế giữa chủ thể không bình
đẳng vừa điều chỉnh quan hệ tài sản giữa các chủ thể bình đẳng với nhau phát sinh
trong quá trình kinh doanh cho nên luật kinh tế sử dụng và phối hợp nhiều phương
pháp tác động khác nhau như kết hợp phương pháp mệnh lệnh với phương pháp
Được sử dụng chủ yếu để điều chỉnh nhóm quan hệ quản lý kinh tế giữa các
chủ thể bất bình đẳng với nhau. Để phù hợp với đặc trưng của nhóm quan hệ này
luật kinh tế đã tác động vào chúng bằng cách quy định cho các cơ quan quản lý nhà
nước về kinh tế trong phạm vi chức năng của mìnhcó quyền ra quyết định chỉ thị
bắt buộc đối với các chủ thể kinh doanh (bên bị quản lý). Còn bên bị quản lý có

nghĩa vụ thực hiện quyết định đó
Phương pháp thoả thuận
Được sử dụng để điều chỉnh các quan hệ kinh tế phát sinh trong quá trình kinh
doanh giữa các chủ thể bình đẳng với nhau.
Bản chất của phương pháp này thể hiện ở chỗ: Luật kinh tế quy định cho các
bên tham quan hệ kinh tế có quyền bình đẳng với nhau, thoả thuận những vấn đề
mà các bên quan tâm khi thiết lập hoặc chấm dứt quan hệ kinh tế mà không bị phụ
thuộc vào ý chí của bất kỳ tổ chức, cá nhân nào. Điều này có nghĩa là pháp luật qui
định quan hệ kinh tế chỉ được coi là hình thành trên cơ sở sự thống nhất ý chí của
các bên và không trái với các quy định của nhà nước
Chủ thể của luật kinh tế
Chủ thể của luật kinh tế bao gồm các tổ chức, cá nhân có đủ điều kiện để tham
gia vào những quan hệ do luật kinh tế điều chỉnh.
Điều kiện để trở thành chủ thể của luật kinh tế
 phải được thành lập một cách hợp pháp
Những cơ quan, tổ chức được coi là thành lập hợp pháp khi chúng được cơ quan
nhà nước có thẩm quyền ra quyết định thành lập hoặc cho phép thành lập hoặc tuân
thủ các thủ tục do luật định ra được tổ chức dưới những hình thức nhất định với
chức năng, nhiệm vụ và phạm vi hoạt động rõ ràng theo các quy định của pháp
luật.
 Phải có tài sản riêng
Một tổ chức được coi là có tài sản riêng khi


o Tổ chức đó có một khối lượng tài sản nhất định phân biệt với tài sản
của cơ quan cấp trên hoặc của các tổ chức khác
o Có khối lượng quyền năng nhất định để chi phối khối lượng tài sản đó
và phải tự chịu trách nhiệm độc lập bằng chính tài sản đó
 Phải có thẩm quyền kinh tế
Thẩm quyền kinh tế là tổng hợp các quyền và nghĩa vụ về kinh tế được pháp luật

ghi nhận hoặc công nhận. Thẩm quyền kinh tế của một chủ thể luật kinh tế luôn
phải tương ứng với chức năng nhiệm vụ và lĩnh vực hoạt động của nó. Như vậy có
thể thấy thẩm quyền kinh tế là giới hạn pháp lý mà trong đó các chủ thể luật kinh tế
được hành động hoặc phải hành động hoặc không được phép hành động. Thẩm
quyền kinh tế trở thành cơ sở pháp lý để các chủ thể luật kinh tế thực hiện các hành
vi pháp lý nhằm tạo ra các quyền và nghĩa vụ cụ thể cho mình.
Các loại chủ thể của luật kinh tế
 Nếu căn cứ vào chức năng hoạt động của chủ thể luật kinh tế gồm:
o Cơ quan có chức năng quản lý kinh tế: Đây là những cơ quan nhà
nước trực tiếp thực hiện chức năng quản lý kinh tế , gồm cơ quan
quản lý có thẩm quyền chung, cơ quan quản lý có thẩm quyền riêng.
o Các đơn vị có chức năng sản xuất kinh doanh trong đó gồm các doanh
nghiệp thuộc các thành phần kinh tế và cả cá nhân được phép kinh
doanh, nhưng chủ yếu là các doanh nghiệp
 Nếu căn cứ vào vị trí, vai trò và mức độ tham gia vào các quan hệ luật kinh
tế thì có các chủ thể sau:
o Chủ thể chủ yếu và thường xuyên của luật kinh tế. Đó là các doanh
nghiệp bởi vì trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế
thị trường của nước ta, các doanh nghiệp được thành lập với mục đích
chủ yếu là tiến hành các hoạt động kinh doanh. Sự tồn tại của chúng
gắn liền với hoạt động kinh doanh, vì thế chúng thường xuyên tham
gia vào các quan hệ kinh tế. Tức là sự tham gia vào các quan hệ kinh
tế của các doanh nghiệp thể hiện tính phổ biến, tính liên tục và phạm
vi rộng rãi.


