Tải bản đầy đủ (.docx) (7 trang)

PHÂN TÍCH QUYỀN và NGHĨA vụ của LUẬT sư THEO QUY ĐỊNH của PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (132.8 KB, 7 trang )

PHÂN TÍCH QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ
CỦA LUẬT SƯ THEO QUY ĐỊNH CỦA
PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH

Sứ mệnh bảo vệ quyền con người, bảo vệ công lý, bảo vệ các quyền tự do,
dân chủ của công dân; quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức là một thực
tế, là tất yếu khách quan được đặt lên vai đội ngũ Luật sư trong bối cảnh đất nước
đang không ngừng phát triển, hướng đến nền dân chủ vững mạnh và xây dựng Nhà
nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Ngày 20/11/2012, Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ 4 đã thông qua Luật sửa
đổi, bổ sung một số điều của Luật Luật sư, qua đó khẳng định và đề cao hơn nữa vị
trí, vai trò, thể hiện sự quan tâm đặc biệt cho đội ngũ Luật sư.
I. Một số vấn đề chung
1. Khái niệm Luật sư
Điều 2 Luật Luật sư quy định: “Luật sư là người có đủ tiêu chuẩn, điều kiện
hành nghề theo quy định của Luật này, thực hiện dịch vụ pháp lý theo yêu cầu của
cá nhân, cơ quan, tổ chức”.
Điều 10 Luật Luật sư quy định về tiêu chuẩn Luật sư, cụ thể: “Công dân Việt
Nam trung thành với Tổ quốc, tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, có phẩm chất đạo
đức tốt, có bằng cử nhân luật, đã được đào tạo nghề luật sư, đã qua thời gian tập sự


hành nghề luật sư, có sức khỏe bảo đảm hành nghề luật sư thì có thể trở thành luật
sư”.
Điều 11 Luật Luật sư quy định về điều kiện hành nghề luật sư, theo đó, nhưng
người có đủ tiêu chuẩn luật sư muốn được hành nghề luật sư thì phải có Chứng chỉ
hành nghề luật sư và gia nhập một Đoàn Luật sư.
Như vậy, có thể hiểu với nhau rằng: Luật sư là một chức danh tư pháp độc
lập, chỉ những người có đủ điều kiện hành nghề chuyên nghiệp theo quy định của
pháp luật nhằm thực hiện việc tư vấn pháp luật, đại diện theo ủy quyền, bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp cho cá nhân, tổ chức và nhà nước trước tòa án và thực


hiện các dịch vụ pháp lý khác.
2. Căn cứ pháp lý về quyền và nghĩa vụ của Luật sư
Căn cứ pháp lý về Quyền và nghĩa vụ của Luật sư được quy định cụ thể tại
Điều 21 Luật Luật sư. Ngoài ra, nghĩa vụ của Luật sư còn được quy định (thể hiện)
tại Khoản 1 Điều 9 Luật Luật sư quy định về các hành vi nghiên cấm Luật sư thực
hiện; Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp Luật sư Việt Nam; cũng như các
hướng dẫn tại Nghị định số 123/2013/NĐ – CP của Chính phủ quy định chi tiết
một số điều và biện pháp thi hành Luật Luật sư, và các văn bản có liên quan khác.
II. Quyền và nghĩa vụ của Luật sư theo quy định của
pháp luật
1. Quyền của Luật sư
Theo Khoản 1 Điều 21 Luật Luật sư, thì Luật sư có các quyền sau:
a. Quyền được pháp luật bảo đảm quyền hành nghề Luật sư
Điểm a Khoản 1 Điều 21 và Khoản 2 Điều 9 Luật Luật sư quy định quyền của
Luật sư được nhà nước bảo đảm quyền hành nghề. Theo đó: Luật sư được pháp
luật bảo đảm quyền hành nghề trong lĩnh vực tham gia tố tụng: Luật sư tham gia
trợ giúp pháp lý với tư cách là người bào chữa cho các bị can, bị cáo người bị tạm
giữ trong các vụ án hình sự hoặc là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho
đương sự trong các vụ án dân sự, hành chính, lao động, ly hôn, người bị hại trong
các vụ án hình sự,… Và tham gia đại diện ngoài tố tụng: Luật sư sẽ cùng người
dân hoặc thay mặt người dân – những đối tượng thuộc diện được trợ giúp pháp lý
để làm việc với các cá nhân, tổ chức, cơ quan nhà nước có thẩm quyền để giải
quyết các vụ việc liên quan đến việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người
dân. Thông thường, Luật sư tham gia đại diện ngoài tố tụng trong các lĩnh vực như:
Hành chính, Lao động, khiếu nại…
Trên thực tế, ở nhiều nơi vẫn xảy ra việc cản trở hoạt động nghề của Luật sư
từ phía cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, đặc biệt là trong giai
đoạn điều tra. Do đó, pháp luật về Luật sư, cũng như pháp luật về tố tụng hình sự,
tố tụng dân sự, tố tụng hành chính đã có những quy định để bảo đảm quyền được
hành nghề của Luật sư; nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân có hành vi cản trở

