Tải bản đầy đủ (.doc) (140 trang)

Con người cô đơn trong tiểu thuyết nỗi buồn chiến tranh của bảo ninh nhìn từ tâm thức hiện sinh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.17 MB, 140 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG
ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2

HOÀNG THỊ MINH NGUYỆT

CON NGƯỜI CÔ ĐƠN TRONG TIỂU THUYẾT
“NỖI BUỒN CHIẾN TRANH” CỦA BẢO NINH
NHÌN TỪ TÂM THỨC HIỆN SINH
Chuyên ngành: Lí luận văn học
Mã số: 60 22 01 20

LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

Người hướng dẫn khoa học

PGS.TS. TRƯƠNG ĐĂNG DUNG

HÀ NỘI, 2016


LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành và lòng biết ơn sâu sắc tới
PGS. TS. Trương Đăng Dung - người thầy trực tiếp hướng dẫn, chỉ bảo tận tình,
giúp tôi hoàn thành luận văn của mình.
Tiếp theo, tôi xin gửi lời cảm ơn tới các nhà khoa học, những người thầy đã
dạy tôi trong thời gian tôi tham gia khóa học K18 lí luận văn học, phòng sau đại học
và các thầy cô giáo trong khoa Ngữ văn - Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 đã
giúp đỡ và tạo điều kiện thuận lợi để tôi hoàn thành luận văn này.
Tôi cũng gửi lời cảm ơn tới các thầy cô trong BGH và các thầy cô đồng
nghiệp trường THPT Mê Linh, gia đình, bạn bè, những người thân yêu đã luôn ủng


hộ, động viên, giúp đỡ và tạo điều kiện tốt nhất cho tôi trong suốt thời gian tôi thực
hiện đề tài này.
Xin trân trọng cảm ơn!
Hà Nội, ngày 25 tháng 11 năm 2016.
Tác giả luận văn

Hoàng Thị Minh Nguyệt


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan kết quả nghiên cứu trong luận văn này là trung thực và
không trùng lặp với các đề tài khác; mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện đề tài nhiên
cứu đã được cảm ơn; thông tin trích dẫn trong luận văn đã được ghi rõ nguồn gốc.
Đề tài Con người cô đơn trong tiểu thuyết “Nỗi buồn chiến tranh” của
Bảo Ninh, nhìn từ tâm thức hiện sinh được chính tôi thực hiện dưới sự hướng dẫn,
chỉ bảo trực tiếp của PGS. TS. Trương Đăng Dung. Kết quả thu được là hoàn toàn
trung thực và chưa được công bố trong công trình nào khác.

Hà Nội, ngày 25 tháng 11 năm 2016
Tác giả luận văn

Hoàng Thị Minh Nguyệt


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài............................................................................................ 1
2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................... 3
3. Mục đích nghiên cứu..................................................................................... 7

4. Nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................................... 7
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu................................................................. 8
6. Phương pháp nghiên cứu............................................................................... 8
7. Đóng góp mới của luận văn .......................................................................... 8
8. Cấu trúc luận văn ..........................................................................................
9
Chương 1
KHÁI LƯỢC VỀ TRIẾT HỌC HIỆN SINH VÀ VĂN HỌC HIỆN SINH .. 10
1.1. Triết học hiện sinh.................................................................................... 10
1.1.1. Sự ra đời của triết học hiện sinh ...........................................................
10
1.1.2. Nội dung tư tưởng cơ bản của triết học hiện sinh. ............................... 14
1.1.3. Con người cô đơn trong triết học hiện sinh:......................................... 22
1.2. Văn học hiện sinh ..................................................................................... 23
1.2.1 Mối quan hệ mật thiết của văn học hiện sinh với triết hiện sinh ........... 23
1.2.2. Đôi nét về văn học hiện sinh trên thế giới ............................................ 25
1.2.3 Tinh thần hiện sinh trong văn học Việt Nam ......................................... 27
Chương 2
CON NGƯỜI CÔ ĐƠN TRONG “NỖI BUỒN CHIẾNTRANH” ................ 37
2.1. Con người cô đơn trong văn học.............................................................. 37
2.1.1. Con người cô đơn trong văn học thế giới ............................................. 37
2.1.2 Con người cô đơn trong văn học Việt Nam ........................................... 40


2.2. Đôi nét về nhà văn Bảo Ninh và tiểu thuyết “Nỗi buồn chiến tranh” ..... 47
2.2.1. Nhà văn Bảo Ninh ................................................................................. 47
2.2.2. Tiểu thuyết “Nỗi buồn chiến tranh” ..................................................... 49
2.3. Những đặc điểm của con người cô đơn trong “Nỗi buồn chiến tranh”... 53
2.3.1 Con người cô đơn trong thời gian ......................................................... 53
2.3.2 Con người cô đơn trong không gian ...................................................... 78

Chương 3
NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN CON NGƯỜI CÔ ĐƠN TRONG “NỖI BUỒN
CHIẾN TRANH” ............................................................................................
96
3.1. Kết cấu song hành .................................................................................... 96
3.1.1. Kết cấu tiểu thuyết lồng trong tiểu thuyết .............................................
97
3.1.2. Kết cấu đồng hiện, đan xen, ghép mảnh ............................................. 101
3.2. Không gian, thời gian nghệ thuật:.......................................................... 108
3.2.1. Không gian - thời gian quá khứ:......................................................... 109
3.2.2. Không gian - thời gian tâm trạng ....................................................... 113
3.2.3. Những biểu tượng không gian – thời gian nghệ thuật ........................ 114
KẾT LUẬN ................................................................................................... 125
TÀI LIỆU THAM KHẢO


1


2

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Văn chương đích thực, xét đến cùng phải là văn chương viết về con
người, cắt nghĩa sự tồn tại của con người với những khát vọng ngàn đời hay quan
tâm tới những vấn đề nhức nhối đặt ra trong thời đại; gọi dậy ở mỗi người sự tự ý
thức sâu xa về trạng thái nhân sinh hoặc khám phá sự tồn tại của bản thân theo cách
nào đó.
Năm 1990, với cái tên “Thân phận của tình yêu”, tiểu thuyết “Nỗi buồn
chiến tranh” của nhà văn Bảo Ninh xuất hiện lần đầu tiên trong đời sống văn học