o Chủ thể không thường xuyên của luật kinh tế. Đó là những cơ quan
hành chính sự nghiệp như trường học, bệnh viện, viện nghiên cứu và
các tổ chức xã hội trong quá trình hoạt động cũng ký kết hợp đồng
kinh tế để phục vụ cho hoạt động chính của đơn vị. Sự tham gia vào

các quan hệ do luật kinh tế điều chỉnh của các tổ chức này là không
thường xuyên liên tục do đó chúng không phải là chủ thể, thường
xuyên chủ yếu của luật kinh tế.
Chủ thể kinh doanh
Hành vi kinh doanh
Về mặt pháp lý từ trước năm 1990, Luật kinh tế nước ta chưa hề có định nghĩa
cụ thể về hành vi kinh doanh. Cho đến ngày 21/12/1990 khi quốc hội thông qua
luật công ty thì tại điều 3 của luật công ty hành vi kinh doanh mới được định nghĩa
về mặt pháp lý.
Tuy nhiên định nghĩa pháp lý này không chỉ áp dụng riêng cho công ty mà được
áp dụng chung cho các chủ thể kinh doanh.
Theo điều này của luật công ty ( mới đây là điều 3 của luật doanh nghiệp ) thì :
" Kinh doanh là việc thực hiện một, một số hay tất cả các công đoạn của quá trình
đầu tư từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc thực hiện dịch vụ trên thị trường
nhằm mục đích kiếm lời".
Như vậy theo định nghĩa này thì một hành vi được coi là hành vi kinh doanh
nếu đáp ứng được các dấu hiệu sau
 Hành vi đó phải mang tính chất nghề nghiệp
Tính chất nghề nghiệp cần được hiểu là chủ thể của hành vi "sinh sống" bằng
loại hành vi đó và nếu hiểu theo nghĩa pháp lý thì họ được pháp luật thừa nhận và
bảo hộ. Sự thừa nhận của pháp luật trong trường hợp này thể hiện chủ yếu trong
việc đăng ký kinh doanh.
 Hành vi đó phải diễn ra trên thị trường
 Hành vi có mục đích kiếm lời
 Hành vi đó phải diễn ra thường xuyên
Chủ thể kinh doanh và phân loại doanh nghiệp


Khái niệm chủ thể kinh doanh
Mặc dù khái niệm chủ thể kinh doanh không được định nghĩa về mặt pháp lý

nhưng xuất phát từ khái niệm về hành vi kinh doanh thì chủ thể của hành vi kinh
doanh hiểu theo nghĩa thực tế và pháp lý là những pháp nhân hay thể nhân thực
hiện trên thực tế những hành vi kinh doanh.
Pháp nhân
Là thực thể pháp lý
 Được thành lập hay thừa nhận một cách hợp pháp
Những cơ quan, tổ chức được coi là thành lập hợp pháp khi chúng được cơ
quan nhà nước có thẩm quyền ra quyết định thành lập hoặc cho phép thành lập
hoặc tuân thủ các thủ tục do luật định ra được tổ chức dưới những hình thức nhất
định với chức năng, nhiệm vụ và phạm vi hoạt động rõ ràng theo các quy định của
pháp luật.
 Có tài sản riêng
Một tổ chức được coi là có tài sản riêng khi
o Tổ chức đó có một khối lượng tài sản nhất định phân biệt với tài sản
của cơ quan cấp trên hoặc của các tổ chức khác
o Đồng thời có khối lượng quyền năng nhất định để chi phối khối lượng
tài sản đó và phải tự chịu trách nhiệm độc lập bằng chính tài sản đó
 Tự chịu trách nhiệm về mọi hoạt động của mình bằng số tài sản riêng đó
 Là nguyên đơn hay bị đơn trước các cơ quan tài phán
Trong đó dấu hiệu thứ (2) và (3) là thuộc tính riêng của pháp nhân
Thể nhân
Là những thực thể pháp lý độc lập về tư cách chủ thể. Song ở đó không có sự
tách bạch về tài sản giữa phần của thực thể đó và của chủ sở hữu của nó.
Vì vậy khi xem xét về chế độ trách nhiệm về mặt tài sản trong kinh doanh thì
chính thực thể pháp lý đó cùng với chủ sở hữu của nó (cá nhân hoặc tổ chức góp
vốn ) cùng liên đới chịu trách nhiệm vô hạn về các khoản nợ của thực thể pháp lý
đó