hoạt động hành nghề của Luật sư.


b. Quyền đại diện cho khách hàng theo quy định của pháp luật
Luật sư đại diện theo ủy quyền trong các vụ án, vụ việc thực hiện các quyền,
nghĩa vụ tố tụng theo nội dung văn bản ủy quyền. Như vậy phạm vi vai trò của luật
sư đại diện theo ủy quyền có thể là rất lớn.
Đại diện theo ủy quyền là một chế định của Bộ luật Dân sự. Theo đó, đại diện
là việc một người nhân danh và vì lợi ích của người khác xác lập, thực hiện giao
dịch dân sự trong phạm vi đại diện. Cá nhân, người đại diện theo pháp luật của
pháp nhân có thể ủy quyền cho người khác xác lập, thực hiện giao dịch dân sự. Nói
vậy để thấy rằng quyền nhờ người đại diện được mở rộng cho nhiều đối tượng và
quyền được làm người đại diện cho người khác cũng không bị bó hẹp (trừ những
trường hợp đặc biệt). Vận dụng quy định này, Luật sư đại diện theo ủy quyền ra
đời để đáp ứng nhu cầu pháp lý giữa các bên một cách linh hoạt nhất và đem tới
hiệu quả cao nhất trong giải quyết yêu cầu pháp lý của các bên.
c. Quyền hành nghề Luật sư, lựa chọn hình thức hành nghề luật sư và hình
thức tổ chức hành nghề luật sư
- Về quyền hành nghề Luật sư: một người được quyền hành nghề Luật sư khi
đáp ứng điều kiện được quy định tại Điều 10 Luật Luật sư. Cụ thể, người đó phải
được cấp Chứng chỉ hành nghề Luật sư (theo Điều 17) và phải gia nhập Đoàn Luật
sư (theo Điều 20).
Ngoài ra, quyền hành nghề của Luật sư cũng được thể hiện ở phạm vi hành
nghề Luật sư theo quy định tại Điều 22 Luật Luật sư.
- Về lựa chọn hình thức hành nghề luật sư: Theo quy định tại Điều 23, Luật sư
có quyền lựa chọn một trong hai hình thức hành nghề sau đây: i) Hành nghề trong
tổ chức hành nghề luật sư hoặc, ii) Hành nghề với tư cách cá nhân (theo quy định
tại Điều 49).
- Về quyền lựa chọn hình thức tổ chức hành nghề Luật sư: Theo quy định tại
Mục 2 Chương III Luật Luật sư, thì Luật sư có quyền lựa chọn thành lập Văn

phòng Luật sư hoặc Công ty Luật. Theo đó, Văn phòng Luật sư được tổ chức và
hoạt động theo hình thức doanh nghiệp tư nhân (Điều 33) và Công ty Luật được tổ
chức và hoạt động theo hình thức Công ty hợp danh hoặc Công ty trách nhiệm hữu
hạn (Điều 34).
d. Quyền được hành nghề luật sư trên toàn lãnh thổ Việt Nam và hành nghề ở
nước ngoài
Với tư cách là “doanh nghiệp”, các Văn phòng Luật sư và Công ty Luật có thể
hoạt động ở bất cứ nơi đâu trên lãnh thổ Việt Nam. Ngoài ra, tại Điều 41 Luật Luật
sư có quy định về chi nhánh của tổ chức hành nghề luật sư . Theo đó, các Văn
phòng Luật sư và Công ty Luật có quyền thành lập Chi nhánh ở bất cứ địa phương
nào trên lãnh thổ Việt Nam trên cơ sở sự cho phép của Sở Tư pháp địa phương nơi
chi nhánh có trụ sở.