Việt Nam. Ngay sau đó, nó đã gây ra một cuộc “chấn động” văn học nước nhà khi
được đón đọc và thẩm bình, bởi nó giống như một viên ngọc mang màu sắc khác lạ.
Vẻ đẹp lạ của nó trong thời điểm ấy đã khiến không ít người lầm tưởng trong đó có
cả chất độc làm phương hại đến nền văn hóa và niềm tự hào dân tộc. Nhưng cùng
với thời gian, đến nay, “Nỗi buồn chiến tranh” được bạn đọc trong và ngoài nước
yêu thích. Tác phẩm nhận được sự đánh giá cao và ca tụng rộng rãi của giới nghiên
cứu phê bình trong nước cho đến các chuyên gia, giáo sư văn chương nổi
tiếng thế giới. Góp phần làm nên thành công ấy chính là ở chỗ tác phẩm đã đề cập
đến vấn đề con người và tồn tại con người, sự nhức nhối về trạng thái nhân sinh gắn
với Chiến tranh – Tình yêu – Nỗi buồn, những chủ đề mang ý nghĩa nhân loại trong
muôn đời, tất cả được gửi gắm chủ yếu qua nhân vật Kiên, một người lính bước ra
từ cuộc chiến tranh với những dư chấn khủng khiếp của nó, dù trong cuộc chiến đó,
anh là người chiến thắng.
1.2. Trong nửa đầu thế kỉ XX, Triết học hiện sinh ra đời đã đặt con người
vào đúng vị thế của họ trong sự hiện tồn giữa cuộc đời với những vấn đề bản thể
về thân phận làm người của con người. Triết học hiện sinh là triết học về con người.
Nó khám phá bản thân con người thay vì nghiên cứu về các qui luật của tự nhiên, về
sự tồn tại và biến đổi của thế giới vật chất như triết học tự nhiên trước đấy. Triết
học hiện sinh quan niệm rằng: cuộc đời mỗi con người là một thế giới riêng, không
ai giống ai, không ai có thể sống hộ ai; con người từ khi sinh ra trên đời đã là một


sự phi lí đến cùng cực, dù muốn hay không con người cũng không ra khỏi sự lo âu,
hoài nghi, cô đơn. Nhưng triết học hiện sinh cũng khuyến khích con người sống,
nhận thức, hành động vì chính bản thân mình trong từng phút giây tồn tại, luôn có ý
thức vượt lên giới hạn của cuộc đời để đi tìm câu trả lời cho ý nghĩa đích thực của
sự tồn tại bản thân. Có thể nói, triết học hiện sinh là triết học nhân văn, triết học của
sự tồn tại.
Đến nay những chiêm nghiệm mới mẻ, sâu sắc và thiết thực về con người
của học thuyết này đã trở thành một hướng đi có ý nghĩa để nghiên cứu tìm hiểu các

tác phẩm văn chương nghệ thuật. Bởi vì chúng có chung đối tượng khám phá là con
người với tất cả sự chân thực, đời thường, phong phú, phức tạp, đặc biệt là trong thế
giới nội cảm đa dạng, độc đáo, riêng biệt, không có giới hạn cuối cùng của mỗi con
người. Thực tế cũng cho thấy, mỗi nhà văn trước hết và đồng thời là một nhà tư
tưởng. Triết học hiện sinh thấm sâu vào trong tác phẩm văn học thông qua tư tưởng
của nhà văn về thân phận con người. Tác phẩm văn chương vì thế dễ dàng mang
đậm dấu ấn hiện sinh. Trên thế giới chưa có từng có trường phái triết học nào lại có
mối quan hệ mật thiết với văn chương như triết học hiện sinh. Tiểu thuyết “Nỗi
buồn chiến tranh” của Bảo Ninh, nói như nhà văn Nguyên Ngọc, là một cuốn sách
viết về chiến tranh Việt Nam và mang tầm nhân loại. Thậm chí nói cho đúng, cũng
không hoàn toàn là viết về chiến tranh mà là về nỗi khó nhọc của kiếp làm người
trong cái thế giới vừa tuyệt đẹp vừa đau đớn này .Chúng tôi cho rằng: có thể hi
vọng và tin tưởng sẽ hứa hẹn nhiều điều thú vị, mới mẻ khi nghiên cứu, tìm hiểu về
con người trong tác phẩm này từ sự chiếu dọi của triết thuyết hiện sinh.
1.3. Nhận thức được ý nghĩa to lớn của triết học hiện sinh trong cuộc đời con
người và trong nghiên cứu văn học, đồng thời là người mến mộ tài năng của Bảo
Ninh, yêu thích và đánh giá cao tiểu thuyết “Nỗi buồn chiến tranh”; chúng tôi
mong muốn tìm hiểu, khám phá giá trị của tác phẩm, góp thêm một cách tiếp cận
mới về quan niệm con người trong tiểu thuyết này. Khảo sát nhiều công trình
nghiên cứu về tiểu thuyết “Nỗi buồn chiến tranh” của Bảo Ninh đã được công bố,


chúng tôi thấy chưa có công trình nào nghiên cứu chuyên sâu, toàn diện về con
người cô đơn trong tác phẩm mà nhìn từ tâm thức hiện sinh.
Vì tất cả những lí do trên, chúng tôi chọn “Con người cô đơn trong tiểu
thuyết “Nỗi buồn chiến tranh” của Bảo Ninh nhìn từ tâm thức hiện sinh” làm đề
tài nghiên cứu.
2. Lịch sử vấn đề
Là một hiện tượng độc đáo thu hút sự chú ý của làng văn ngay sau khi ra mắt
nên “Nỗi buồn chiến tranh” đã gây được hứng thú, khiến rất nhiều nhà văn, nhà

phê bình danh tiếng của văn học Việt Nam đương đại đã có bài viết, tham luận trên
báo, tạp chí về tác phẩm này như: Nguyên Ngọc, Nguyễn Phan Hách, Vương Trí
Nhàn, Đỗ Đức Hiểu, Nguyễn Đăng Điệp, Nguyễn Thanh Sơn, Phạm Xuân Thạch,
Phạm Xuân Nguyên,…và đã có nhiều khóa luận, luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ lấy
tác phẩm này làm đối tượng khám phá, nghiên cứu.
Số lượng các bài nghiên cứu, công trình nghiên cứu về tiểu thuyết “ Nỗi
buồn chiến tranh” rất phong phú, đa dạng chúng tôi xin phép chỉ điểm qua những
bài viết, công trình nghiên cứu có ý nghĩa là cơ sở và sự gợi mở cho ý tưởng lựa
chọn đề tài của chúng tôi mà thôi.
Do còn hạn chế về nguồn tư liệu nên chúng tôi chỉ kể tên và khái quát nội
dung của những bài viết, công trình nghiên cứu về tiểu thuyết “Nỗi buồn chiến
tranh” trong phạm vi chúng tôi thu thập được.
2.1. Những bài viết về tiểu thuyết “Nỗi buồn chiến tranh”
Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều, phó chủ tịch hội nhà văn Việt Nam, phó tổng
thư kí hội văn học Á- Phi, trên báo Thể thao và văn hóa số ra ngày 28/10/2006 đã
đánh giá rất cao tiểu thuyết “Nỗi buồn chiến tranh”. Ông đã viết: “Nỗi buồn chiến
tranh đã chạm vào mẫu số chung của nhân loại. Đó là câu chuyện của thân phận,
của mất mát, của tình yêu và chiến tranh”. Nhận định “chạm vào mẫu số chung
của nhân loại” của ông thật sự có sức khái quát cao và rất sâu sắc về tiểu thuyết
“Nỗi buồn chiến tranh” của Bảo Ninh. Chính đánh giá này đã gây hứng thú và là
động lực khiến chúng tôi lựa chọn phạm vi nghiên cứu đề tài của mình.