Tóm lại chủ thể kinh doanh hợp pháp trên thực tế là những đơn vị kinh doanh

có tư cách pháp nhân hoặc không có tư cách pháp nhân. Như vậy có hay không có
tư cách pháp nhân không phải là điều kiện tiên quyết để xác định sự tồn tại hợp
pháp hay bình đẳng của các chủ thể kinh doanh. Vấn đề pháp nhân hay thể nhân
chỉ dẫn đến kết cục về mặt pháp lý là xem xét đến chế độ trách nhiệm hữu hạn hay
vô hạn của đơn vị kinh doanh mà thôi.
Trách nhiệm vô hạn được hiểu là tính vô hạn (và thậm chí là vĩnh cửu) của
nghĩa vụ trả nợ
Trách nhiệm hữu hạn là tính có giới hạn về khả năng trả nợ của các doanh
nghiệp. Theo lý thuyết chung và thông lệ quốc tế, một doanh nghiệp có chế độ
trách nhiệm hữu hạn chỉ có khả năng trả nợ đến mức giá trị vốn tài sản của nó. Đó
là vốn điều lệ.
Doanh nghiệp
Khái niệm doanh nghiệp
Điều 3 của luật doanh nghiệp có định nghĩa rằng: " Doanh nghiệp là tổ chức
kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh
doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh
doanh".
Theo định nghĩa pháp lý đó thì doanh nghiệp phải là những đơn vị tồn tại trước
hết vì mục đích kinh doanh. Những thực thể pháp lý, không lấy kinh doanh làm
mục tiêu chính cho hoạt động của mình thì không được coi là doanh nghiệp.
Phân loại doanh nghiệp
 Căn cứ vào dấu hiệu sở hữu (Tính chất sở hữu của những vốn và tài sản
được sử dụng để thành lập doanh nghiệp - Sở hữu vốn) người ta có thể chia
doanh nghiệp thành
o Doanh nghiệp nhà nước
o Doanh nghiệp tư nhân
o Doanh nghiệp tập thể
o Doanh nghiệp của các tổ chức chính trị - xã hội
 Căn cứ vào dấu hiệu về phương thức đầu tư vốn có thể chia doanh nghiệp
thành



o Doanh nghiệp có vốn đầu tư trong nước
o Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ( bao gồm doanh nghiệp liên
doanh và doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài
Hoặc
o Doanh nghiệp một chủ: Là doanh nghiệp do một chủ đầu tư vốn để
thành lập
o Doanh nghiệp nhiều chủ: Là doanh nghiệp được hình thành trên cơ sở
liên kết của các thành viên thể hiện qua việc cùng nhau góp vốn thành
lập doanh nghiệp
 Căn cứ vào tính chất của chế độ trách nhiệm về mặt tài sản, Doanh nghiệp
được chia thành
o Doanh nghiệp chịu trách nhiệm hữu hạn.
o Doanh nghiệp chịu trách nhiệm vô hạn

2. Thực trạng về ngành pháp luật kinh tế việt nam
2.1.Thực trạng xây dựng pháp luật kinh tế ở nước ta hiện nay
2.1.1. Kết quả xây dựng pháp luật kinh tế
Qua nghiên cứu hoạt động xây dựng pháp luật của nước ta thời gian qua, có thể
thấy những thành tựu đã đạt được trong lĩnh vực này như sau:
Thứ nhất, đường lối, quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng Cộng sản
Việt Nam về kinh tế cơ bản đã được thể chế hóa đầy đủ trong chính sách, pháp luật
của Nhà nước. Hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách tiếp tục được hoàn thiện[1].
Thứ hai, tính tối thượng của Hiến pháp và các đạo luật, nguyên tắc nhà nước
quản lý bằng pháp luật đã được quán triệt trong thực tiễn thể chế hóa đường lối,
quan điểm, chính sách của Đảng, cũng như trong hoạt động của bộ máy nhà nước
và của công chức, viên chức nhà nước.
Hiện nay, Nhà nước thực thi quyền lực của mình dựa trên nền tảng Hiến pháp
và pháp luật. Pháp luật được ban hành theo thủ tục hiến định. Nhà nước chịu sự