Đồng thời với đó là việc Luật sư được phép hành nghề tại tổ chức hành nghề
luật sư hoặc tại chi nhánh của tổ chức. Từ đó, có thể thấy, Luật sư được quyền
hành nghề trên toàn lãnh thổ Việt Nam.
Ngoài ra, Luật sư được phép hành nghề Luật sư ngoài lãnh thổ Việt Nam theo
quy định tại các Điều 43 và Điều 44 Luật Luật sư.
2. Nghĩa vụ của Luật sư
Theo Khoản 2 Điều 21 và Điều 9 Luật Luật sư, thì Luật sư có các nghĩa vụ:
a. Tuân theo các nguyên tắc hành nghề luật sư
Điều 5 Luật Luật sư quy định 5 nguyên tắc hành nghề đối với Luật sư:
- Tuân thủ Hiến pháp và pháp luật: Trong nhà nước pháp quyền, mọi công
dân đều phải thượng tôn pháp luật, đề cao pháp luật và tuân thủ pháp luật. Đó là
nghĩa vụ chung của mọi công dân, trong đó có Luật sư.
Luật sư có nghĩa vụ sử dụng các biện pháp hợp pháp để bảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp của khách hàng. Nhưng Luật sư tuyệt đối không được gợi ý hay khuyên
khách hàng vi phạm hay không tôn trọng pháp luật. Ví dụ: Luật sư có thể khuyên
khách hàng áp dụng các biện pháp hợp pháp để được hưởng các ưu đãi về thuế,

nhưng Luật sư không được phép giúp đỡ khách hàng tìm cách trốn thuế. Là người
am hiểu pháp luật, hơn ai hết, Luật sư phải là tấm gương sáng về giáo dục ý thức
thượng tôn pháp luật, ý thức tuân thủ pháp luật.
- Tuân theo Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt
Nam: Ngày 20/7/2011, Hội đồng Luật sư toàn quốc đã ban hành Bộ quy tắc gồm
27 quy tắc về đạo đức và ứng xử nghề nghiệp của Luật sư. Trong đó, quy tắc về
đạo đức rất được đề cao. Luật sư hành nghề với tư cách cá nhân và tự chịu trách
nhiệm cá nhân về uy tín nghề nghiệp của mình, với mục tiêu phụng sự công lý, tôn
trọng và dựa trên pháp luật thì trước hết phải xuất phát từ một nền tảng đạo đức.
Nếu không xuất phát từ nền tảng này thì luật sư khó có thể có ý thức tôn trọng và
tuân thủ pháp luật khi hành nghề.
Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp Luật sư có giá trị là các chuẩn mực
về đạo đức và ứng xử của giới Luật sư, tạo cơ sở để Luật sư tự giác rèn luyện, tu
dưỡng đạo đức, cách ứng xử trong sinh hoạt và hành nghề; là thước đo giúp Luật
sư giữ gìn phẩm chất, uy tín của mỗi cá nhân; từ đó khiêm tốn học hỏi, tích lũy
kinh nghiệm và kỹ năng hành nghề, góp phần nâng cao uy tín nghề nghiệp của giới
Luật sư trong xã hội.
- Độc lập, trung thực, tôn trọng sự thật khách quan: Luật sư phải độc lập,
trung thực, tôn trọng sự thật khách quan, không vì lợi ích vật chất, tinh thần hoặc
bất kỳ áp lực nào khác để làm trái pháp luật và đạo đức nghề nghiệp. Độc lập,
trung thực ở đây không chỉ với cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng,
mà Luật sư còn phải độc lập, trung thực với cả khách hàng của mình.
- Sử dụng các biện pháp hợp pháp để bảo vệ tốt nhất quyền, lợi ích hợp
pháp của khách hàng: Luật sư có nghĩa vụ bảo đảm chất lượng dịch vụ pháp lý