“Con người khám phá và con người thích ứng trong “Nỗi buồn chiến
tranh”” là bài viết của nhà nghiên cứu phê bình văn học Vương Trí Nhàn in trên
tạp chí Nhà văn số tháng 11/ 2007. Trong bài viết này, tác giả đã phân thành 8 khúc
đoạn (Chiến tranh nhìn qua số phận cá nhân, cuộc sống dưới dạng hồi ức, Lạ hóa
chính mình, lạ hóa hoàn cảnh, Nhận thức như một lẽ sống, Một đối trọng đầy sức
ám ảnh, Thích ứng để tồn tại, Nghĩ và quên đều có lí, Song hành như những thách
thức), một mặt ông đưa ra cái nhìn, sự đánh giá khái quát toàn bộ tiểu thuyết “Nỗi

buồn chiến tranh” mặt khác nhấn mạnh, phân tích sâu vào thế giới tâm hồn hai
nhân vật Kiên và Phương. Theo Vương Trí Nhàn, Kiên là kiểu con người khám phá,
nhận thức cuộc sống bằng chính những hồi ức về chiến tranh và tình yêu của anh.
Kiên “lạ hóa hoàn cảnh sống” của mình cũng “lạ hóa chính mình” .Nhưng chính
sự lạ hóa đó,Kiên mới là người tỉnh táo sáng suốt và chiến thắng trong chính cái
“dạng sống” khốn khổ riêng của mình. Còn Phương là kiểu con người thích ứng để
tồn tại. Phương chiến thắng hoàn cảnh nhưng chính sự chiến thắng đó đã chứng tỏ
rằng Phương là người thất bại vì cô đã bị tha hóa theo thời gian và hoàn cảnh.
Tiến sĩ Phạm Xuân Thạch, giảng viên trường đại học Khoa học Xã hội và
Nhân văn – Đại học Quốc gia Hà nội có bài báo khoa học tham dự Hội thảo khoa
học: Kỉ niệm 30 năm giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, tháng 4/ 2005
“Nỗi buồn chiến tranh – viết về chiến tranh thời hậu chiến – từ chủ nghĩa anh
hùng đến nhu cầu đổi mới bút pháp”
PGS.TS Nguyễn Thị Mai Liên có bài nghiên cứu khoa học: “Hình tượng con
người - nạn nhân chiến tranh – trong hai tiểu thuyết Một nỗi đau riêng và Nỗi
buồn chiến tranh”
Tiến sĩ văn chương, nhà phê bình văn học Đoàn Cầm Thi, giảng viên văn
học Việt Nam tại Đại học Pari, có một số bài viết đáng chú ý về “Nỗi buồn chiến
tranh” như:
-“Chiến tranh, tình dục, tình yêu trong văn học Việt Nam đương đại”
-“Nỗi buồn chiến tranh, tự truyện bất thành”


-“Nhân vật Phương, người phụ nữ Hà Nội và chủ đề văn học trong Nỗi buồn chiến
tranh”
Nhà phê bình văn học, tiến sĩ Trần Huyền Sâm, Đại học Sư phạm Huế có bài
viết: “Bảo Ninh với nỗi ám ảnh về chiến tranh” (Tạp chí Sông Hương, số 205,
tháng 3/2006.
Các bài viết này đã tập trung nghiên cứu hoặc có đề cập đến hình tượng nhân
vật, con người trong tiểu thuyết “Nỗi buồn chiến tranh” và đưa ra các kiểu hình

tượng con người trong tác phẩm như: con người – “nạn nhân chiến tranh” (Nguyễn
Thị Mai Liên); 3 tuyến nhân vật chạy song song trong đời Kiên: người phụ nữ, đồng
đội và người thân (Phạm Xuân Thạch); hay đi sâu vào tìm hiểu nhân vật Phương –
người phụ nữ đối âm của chiến tranh, nhân vật cứu rỗi và khơi nguồn sáng tạo
(Đoàn Cầm Thi); Trần Huyền Sâm lại đặc biệt quan tâm đến nhân vật Kiên và cho
đây là một kiểu “ bi kịch về người lính” trong và sau chiến tranh.
2.2. Những công trình khóa luận, luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ về tiểu thuyết
“Nỗi buồn chiến tranh” hoặc có đề cập đến tiểu thuyết “Nỗi buồn chiến tranh”
Đặng Thị Minh Duyên với đề tàì “Sự thể hiện con người cá nhân trong tiểu
thuyết việt Nam từ thập niên 80 - 2000” (người hướng dẫn: Đinh Trí Dũng, khóa
luận tốt nghiệp,Đại học Vinh,2000) đã tập trung nghiên cứu sự thể hiện con người
cá nhân qua 3 tác phẩm “Mùa lá rụng trong vườn”, “Thời xa vắng” và “Nỗi buồn
chiến tranh” trong sự đối sánh với nhau. Tuy nhiên, khóa luận này chỉ mới nghiên
cứu con người trong tiểu thuyết “ Nỗi buồn chiến tranh” ở phương diện cá nhân,
cái tôi trong văn học và trong sự so sánh, chưa bao quát hết được những vấn đề độc
đáo có ý nghĩa sâu sắc về con người trong tác phẩm.
Khóa luận tốt nghiệp của Nguyễn Thị Thu Hằng: “Quan niệm nghệ thuật về
con người trong tiểu thuyết “Nỗi buồn chiến tranh” của Bảo Ninh”(người hướng
dẫn: Nguyễn Văn Tùng, 2003) đã đi sâu khai thác quan niệm nghệ thuật về con
người một cách khái quát và đã chỉ ra được con người tự nhận thức, con người sám
hối, con người cô đơn, mặc cảm trong tiểu thuyết này qua nhân vật Kiên. Nhưng đề
tài này chưa khai thác sâu vào khía cạnh con người cô đơn.


Luận văn thạc sĩ của Trần Sâm: “Nhân vật trong tiểu thuyết Nỗi buồn chiến
tranh của Bảo Ninh nhìn từ phân tâm học” (Người hướng dẫn PGS.TS. Trương
Đăng Dung, ĐH Sư phạm Hà Nội 2, 2014). Luận văn này đã khai thác nhân vật
trong tiểu thuyết “Nỗi buồn chiến tranh” nhìn từ góc độ phân tâm học khá cụ thể,
toàn diện thế giới nhân vật trong tác phẩm. Đề tài này cũng giúp chúng tôi có cái
nhìn sâu sắc hơn về con người trong tác phẩm này.