kiểm soát, sự chế ngự của pháp luật trong mọi hoạt động. Nhà nước có nghĩa vụ
bảo đảm bằng pháp luật các quyền tự do, dân chủ của nhân dân và công lý[2].
Thứ ba, pháp luật, cơ chế, chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và các
nguồn lực kinh tế đang được sử dụng như công cụ chủ yếu để quản lý nhà nước về
kinh tế.
Đại hội Đảng lần thứ XI tiếp tục chủ trương sử dụng pháp luật, cơ chế, chính
sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và các nguồn lực kinh tế trong quản lý nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Việc nhấn mạnh vai trò của pháp
luật, cơ chế, chính sách trước các công cụ chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và các
nguồn lực kinh tế cho thấy sự thay đổi trong nhận thức của Đại hội Đảng XI.
Thứ tư, Nhà nước đã hình thành cơ sở pháp lý cần thiết để tổ chức, vận hành,
quản lý nền kinh tế thị trường với hệ thống các quy phạm pháp luật về sở hữu, về
quyền tự do kinh doanh, về cạnh tranh và chống độc quyền, về các loại thị trường,
về bình đẳng giữa các doanh nghiệp,… Hệ thống pháp luật kinh tế hiện hành đã
thay thế hoàn toàn cơ sở pháp lý của nền kinh tế kế hoạch hóa quan liêu, bao cấp.
Ngoài các quy định do Nhà nước ban hành, một số nguyên tắc cho phép sử dụng
quy tắc, chuẩn mực xã hội về/hoặc liên quan đến kinh tế, kể cả các quy tắc hay
chuẩn mực phi chính thức đã được thừa nhận[3].
Đại hội Đảng lần thứ IX chính thức đưa ra khái niệm “kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa” và khái quát những nhân tố cấu thành cơ bản của nó[4].
Đại hội Đảng lần thứ XI đã làm rõ thêm nội dung của kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Theo đó, “nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa ở nước ta là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ
chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
Đây là một hình thái kinh tế thị trường vừa tuân theo những quy luật của kinh tế thị
trường, vừa dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản
chất của chủ nghĩa xã hội. Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, cơ chế thị trường phải được vận dụng đầy đủ, linh hoạt để phát huy mạnh

mẽ và có hiệu quả mọi nguồn lực…”[5].
Đến Đại hội lần thứ XII, Đảng ta xác định rõ hơn yêu cầu xây dựng nền tảng
pháp lý cho nền kinh tế thị trường. Theo đó, đến năm 2020, nước ta phấn đấu cơ
bản hoàn thiện đồng bộ hệ thống thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa theo các tiêu chuẩn phổ biến của nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập
quốc tế[6].


Thứ năm, hệ thống pháp luật, chính sách kinh tế đã được xây dựng tương đối
đồng bộ, cơ bản phù hợp với cơ chế thị trường và đáp ứng được ở mức độ nhất
định yêu cầu, đòi hỏi của sự phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế.
Thứ sáu, trong giai đoạn đầu của công cuộc đổi mới, hoạt động lập pháp, lập
quy tập trung tạo cơ sở pháp lý cho việc cải cách tổ chức và hoạt động của bộ máy
nhà nước, bảo đảm trật tự quản lý hành chính nhà nước, đấu tranh chống tội phạm.
Cùng với quá trình đổi mới chính trị, kinh tế, xã hội của đất nước, pháp luật hướng
nhiều hơn vào việc điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong lĩnh vực thương mại,
dân sự, hội nhập kinh tế quốc tế và giải quyết vấn đề xã hội, phát triển bền vững.
Thứ bảy, phương pháp và cách thức điều chỉnh của pháp luật đã thay đổi theo
hướng tạo hành lang và khung pháp lý, phục vụ vai trò định hướng, điều chỉnh,
kiểm tra, kiểm soát, giám sát, điều tiết, hỗ trợ và khuyến khích phát triển kinh tế thị
trường. Điều này được thấy rõ trong Điều 33 Hiến pháp hiện hành. Thay cho quy
định công dân có quyền tự do kinh doanh theo quy định của pháp luật (Điều 57
Hiến pháp năm 1992, sửa đổi, bổ sung năm 2001), Điều 33 Hiến pháp hiện hành đã
mở rộng phạm vi và đổi mới cách thức điều chỉnh bằng cách quy định: mọi người
có quyền tự do kinh doanh trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm.
Thứ tám, dân chủ trong lĩnh vực kinh tế đã được phản ánh và bảo đảm trong
pháp luật.
Tính chất dân chủ của pháp luật ở nước ta thể hiện ở sự ghi nhận trong pháp
luật các lợi ích đa dạng của các nhóm xã hội, thành phần và khu vực kinh tế; giữa
trung ương và địa phương; giữa các địa phương và vùng lãnh thổ… Cơ chế xây