cung cấp cho khách hàng, tận tâm với công việc, phát huy năng lực, sử dụng kiến
thức chuyên môn, các kỹ năng nghề nghiệp cần thiết để bảo vệ tốt nhất quyền và
lợi ích của khách hàng theo quy định của pháp luật.
- Ngoài ra, Luật sư phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về hoạt động

nghề nghiệp Luật sư. Bởi lẽ, như mọi công dân khác, Luật sư khi làm trái các quy
định của pháp luật, thì lẽ đương nhiên sẽ phải chịu trách nhiệm về những việc làm
sai trái đó.
b. Nghiêm chỉnh chấp hành các nội quy, quy định có liên quan với các cơ quan
tiến hành tố tụng; có thái độ hợp tác, tôn trọng người tiến hành tố tụng mà Luật
sư tiếp xúc khi hành nghề
Luật sư phải chấp hành nội quy phiên tòa, tôn trọng Hội đồng xét xử, đại diện
Viện Kiểm sát; có thái độ ứng xử đúng mực, có văn hóa khi thực hiện quyền xét
hỏi người làm chứng và những người tham gia tố tụng khác; Luật sư không được
cung cấp thông tin, tài liệu, chứng cứ mà Luật sư biết rõ là sai sự thật; thực hiện
những hành vi khác với mục đích lừa dối cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến
hành tố tụng; dùng lời lẽ mang tính chất chỉ trích, xúc phạm cá nhân trong quá
trình tham gia tố tụng; phản ứng tiêu cực bằng hành vi tự ý bỏ về khi tham gia tố
tụng tại phiên tòa làm ảnh hưởng tới quyền lợi hợp pháp của khách hàng, ảnh
hưởng tới hoạt động của Hội đồng xét xử; phát biểu những điều biết rõ là sai sự
thật trên phương tiện thông tin đại chúng hoặc nơi công cộng về những vấn đề có
liên quan đến vụ việc luật sư đảm nhận, nhằm gây ảnh hưởng xấu đến hoạt động
của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng…
c. Tham gia tố tụng đầy đủ, kịp thời các vụ án do cơ quan tiến hành tố tụng yêu
cầu
Nghề Luật sư ở Việt Nam là một nghề cao quý, bởi hoạt động nghề nghiệp
của luật sư nhằm mục đích góp phần bảo vệ quyền con người, bảo vệ công lý, công
bằng, bảo vệ pháp chế. Luật sư phải tham gia đầy đủ, kịp thời các vụ án, để bảo vệ
tốt nhất quyền, lợi ích hợp pháp của khách hàng. Đồng thời, giúp cơ quan tố tụng,
người tiến hành tố tụng nhanh chóng làm rõ sự việc, sớm tìm ra sự thật khách
quan, bảo vệ tối đa quyền, lợi ích hợp pháp của các bên.
d. Thực hiện trợ giúp pháp lý
Trợ giúp pháp lý là một trong những chính sách mang tính nhân đạo của Đảng
và Nhà nước ta nhằm bảo đảm cho mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật,
đặc biệt là giúp cho người nghèo, người có công với cách mạng, đồng bào dân tộc

thiểu số, trẻ em, người khuyết tật,… bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp, nâng
cao hiểu biết pháp luật, ý thức tôn trọng pháp luật, góp phần bảo vệ công lý, bảo
đảm công bằng xã hội.
Khoản 1 Điều 31 Luật Luật sư cũng có quy định yêu cầu Luật sư khi thực
hiện TGPL phải tận tâm đối với người được trợ giúp như với khách hàng trong
những vụ, việc có thù lao.