Đặc biệt có luận văn thạc sĩ “Cô đơn thời gian trong tiểu thuyết “Nỗi buồn
chiến tranh” của Bảo Ninh” của Đỗ Năng Huấn (Người hướng dẫn PGS.TS.
Trương Đăng Dung, ĐH sư phạm Hà Nội 2, 2015). Luận văn này đã nghiên cứu khá
kĩ lưỡng khía cạnh cô đơn thời gian trong tác phẩm thể hiện qua nhân vật Kiên. Từ
dòng hồi ức trộn lẫn với hiện tại nỗi cô đơn của Kiên với quá khứ, hiện tại và tương
lai gắn liền với quá trình tự ý thức của con người về lịch sử, về số phận.Tác giả luận
văn đã có những kiến giải thuyết phục về nỗi cô đơn thời gian của tác phẩm qua
hình tượng người lính bước ra từ cuộc chiến tranh khốc liệt. Từ đó làm sáng tỏ nỗi
cô đơn thời gian như là một giá trị cốt lõi, quan trọng của tác phẩm này. Tuy chỉ
khai thác một khía cạnh giá trị của tiểu thuyết nhưng luận văn này đã giúp chúng tôi
có cái nhìn sâu rộng hơn về nỗi cô đơn được thể hiện trong tác phẩm, khiến chúng
tôi muốn tìm hiểu, khám phá sâu sắc hơn, toàn diện hơn về vấn đề nỗi cô đơn trong
tiểu thuyết này.
Luận án tiến sĩ “Những đổi mới của văn xuôi nghệ thuật Việt Nam sau
1975” của Nguyễn Thị Bình, và luận án “Tiểu thuyết về chiến tranh trong văn học
Việt Nam sau 1975 – những khuynh hướng và sự đổi mới nghệ thuật” (mã số
62.22.34.01, 2012) đã khai thác giá trị của tiểu thuyết “Nỗi buồn chiến tranh” đặt
trong bối cảnh rộng lớn của văn xuôi hiện đại sau 1975.
Khảo sát những bài báo khoa học và các công trình nghiên cứu về tiểu
thuyết “Nỗi buồn chiến tranh”, đặc biệt là nghiên cứu về hình tượng nhân vật, con
người trong tác phẩm này của Bảo Ninh, chúng tôi nhận thấy các nhà nghiên cứu
đã làm sáng rõ những vấn đề chính về chính về tác giả Bảo Ninh cũng như tiểu
thuyết “Nỗi buồn chiến tranh” như: bối cảnh xã hội, hoàn cảnh sáng tác, những


khía cạnh nội dung và nghệ thuật của tác phẩm… Đây sẽ là nguồn tư liệu vô cùng
quí giá cho chúng tôi trong quá trình triển khai đề tài của mình.Tuy nhiên, chúng tôi
cũng thấy chưa có công trình nào khai thác khía cạnh con người cô đơn và lại
được nhìn từ tâm thức hiện sinh trong tiểu thuyết này như một đối tượng nghiên
cứu cốt lõi, riêng biệt.

3. Mục đích nghiên cứu
Thực hiện đề tài này, chúng tôi nhằm mục đích làm rõ những biểu hiện con
người cô đơn trong tiểu thuyết “Nỗi buồn chiến tranh” nhìn từ tâm thức hiện sinh.
Qua đó, đề cập đến cái nhìn của người nghệ sĩ sáng tạo (ở đây là nhà văn Bảo Ninh)
về con người và cuộc đời; đồng thời khẳng định sự khác biệt, độc đáo, hấp dẫn giữa
hình tượng con người cô đơn trong tác phẩm này của Bảo Ninh với các tác giả, tác
phẩm khác. Đó là con người mang tâm thức cô đơn bản thể nói chung nhưng còn là
con người mang nỗi cô đơn thân phận hoàn cảnh riêng, thậm chí chưa từng thấy
trước đó trong văn học hiện đại Việt Nam.
Cùng với việc khai thác và làm rõ những vấn đề về nội dung, chúng tôi cũng
đặt ra mục đích tìm hiểu vai trò của nghệ thuật tác phẩm trong việc thể hiện con
người cô đơn nhìn từ tâm thức hiện sinh.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu đã nêu ở trên, chúng tôi đề ra những
nhiệm vụ nghiên cứu chính sau:
- Lấy triết học hiện sinh làm cơ sở lí thuyết, chúng tôi tìm hiểu, khám phá
những đặc điểm cụ thể của con người cô đơn trong tiểu thuyết “ Nỗi buồn chiến
tranh”, đồng thời đối sánh với một số tác phẩm khác để thấy con người cô đơn
trong tác phẩm này có cái riêng độc đáo, gửi gắm những thông điệp của nhà văn về
cuộc đời và kiếp người.
- Song song với việc khai thác những giá trị sâu sắc, độc đáo về nội dung thể
hiện con người cô đơn, chúng tôi cũng đặt ra nhiệm vụ tìm hiểu những biện pháp,
thủ pháp nghệ thuật tiêu biểu và tác dụng của nó trong việc thể hiện con người cô
đơn của tác phẩm này.


5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
5.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những biểu hiện của con người cô đơn và
vai trò của các biện pháp, thủ pháp nghệ thuật trong việc thể hiện con người cô đơn

trong tiểu thuyết “Nỗi buồn chiến tranh” của Bảo Ninh nhìn từ tâm thức hiện sinh.
5.2. Phạm vi nghiên cứu
Chúng tôi nghiên cứu về con người cô đơn với phạm vi khảo sát chính là tiểu
thuyết “Nỗi buồn chiến tranh” của Bảo Ninh trong sự đối sánh với một số tác
phẩm khác cũng đề cập tới vấn đề cô đơn của con người(Trăm năm cô đơn của
Gabriel Garcia Marquez); vấn đề chiến tranh ( Phía tây không có gì lạ của Erich
Maria Remarque, Giã từ vũ khí của Ernest Hemingway) và một số tác phẩm văn
học Việt Nam đương đại mang đậm dấu ấn hiện sinh như các sáng tác của Nguyễn
Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài, Tạ Duy Anh, Nguyễn Bình Phương…
Tác phẩm của Bảo Ninh đã được xuất bản nhiều lần bởi nhiều nhà xuất bản
với cả hai tên gọi: “Nỗi buồn chiến tranh” và “Thân phận của tình yêu”. Trong
luận văn này chúng tôi sử dụng bản in “Nỗi buồn chiến tranh” của Nhà xuất bản
Trẻ, xuất bản năm 2015 làm văn bản để nghiên cứu.
6. Phương pháp nghiên cứu
Có nhiều phương pháp để tiến hành nghiên cứu nhưng thực hiện đề tài này,
chúng tôi sử dụng một số phương pháp nghiên cứu chính sau:
- Phương pháp phân tích, tổng hợp
- Phương pháp đối chiếu, so sánh
Và các thao tác: thống kê, chứng minh, bình giảng…
7. Đóng góp mới của luận văn
Kế thừa những quan điểm, cách khám phá, đánh giá của các nhà nghiên cứu,
phê bình đi trước về tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh, tác giả luận văn bằng sự nỗ
lực nghiên cứu, tìm hiểu của bản thân dưới sự hướng dẫn, chỉ dạy tận tình của thầy
hướng dẫn khoa học, chúng tôi mong muốn góp thêm một hướng tiếp cận mới về
quan niệm con người trong tiểu thuyết “Nỗi buồn chiến tranh”, góp phần làm


phong phú thêm cho giá trị của tác phẩm nói riêng và chứng tỏ sự thành công trong
thể loại tiểu thuyết của văn học Việt Nam thời kì đổi mới nói chung.
Thực tiễn đời sống văn học nước nhà và chủ trương của bộ giáo dục trong

những năm gần đây đã cho thấy: chúng ta đang từng bước tăng cường đưa văn học
Việt Nam thời kì đổi mới vào chương trình giảng dạy và học tập ở các trường Đại
học, Cao đẳng đến phổ thông. Vì thế, với những nội dung được triển khai trong đề
tài nghiên cứu của mình, chúng tôi mong muốn và hi vọng sẽ có ý nghĩa nhất định
cho việc nghiên cứu, giảng dạy văn học thời kì đổi mới trong nhà trường.
8. Cấu trúc luận văn
Ngoài Mở đầu, Kết luận, nội dung luận văn được triển khai qua 3 chương:
Chương 1. Khái lược về triết học hiện sinh và văn học hiện sinh
Chương 2. Con người cô đơn trong tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh.
Chương 3. Nghệ thuật thể hiện con người cô đơn trong tiểu thuyết Nỗi
buồn chiến tranh.