dựng pháp luật ngày càng dân chủ, công khai, tạo cơ hội và thu hút sự tham gia
thảo luận, đóng góp của các tầng lớp nhân dân, doanh nghiệp. Các văn bản pháp
luật do các cơ quan nhà nước ở trung ương và địa phương ban hành đã được đăng
tải thường xuyên trong Công báo của trung ương và địa phương. Các quyết định
giám đốc thẩm của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã được công bố
công khai. Các luật về thủ tục hành chính, thủ tục pháp lý và thủ tục tố tụng đã
được ban hành và thường xuyên sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với thực tiễn, tạo cơ
sở cho sự phát triển của hệ thống tài phán ở nước ta.
Thứ chín, pháp luật kinh tế đã tạo ra mặt bằng pháp lý chung cho các loại hình
doanh nghiệp, đảm bảo sự bình đẳng về pháp lý trong kinh doanh của các doanh
nghiệp thuộc các thành phần kinh tế, giữa doanh nghiệp trong nước với doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Sự hiện diện của Luật Đầu tư năm 2014, Luật


Doanh nghiệp năm 2014 áp dụng chung cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành
phần kinh tế là minh chứng cho điều đó.
Thứ mười, các quyền con người, quyền công dân về kinh tế làm nền tảng cho
chế độ kinh tế đã được quy định trong Hiến pháp, đạo luật có hiệu lực pháp lý cao
nhất và được cụ thể hóa trong nhiều đạo luật và văn bản dưới luật. Có thể kể đến
các quyền con người, quyền công dân quan trọng trong lĩnh vực kinh tế đã được
pháp luật ghi nhận, bảo đảm và bảo vệ như quyền tư hữu tài sản, quyền tự do kinh
doanh, quyền lao động, quyền tự do nghề nghiệp, quyền tham gia công đoàn. Hiến
pháp ghi nhận quyền bình đẳng trong các quan hệ kinh tế; bình đẳng giữa các
doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế…
Thứ mười một, pháp luật đã tác động đến nhận thức xã hội, làm cho đại bộ phận
cán bộ, công chức, viên chức, người dân và doanh nghiệp hiểu rõ hơn giá trị và hạn
chế của kinh tế thị trường, định hướng hành vi theo nhu cầu của thị trường.
Nhận thức, ý thức tôn trọng, tuân thủ, chấp hành, thực hiện pháp luật của cán
bộ, công chức, viên chức, doanh nghiệp và người dân đã cao hơn. Sự chuyển biến
nhận thức này cũng là kết quả của đổi mới nhận thức về nhà nước pháp quyền và