Có thể nói đội ngũ luật sư đã tham gia vào hoạt động trợ giúp pháp lý (TGPL)
ngay từ giai đoạn đầu tiên. Nhất là khi Luật TGPL năm 2006 ra đời đã tạo cơ chế
pháp lý cho việc tham gia thực hiện TGPL của luật sư. Theo đó, Luật sư tham gia
TGPL thông qua 03 phương thức: Thứ nhất, thực hiện TGPL theo nghĩa vụ được
quy định theo pháp luật về Luật sư; Thứ hai, thực hiện TGPL với tư cách cộng tác
viên của Trung tâm TGPL; Thứ ba, thực hiện TGPL với tư cách là Luật sư của tổ
chức hành nghề Luật sư tham gia TGPL trong phạm vi đăng ký. Luật Luật sư và
các văn bản hướng dẫn đã quy định và chi tiết về nghĩa vụ thực hiện TGPL của
Luật sư; Chiến lược phát triển nghề Luật sư đến năm 2020 cũng yêu cầu đề cao
trách nhiệm và nghĩa vụ của luật sư trong công tác TGPL miễn phí cho người
nghèo, đối tượng chính sách và các đối tượng yếu thế khác.
e. Tham gia bồi dưỡng bắt buộc về chuyên môn, nghiệp vụ
Nghĩa vụ bồi dưỡng về chuyên môn nghiệp vụ của luật sư là bắt buộc, được
quy định trong Luật Luật sư và Thông tư 10 năm 2014 của Bộ Tư pháp.
Xã hội nước ta đang không ngừng thay đổi và phát triển, các mối quan hệ xã
hội ngày càng đa dạng, phức tạp và được điều chỉnh bằng pháp luật, các văn bản
quy phạm phạm pháp luật ngày càng nhiều hơn. Do vậy, cập nhật kiến thức pháp
luật mới và nâng cao kỹ năng hành nghề là một yêu cầu tất yếu đối với Luật sư.
Nghĩa vụ tham gia bồi dưỡng về chuyên môn, nghiệp vụ của Luật sư, với mục đích
nhằm cập nhật đầy đủ, kịp thời kiến thức pháp luật, trau dồi kỹ năng nghề nghiệp
và đạo đức nghề nghiệp của Luật sư, qua đó nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp
vụ, đạo đức nghề nghiệp của đội ngũ Luật sư, đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao

của công cuộc cải cách tư pháp và hội nhập kinh tế quốc tế đối với đội ngũ Luật
sư.
f. Luật sư không được phép thực hiện các hành vi quy định tại Khoản 1 Điều 9
Luật Luật sư.
Đó là các hành vi: cung cấp dịch vụ pháp lý cho các khách hàng có lợi ích đối
lập nhau trong cùng vụ, việc; Cố ý cung cấp hoặc xúi dục khách hàng cung cấp tài
liệu, chứng cứ giả, sai sự thật, khiếu nại, tố cáo, khiếu kiện trái luật; Tiết lộ thông
tin về vụ việc, về khách hàng khi chưa được sự đồng ý của khách hàng; Sách
nhiễu, lừa dối khách hàng; Móc nối, quan hệ với người tiến hành tố tụng, người
tham gia tố tụng; Lợi dụng việc hành nghề, danh nghĩa Luật sư để vào mục đích
xấu; Xúc phạm cá nhân, tổ chức trong quá trình tham gia tố tụng; Tự mình hoặc
giúp khách hàng trì hoãn, kéo dài thời gian, cản trở, gây khó khăn cho hoạt động
của cơ quan tiến hành tố tụng trái luật.
Đây là các hành vi trái với pháp luật, trái với nguyên tắc hành nghề của Luật
sư, và trái với Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp Luật sư Việt Nam. Do đó,
Luật sư cần nghiêm chỉnh tuân thủ quy định này, tuyệt đối không được thực hiện
các hành vi đã được liệt kê.


Vai trò của Luật sư ở Việt Nam ngày một được nâng cao, chất lượng, uy tín
của luật sư ngày một lớn hơn, hoạt động hành nghề của luật sư, các tổ chức hành
nghề luật sư ngày phát triển theo hướng chuyên nghiệp hóa. Do đó, cần phải đảm
đảm tốt hơn nữa các quyền dành cho đội ngũ Luật sư, đồng thời, Luật sư cũng cần
nghiêm chỉnh chấp hành, thực hiện các nghĩa vụ của mình, để xứng đáng với vị trí,
sứ mệnh bảo vệ quyền con người, bảo vệ công lý, công bằng, bảo vệ pháp chế.



×