10

Chương 1
KHÁI LƯỢC VỀ TRIẾT HỌC HIỆN SINH
VÀ VĂN HỌC HIỆN SINH
1.1. Triết học hiện sinh
1.1.1. Sự ra đời của triết học hiện sinh
Triết học hiện sinh là một trào lưu triết học vốn có mầm mống hình thành từ
thế kỉ XIX với những triết gia lớn được coi là ông tổ của triết hiện sinh là
Kierkegaard (ông tổ của triết hiện sinh trung thực), Nietzsche (ông tổ hiện sinh vô
thần)…Nhưng phải đến giữa thế kỉ XX, sau khi “Hiện tượng học” của triết gia
người Đức E. Husserrl ra đời đã cung cấp phương pháp nghiên cứu triết học đối với
thế giới.(Đó là khoa học nghiên cứu bản chất đặt lại các bản chất nơi hiện hữu,
những bản chất cụ thể, cũng gọi là bản tường trình về kinh nghiệm sống của con
người). Từ đó triết học hiện sinh bản thể luận hóa hiện tượng học để thực sự phát
triển thành một chủ nghĩa hiện sinh có ảnh hưởng to lớn sâu sắc đến đời sống nhân
loại từ ngày ấy đến tận bây giờ.

Để hiểu hơn về triết học hiện sinh, chúng ta cần xem nó đã xuất hiện như thế
nào trong quá trình vận động và phát triển của triết học nhân loại. Trên trục thời
gian hình thành và phát triển triết học của nhân loại thì triết hiện sinh ra đời là một
mốc quan trọng, có sự khác biệt rõ ràng với triết học trước đó. Người ta gọi triết học
có trước hiện sinh là triết học cổ điển, cổ truyền hay còn gọi là triết học về tự nhiên,
triết học về thiên nhiên.
Xét sự vận động của tư duy triết học nhân loại thì triết học hiện sinh ra đời là lẽ tất
yếu. Bởi đến thế kỉ XX, khi tư duy của con người đạt đến trình độ cao, triết học cổ
truyền từ Platon, Aristote đến Descartes, Kant, Hegel với đối tượng khám phá là
thiên nhiên, là thế giới bên ngoài tâm hồn của con người, truy tìm căn nguyên, bản
chất của vạn vật, coi con người cũng là một vật trong vũ trụ mà thôi. Chính vì vậy
mà triết học về tự nhiên là thứ triết học thuần túy tư biện và xa cách con người.
Triết học cổ truyền thay vì giúp con người suy nghĩ về thân phận và định
mệnh mình, lại chỉ khuyến khích con người quên mình để tìm hiểu những lẽ huyền


11

vi của tạo hóa. Trong cả bộ triết học Aristote, ông không dành phần nào cho con
người hiện sinh hết, không bàn đến tự do, không bàn đến nhân vị, không bàn đến
định mệnh và những gì đợi con người ta sau khi chết. Vũ trụ to lớn quá, át tất cả.
Con người bị bỏ quên.Vũ trụ quan của Aristote cho ta thấy con người bị chìm trong
vũ trụ. Hơn nữa, triết học cổ truyền, vì mải tranh luận về con người phổ quát, vì mải
tìm đến con người lý tưởng, cho nên dễ bỏ qua con người cụ thể, cá nhân bằng
xương bằng thịt đang sống trong cuộc hiện sinh này.
Descartes với sự khám phá ra chủ thể tính con người và tự do mang chất
cuộc sống hiện thực, đã hé nhìn thấy đường đi của triết học về con người nhưng ông
chỉ dừng lại ở khám phá về lí trí của con người với mệnh đề triết học nổi tiếng “ Tôi
tư duy vậy tôi tồn tại”. Đối với Descartes, không thể có triết học về vũ trụ mà chỉ có
khoa học về vũ trụ và triết học về tinh thần. Đáng tiếc là sự nghiên cứu khám phá về

con người của Descartes chỉ dừng lại ở lí trí, tư duy của con người mà không tìm
hiểu con người như một thực thể sinh tồn, có tinh thần, có thể xác.
Kant và Hegel còn đẩy xa tinh thần hơn nữa thành thử triết học vẫn luẩn
quẩn trong thái độ ý niệm, coi con người là một vật thể, cho con người là thế này,
thế kia. Trong khi con người có thể thế này mà cũng có thế thế kia, có thể là quỷ
hay là thánh, có thể vui vẻ, hạnh phúc, có thể sống làm thân trâu ngựa, sống đời con
vật, hay trái lại cũng có thể chọn đời tù ngục, miễn là được sống chân thực là chính
mình và được tự do.
Từ việc nghiên cứu về vạn vật trong giới tự nhiên và coi con người cũng như
một sự vật mang những đặc tính bản chất chung, triết học cổ truyền chú trọng đi tìm
căn nguyên bản chất của sự vật, vũ trụ mà không quan tâm nhiều đến con người;
con người trở nên bé nhỏ và bị lãng quên.
Triết học về tự nhiên với đối tượng và con đường đi như vậy đã đạt được
những thành tựu rất to lớn. Hệ quả nghiên cứu của nó làm thay đổi thế giới vật chất
bằng sự tiến bộ vượt bậc về khoa học kĩ thuật. Nhưng đồng thời với thành tựu, nó
cũng bộc lộ những hạn chế trong tiến trình phát triển của nhân loại. Cuối thế kỷ
XIX đầu thế kỷ XX, châu Âu bước vào tình trạng khủng hoảng về tất cả các mặt từ


12

chính trị, xã hội, tư tưởng. Đặc biệt là chiến tranh thế giới thứ nhất nổ ra làm hàng
triệu người trở thành nạn nhân của “trò chơi chiến tranh”. Tinh thần của con người
lúc này rơi vào tình trạng hoang mang đến tột độ. Khi mà khoa học kỹ thuật tiếp tục
phát triển và ngày càng đạt được nhiều thành tựu đáng kể góp phần vào việc tăng
năng suất tạo ra nhiều của vật chất cho nhân loại hơn thì cùng với đó là nguyên
nhân làm cho con người thêm phần nghi ngờ: tại sao khoa học kỷ thuật phát triển
làm ra nhiều của cải hơn; vậy sao lại vẫn có chiến tranh, sao không mang lại cho
nhân loại cuộc sống ấm no hạnh phúc hơn? Ta thấy một sự thực hiển nhiên rằng: dù
cho triết học về tự nhiên có thúc đẩy khoa học kĩ thuật phát triển đến đâu, tiên tiến