vai trò của pháp luật trong nhà nước pháp quyền.
Thứ mười hai, cơ quan lập pháp đã tổ chức tốt việc lấy ý kiến nhân dân về sửa
đổi Hiến pháp năm 1992 và thông qua Hiến pháp năm 2013. Cụ thể hoá Hiến pháp,
Quốc hội đã thông qua gần 70 đạo luật[7].
Thứ mười ba, hiện nay, Việt Nam đã thiết lập quan hệ đối tác chiến lược toàn
diện, đối tác chiến lược, đối tác toàn diện, và quan hệ đặc biệt với nhiều nước.
Trong lĩnh vực kinh tế, Việt Nam đã hội nhập ở các cấp độ và hình thức khác nhau
như tham gia các thỏa thuận thương mại ưu đãi (PTA), tham gia các hiệp định
thương mại tự do (FTA), tham gia các liên minh thuế quan (CU), tham gia thị
trường chung và tham gia liên minh kinh tế, tiền tệ. Ngoài khuôn khổ WTO, Việt
Nam đã ký kết nhiều hiệp định thương mại, trong đó có Hiệp định Thương mại
song phương và Hiệp định khung về Thương mại và Đầu tư với Hoa Kỳ[8]. Từ
năm 2001, Việt Nam đã đẩy mạnh đàm phán và ký kết một số hiệp định thương
mại tự do với mức độ cam kết và mở cửa thị trường cao hơn như cắt giảm biểu
thuế theo tỷ lệ và theo lộ trình một số loại thuế đối với thương mại hàng hóa, xóa
bỏ hàng rào phi thuế quan, điều chỉnh một số hoạt động phi thương mại, áp dụng
phương pháp tự do hóa thương mại không chỉ theo phương pháp chọn cho mà cả
phương pháp chọn bỏ, giảm bớt sự bảo hộ trong nước đối với thương mại dịch vụ,
và đầu tư. Việt Nam đã xác lập quan hệ đối tác kinh tế toàn diện với Nhật Bản[9];


ký Hiệp định thương mại tự do với Chile[10]. Riêng trong năm 2015, Việt Nam đã
ký kết 3 Hiệp định thương mại tự do quan trọng với các khu vực thị trường lớn là
Hàn Quốc[11], Liên minh Kinh tế Á - Âu[12], Liên minh châu Âu[13]. Đặc biệt,
ngày 04/02/2016, tại Auckland, New Zealand Việt Nam đã ký Hiệp định Đối tác
xuyên Thái Bình Dương (TPP). Hiện nay, nước ta đang đàm phán ký kết Hiệp định
thương mại tự do với Khối EFTA[14], với Israel[15].
Trong quan hệ với ASEAN, Việt Nam đã tham gia một số hiệp định thương mại
nội khối như Hiệp định Thương mại hàng hoá ASEAN (ATIGA)[16], Hiệp định
khung ASEAN về dịch vụ (AFAS)[17], Hiệp định Đầu tư toàn diện ASEAN

(ACIA)[18], Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC)[19]. Ngoài ra, với tư cách là thành
viên của ASEAN, một số hiệp định ký giữa ASEAN với một số đối tác cũng có
hiệu lực đối với Việt Nam, như Hiệp định khung về Hợp tác kinh tế toàn diện
ASEAN - Ấn Độ[20], Hiệp định thương mại tự do ASEAN - Úc - New Zealand
(AANZFTA)[21], Hiệp định khung về Hợp tác kinh tế toàn diện ASEAN - Hàn
Quốc và các hiệp định đi kèm[22], Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện ASEAN Nhật Bản (AJCEP)[23], Hiệp định khung về Hợp tác kinh tế toàn diện ASEAN Trung Quốc và các hiệp định đi kèm[24]. Hiện nay, nước ta đang cùng một số quốc
gia trong ASEAN đàm phán Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP)
[25], Hiệp định thương mại tự do ASEAN - HongKong.
Thể chế hóa quan điểm của Đảng trong Nghị quyết số 22-NQ/TW ngày
10/4/2013 của Bộ Chính trị về hội nhập quốc tế, Thủ tướng Chính phủ ban hành
Quyết định số 40/QĐ-TTg ngày 07/01/2016 về việc phê duyệt Chiến lược tổng thể
hội nhập quốc tế đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030.
Việc ký kết nhiều điều ước, hiệp định song phương và đa phương về thương
mại, đầu tư, tránh đánh thuế hai lần, đặc biệt là việc gia nhập Tổ chức Thương mại
thế giới đã tạo cơ sở pháp lý và tiền đề, điều kiện quan trọng về thể chế để nền
kinh tế nước ta hội nhập ngày càng sâu rộng và toàn diện vào nền kinh tế quốc tế;
để pháp luật trong nước phù hợp và tương thích với pháp luật quốc tế; đồng thời,
đảm bảo tính quốc tế của sự phát triển kinh tế thị trường nước ta.
Thứ mười bốn, nhiều quan hệ xã hội mới đã được pháp luật điều chỉnh. Chẳng
hạn, khái niệm quyền tài sản theo nghĩa bao gồm quyền sở hữu, quyền sử dụng,
quyền định đoạt và hưởng lợi từ sử dụng tài sản đã được quy định trong Hiến
pháp[26]. Kinh tế tư nhân đã được xác định là một động lực quan trọng của nền
kinh tế[27]. Đây sẽ là tiền đề chính trị, pháp lý hình thành các quan hệ pháp luật
mới.