đến cỡ nào, nó vẫn không thể giải quyết được những vấn đề về tinh thần, về thế giới
tâm hồn nội cảm đầy tinh vi và phức tạp, về ý nghĩa nhân sinh của con người. Điều
này giải thích vì sao thế kỉ XX với sự phát minh ra điện, những dây chuyền công
nghệ hiện đại, mạng internet, máy vi tính và cả robot biết cảm nhận…thì nhân loại
vẫn còn đấy sự phân hóa các giai tầng xã hội, thậm chí ngày càng sâu sắc hơn với
thực trạng giàu nghèo giữa tầng lớp thượng lưu và người lao động bình dân, giữa
những biệt thự xa hoa và những khu nhà ổ chuột, những cuộc khủng hoảng kinh tế
thế giới trầm trọng như khủng hoảng 1929- 1933, đặc biệt là hai cuộc thế chiến
1914 – 1918 và 1939- 1945… Hậu quả của thực trạng đó là hàng ngàn công trình bị
phá hoại, hàng vạn người khốn khổ đối mặt với nghèo đói, hàng triệu người bị sát
hại…Nhân loại đã chứng kiến và gánh chịu những mất mát vô cùng to lớn về cả vật
chất lẫn tinh thần, con người bị sụp đổ niềm tin vào cuộc sống, hoang mang nghi
ngờ lên đến tột độ…Nhưng những tư tưởng của triết học tự nhiên không giúp gì
được con người. Tất cả bởi triết học về tự nhiên không xuất phát từ sự suy nghiệm
về nhân sinh nên cũng không giúp gì con người trong việc giải quyết những vấn đề
nhân bản cấp thiết của thời đại.
Lí trí khoa học đã không cải thiện được nhân sinh, khoa học còn tỏ ra bất lực
trước vấn đề tồn tại của con người, trước những cảm giác sợ hãi, chán chường, bế
tác và bất lực của con người. Đặc biệt, khoa học và lí tính bị tố cáo là sai lầm vì đã


13

xem con người là một sự vật thuần túy, không thấy được vai trò đặc biệt của tồn tại
con người trong vũ trụ.
Yêu cầu cấp thiết của nhân loại là cần phải có những tư tưởng triết học đáp
ứng được những đòi hỏi của cuộc sống con người, nhất là đời sống tinh thần; để
hướng dẫn con người sống, phấn đấu, vươn lên …tìm thấy ý nghĩa đích thực của
cuộc sống, của cuộc đời mỗi người. Trong bối cảnh ấy triết học hiện sinh đã ra đời
và nhanh chóng trở thành những tư tưởng triết học rất hữu ích đối với đời sống của

nhân loại lúc bấy giờ.
Việc bỏ quên con người cá nhân của triết học cổ điển chính là vùng đất màu
mỡ đầy tiềm năng, vẫn chưa được khai thác để cho triết học hiện sinh tập trung
nghiên cứu, khai thác và gặt hái nhiều thành tựu to lớn.
Ngược lại với triết học cổ điển, triết học hiện sinh lấy con người cá nhân cụ
thể, hiện tồn với cả tinh thần và thể xác làm đối tượng khám phá nghiên cứu. Triết
học hiện sinh là triết học về ý nghĩa cuộc nhân sinh của mỗi một cá nhân con người
trong từng cảnh sống cụ thể. Vì thế triết học hiện sinh còn được gọi là triết học về
con người,triết học nhân văn, triết học của sự tồn tại.
Triết học hiện sinh xây dựng trên chủ thể tính, không coi con người là một sự
vật của toàn bộ vũ trụ như trong triết học cổ điển nữa mà coi con người như một
hữu thể đứng trên vũ trụ và có quyền gán cho vũ trụ một giá trị tùy quan điểm của
mỗi người. Triết học hiện sinh chối bỏ quan niệm nhìn cuộc sống con người - theo
mối quan hệ nhân quả, lối tư duy logic duy lí trí mà nó cho rằng: tất cả đời sống của
con người đều là sự ngẫu nhiên, phi lí, là những hiện tượng rời rạc, luôn biến động
không ngừng và con người nhìn nhận cuộc sống của mình bằng chính sự trải
nghiệm của bản thân.
Sự xuất hiện của triết học hiện sinh đã có sức hấp dẫn kì lạ đối với tầng lớp
trí thức trẻ, nhất là giới sinh viên vì nó đánh trúng tâm nguyện muốn lí giải và thay
đổi số phận của con người, không muốn tiếp tục bị tha hóa khỏi bản chất của mình
trong một thế giới buồn chán và phi lí, phá bỏ mọi qui tắc trật tự để đạt được tự do
cá nhân, đạt được bản sắc cá nhân độc đáo của mỗi người trong cuộc hiện sinh.


14

Như vậy, ta thấy sự ra đời của triết học hiện sinh vào nửa đầu của thế kỉ XX
là tất yếu trong quá trình vận động của tư duy triết học nhân loại nói riêng cũng như
quá trình phát triển đời sống của loài người nói chung.
1.1.2. Nội dung tư tưởng cơ bản của triết học hiện sinh.

Đứng trên lập trường nghiên cứu về con người và ý nghĩa cuộc nhân sinh,
triết học hiện sinh phát triển mạnh mẽ thành một trào lưn rộng lớn, phức tạp, gồm
nhiều khuynh hướng khác nhau, thậm chí đối lập nhau. Có hai ngành chính là Hiện
sinh ngành tả (còn gọi là hiện sinh vô thần: phủ nhận thượng đế, chống lại tha
nhân, chủ trương không liên chủ tính, không siêu việt tính…), và ngành kia là Hiện
sinh ngành hữu ( còn gọi là hiện sinh hữu thần: đề cao tôn giáo, tin vào thượng đế,
thông hiệp với tha nhân, chủ trương liên chủ tính và siêu việt tính…). Nhưng vượt
lên mọi sự khác nhau, đối lập nhau, các triết gia hiện sinh đều thống nhất một quan
điểm: triết hiện sinh không phải là khoa học tìm hiểu những nguyên lí, qui luật của
tự nhiên mà là khoa học tìm hiểu những vấn đề hiện tại của đời sống con người
bằng xương bằng thịt đang hiện hữu từng ngày từng giờ, đặc biệt là đời sống tinh
thần, những suy nghĩ trăn trở về thân phận làm người của chính mình, về sự tồn tại
của mình trên cõi đời ( Ta là ai ? Ta kiếm tìm điều gì ở cuộc sống? Cuộc đời ta rồi
sẽ đi về đâu, kết thúc thế nào? …).
Triết gia người Pháp E. Mounier trong cuốn “ Giới thiệu về chủ nghĩa hiện
sinh” đã nói rất rõ về lập trường của triết học hiện sinh như sau:
“Bất cứ khuynh hướng nào trong triết hiện sinh đều là triết học về con người, trước
khi là khoa học về vũ trụ. Theo Thiên Chúa giáo hay không, triết học hiện sinh đều
mang nặng tính chất bi đát của kinh nghiệm con người về định mệnh của mình”.
Triết học hiện sinh chủ trương khám phá con người tại thế. Chính sự chuyên
sâu, khai thác tìm hiểu con người hữu thể, hiện tồn mà các triết gia hiện sinh đã
hình thành nên và đề cao một số sắc thái đặc biệt của đời sống sinh hoạt con người
bằng các từ ngữ chuyên môn của triết thuyết này. Đó là các phạm trù hay chủ đề
của triết học hiện sinh.


15

Chúng tôi xin giới thiệu hai cuốn sách có sự nghiên cứu, tổng kết, giới thuyết
khá thuyết phục, dễ hiểu về các phạm trù của triết học hiện sinh ngay từ thời đại của

trào lưu triết học này:


Thứ nhất: cuốn “Những chủ đề triết hiện sinh ” của E. Mounier
(Thụ Nhân dịch, Nhị Nùng xuất bản,Sài Gòn, 1970).



Thứ hai: cuốn “Triết học hiện sinh” của Trần Thái Đỉnh
( Nxb Văn học tái bản, Hà Nội, 2005).

E. Mounier trong cuốn “Những chủ đề triết hiện sinh”, sau khi khảo cứu các
ngành của triết hiện sinh đã khái lược tư tưởng hiện sinh thành 12 luận đề chính.
Những luận đề này dựng lên diện mạo và chứng tỏ sự phát triển sôi nổi của trào lưu
triết hiện sinh, giúp con người nhìn nhận thấu đáo hơn cuộc sống của mình để suy
ngẫm nhiều hơn, hành động tích cực hơn và không ngừng vươn lên trong thân phận
làm người của mình. Các chủ đề gồm có:
- Một: Sự ngẫu nhiên của cuộc sống con người
Một con người ra đời, xuất hiện giữa cuộc đời để sống giữa tha nhân nằm
ngoài ý muốn của chính con người đó; rồi chính con người đó cũng ngẫu nhiên mà
chết, biến mất đi không phụ thuộc vào mong ước trường sinh của bất họ hay bất cứ
ai. Đó là sự thật hiển nhiên không dễ tìm được cách nào giải quyết hay thay đổi. Vì
vậy, con người không thể không thừa nhận sự hư vô, phi lí bao quanh cuộc sống của
mình.
- Hai: Sự bất lực của lí trí
Ý niệm lí trí này xuất than từ suy nghĩ của B. Pascal. Triết thuyết trước hiện
sinh rất đề cao yếu tố lí trí, quan niệm lí trí giúp con người cấu tạo nên định mệnh
của mình. Trước mọi việc, con người luôn dùng lí trí để phân tích và tin rằng sẽ đưa
ra cách giải quyết thỏa đáng. Nhưng đến triết hiện sinh, con người ta mới thấy một
sự thật rằng: thực tiễn cuộc sống có không ít trường hợp lí trí bất lực trong việc tìm

hiểu vận mệnh của bản thân con người; có những điều con người chọn lựa và quyết
định theo tiếng gọi của trái tim, của tình cảm mà lí trí không sao lí giải được, thậm
chí con người còn tự quyết bất chấp hậu quả thế nào. Từ đó các triết gia hiện sinh
thấy rằng lí trí trở nên bất lực trước nhân vị tự do của con người.


16

- Ba: Sự nhảy vọt của con người
Triết học hiện sinh được xem là triết học can đảm dù can đảm trong bi đát
tuyệt vọng. Tư tưởng hiện sinh thấy cuộc đời con người là bi đát nhưng tư tưởng
hiện sinh cũng thức tỉnh ý thức vươn lên, vươn lên mãi của con người để yêu cầu
co người phải hành động, nhionf thẳng vào những bi đát của kiếp người mà quyết
định hành động, tự tạo nên cuộc đời mình bằng cách nhảy vọt, bằng các bước tiến
vượt lên cái mình hiện là, hướng tới cái mình sẽ là . Xét khía cạnh này, ta thấy triết
hiện sinh là một triết thuyết tích cực, cổ vũ cho sự cố gắng của con người.
- Bốn: Sự dồn ải của cuộc sống con người
Heidegger từng phát biểu ý rằng: mỗi ngày tôi đang sống đây là mỗi ngày tôi
tiến gần đến cái Chết, sự Chết, dù không muốn cũng không cưỡng lại được; ngay từ
khi sinh ra tôi đã đủ tuổi già để chết. Ý thức được điều này trong cuộc hiện sinh của
mình nên con người hiện sinh thường lo âu, xao xuyến về thân phận làm người của
mình, về sự hữu hạn ngắn ngủi của kiếp người, về sự mong manh giữa sự sống và
cái chết, về sự dồn ải của thời gian.
- Năm: Sự phóng thể (còn gọi là sự vong thân, tha hóa)
Con người trong kiếp sống của mình luôn đứng trước nguy cơ bị phóng thể.
Có thể phóng thể chủ động (chính bản thân phóng thể) hay phóng thể bị động (bị
người khác phóng thể).
Phóng thể bị động là con người coi mình là một trong muôn vàn sự vật của
vũ trụ, hòa mình vào vũ trụ, sống trong vũ trụ nhưng chỉ ý thức về các sự vật khác
ngoài mình của vũ trụ mà chưa hề ý thức về ý nghĩa cuộc nhân sinh của mình. Đây

chính là quan niệm về con người và cuộc sống của triết học cổ truyền. Còn phóng
thể chủ động là con người tự đánh mất chính mình, sống buông xuôi, a dua theo
phong trào chẳng khác nào dùng thân xác tâm hồn mình để sống cuộc sống của
người khác hoặc như người khác…Vì con người ta sống không thể không giao tiếp
và có các mối quan hệ với tha nhân nhưng khi tiếp xúc với tha nhân đã bị thế giới
bên ngoài làm mất mình, làm biến đổi mình, có khi vì mục đích đê hèn hay cũng có


17

khi chỉ vì thói quen… Do vậy, con người không thể kiểm soát được bản thân, không
điều khiển được cuộc đời mình. Triết hiện sinh gọi đó là sự tha hóa.
Vì những lẽ trên triết học hiện sinh chủ trương con người cần chống lại sự
phóng thể bởi chính mình hay bởi tha nhân. Con người sống, hành động vì những gì
tôi thấy cần phải làm chứ không phải vì tôi thấy người ta đã làm hay người ta cho
rằng tôi phải làm. Con người chống lại sự phóng thể là để “làm cho bản thân mình
thêm phong phú và định mệnh của mình thêm quí trọng” [24].
- Sáu: Đời người có hạn, thần chết lại vội vã
Triết hiện sinh đặc biệt quan tâm đến sự Chết. Tư tưởng hiện sinh ý thức rõ
ràng rằng: nhân sinh ngay từ ban đầu đã đối đầu với cái chết, cho dù con người có
cố tình trốn vào trong đời sống hàng ngày mong tìm sự yên ổn cũng không thoát
khỏi bị chết. Cái chết vào bất cứ lúc nào, ở đâu cũng đều có khả năng. Đó là điều ai
làm người cũng không tránh khỏi. Xét đến cùng không ai có thể chết hộ ai. Vậy nên
mỗi nguồi cần phải tự đảm nhiệm cái chết của mình, cần phải sống cho ra sống
đừng để sống hoài sống phí, chủ động đón nhận cái chết như E. Mounier từng viết
trong cuốn “Những chủ đề triết hiện sinh” ý rằng: sống để luôn chờ chết trong mọi
nơi mọi lúc và nhìn thẳng vào mặt người đồng hành từng giây từng phút.
Cuộc hiện sinh dẫn dắt con người đến cách sống thực thụ và đầy ý nghĩa: đời
người có hạn thần Chết không dừng lại đợi ai, không bỏ sót ai nên khi còn sống thì
con người phải sống cho có ý nghĩa, sống cho mình, sống là chính mình. Giá trị