Ngoài những thành tựu nói trên, những cải cách pháp luật kinh tế trong thời
gian qua tiếp tục được nói đến qua việc cải cách pháp luật về thủ tục kinh doanh,
đầu tư theo hướng đơn giản hơn. Phân cấp trong quản lý kinh tế ngày càng rõ ràng
và mức độ phân cấp cho chính quyền địa phương ngày càng nhiều hơn.

2.1.2. Một số hạn chế trong công tác thể chế hóa
Bên cạnh những thành tựu, pháp luật kinh tế cũng còn một số hạn chế trên cả
hai phương diện:
Thứ nhất, công tác thể chế hóa và ban hành chính sách, pháp luật cụ thể hóa
đường lối, quan điểm, chính sách của Đảng, cũng như cụ thể hóa, hướng dẫn thi
hành luật, trong đó có pháp luật kinh tế vẫn còn chậm[28]. Việc thường xuyên phải
điều chỉnh Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh chưa được khắc phục. Việc
chuẩn bị một số dự án luật chưa bảo đảm tiến độ và chất lượng trình Quốc hội[29].
Điều này ảnh hưởng đến việc thực hiện mục tiêu của đường lối, chính sách.
Thứ hai, chất lượng hệ thống chính sách và pháp luật kinh tế chưa thực sự đáp
ứng được yêu cầu của Nhà nước pháp quyền[30].
Theo đánh giá trong Báo cáo chính trị của Đại hội lần thứ XII của Đảng Cộng
sản Việt Nam, “hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách chưa hoàn chỉnh và đồng bộ,
chất lượng không cao, chưa đáp ứng được yêu cầu đổi mới mô hình tăng trưởng,
cơ cấu lại nền kinh tế, thực hiện ba đột phá chiến lược”. Biểu hiện:
(i) Hiến pháp và một số đạo luật chưa thể áp dụng nếu không có các văn bản
dưới luật cụ thể hóa và hướng dẫn thi hành. Các văn bản dưới luật vẫn chiếm tỷ lệ
lớn trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật. Nhiều văn bản pháp luật kinh tế
cần có số lượng lớn các văn bản hướng dẫn thi hành[31]. Điều này chưa thực sự
phù hợp với yêu cầu đảm bảo tính tối thượng của Hiến pháp và của các đạo luật
trong Nhà nước pháp quyền. Đồng thời, việc văn bản luật cần có nhiều văn bản
hướng dẫn thi hành ít nhiều gây khó khăn cho việc đảm bảo tính thống nhất và tính
pháp chế của pháp luật. Thực trạng này là do các văn bản luật thường có phạm vi
và đối tượng điều chỉnh rộng[32].
(ii) Cơ sở pháp lý cho việc thực hiện chức năng định hướng, kiểm soát, giám
sát, điều tiết, khuyến khích và trợ giúp của Nhà nước đối với thị trường và doanh
nghiệp chưa đầy đủ và chưa đáp ứng được yêu cầu quản lý nhà nước đối với nền
kinh tế thị trường. Điều này có thể thấy qua sự thiếu vắng luật quy hoạch[33].