sống của một con người không đánh giá bằng sự thọ – yểu, dài – ngắn mà ở những
gì ta đã làm được trong quãng thời gian ta sống trên cõi đời. R.Tagore, nhà văn, nhà
thơ vĩ đại người Ấn Độ đã có suy nghiệm rất thú vị về cuộc sống và cái Chết: Thần
chết là người bạn thủy chung nhất của con người, luôn ở bên con người ngay từ lúc
con người có mặt trên đời, con người phải sống như thế nào để khi thần Chết gõ
cửa đón đi, chúng ta không phải ân hận vì không có cái gì làm quà tặng cho Người.
- Bảy: Sự cô độc và bí mật
Nếu như cái Chết là bạn đồng hành chung thủy nhất của con người thì Cô
độc lại như một thứ quà tặng vĩnh cửu mà cuộc đời dành cho con người. Khi con


18

người không ngừng cố gắng vượt lên để khẳng định bản ngã độc đáo, nhân vị tự do
của mình thì cũng là lúc con người đang từng bước tiến tới, vươn đến sự cô đơn
tuyệt đối, cô đơn trong cả không gian và thời gian, cô đơn giữa tha nhân ngàn vạn
người mà ta đã, đang và sẽ gặp gỡ, tiếp xúc hàng ngày. Bởi theo triết gia hiện sinh
thì con người chưa khi nào và sẽ không thể lấp đầy những chỗ trống trong tâm hồn
mình, không thể có sự cảm thông tuyệt đối của tha nhân với mình dù họ có yêu
thương, thấu hiểu ta thế nào. Mỗi người vẫn đã đang và luôn sẽ là một thế giới đầy
bí mật, càng bí mật chứng tỏ càng cô đơn. Cô đơn không cố tình và bí mật không cố
ý.
- Tám: Sự hư vô
Hư vô là một trong những phạm trù chính của triết hiện sinh. J.P. Sartre nói
“đời người là một đam mê vô ích”. Con người hiện sinh luôn hướng tới cái tuyệt
đối nhưng sự thực không bao giờ đạt được điều đó. Biết vậy nhưng con người vẫn
phải cố gắng vươn lên, hướng tới những cái đích cao cả, sống có ý nghĩa vì con
người hiện sinh là con người biết thức tỉnh về giá trị sống. Tuy nhiên cuộc hiện sinh
rồi sẽ không tránh khỏi cảm thấy thất vọng vì không bao giờ con người ta chạm tới
được chân lí tuyệt đối. Đó là nghịch lí của cuộc hiện sinh nên cuộc đời rồi sẽ rơi vào

Hư Vô. Tuy nhiên cuộc sống chỉ có ý nghĩa và thúc đẩy khát vọng sống của con
người khi con người tiệm cận với Hư Vô.
- Chín: Sự cải hóa
Cuộc sống của mỗi con người là do chính con người đó tạo ra bằng tố chất
và hành động của mình.Trong cuộc sống con người hay bị biến đổi vì thường hòa
vào cuộc sống của mọi người, tự cho mình thuộc một phần của vũ trụ, suy nghĩ và
hành động giống như người khác hoặc vì người khác mà không ý thức được bị hòa
tan vào thế giới của tha nhân, của cộng đồng ,đánh mất con người riêng của
mình.Vậy để có được một cuộc hiện sinh đúng nghĩa, con người cần không ngừng
cố gắng, dấn thân, nhập cuộc nhưng phải làm nên một nhân vị độc đáo của mình,
không lẫn không giống ai.
- Mười: Vấn đề nhập thể (gia nhập,dấn thân, tham gia )


19

Con người cần phải tự đảm nhận trách nhiệm lựa chọn, dấn thân, tham gia,
hành động để tạo nên vận mệnh của mình bằng tinh thần tự do, chủ động, tích cực.
Đó mới là hiện hữu theo tinh thần hiện sinh, là chứng tỏ sự tồn tại của mình trước
cuộc đời.
- Mười một: Vấn đề tha nhân
Con người không thể không sống trong mối tương quan với mọi người,tha
nhân và cũng đồng thời luôn bị tha hóa bởi tha nhân, đánh mất mình, không còn là
mình.Vì thế, sống theo quan điểm hiện sinh chính là sự mâu thuẫn không thể giải
quyết với khát vọng hòa nhập, cảm thông với tha nhân và nguy cơ bị tha hóa bởi tha
nhân, biến thành tha nhân. Mâu thuẫn này tạo nên sự day dứt trong tâm hồn con
người hiện sinh khiến họ cảm thấy bi đát hay nói như Jasperr là tính chất “ bị xé ”
của con người hiện sinh.
- Mười hai: Đời sống dám liều
Để khẳng định một cuộc sống có ý nghĩa, con người hiện sinh cần hành động

theo chính quyết định của mình và hoàn toàn chịu trách nhiệm về những quyết định
đó, không chịu phụ thuộc hoặc ảnh hưởng bởi các yếu tố bên ngoài ta. Điều đó cũng
có nghĩa là con người hiện sinh cần dám liều, dám sống theo ý mình; thừa nhận sự
soi dõi, phán xét của tha nhân nhưng không vì họ mà thay đổi. Triết gia lớn của triết
hiện sinh Nietzsche đã nói về chủ đề dám sống, dám liều này như là một cách sống
“nguy hiểm” nhưng cần phải sống như thế: “Muốn thu hoạch một mùa sống phong
phú và ý nghĩa thì phải dám sống một cách nguy hiểm” [dẫn theo,24].
Trần Thái Đỉnh, một trong số ít những người đầu tiên giới thiệu triết học hiện
sinh vào Việt Nam với cuốn “Triết học hiện sinh ” đã tổng quát 6 phạm trù cơ bản
của triết hiện sinh như sau:
- Một: Buồn nôn
Buồn nôn là một trạng thái hiện sinh do triết gia hiện sinh phi lí J.P. Sartre
nêu ra và khai thác rất tài tình. Khi tôi ý thức được về địa vị và thiên chức làm
người của tôi, tôi tự thấy buồn nôn cho cuộc sống như cầm thú cỏ cây của tôi trước
đây. “Sống như sinh vật là một buồn nôn cho triết gia hiện sinh đã ý thức sâu xa về


×