(iii) Nội dung của một số văn bản pháp luật chưa sát với thực tế, chưa theo kịp
nhu cầu xây dựng và phát triển kinh tế thị trường[34]. Không ít quy định của luật
còn nặng về nguyên tắc chung, thiếu tính ổn định, chưa xác định được nguồn lực
để triển khai thực hiện[35]; thiếu tính khả thi trong pháp luật trọng tài thương
mại[36].
Thứ ba, kết quả cải cách hệ thống pháp luật, cải cách hành chính và cải cách tư
pháp chưa đồng bộ và theo kịp yêu cầu phát triển kinh tế thị trường[37].
Thứ tư, sự hiểu biết và ý thức pháp luật của các doanh nghiệp, nhất là pháp luật
về cạnh tranh, bảo vệ người tiêu dùng, hội nhập quốc tế còn thấp. Nguyên nhân là
do hiệu quả tuyên truyền pháp luật chưa cao và doanh nghiệp chưa thực sự coi
trọng việc tìm hiểu pháp luật.
Thứ năm, việc ưu tiên nguồn lực cho hoạt động xây dựng chính sách, lập pháp
trong lĩnh vực kinh tế là cần thiết, nhưng điều này ít nhiều ảnh hưởng đến việc đảm
bảo tính cân đối và đồng bộ của hệ thống pháp luật trong điều chỉnh các lĩnh vực
khác[38].
Thứ sáu, chi phí thực thi pháp luật còn cao, chẳng hạn chi phí kinh doanh[39],
tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích của công dân trong các tranh chấp kinh tế.
Thứ bảy, công tác điều hành, tổ chức thực thi pháp luật có những mặt còn
yếu[40].
Cơ chế thực thi và phối hợp giữa các bộ, ngành, địa phương trong quán triệt, tổ
chức thực hiện các chủ trương, chính sách và pháp luật còn kém hiệu lực, hiệu
quả[41].
Hiệu quả kiểm tra, giám sát, hiệu quả “hậu kiểm”, xử lý vi phạm còn hạn
chế[42].
Quy định về thủ tục hành chính trong kinh doanh đã cải cách, nhưng trong một
số lĩnh vực chuyên ngành vẫn còn phức tạp, chưa đồng bộ với thủ tục do pháp luật
doanh nghiệp và pháp luật đầu tư quy định.
Thứ tám, năng lực phân tích, dự báo và điều chỉnh chủ trương, cơ chế, chính
sách còn hạn chế[43].
2.1.3. Nguyên nhân của hạn chế trong công tác thể chế hóa

1. Những hạn chế trên là do các nguyên nhân sau:


Thứ nhất, đường lối, quan điểm, chính sách của Đảng đối với một số vấn đề
chưa kịp thời được cụ thể hóa. Điều đó đã ảnh hưởng đến hoạt động thể chế hóa
bằng pháp luật.
Thứ hai, mô hình Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta được hình thành và phát triển theo cách
thức “vừa thiết kế, vừa thi công”, vừa làm, vừa tổng kết rút kinh nghiệm, khái quát
thành lý luận, sau đó chắt lọc xây dựng thành đường lối, chính sách, thể chế hóa và
thực hiện trên thực tế, sau khi kiểm chứng lại chỉnh sửa, bổ sung đường lối và pháp
luật. Các quan hệ kinh tế - xã hội mà pháp luật điều chỉnh đang phát triển, tính ổn
định chưa cao[44].
Thứ ba, công tác dự báo, nghiên cứu lý luận phục vụ việc xây dựng và hoạch
định chính sách và pháp luật chưa theo kịp yêu cầu của thực tiễn. Đây là một trong
những nguyên nhân làm cho pháp luật thiếu tính thực tiễn[45].
Thứ tư, giữa nhận thức về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và
vận dụng nhận thức đó để đưa vào chính sách và pháp luật thường tồn tại khoảng
cách nhất định[46]. Ở đây, là sự thận trọng trong ứng dụng các yếu tố mang tính
phổ biến của các mô hình kinh tế thị trường khác vào mô hình kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn quá độ.
Thứ năm, trình độ của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức làm công tác xây
dựng pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật còn hạn chế. Kinh phí để xây dựng
pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật chưa thực sự tương xứng với nhiệm vụ.
Thứ sáu, nền kinh tế chịu tác động tiêu cực của khủng hoảng tài chính và suy
thoái kinh tế toàn cầu, trong khi đó, trình độ, năng lực nội tại của nền kinh tế và
năng lực xây dựng, thực thi thể chế kinh tế còn bất cập[47].
Thứ bảy, chưa phát huy đầy đủ được vai trò, trách nhiệm của các chủ thể tham
gia vào quá trình xây dựng văn bản, nhất là cơ quan chủ trì, cơ quan tham gia soạn
thảo trong việc chuẩn bị, trình, tiếp thu ý kiến, hoàn thiện dự thảo trình thông qua;

sự tham gia của các chuyên gia, các nhà khoa học vào quá trình chuẩn bị văn bản
còn hạn chế[48].
2. Những vấn đề đặt ra trong quá trình hoàn thiện pháp luật kinh tế
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, yêu cầu tiếp tục xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa và đổi mới, phát triển kinh tế thị trường trong bối cảnh hội


×